Tải bản đầy đủ (.docx) (127 trang)

luận văn về công tác tôn giáo ở tỉnh Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.62 KB, 127 trang )

Chữ viết đầy đủ
Chính sách tơn giáo
Cơng tác tơn giáo
Chủ nghĩa xã hội
Hệ thống chính trị
Kinh tế - xã hội
Mặt trận tổ quốc
Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
CSTG
CTTG
CNXH
HTCT
KT - XH
MTTQ
XHCN

MỤC LỤC
T
rang


MỞ

3

ĐẦU

Chươn


g 1:

1.1.
1.2.
Chươn
g 2:

2.1.
2.2.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC
TIỄN VỀ VAI TRỊ CỦA HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ TỈNH VĨNH PHÚC TRONG
THỰC HIỆN CÔNG TÁC TÔN GIÁO TRÊN
ĐỊA BÀN HIỆN NAY
Một số vấn đề lý luận về công tác tôn giáo
và vai trị của hệ thống chính trị tỉnh Vĩnh Phúc
trong thực hiện cơng tác tơn giáo
Thực trạng thực hiện vai trị của hệ thống
chính trị tỉnh Vĩnh Phúc đối với cơng tác tôn giáo
trên địa bàn hiện nay và nguyên nhân
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY
VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
TỈNH VĨNH PHÚC TRONG THỰC HIỆN
CƠNG TÁC TƠN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN
HIỆN NAY
Yêu cầu cơ bản phát huy vai trị của hệ
thống chính trị tỉnh Vĩnh Phúc trong thực hiện công
tác tôn giáo trên địa bàn hiện nay
Giải pháp chủ yếu phát huy vai trị của hệ

thống chính trị tỉnh Vĩnh Phúc trong thực hiện công
tác tôn giáo trên địa bàn hiện nay

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

10

10
37
62

62
68
91
93
99


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội đặc thù, là nhu cầu của một bộ phận
nhân dân, có những giá trị văn hóa, đạo đức và là nguồn lực quan trọng của sự
nghiệp cách mạng, ln gắn liền với đời sống chính trị, văn hóa, tác động, chi
phối đời sống con người trên nhiều lĩnh vực. Tôn giáo tồn tại khách quan, ảnh
hưởng đến mọi lĩnh vực của đời sống chính trị xã hội. Việt Nam là đất nước
đa tôn giáo, nhiều người có tín ngưỡng, tơn giáo. Ảnh hưởng của tín ngưỡng,
tơn giáo đến một bộ phận quần chúng có đạo cũng khá rõ nét.

Cơng tác tơn giáo là cơng tác chính trị đặc biệt do cả HTCT và nhân
dân thực hiện. Trong mọi điều kiện, hồn cảnh, HTCT ln đóng vai trị quan
trọng trong CTTG. Hệ thống chính trị là chủ thể trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức quản lý, thực hiện CTTG, chất lượng, hiệu quả thực hiện CSTG ln
gắn với vai trị to lớn của HTCT. Sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay đang
đặt ra những yêu cầu và đòi hỏi cao về chất lượng và hiệu quả đối với CTTG,
giải quyết vấn đề tôn giáo là trách nhiệm của cả HTCT các cấp, các ngành.
Vĩnh Phúc là một tỉnh có nhiều tơn giáo, nhiều người có ảnh hưởng
của tín ngưỡng, tơn giáo. Trong những năm qua Đảng bộ và chính quyền các
cấp tỉnh Vĩnh Phúc đã luôn coi trọng CTTG. Các đảng bộ xã trong Tỉnh đã
tích cực thực hiện CTTG, đạt được nhiều thành tích đáng ghi nhận. Đại đa
số quần chúng tín đồ tơn giáo tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước, hịa cùng cộng đồng, tham gia tích cực trong các phong trào
cách mạng. Nhiều chức sắc tôn giáo có quan hệ tốt với Đảng, chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đây là nhân tố rất quan
trọng đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, góp phần to
lớn tạo nên thành tựu đổi mới của tỉnh, vào thắng lợi của sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


4
Tuy nhiên, chất lượng thực hiện CTTG ở Tỉnh còn những hạn chế, yếu
kém nhất định. Một bộ phận cán bộ các cấp chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc
chủ trương của Đảng và Nhà nước về CTTG, hiểu biết về tơn giáo nói chung
chưa đúng, chưa sâu sát, khơng nắm chắc tâm tư nguyện vọng của quần
chúng nhân dân, nội dung, phương thức vận động nhân dân còn nghèo nàn.
Việc nắm bắt, dự báo tình hình tơn giáo trên địa bàn có lúc, có nơi chưa thật
chính xác, đơi lúc cịn bị động, lúng túng; cá biệt có trường hợp chưa chấp
hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, việc lợi
dụng tôn giáo để trục lợi cá nhân... tạo nên hiện tượng nổi cộm, điểm nóng

để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, gây chia rẽ, hạ thấp vai trò của
HTCT trong thực hiện CTTG trên địa bàn.
Do vậy, việc thực hiện tốt CTTG ở tỉnh Vĩnh Phúc nhằm nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần và tăng cường tình đồn kết lương giáo góp phần giữ
vững ổn định chính trị - xã hội, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” là vấn đề cấp thiết đặt ra đối với HTCT tỉnh Vĩnh
Phúc hiện nay.
Với những lý do trên, việc nghiên cứu vấn đề: “Vai trò của hệ thống
chính trị tỉnh Vĩnh Phúc trong thực hiện cơng tác tơn giáo trên địa bàn hiện
nay” có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tác giả chọn nội dung này
làm luận văn Thạc sỹ, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Do tầm quan trọng của vai trò HTCT trong thực hiện CTTG đối với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, những năm gần đây đã có nhiều cơng trình
khoa học nghiên cứu vấn đề này dưới những góc độ, quy mơ khác nhau, như:
* Nhóm cơng trình nghiên cứu liên quan đến tôn giáo ở Việt Nam,
công tác tôn giáo, thực hiện chính sách tơn giáo của Đảng, Nhà nước ta
Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên) (2005): “Lý luận về tôn giáo và tình hình
tơn giáo ở Việt Nam hiện nay” [72]. Trong cơng trình này, các tác giả đã làm


5
rõ vấn đề tôn giáo, giải quyết vấn đề tôn giáo theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, phân tích, chỉ ra các nguyên tắc trong chính sách tự do tơn giáo
ở Việt Nam, gồm: tín ngưỡng tự do, lương giáo đồn kết theo tư tưởng Hồ
Chí Minh; tự do tôn giáo dựa trên cơ sở một nhà nước theo thể chế thế tục;
đặt vấn đề về tôn giáo trong phạm trù dân tộc; giải quyết vấn đề tôn giáo phải
đặt trong vấn đề văn hóa; giải quyết vấn đề tôn giáo phải chống lợi dụng tôn
giáo vào mục đích chống lại Tổ quốc.
Đỗ Quang Hưng (2005), “Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam

- Lý luận và thực tiễn” [31]. Trong cơng trình này, tác giả tổng kết một
cách toàn diện những quan điểm, đường lối, CSTG của Đảng và Nhà nước
ta từ năm 1930 đến năm 2005; phân tích, làm rõ hơn việc giải quyết vấn đề
tơn giáo trong CNXH ở Việt Nam, chính sách tự do tơn giáo và chính sách
đối với từng tơn giáo cụ thể, từ đó khẳng định đường hướng tơn giáo đồng
hành với chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nguyễn Hồng Dương (2012), “Quan điểm, đường lối của Đảng về tôn
giáo và những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” [14]. Trong cơng trình
này, tác giả trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn, sự ra đời, du nhập, phát
triển của các tôn giáo qua các thời kỳ lịch sử ở nước ta. Làm rõ sự vận dụng
sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phát
huy vai trị của các tơn giáo trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và
công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay; làm rõ sự phát triển tư duy,
nhận thức của Đảng về CTTG, CSTG từ đổi mới đến nay.
Nguyễn Đức Lữ (2013), “Tôn giáo với dân tộc và chủ nghĩa xã hội”
[37]. Trong cơng trình nghiên cứu này, tác giả tập trung vào các vấn đề chủ yếu
như: Lý luận về tơn giáo, tình hình tơn giáo trên thế giới và Việt Nam; quan
điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với tơn giáo trong tiến trình cách
mạng Việt Nam; Bình luận quan điểm của Đảng qua các kỳ Đại hội Đảng và


6
minh họa bằng các dữ kiện thực tiễn, qua đó cũng gợi mở những vấn đề cần
trao đổi.
Nguyễn Thanh Xuân (2020), “Tơn giáo và chính sách tơn giáo ở Việt
Nam” [73]. Trong cơng trình này, tác giả tập trung làm rõ về tôn giáo và CSTG
thời kỳ đổi mới, đề cập đến những hạn chế trong nhận thức và ứng xử với tơn
giáo trước đây. Từ đó, tác giả đã làm rõ dấu ấn đổi mới về chính sách đối với tơn
giáo và những chuyển biến tích cực của đời sống tơn giáo ở Việt Nam.
* Nhóm cơng trình nghiên cứu về tôn giáo, công tác

tôn giáo tỉnh Vĩnh Phúc
Ban Tôn giáo Vĩnh Phúc (2006), “Mấy vấn đề về Phật giáo ở Tây
Thiên, Tam Đảo, Vĩnh Phúc” (Kỷ yếu Hội thảo Khoa học) [3], trong Kỷ yếu
này có nhiều bài tham luận của các chức sắc Phật giáo, nhiều đề tài nghiên
cứu của các nhà sử học, khảo cổ học, các nhà nghiên cứu địa phương đã có
nhiều bài viết nhấn mạnh về các giá trị của đạo Phật đối với đời sống tâm
linh, văn hóa, đạo đức, tham gia các phong trào yêu nước, các hoạt động
nhân đạo, từ thiện. Những tham luận này giúp chúng tôi tiếp cận vai trị của
Phật giáo đối với đời sống văn hóa, xã hội
Lê Thị Vân Anh (2013), “Tín ngưỡng, tơn giáo ở Vĩnh Phúc hiện nay:
Thực trạng, đặc điểm và những vấn đề đặt ra” [1]. Trong cơng trình này, tác
giả tập trung nghiên cứu về các vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo, hiện tượng tơn
giáo mới, cơng trình này cung cấp cho chúng tơi nhiều tư liệu về tình hình tôn
giáo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, những vấn đề đặt ra đối với việc giải quyết
vấn đề tôn giáo ở Vĩnh Phúc hiện nay.
Thượng tọa Thích Giác Minh (2014), “Phật giáo Vĩnh Phúc - 10 năm
một chặng đường” [44]. Tác giả đã khái quát kết quả hoạt động của Phật giáo
Vĩnh Phúc từ khi tách tỉnh đến năm 2014. Tài liệu viết: “Ngay sau khi thành
lập tỉnh hội, các hoạt động Phật sự được diễn ra tốt đẹp và được duy trì
thường xun như: Tổ chức các khóa an cư kiết hạ cho tăng, ni, tổ chức Đại lễ


7
Phật đản, Đại lễ Vu lan hằng năm. Lần lượt 9/9 Ban Đại diện Phật giáo huyện,
thị được kiện toàn ngay trong nhiệm kỳ đầu. Tổ chức 3 Đại giới đàn tại tổ
đình Trung Hậu vào các năm 2002, 2004, 2006; do đó số tăng, ni mỗi ngày
một tăng thêm, đến cuối nhiệm kỳ tổng số tăng ni đã lên đến gần 100 vị. Một
số cơ sở được bổ nhiệm thêm nhân sự và mở mang cơ sở thờ tự của Phật giáo
như: Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên tại huyện Tam Đảo.
Ngồi ra, cũng đã có nghiên cứu về hiện tượng tơn giáo mới trong đó có

đề cập đến các “hiện tượng đạo lạ” ở Vĩnh Phúc. Đỗ Quang Hưng, trong bài
viết: “Mối quan hệ giữa tín ngưỡng và “Hiện tượng tôn giáo mới”, tác giả cho
rằng, “Hiện tượng tôn giáo mới” là một trong những vấn đề thời sự của tôn giáo
thế giới thế kỉ XXI. Đã làm rõ nguồn gốc của các hiện tượng tôn giáo mới, trong
đó có các hiện tượng tơn giáo mới ở Vĩnh Phúc.
Tuy nhiên, đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách toàn
diện, hệ thống, chuyên sâu về vai trị của hệ thống chính trị tỉnh Vĩnh Phúc
trong thực hiện CTTG trên địa bàn Tỉnh hiện nay.
* Nhóm cơng trình nghiên cứu về vai trị của hệ thống chính trị tỉnh
Vĩnh Phúc trong thực hiện công tác tôn giáo
Liên quan đến đề tài, ở Vĩnh Phúc có những cơng trình sau:
Các cơng trình nghiên cứu Phật giáo ở Vĩnh Phúc chủ yếu tập trung
nghiên cứu khu vực Tây Thiên - Tam Đảo, nơi có Thiền viện Trúc Lâm. Những
nội dung này được in trong kỷ yếu hội thảo: “Mấy vấn đề Phật giáo ở Tây
Thiên- Tam Đảo - Vĩnh Phúc” (2006) [3]. Trong bài viết của mình tại hội thảo
này, tác giả Thích Kiến Nguyệt đã đưa ra nhận định: Tây Thiên có thể là một
trong cái nơi của Phật giáo Việt Nam. Tác giả viết: “Theo ngọc phả Hùng
Vương, vào thời Hùng Vương thứ bảy (Chiêu Vương), trên núi Tam Đảo đã có
chùa thờ Phật. Theo truyện Nhất Dạ Trạch trong Lĩnh Nam Trích Quái, Chử
Đồng Tử, chồng công chúa Tiên Dung, là một Phật tử thời Hùng Vương thứ ba.


8
Hoàng Văn Toàn (2014) “Một số giải pháp phát huy vai trò của Chức
sắc, Nhà tu hành phật giáo trong các cuộc vận động của MTTQ Việt Nam
trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc” [58]. Trong đề tài, tác giả tập trung vào hai nội
dung chính là: Khảo sát, đánh giá vai trò ảnh hưởng của các vị chức sắc, nhà
tu hành Phật giáo đối với việc thực hiện các cuộc vận động do MTTQ Việt
Nam phát động và đề ra những giải pháp phối hợp thực hiện trong công tác
phật sự, sinh hoạt đạo tràng, thuyết giảng đạo... để tuyên truyền,vận động các

phật tử, gia đình phật tử và nhân dân thực hiện tốt các cuộc vận động, các
phong trào do MTTQ Việt Nam phát động, chủ trì.
Như vậy, cho đến nay, chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu
về vai trò của HTCT tỉnh Vĩnh Phúc trong thực hiện CTTG trên địa bàn
hiện nay, nên luận văn này là cơng trình khoa học độc lập, khơng trùng lặp
với các cơng trình, luận văn, luận án đã cơng bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá thực
trạng vai trị HTCT trong thực hiện cơng tác tơn giáo của tỉnh Vĩnh Phúc
trong thời gian qua, luận văn đề xuất yêu cầu cơ bản và giải pháp chủ yếu
phát huy vai trò của HTCT Tỉnh trong thực hiện CTTG trên địa bàn thời gian
tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ một số vấn đề lý luận về vai trò của
HTCT tỉnh Vĩnh Phúc trong thực hiện công tác tôn giáo;
- Đánh giá thực trạng vai trò của HTCT tỉnh Vĩnh Phúc trong thực hiện
CTTG trên địa bàn hiện nay và nguyên nhân của thực trạng đó;
- Xác định yêu cầu cơ bản và đề xuất các giải pháp chủ yếu phát huy
vai trò của HTCT tỉnh Vĩnh Phúc trong thực hiện CTTG thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của HTCT tỉnh Vĩnh Phúc trong thực
hiện công tác tôn giáo trên địa bàn.


9
* Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung: Nghiên cứu vai trò của HTCT tỉnh
Vĩnh Phúc trong thực hiện những nội dung chính của CTTG trên địa bàn
Tỉnh;
Về khơng gian: Tập trung nghiên cứu, khảo sát vai trò của HTCT tỉnh
Vĩnh Phúc trong thực hiện CTTG trên địa bàn đông đồng bào tôn giáo;
Về thời gian: Tập trung điều tra, nghiên cứu từ năm 2013 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo,
CTTG, trực tiếp là quan điểm, chính sách tơn giáo, cơng tác tơn giáo của Đảng,
Nhà nước.
* Cơ sở thực tiễn: Thực trạng CTTG của HTCT tỉnh Vĩnh Phúc hiện
nay thông qua các chỉ thị, nghị quyết, báo cáo, sơ kết, tổng kết thực hiện
CTTG trên địa bàn tỉnh, kết quả điều tra, khảo sát hệ thống chính trị trong
thực hiện CTTG của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu
khoa học liên ngành, chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn, tâp trung
vào phương pháp nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học; trọng tâm là:
phương pháp lơgic - lịch sử, phân tích, tổng hợp, tổng kết thực tiễn và phương
pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Góp phần làm rõ thêm lý luận, thực tiễn về CTTG.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho
các cấp uỷ đảng, HTCT tỉnh Vĩnh Phúc phát huy vai trò trong thực hiện CTTG
trên địa bàn hiện nay.
Làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy chủ nghĩa xã hội khoa học liên
quan đến tôn giáo, CTTG.


10
7. Kết cấu của luận văn
Gồm phần Mở đầu, 2 Chương (4 tiết), Kết luận, Danh mục tài liệu tham
khảo và Phụ lục.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ VAI TRỊ CỦA
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TỈNH VĨNH PHÚC TRONG THỰC
HIỆN CÔNG TÁC TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về công tác tơn giáo và vai trị của hệ thống
chính trị tỉnh Vĩnh Phúc trong thực hiện công tác tôn giáo
1.1.1. Quan niệm tơn giáo, cơng tác tơn giáo, hệ thống
chính trị tỉnh Vĩnh Phúc
* Quan niệm về tôn giáo
Kế thừa các nghiên cứu về tôn giáo, đặc biệt là quan điểm của các nhà
duy vật về tôn giáo, tác giả quan niệm tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội
gồm những quan niệm dựa trên cơ sở niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên,
vơ hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác
động qua lại một cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trần thế. Chủ nghĩa
Mác - Lênin cho rằng tôn giáo là hiện tượng xã hội ra đời từ thời kỳ nguyên
thủy, để có nhận thức đúng về hiện tượng xã hội này là quá trình lịch sử lâu
dài và đấu tranh gay go, phức tạp giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm thần bí. Khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, nhận thức về tôn giáo mới
thực sự đúng đắn, khoa học, cách mạng, tồn diện và hiệu quả đối với tiến
trình phát triển của xã hội lồi người.
Ở Việt Nam, về góc độ quản lý, Luật Tín ngưỡng, tơn giáo năm 2016


11
quan niệm: “Tôn giáo là niềm tin của con người, tồn tại với hệ thống quan
niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ
chức” [46, tr.18].
Về quản lý hành chính nhà nước, theo Luật Tín ngưỡng, tơn giáo một
tổ chức tơn giáo được cơng nhận khi có đủ các điều kiện sau:
1. Hoạt động ổn định, liên tục từ đủ 5 năm trở lên kể từ ngày được cấp
chứng nhận đăng ký hoạt động tơn giáo;

2. Có hiến chương theo quy định tại Điều 23 luật này;
(Điều 23. Hiến chương của tổ chức tôn giáo
Hiến chương của tổ chức tôn giáo có những nội dung cơ bản sau đây:
1. Tên gọi của tổ chức.
2. Tơn chỉ, mục đích, ngun tắc, phạm vi hoạt động của tổ chức.
3. Trụ sở chính.
4. Tài sản của tổ chức.
5. Người đại diện theo pháp luật, mẫu con dấu của tổ chức.
6. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của tổ chức tôn
giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc.
7. Nhiệm vụ, quyền hạn của ban lãnh đạo tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn
giáo trực thuộc.
8. Điều kiện, tiêu chuẩn, thẩm quyền, cách thức phong chức, phong
phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi nhiệm, thuyên chuyển chức
sắc, chức việc.
9. Điều kiện, thẩm quyền, cách thức giải thể tổ chức tôn giáo; thành
lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc.
10. Việc tổ chức hội nghị, đại hội; thể thức thông qua quyết định, sửa
đổi, bổ sung điều lệ; nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ của tổ chức.
11. Quan hệ giữa tổ chức tôn giáo với tổ chức tôn giáo trực thuộc, giữa
tổ chức tôn giáo với các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài).


12
3. Người đại diện, người lãnh đạo tổ chức là cơng dân Việt Nam,
thường trú tại Việt Nam, có năng lực, hành vi dân sự đầy đủ; không trong
thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý trong lĩnh vực tín ngưỡng, tơn giáo;
khơng có án tích hoặc khơng phải là người bị buộc tội theo quy định của
pháp luật về tố tụng hình sự;
4. Có cơ cấu tổ chức theo Hiến chương;

5. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình;
6. Nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập” [46,
tr.21].
Trong đề tài này, tác giả sử dụng khái niệm tôn giáo theo Luật Tín ngưỡng,
tơn giáo năm 2016.
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin tôn giáo là một hiện tượng tinh thần của xã
hội và vì vậy, nó là một trong những hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại
xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Nhưng khác với những hình
thái ý thức xã hội khác, sự phản ánh của tôn giáo đối với hiện thực là sự phản
ánh đặc thù, đó là sự phản ánh “lộn ngược”, “hoang đường” thế giới khách
quan. Theo C.Mác và Ph. Ăngghen, “tơn giáo là những sự rút hết tồn bộ nội
dung của con người và giới tự nhiên, là việc chuyển nội dung đó sang cho
bóng ma. Thượng đế ở bên kia thế giới, Thượng đế này, sau đó, do lòng nhân
từ, lại trả về cho con người và giới tự nhiên một chút ân huệ của mình” [38,
tr.812].
Với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, tôn giáo là sự phản ánh một
cách biến dạng, sai lệch, hư ảo về giới tự nhiên và con người, về các quan hệ xã
hội. Hay nói cách khác, tơn giáo là sự nhân cách hoá giới tự nhiên, là sự “đánh
mất bản chất người”. Chính con người đã khốc cho thần thánh những sức mạnh
siêu nhiên khác với bản chất của mình để rồi từ đó con người có chỗ dựa, được


13
chở che, an ủi - dù đó chỉ là chỗ dựa “hư ảo”. Chỉ ra bản chất sâu xa của hiện
tượng đó, Ph. Ăngghen đã viết: “Con người vẫn chưa hiểu rằng họ đã nghiêng
mình trước bản chất của chính mình và đã thần thánh hố nó như một bản chất
xa lạ nào đó” [38, tr.812]. Lột tả bản chất của tôn giáo, ông cho rằng, “tôn giáo
chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào đầu óc của con người - của những lực

lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong
đó những lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”
[40, tr.437].
Trong Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác đã viết: “Sự
nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự
phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng
sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới khơng có trái tim, cũng như nó là tinh thần
của những trật tự khơng có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [38,
tr.570].
Luận điểm trên của C.Mác đã thể hiện rõ nguồn gốc, bản chất, chức
năng của tôn giáo trên lập trường duy vật lịch sử. Với C.Mác, tôn giáo như là
“vầng hào quang” ảo tưởng, là những vòng hoa giả đầy màu sắc và đẹp một
cách hoàn mỹ, là ước mơ, là niềm hy vọng và điểm tựa tinh thần vô cùng to
lớn cho những số phận bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện thực. Vì, trong
cuộc sống hiện thực, khi con người bất lực trước tự nhiên, bất lực trước các
hiện tượng áp bức, bất cơng của xã hội thì họ chỉ còn biết “thở dài” và âm
thầm, nhẫn nhục chịu đựng. Cũng trong cuộc sống hiện thực ấy, họ khơng thể
tìm thấy “một trái tim” để u thương, che chở nên phải tìm đến một “trái
tim” trong tưởng tượng nơi tơn giáo. Trái tim đó sẽ sẵn sàng bao dung, tha
thứ, chở che và tiếp thêm sức mạnh cho họ để họ có thể vượt qua mọi khó
khăn trong cuộc sống.
Với luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác khơng
chỉ muốn khẳng định tính chất “ru ngủ” hay độc hại của tơn giáo, mà cịn


14
nhấn mạnh đến sự tồn tại tất yếu của tôn giáo với tư cách một thứ thuốc giảm
đau được dùng để xoa dịu những nỗi đau trần thế. Thực vậy, người ta dùng
thuốc giảm đau khi người ta bị đau đớn và chừng nào cịn đau đớn, thì chừng
đó cịn có nhu cầu dùng nó. Đó chính là lý do để lý giải tại sao người ta

hướng tới, hy vọng và coi tôn giáo như chiếc “phao cứu sinh” cho cuộc sống
của mình, cho dù đó chỉ là những hạnh phúc ảo tưởng, chỉ là “sự đền bù hư
ảo”.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, tôn giáo mặc dù là sự phản ánh
hoang đường, hư ảo hiện thực, là một hiện tượng xã hội có ảnh hưởng tiêu cực đến
xã hội nhưng nó khơng phải khơng có những yếu tố tích cực. Tơn giáo chỉ là những
“bơng hoa giả” tô điểm cho một cuộc sống hiện thực đầy xiềng xích. Nhưng nếu
khơng có những “bơng hoa giả” ấy thì cuộc sống của con người chỉ cịn lại “xiềng
xích” mà thơi. Và nếu khơng có thứ “thuốc giảm đau” ấy thì con người sẽ phải vật
vã đau đớn trong cuộc sống hiện thực với đầy rẫy những áp bức, bất cơng và bạo
lực.
* Quan điểm của Hồ Chí Minh về tôn giáo, giải quyết vấn đề tôn giáo
Quán triệt và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng nên hệ
thống quan điểm về tơn giáo, tín ngưỡng rất phong phú, đa dạng, độc đáo,
sáng tạo, góp phần to lớn vào thắng lợi của CTTG nói riêng và sự nghiệp cách
mạng nói chung. Quan điểm đó được thể hiện trên một số nội dung cơ bản
sau:
Một là, xem xét vấn đề tơn giáo, tín ngưỡng một cách tồn diện, trên
quan điểm lịch sử cụ thể. Tơn giáo và tín ngưỡng được Chủ tịch Hồ Chí Minh
xem xét dưới góc độ văn hóa, triết học và đạo đức. Đối với tơn giáo, Người
viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các


15
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hố”
[41, tr.458].
Hai là, ln thể hiện sự tôn trọng đối với những người sáng lập ra các tơn

giáo, đánh giá cao vai trị và sự hy sinh, đóng góp của các bậc “chí tơn”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh rất tơn trọng, khâm phục tinh thần hy sinh cao cả của những người
sáng lập ra Phật giáo, Kitơ giáo. Người nói: “Tín đồ Phật giáo tin ở Phật; tín đồ
Giatơ tin ở đức Chúa Trời... Đó là những vị chí tơn nên chúng ta tin tưởng” [42,
tr.169].
Ba là, khẳng định sự tồn tại của tôn giáo là một tất yếu lịch sử, luôn đồng
hành cùng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhận thức một cách sâu sắc về sự tồn tại và đồng hành của tôn giáo với
dân tộc cho thấy Người đã vượt xa tầm nhìn hạn hẹp, định kiến với tơn giáo của
khơng ít người đương thời để đạt đến tầm cao mới nhằm phục vụ sự nghiệp cách
mạng.
Bốn là, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa vấn đề tôn giáo - dân tộc.
Theo Người, đối với đồng bào theo đạo thì đức tin tơn giáo và lịng u nước
ln thống nhất với nhau. Một người dân Việt Nam yêu nước đồng thời cũng
chính là một tín đồ chân chính và ngoan đạo, ngược lại, một kẻ chống lại dân
tộc, Tổ quốc mình thì cũng chính là một kẻ phản Chúa. Người cho rằng: đối
với người Cơng giáo, khơng có gì vui mừng hơn khi họ vừa là con chiên
ngoan đạo, vừa là người yêu nước theo tinh thần “kính Chúa - yêu nước”,
“phụng sự Thiên Chúa - phụng sự Tổ quốc”, “nước có vinh thì đạo mới sáng”,
“nước có độc lập thì đạo mới được tự do”, “Thượng đế và Tổ quốc mn
năm!” [42, tr.54]. Người nói: “Nước có độc lập, thì đạo Phật mới dễ mở
mang” [43, tr.228]
Năm là, xác định rõ mục đích, nhiệm vụ của CTTG là để đồn kết đồng
bào có đạo, đồn kết giữa các tơn giáo, đoàn kết toàn dân tộc. Một trong những
tư tưởng đặc sắc và đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh vào sự phát triển lý luận


16
Mác-Lênin về tơn giáo là đã xác định: mục đích cao nhất, nội dung xuyên suốt
của CTTG là để tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết lương giáo,

đồn kết giữa đồng bào các dân tộc tơn giáo khác nhau, làm cho “nước vinh,
đạo sáng”, “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần ngày càng to lớn vào cơng cuộc kháng
chiến, kiến quốc. Cho nên, ngay cả những lúc vận mệnh của cách mạng như
“ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn xác định một trong sáu
nhiệm vụ cấp bách đầu tiên mà Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hịa phải
thực hiện là: “Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết” [42, tr.8].
* Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác tôn giáo
Quan điểm của Đảng ta về giải quyết vấn đề tôn giáo được thể hiện
trong nhiều văn kiện của các kỳ Đại hội và được cụ thể hoá bằng các nghị
quyết, chỉ thị của Trung ương, như Nghị quyết số 24/NQ-TW (ngày
16/10/1990) của Bộ Chính trị Về tăng cường CTTG trong tình hình mới…
Chỉ thị số 37 CT-TW (ngày 2/7/1998) của Bộ Chính trị Về CTTG trong tình
hình mới… Đặc biệt, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa
IX đã ban hành Nghị quyết số 25/NQ-TW (ngày 12/3/2003) Về CTTG và Chỉ
thị số 18 của Bộ Chính trị Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của
Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về cơng tác tơn giáo trong tình hình mới.
Những quan điểm của Đảng ta về CTTG được cụ thể hoá trong Pháp lệnh về
tín ngưỡng tơn giáo số 21/2004/PL-UBTVQH11 ra ngày 18/6/2004, Luật Tín
ngưỡng, tơn giáo năm 2016. Tất cả các chỉ thị, nghị quyết, pháp lệnh nêu trên
đều thể hiện nhất quán một số quan điểm chỉ đạo CTTG là:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc.
Thực hiện nhất quán chính sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo


17
bình thường theo đúng pháp luật. Các tơn giáo hoạt động trong khn khổ
pháp luật và bình đẳng trước pháp luật [6, tr.25].

Hai là, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất qn chính sách đại đồn kết
tồn dân tộc, khơng phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tơn giáo. Đồn kết
đồng bào theo các tơn giáo khác nhau; đồn kết đồng bào theo tôn giáo và
đồng bào không theo tơn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa, đạo
đức của tơn giáo; phát huy nguồn lực của tôn giáo; nghiêm cấm sự phân biệt
đối xử với cơng dân vì lý do tín ngưỡng, tơn giáo [6, tr.25].
Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khố VI tại Đại
hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII, Đảng ta khẳng định “Tín ngưỡng, tơn giáo
là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, Đảng và Nhà nước ta tơn trọng quyền tự
do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn
kết lương giáo và giữa các dân tộc. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến,
phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành vi vi phạm tự do tín
ngưỡng” [17, tr.78]. Quan điểm của Đảng nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với
cơng dân vì lý do tín ngưỡng, tơn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín
ngưỡng, tơn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính
sách của Nhà nước, kích động, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh
quốc gia.
Ba là, nội dung cốt lõi của CTTG là vận động quần chúng. Mọi công dân
khơng phân biệt tín ngưỡng, tơn giáo đều có quyền và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
Công tác vận động quần chúng phải động viên được đồng bào nêu cao tinh thần
yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc thông qua việc thực hiện tốt
các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phịng, đảm bảo lợi ích vật chất và
tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo [6, tr.25 - 26].
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo, trong đó, đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo là


18
lực lượng nòng cốt. Làm tốt CTTG là trách nhiệm của cả HTCT do Đảng lãnh
đạo. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm CTTG có trách

nhiệm trực tiếp, cần phải được củng cố, kiện toàn. Công tác quản lý nhà nước
đối với các tôn giáo và đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo để chống phá chế độ
chỉ thành công khi làm tốt công tác vận động quần chúng [6, tr.27]
Năm là, về vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ có quyền tự do
hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo để tuyên
truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, khơng được ép buộc người dân theo
đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và cách thức
truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của pháp luật. [17, tr.78].
Như vậy, quan điểm của Đảng ta về tôn giáo là rõ ràng, nhất quán, đảm
bảo quyền tự do, dân chủ của mọi người. Trong khi đó, hiện nay, có những cá
nhân, tổ chức trong và ngoài nước vẫn cho rằng ở Việt Nam người dân khơng
có quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo. Từ đó, chúng dùng nhiều thủ đoạn để
kích động đồng bào có đạo gây rối, chống phá cách mạng, rơi vào âm mưu
“diễn biến hồ bình” vơ cùng thâm độc của chúng. Đó là những luận điệu sai
lầm, xuyên tạc chính sách tơn giáo của Đảng, Nhà nước ta cũng như xun
tạc tình hình tơn giáo và các hoạt động tôn giáo ở nước ta hiện nay mà chúng
ta cần kiên quyết bác bỏ.
* Quan niệm về hệ thống chính trị
Trong q trình hoạt động cách mạng của mình, C.Mác - Ph. Ăngghen
chưa sử dụng thuật ngữ “hệ thống chính trị”, tuy nhiên, thơng qua các bài nói
và viết của mình, các ơng đã đề cập đến các thuật ngữ liên quan đến HTCT
như: Hình thức chính trị, thiết chế chính trị, cơ cấu chính trị, thể chế xã hội và
chính trị, cơ cấu nhà nước dân chủ, chuyên chính vơ sản, nhà nước chun


19
chính vơ sản … Các ơng khẳng định: “Nhà nước của thời kỳ ấy khơng thể là
cái gì khác hơn là nền chun chính cách mạng của giai cấp vơ sản” [39, tr.

456].
Sau này, V.I. Lênin là người kế thừa, bổ sung, phát triển, cụ thể
hóa quan điểm của C.Mác - Ph. Ăngghen, đưa ra quan niệm “hệ thống
chuyên chính vơ sản”, nhà nước chun chính vơ sản, “… quản lý nhà
nước trong thời kỳ chun chính vơ sản phải chiến thắng giai cấp tư sản
trong các lĩnh vực có tính chất tồn dân” [33, tr. 230]. Trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội hiện thực V.I. Lênin đã thấy, ngoài cơng đồn cịn có
các tổ chức chính trị - xã hội khác như Đoàn thanh niên cộng sản, Hội
phụ nữ, Hội nơng dân… cũng có vai trị hết sức quan trọng trong thực
hiện nhiệm vụ chun chính vơ sản.
Thuật ngữ HTCT bắt đầu được sử dụng từ những năm 80 của thế kỷ
XX ở Liên Xơ và sau đó là các nước XHCN trên cơ sở đổi mới và phát triển
tư duy lý luận. Khái niệm HTCT phát triển và thay thế khái niệm hệ thống
chun chính vơ sản.
Hệ thống chính trị là một tổng thể các thiết chế chính trị hợp pháp của
một chế độ xã hội nhất định cùng mối quan hệ qua lại và cơ chế vận hành của
chúng nhằm bảo đảm thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp thống trị và
thúc đẩy sự phát triển xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp đó. Hệ thống
chính trị bao gồm tồn bộ các tổ chức chính trị, được lập ra để thực hiện
quyền lực chung của xã hội - quyền lực chính trị.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
Hệ thống chính trị XHCN ở Việt Nam là một trong những thành quả
vĩ đại của cách mạng Việt Nam, là nỗ lực chung của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta trong đấu tranh giành thắng lợi của Cách mạng tháng Tám
giành chính quyền về tay nhân dân. Hệ thống chính trị ở nước ta là HTCT


20
kiểu mới, HTCT xã hội chủ nghĩa, mang bản chất cách mạng của giai cấp
cơng nhân, mang tính nhân dân, tính dân tộc, tính kế thừa phát triển và ngày

càng hồn thiện.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một chỉnh thể gồm
các thiết chế chính trị là: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội (bao gồm Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam; Đoàn Thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam,
Hội Cựu chiến binh Việt Nam) được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, hoạt
động nhằm duy trì và bảo vệ quyền lực, lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Quy định của Hiến pháp năm 2013 ghi rõ, HTCT ở nước ta hiện nay có
bốn cấp, gồm: Cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Hệ thống
chính trị được cấu thành bởi ba bộ phận, gồm: Tổ chức đảng, tổ chức chính
quyền và các tổ chức đồn thể chính trị - xã hội. Các bộ phận này có mối
quan hệ gắn bó mật thiết với nhau và mỗi bộ phận có vị trí, vai trị riêng được
thể hiện trong cơ chế tổ chức và phương thức hoạt động của từng bộ phận.
* Khái quát tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc
Về vị trí địa lý và tình hình kinh tế - xã hội
Vĩnh Phúc là tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cửa ngõ của
Thủ đô, gần sân bay Quốc tế Nội Bài, là cầu nối giữa các tỉnh phía Tây Bắc
với Hà Nội và đồng bằng châu thổ sơng Hồng, là tỉnh có vai trị rất quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế khu vực và quốc gia.
Tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập từ năm 1950, trên cơ sở sáp nhập 2 tỉnh
Vĩnh Yên và Phúc Yên, năm 1968 sáp nhập với tỉnh Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh
Phú, từ ngày 01 tháng 01 năm 1997 tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập.
Hiện nay, tỉnh Vĩnh Phúc có diện tích tự nhiên 1.235,87 km2 (12,
tr.10), phía Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên, phía Tây giáp tỉnh


21
Phú Thọ, phía Nam giáp Hà Nội, phía Đơng giáp 2 huyện Sóc Sơn và Đơng
Anh - Hà Nội, dân số 1.151.154 người (12, tr.11), có 41 dân tộc anh, em sinh

sống trên địa bàn tỉnh trong đó chủ yếu là các dân tộc: Kinh, Sán Dìu, Nùng,
Dao, Cao Lan, Mường [12, tr. 10]. Đặc biệt, Vĩnh Phúc có những điểm du lịch
nổi tiếng như: Tam Đảo Khu nghỉ dưỡng Flamingo Đại Lải, FLC Vĩnh Thịnh.
Với nhiều thế mạnh và tiềm năng phát triển, Vĩnh Phúc phấn đấu trở thành
một trong những trung tâm dịch vụ, du lịch của Vùng và cả nước, có những
khu nghỉ dưỡng đạt tiêu chuẩn quốc tế và trở thành thành phố Vĩnh Phúc.
Về văn hóa và tín ngưỡng, tơn giáo
Vĩnh Phúc là vùng đất có bề dày lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và
giữ nước. Những di chỉ khảo cổ ở Lũng Hoà, Đồng Đậu, Thành Dền… khẳng
định Vĩnh Phúc là một trong những vùng đất cổ, là trung tâm của nước Văn
Lang xưa, nơi đây để lại nhiều di tích lịch sử và di sản văn hoá, tạo nên một
nét độc đáo riêng, con người và vùng đất nơi đây đã để lại một kho tàng di
sản văn hoá phong phú và đặc sắc.
Ngồi những di sản văn hố vật thể, Vĩnh Phúc cịn là vùng văn hố
dân gian đặc sắc trên nhiều loại hình như: Văn học dân gian, mỹ thuật dân
gian, âm nhạc dân gian, trò diễn hội làng. Truyền thuyết dân gian và truyền
thuyết lịch sử ở Vĩnh Phúc luôn gắn liền với cội nguồn của dân tộc, được phổ
biến và lưu truyền ở nhiều địa phương trong tỉnh như truyền thuyết về người
con gái Tam Đảo, truyền thuyết về bà Chúa Thượng Ngàn v.v...
Vĩnh Phúc còn nổi tiếng là vùng quê hiếu học, đã sản sinh ra nhiều
trang tuấn kiệt: Nguyễn Văn Nhượng - một danh tướng nay cịn đền thờ ở
q hương ơng xã Tứ Trưng, huyện Vĩnh Tường; Phạm Cơng Bình người
xã Đồng Văn, huyện n Lạc, thi nho học đỗ đầu hàng Đệ nhất giáp, khoa
giáp thìn năm 1124 đời Lý Nhân Tơng, người có cơng 2 lần đánh thắng
qn Chân Lạp, bảo vệ tồn vẹn vùng biên giới phía Nam Tổ quốc; tả
tướng quốc Trần Nguyên Hãn xã Sơn Đông, huyện Sông Lô ngày nay…


22
Người dân Vĩnh Phúc ln mang trong mình niềm tự hào về truyền

thống đấu tranh dựng nước, giữ nước và một nền văn hóa rực rỡ. Cho đến
nay, Vĩnh Phúc vẫn mang đậm dấu ấn của văn hóa Hùng Vương, Kinh Bắc,
Thăng Long với nền văn hóa dân gian đặc sắc, khoa bảng, với lối sống xã hội
và chuẩn mực đạo đức ln được giữ gìn và phát huy.
Về tơn giáo, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc có 03 tơn giáo được Nhà nước
công nhận tư cách pháp nhân là Phật giáo, Cơng giáo và đạo Tin Lành, trong
đó:
Phật giáo: Tồn tỉnh có 652 tăng, ni, nhà tu hành; có 421 cơ sở thờ tự,
trong đó có 144 cơ sở có sư trụ trì và kiêm trụ trì với khoảng 145000 tín đồ;
Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh với 33 thành viên; 9/9 huyện,
thành phố thành lập Ban trị sự Giáo hội Phật giáo (thành viên từ 15 - 17 người)
[51, tr.1].
Cơng giáo: Tồn tỉnh hiện có 12 giáo xứ, 52 giáo họ, 47 nhà thờ, nhà
nguyện, 13 Linh mục chính xứ, phụ tá tại các xứ, họ đạo; 263 chức việc, gần
23000 giáo dân [51, tr.1].
Tin Lành: Tồn tỉnh có 01 Hội thánh Tin lành Phúc Yên thuộc Tổng Hội
thánh Tin Lành Việt Nam Miền Bắc, có 01 nhà thờ, do Mục sư Nguyễn Văn
Long quản nhiệm, có khoảng 35 tín đồ tham gia sinh hoạt thường xuyên, 06
thành viên Ban Chấp sự. Có 02 điểm nhóm Tin Lành đã được cấp có thẩm
quyền chấp thuận đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, gồm: Điểm nhóm Tin
Lành “Anphal2 Vĩnh Phúc” tại xã Hợp Thịnh huyện Tam Dương thuộc Hội
thánh Tin Lành Liên Hiệp truyền giáo và điểm nhóm Tin Lành “HANIN Vĩnh
Phúc” gồm nhóm tín đồ Tin Lành người Hàn Quốc theo hệ phái Tin Lành
Trưởng lão đang sinh sống, làm việc tại Vĩnh Phúc. Và 06 điểm nhóm Tin Lành
chưa đủ điều kiện cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung điểm nhóm tại các
huyện, thành phố: Lập Thạch, Vĩnh Tường, Tam Dương, Vĩnh Yên [65, tr.1-2].


23
Ngồi 3 tơn giáo kể trên, cịn xuất hiện nhiều hội, nhóm mang màu sắc

tơn giáo mới như: Hội Tiên Rồng, Nguyễn Điền, Hội Tâm linh, Long Hoa Di
Lặc, Ngọc Phật Hồ Chí Minh…
Hiện nay trên địa bàn tỉnh khơng có cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức sắc,
nhà tu hành của các tơn giáo, duy nhất chỉ có Ban trị sự Giáo hội Phật giáo
tỉnh đang thực hiện các nội dung theo quy định của pháp luật để trình cấp có
thẩm quyền xin mở trường đào tạo. Hiện nay hầu hết các cơ sở, thiết chế tôn
giáo đang hoạt động hợp pháp đều đã được các cơ quan chức năng cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, chỉ còn một số nhà thờ Cơng giáo chưa có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nhìn chung các tơn giáo trong Tỉnh sinh hoạt ổn định, chấp hành tốt chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện tốt đường
hướng, tơn chỉ, mục đích hành đạo của tổ chức tơn giáo đề ra, nội bộ đồn kết,
có mối liên hệ, trao đổi, ngoại giao tốt với các tôn giáo bạn, gắn bó với tín đồ và
nhân dân địa phương, tích cực tham gia vào các hoạt động chung do địa phương
phát động, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và các đồn thể ở cơ sở góp
phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội. Do vậy đã có nhiều đóng
góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, vẫn cịn những
vấn đề liên quan đến tơn giáo, CTTG tồn tại cần được giải quyết như tình trạng
lợi dụng tôn giáo để trục lợi như hiện tượng buôn thần bán thánh, tranh giành
quyền lợi, lợi ích trong du lịch tâm linh ở Tây Thiên huyện Tam Đảo, vi phạm về
lấn chiếm, hình thức, chuyển nhượng, tranh chấp đất đai và xây dựng cơng trình
trái phép liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo có chiều hướng phức tạp.
Tỉnh Vĩnh Phúc là đơn vị hành chính có vị trí quan trọng đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn Tỉnh. Tỉnh là nơi trực tiếp thực
hiện các chỉ tiêu kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, quốc phòng - an ninh và đối
ngoại. Do đó, sự phát triển bền vững của tỉnh là cơ sở, điều kiện quan trọng để
quốc gia phát triển gắn liền với các tổ chức hoạt động của cơ quan nhà nước


24

trung ương, tỉnh còn giữ vai trò quan trọng trong mối liên hệ giữa nhân dân địa
phương với Đảng, Nhà nước Trung ương; đồng thời là cơ quan tổ chức thực hiện
các chủ trương, đường lối, chính sách, các chỉ thị, nghị quyết, các quyết định của
cơ quan nhà nước cấp trên, đây cũng là trung tâm điều hành, phối hợp hoạt động
của tất cả các cơ quan nhà nước thuộc địa phương trên phạm vi lãnh thổ của
Tỉnh.
* Hệ thống chính trị tỉnh Vĩnh Phúc là một bộ phận trong HTCT ở nước ta,
bao gồm: Tổ chức đảng (Đảng bộ), tổ chức chính quyền và các đồn thể chính trị xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc cả ba cấp tỉnh, thành phố, huyện, phường, xã được tổ
chức chặt chẽ và gắn bó hữu cơ với nhau, bảo đảm hoạt động theo nguyên tắc
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Tỉnh có 9 đơn vị hành
chính: 2 thành phố (Vĩnh Yên, Phúc Yên) và 7 huyện (Tam Dương, Tam Đảo, Yên
Lạc, Vĩnh Tường, Lập Thạch, Sông Lơ, Bình Xun); 137 xã, phường, thị trấn [12,
tr. 10].
Vai trò HTCT tỉnh được thể hiện rõ qua vai trò các thành tố cấu thành
của nó, thể hiện cụ thể như sau:
Đảng bộ các cấp ở tỉnh Vĩnh Phúc giữ vai trị lãnh đạo, chỉ đạo tồn diện
các lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn tỉnh, tổ chức tiến hành thực hiện
thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ cách mạng. Triển khai thực hiện mọi đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, Chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung
ương.
Chính quyền các cấp ở tỉnh Vĩnh Phúc có vị trí, vai trị là cơ quan thực
thi quyền lực của nhân dân, thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ của
mình tại địa phương. Chính quyền tỉnh còn là cơ quan tổ chức thực hiện nghị
quyết, chỉ thị của Đảng bộ tỉnh và cơ quan nhà nước cấp trên.
Mặt trận tổ quốc và các tổ chức đồn thể chính trị - xã hội các cấp tỉnh
Vĩnh Phúc có vị trí, vai trị quan trọng trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc
thực hiện nhiệm vụ tập hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây dựng và


25

bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Với vị trí, vai trò là cơ chế quyền lực chung của nhân dân trong tỉnh,
HTCT các cấp ở tỉnh Vĩnh Phúc là chủ thể quyền lực chính trị tại địa phương,
là cơ quan đại diện cho quyền lợi chính đáng của nhân dân lao động trong
Tỉnh. Trong mối quan hệ từ trên xuống và từ dưới lên, HTCT tỉnh là cấp phục
tùng và lãnh đạo có chức năng và nhiệm vụ bảo đảm thực hiện đầy đủ hiến
pháp và pháp luật, thực hiện đầy đủ các chỉ thị, nghị quyết của trung ương,
lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý các cấp, các ngành trong phạm vi của tỉnh, xử lý
các vụ việc sai trái về vi phạm hiến pháp, pháp luật; giải quyết thắc mắc,
khiếu nại, tố cáo, hồi đáp các ý kiến của nhân dân theo phạm vi và quyền hạn
đã quy định.
* Quan niệm về công tác tôn giáo của hệ thống chính trị tỉnh Vĩnh
Phúc
Cơng tác tơn giáo ở nước ta được hiểu là những công việc của cả
HTCT, của các cấp, các ngành và các tổ chức chính trị - xã hội liên quan đến
tôn giáo, lĩnh vực tôn giáo. Đây là cơng tác chính trị đặc biệt do cả HTCT và
nhân dân thực hiện dưới sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Đảng nhằm
giải quyết tốt các vấn đề tôn giáo. Thực hiện công tác tôn giáo vừa là thực
hiện các mục mục tiêu của cách mạng, vừa là động lực của cách mạng trong
từng thời kỳ.
Từ quan niệm chung đó, áp dụng vào tỉnh Vĩnh Phúc, chúng tôi quan
niệm: Công tác tôn giáo của hệ thống chính trị tỉnh Vĩnh Phúc là hoạt động
của cả hệ thống chính trị tỉnh trong việc hoạch định và hiện thực hóa quan
điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với tôn giáo, nhằm
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần, góp phần tăng cường khối đại đồn kết toàn dân tộc, tạo động lực chủ
yếu cho sự thành công của công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn



×