Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

tiểu luận về triển vọng của chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.9 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
CNXH hiện thực ra đời từ sau thắng lợi của cuộc Cách mạng XHCN Tháng
Mười Nga (1917), sau năm 1945, đã trở thành hệ thống XHCN thế giới. Trong hơn
70 năm tồn tại, CNXH đã đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa to lớn đối với hịa
bình, tiến bộ của nhân loại. Vì nhiều lý do, CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông
Âu đã rơi vào khủng hoảng và sụp đổ vào đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Sự sụp
đổ này khơng có nghĩa là sự cáo chung của CNXH như một số kẻ chống CNXH
từng rêu rao mà chỉ là sự sụp đổ của mơ hình CNXH cụ thể. Cùng với những thành
cơng của công cuộc cải cách, đổi mới của Trung Quốc và Việt Nam, sự hồi phục
của các Đảng Cộng sản ở các nước XHCN trước đây, mơ hình “CNXH Mỹ Latinh
thế kỷ XXI” đang cho thấy một xu hướng phát triển mới của nhân loại hướng tới
CNXH.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện, 90 năm qua đất nước ta, dân tộc ta đã trải qua những chặng
đường khó khăn, gian khổ, vượt qua nhiều thử thách, hy sinh để giành được những
thành tựu to lớn chưa từng thấy, mang lại độc lập, tự do cho dân tộc, hòa bình,
thống nhất cho đất nước, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, uy tín và vị thế ngày
càng cao của quốc gia trên trường quốc tế.
Nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 90
năm qua chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trong đó trước hết là khả năng
“nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, khơng ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn
cách mạng đặt ra”. Nói cách khác, những thành tựu to lớn của cách mạng nước ta
trong 90 năm qua gắn liền với những thành tựu to lớn về phát triển lý luận.

1


NỘI DUNG
I. SỰ RA ĐỜI, THÀNH TỰU, NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG VÀ


TRIỂN VỌNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Sự ra đời, thành tựu của chủ nghĩa xã hội
CNXH hiện thực là khái niệm dùng để chỉ một chế độ xã hội đã và đang tồn
tại trên thực tế từ khi giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của mình là
Đảng Cộng sản đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành được chính quyền. “Khái
niệm chủ nghĩa xã hội hiện thực được nói tới ở đây có nội hàm là chủ nghĩa xã hội
đã trở thành thực tế, đã ra đời, đang vận động, sinh thành và phát triển chứ chưa
phải đã hoàn thiện, đã trưởng thành đầy đủ”.
CNXH hiện thực ra đời ở nước Nga sau thắng lợi của cuộc Cách mạng
XHCN Tháng Mười Nga (1917) vĩ đại. Trong điều kiện cực kỳ khó khăn và phức
tạp: nền kinh tế lạc hậu lại bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh thế giới thứ I; nội
chiến và chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc; sự bao vây, cấm vận về kinh
tế... từ năm 1918 đến đầu năm 1921, Đảng Cộng sản Nga đứng đầu là V.I.Lênin đã
thực hiện Chính sách cộng sản thời chiến, tiến hành quốc hữu hóa tài sản, tư liệu
sản xuất quan trọng nhất của bọn tư bản độc quyền, đại địa chủ và các thế lực
chống phá cách mạng khác. Đến tháng 3 - 1921, sau khi nội chiến kết thúc, Đại hội
X Đảng Cộng sản Nga đã thơng qua Chính sách kinh tế mới (NEP). V.I.Lênin đã
chỉ rõ trong những điều kiện mới, việc sử dụng những hình thức kinh tế quá độ là
một bộ phận rất quan trọng của chính sách này. Đó là việc thực hiện CNTB nhà
nước, một trong những hình thức thích hợp để giúp nước Nga Xơ viết nhanh chóng
khắc phục tình trạng suy sụp kinh tế sau chiến tranh, hạn chế sự phát triển tự phát
của nền sản xuất nhỏ. Theo V.I.Lênin, thông qua việc sử dụng CNTB nhà nước,
giai cấp vơ sản có thể học tập, kế thừa và phát huy có chọn lọc tất cả những tài sản
vật chất - kỹ thuật và tinh hoa chất xám trong kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh
của các nhà tư bản cũng như tri thức khoa học - kỹ thuật và trình độ quản lý kinh tế
2


của các chuyên gia tư sản. Nhà nước vô sản có thể sử dụng CNTB nhà nước như là
một hệ thống các chính sách, cơng cụ, biện pháp nhằm điều tiết hoạt động của các

xí nghiệp tư bản cịn tồn tại trong thời kỳ quá độ, nhằm hướng tới mục đích vừa sử
dụng, vừa cải tạo bằng phương pháp hịa bình đối với các thành phần kinh tế TBCN
và sản xuất nhỏ. Với ý nghĩa đó, CNTB nhà nước cịn có thể coi là một trong
những phương thức, phương tiện, con đường có hiệu quả trong việc thúc đẩy xã hội
hóa và làm tăng nhanh lực lượng sản xuất của CNXH.
Sau khi V.I.Lênin qua đời, vì nhiều lý do, trong đó có lý do đối phó với nguy
cơ chiến tranh thế giới thứ II, Chính sách kinh tế mới khơng được thực hiện đúng
theo tinh thần của V.I.Lênin. Sau năm 1945, CNXH từ một nước đã trở thành hệ
thống, các nước XHCN trên phạm vi quốc tế và đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại,
có ý nghĩa to lớn đối với hịa bình, tiến bộ của nhân loại.
Những thành tựu cơ bản của CNXH hiện thực:
Một là, chế độ XHCN đã từng bước đưa nhân dân lao động lên làm chủ xã
hội, thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do, dân chủ trên toàn thế giới. Sự ra
đời của chế độ XHCN cũng có nghĩa là chế độ dân chủ XHCN được thiết lập, dân
chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản (theo V.I.Lênin). Từ bản chất giai cấp của nó, chế
độ dân chủ XHCN, chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân lao động, thực hiện
ngày càng đầy đủ những quyền dân chủ, ngăn ngừa và trấn áp những hành vi xâm
phạm quyền tự do dân chủ của nhân dân. Chế độ XHCN không chỉ bảo đảm quyền
làm chủ trên thực tế cho nhân dân mà hơn thế nữa còn thúc đẩy trào lưu đấu tranh
cho dân chủ, nhân quyền ở các nước TBCN và trên toàn thế giới.
Hai là, trong hơn 70 năm xây dựng CNXH, Liên Xô và các nước XHCN
khác đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ sở vật
chất của CNXH trên quy mơ lớn với trình độ hiện đại, bảo đảm ngày càng tốt hơn
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Nước Nga trước Cách mạng Tháng
Mười so với các nước tư bản phát triển khác bị lạc hậu từ 50 đến 100 năm. Khi bắt
tay vào xây dựng CNXH, thu nhập quốc dân tính theo đầu người chỉ bằng 1/22 của
3


Mỹ cùng thời. Nhưng, chỉ sau một thời gian ngắn, Liên Xô đã trở thành một trong

hai siêu cường của thế giới. Năm 1985, thu nhập quốc dân của Liên Xô bằng 66%
của Mỹ, sản lượng công nghiệp bằng 85% của Mỹ.
Với cơng cuộc phát triển kinh tế, văn hóa, Liên Xơ đã trở thành một nước
có trình độ học vấn cao, thu được những thành tựu đáng kể trong việc chăm sóc
sức khỏe, phát triển y tế và bảo đảm phúc lợi xã hội cho nhân dân lao động.
Trước Cách mạng Tháng Mười, 3/4 nhân dân Nga mù chữ, chỉ sau 20 năm, nạn
mù chữ đã được xóa bỏ. Vào cuối năm 1980, Liên Xô là một trong những nước
có trình độ học vấn cao nhất thế giới (164 triệu nguời có trình độ trung học và
đại học, số lượng các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực cũng đứng vào hàng đầu
thế giới). Liên Xô và các nước XHCN khác trước đây đã đạt được những bước
tiến lớn trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, chinh phục vũ trụ, có tiềm lực qn
sự và cơng nghiệp quốc phịng hùng mạnh. Trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ
thuật, khoa học và cơng nghệ cũng có những thành tựu rất to lớn.
Ba là, với sự lớn mạnh toàn diện, CNXH có ảnh hưởng sâu sắc trong đời
sống chính trị thế giới, đóng vai trị quyết định đối với sự sụp đổ hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và thời đại
quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Chế độ XHCN được thiết lập không
chỉ mở ra một xu thế phát triển tất yếu cho các dân tộc là con đường XHCN, mà
bằng sự giúp đỡ tích cực, có hiệu quả về nhiều mặt, các nước XHCN đã góp phần
thúc đẩy mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc. Năm 1919, các nước thuộc địa và
nửa thuộc địa chiếm 72% diện tích và 70% dân số thế giới, tới những năm cuối của
thế kỷ XX chỉ cịn 0,7% diện tích và 5,3% dân số thế giới.
Bốn là, sức mạnh của CNXH hiện thực đóng vai trị quyết định đẩy lùi nguy
cơ chiến tranh, bảo vệ hòa bình thế giới; là sức mạnh vật chất, tinh thần, cổ vũ cho
sự nghiệp cải cách, đổi mới vì CNXH.
2. Nguyên nhân khủng hoảng và triển vọng của chủ nghĩa xã hội hiện
thực
4



Lịch sử xã hội lồi người khơng đi theo con đường thẳng và phong trào cách
mạng cũng không tránh khỏi sai lầm, thất bại hay những thời kỳ thoái trào. Ngay
nền Cộng hòa Pháp cũng phải làm đi làm lại và chỉ đến nền cộng hòa thứ năm, thể
chế TBCN ở Pháp mới cơ bản được khẳng định.
Hệ thống các nước XHCN từ khi ra đời cũng có những thăng trầm khó tránh
khỏi. Bắt đầu từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX, Liên Xô và các nước XHCN
Đông Âu rơi vào thời kỳ khủng hoảng. Từ tháng 4 -1989 trở đi, sự đổ vỡ diễn ra liên
tiếp ở các nước Đông Âu, đến tháng 9 -1991, chế độ XHCN ở Liên Xô và 6 nước
Đông Âu đã bị sụp đổ hoàn toàn. Sự đổ vỡ cũng diễn ra ở Mông Cổ, Anbani và Nam
Tư.
Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ có nhiều, song như Cương
lĩnh năm 1991 của Đảng ta chỉ rõ: “Do duy trì quá lâu những khuyết tật của mơ
hình cũ của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong cách mạng khoa học và cơng
nghệ...” đã gây tình trạng trì trệ kéo dài và khủng hoảng. Ngoài ra, nguyên nhân
chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ, đó là, trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên
Xô đã mắc những sai lầm rất nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Đó là đường lối hữu khuynh, cơ hội và xét lại, thể hiện trước hết ở những
người lãnh đạo cao nhất. Cải tổ ở Liên Xô bắt đầu từ 1986 và kết thúc trong sự đổ
vỡ hoàn toàn năm 1991. Đường lối cải tổ trượt dài từ cơ hội hữu khuynh đến xét
lại, từ bỏ hoàn toàn chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Từ chủ trương ban đầu là cải tổ kinh tế chuyển nhanh sang cải tổ về chính trị
một cách vô nguyên tắc đã tạo điều kiện cho sự phát triển làn sóng “cơng khai”,
“dân chủ”, “khơng có vùng cấm”, phủ định mọi thành tựu của CNXH, gây tâm lý
hoang mang cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của quần chúng đối với
CNXH. Ngoài ra, các thế lực quốc tế lợi dụng những sai lầm, khó khăn do khủng
hoảng đẩy mạnh cuộc phản kích quyết liệt nhằm xóa bỏ các nước XHCN, thực
hiện “diễn biến hịa bình” trong nội bộ Liên Xơ và các nước Đông Âu.
5



Gần 3 thập niên sau sụp đổ, hiện nay sự phát triển của Trung Quốc, Việt
Nam, Cu Ba và một số nước khác đang chứng minh CNXH không sụp đổ,
không mất đi mà đang có những triển vọng thực sự. Triển vọng của CNXH hiện
thực thể hiện trên một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, CNTB khơng phải là tương lai của xã hội lồi người
Trong tác phẩm Tun ngơn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
từng đánh giá rất cao vai trò lịch sử của giai cấp tư sản và CNTB: “giai cấp tư sản
đã đóng vai trị hết sức cách mạng trong lịch sử”; song các ông cũng dự báo và
chứng minh những dự báo của mình: “sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và sự thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội là tất yếu như nhau”.
Thực tế đã chứng minh, CNTB có vai trị to lớn đối với lịch sử phát triển của
nhân loại. Trong mấy thập kỷ qua, do biết “tự điều chỉnh và thích ứng” đồng thời
sử dụng triệt để những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, các nước
TBCN đã vượt qua được một số cuộc khủng hoảng và vẫn cịn khả năng thích ứng
và phát triển. Song, với bản chất của chế độ TBCN, chế độ xã hội luôn tồn tại mâu
thuẫn khơng điều hịa được giữa quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân TBCN
với lực lượng sản xuất xã hội hóa ngày càng cao, biểu hiện về mặt xã hội là mâu
thuẫn không thể điều hịa được giữa giai cấp tư sản và vơ sản, bởi vậy, cách mạng
XHCN tất yếu sẽ nổ ra và sự thay thế CNTB bằng CNXH là tất yếu khách quan.
Tuy nhiên, do cịn có điều kiện tồn tại và phát triển, CNTB cùng với q
trình thích nghi đã đồng thời tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật, kinh
nghiệm quản lý để giai cấp công nhân kế thừa trong xây dựng xã hội mới. Đại
hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong khi khẳng định tính tất yếu khách
quan của thời kỳ quá độ lên CNXH, cũng đồng thời chỉ ra những hạt nhân hợp lý
của CNTB, để CNXH kế thừa trong xây dựng xã hội mới: “Con đường đi lên của
nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân
6



loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công
nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội - tương lai của xã hội lồi người
Liên Xơ và các nước XHCN Đơng Âu sụp đổ khơng có nghĩa là sự cáo
chung của CNXH. Sau sự kiện Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, các
thế lực chống CNXH ra sức rêu rao về “cái chết của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
Mác-Lênin”. Song, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn đã khẳng định, sự sụp
đổ của Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự sụp đổ của mơ hình CNXH khơng phải là sự
cáo chung của CNXH với tư cách là mục tiêu, lý tưởng, là hình thái kinh tế - xã hội
mà lồi người đang vươn tới. Tương lai của loài người vẫn là CNXH, đó là quy luật
phát triển khách quan của lịch sử. Cương lĩnh năm 1991 của Đảng đã khẳng định:
“Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là cuộc đấu tranh giai cấp
và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hịa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử
thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song loài người cuối
cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”.
Các nước XHCN cịn lại tiến hành cải cách, mở cửa, đổi mới và ngày càng
đạt được những thành tựu to lớn. Sự sụp đổ của Liên Xơ và các nước XHCN Đơng
Âu đã có tác động mạnh mẽ đến các nước XHCN còn lại, nhưng với sự kiên định
con đường XHCN, các nước này khơng những đứng vững mà cịn thực hiện đổi
mới thành công. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể, Trung Quốc và Việt Nam, Cu Ba đã từng bước định hình và
định lượng mơ hình CNXH và con đường đi lên CNXH phù hợp.
Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cải cách, mở cửa “xây dựng chủ nghĩa xã
hội mang đặc sắc Trung Quốc” kiên trì phương châm: “cầm quyền khoa học, cầm
quyền dân chủ, cầm quyền theo pháp luật; “tất cả vì nhân dân”; “tất cả dựa vào
nhân dân” và thực hiện 5 nguyên tắc (5 kiên trì). Đại hội XIX (2017) với chủ đề:
“Quyết thắng xây dựng toàn diện xã hội khá giả, giành thắng lợi vĩ đại chủ nghĩa xã
7



hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới”, đã khẳng định: Xây dựng Trung Quốc trở
thành cường quốc hiện đại hóa XHCN giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hịa, tươi
đẹp vào năm 2050; “Nhân dân Trung Quốc sẽ được hưởng sự hạnh phúc và thịnh
vượng cao hơn, và dân tộc Trung Quốc sẽ có chỗ đứng cao hơn, vững hơn trên
trường quốc tế”.
Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo từ Đại hội VI đã thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Đảng
Cộng sản Việt Nam không chỉ thành công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc mà cịn có những đóng góp to lớn vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin:
- Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là một tính quy luật của cách mạng
Việt Nam, trong điều kiện thời đại ngày nay;
- Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi
mới kinh tế làm trung tâm, đồng thời đổi mới từng bước về chính trị, đảm bảo giữ
vững sự ổn định chính trị, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để đổi mới và phát
triển kinh tế, xã hội; thực hiện gắn phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm và xây
dựng Đảng là khâu then chốt với phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
tạo ra ba trụ cột cho sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững;
- Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tăng
cường vai trò kiến tạo và quản lý của Nhà nước. Giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội.
Xây dựng phát triển kinh tế đi đơi với giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
và bảo vệ mơi trường sinh thái;
- Phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN; đổi
mới và hồn thiện hệ thống chính trị, từng bước xây dựng và hoàn thiện nền dân
chủ XHCN, bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân;
- Mở rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh của
mọi giai cấp và tầng lớp nhân dân, mọi thành phần dân tộc và tôn giáo, mọi công
8



dân Việt Nam ở trong nước và nước ngoài, tạo nên sự thống nhất, đồng thuận xã
hội, động lực cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
- Mở rộng quan hệ đối ngoại, thực hiện hội nhập quốc tế; tranh thủ tối đa sự
đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, khai thác mọi khả năng có thể
hợp tác nhằm mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;
- Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, hội nhập
và phát triển đất nước.
Xu hướng đi lên CNXH ở các nước Mỹ Latinh khẳng định niềm tin và khả
năng phát triển của CNXH.
Vào cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ở khu vực Mỹ Latinh nổi lên phong trào
của những người cánh tả trên lập trường dân tộc tiến bộ. Bằng con đường bầu cử
dân chủ tư sản, nhiều đảng hoặc tổ chức chính trị xã hội cánh tả đã giành được
chính quyền. Có nhiều nước đã tun bố xây dựng CNXH theo mơ hình “chủ nghĩa
xã hội ở thế kỷ XXI”: Veneduela, Nicaragua, Ecuador, Bolivia. Veneduela là nước
khởi đầu cho trào lưu đi theo “mô hình chủ nghĩa xã hội của thế kỷ XXI”.
Mơ hình CNXH Mỹ Latinh lựa chọn tạo thành mơ hình “chủ nghĩa xã hội
Mỹ Latinh thế kỷ XXI” đã thể hiện khá rõ nhiều tính chất XHCN.
Về tư tưởng, lấy chủ nghĩa Mác, tư tưởng tiến bộ của Ximôn Bôlivia, tư
tưởng nhân đạo thiên chúa giáo làm nền tảng. Về chính trị, nhấn mạnh tư tưởng
“dân chủ cách mạng” và chính quyền nhân dân, xây dựng mơ hình xã hội theo đó
nhân dân tham gia vào cơng việc của nhà nước, thực hiện công bằng xã hội. Về
kinh tế, chủ trương thực hiện kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước
và hợp tác giữ vai trò chủ đạo, giành lại chủ quyền dân tộc đối với tài nguyên
thiên nhiên đặc biệt là dầu mỏ, nước sạch...; thực hiện cơng bằng, giải quyết vấn
đề bất bình đẳng và phân hóa xã hội. Về đối ngoại, thúc đẩy khối đại đoàn kết Mỹ
Latinh và quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, lấy hợp tác thay thế cạnh tranh,
9



đấu tranh cho một thế giới đa cực dân chủ, chú trọng kinh nghiệm quốc tế của các
nước XHCN như Cu Ba, Việt Nam, Trung Quốc.
Tất nhiên, mơ hình CNXH Mỹ Latinh còn nhiều điểm cần được tiếp tục
nghiên cứu, theo dõi, nhưng với sự xuất hiện mơ hình đó chứng tỏ sức sống và khả
năng phát triển của CNXH và lòng tin vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa của nhân dân
lao động.
Đánh giá về khuynh hướng tích cực này, Tuyên bố chung Việt Nam Veneduela (6-2007) khẳng định: “Hai bên nhất trí cho rằng những biến đổi chính trị
gần đây ở Mỹ Latinh và kết quả đấu tranh quả cảm của nhân dân các nước trong
khu vực là những bước tiến quan trọng trong quá trình khẳng định độc lập dân tộc,
bảo vệ chủ quyền, thực hành một nền dân chủ của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân và là một cơ hội để thiết lập các mơ hình phát triển kinh tế, xã hội trên cơ
sở các nguyên tắc nhân đạo và xã hội chủ nghĩa”.
II. NHỮNG THÀNH TỰU VỀ NHẬN THỨC LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1. Về đặc trưng mơ hình chủ nghĩa xã hội
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á ra đời,
thực hiện nhiệm vụ quản lý đất nước, tổ chức nhân dân tiến hành cuộc Kháng
chiến thần thánh chống thực dân xâm lược Pháp. Chiến thắng Điện Biên Phủ dẫn
tới việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, hòa bình lập lại trên miền Bắc, nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa bắt đầu q trình xây dựng, phát triển đất nước quá
độ lên CNXH, thực thi đồng thời hai nhiệm vụ: Xây dựng CNXH trên miền Bắc
và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trên cơ sở nhận thức lý luận về thời kỳ quá độ và học tập kinh nghiệm của
các mơ hình XHCN hiện thực trên thế giới, mơ hình CNXHcủa Việt Nam cho đến
trước Đổi mới bao gồm các đặc trưng chủ yếu: Chế độ xã hội dựa trên nguyên tắc
“nhân dân làm chủ tập thể”; nền kinh tế kế hoạch hóa với quan hệ sản xuất dựa trên
10



chế độ công hữu và tập thể về tư liệu sản xuất; tiến hành cách mạng văn hóa để xây
dựng phát triển văn hóa, con người mới xã hội chủ nghĩa; nhà nước chun chính
vơ sản với hai chức năng, chuyên chính với kẻ thù giai cấp và xây dựng chế độ
mới; các dân tộc đồn kết, bình đẳng, được đảm bảo điều kiện phát triển với việc
thành lập các khu tự trị; xây dựng quan hệ hợp tác quốc tế với các nước xã hội chủ
nghĩa, các đảng cộng sản, công nhân và nhân dân lao động trên thế giới theo tinh
thần quốc tế vô sản; chống thực dân đế quốc và mọi hình thức áp bức dân tộc.
Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 thắng lợi, đất nước thống nhất
một nhà, cả nước bắt tay vào sự nghiệp xây dựng CNXH trong điều kiện vô vàn
những khó khăn, thách thức: Thành phố, làng mạc, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, nền
kinh tế bị kiệt quệ sau hơn 30 năm chiến tranh khốc liệt; biên giới phía Nam, biên
giới phía Bắc đều bị kẻ địch xâm phạm, phá hoại; các quốc gia thù địch bao vây,
cấm vận. Đặc biệt, hệ thống XHCN thế giới chia rẽ, suy yếu và đi đến sụp đổ năm
1991 đã đặt Việt Nam vào hồn cảnh vơ cùng khắc nghiệt. Nhưng “cái khó ló cái
khơn”, chính trong hồn cảnh khó khăn tưởng như khơng có đường ra ấy, Đại hội
VI của Đảng đã đề ra đường lối Đổi mới, mở ra một giai đoạn phát triển mạnh mẽ
của đất nước. Công cuộc Đổi mới bắt đầu bằng “đổi mới tư duy”, tức là đổi mới về
phương pháp tiếp cận trong nhận thức lý luận: Nhìn thẳng vào sự thật; dựa vào dân,
coi trọng sáng kiến của nhân dân; coi trọng tổng kết thực tiễn; vượt qua những định
kiến và sự bảo thủ trong nhận thức, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trên
cơ sở kiên định con đường XHCN. Chính là dựa trên sự đổi mới về phương pháp
ấy, Đảng ta đã nhìn nhận, đánh giá lại một cách tồn diện những bài học kinh
nghiệm của các mơ hình CNXH hiện thực trên thế giới cũng như của nước ta trong
thời kỳ trước Đổi mới. Đó cũng là cơ sở để Đảng ta trở lại với những quan điểm
quan trọng của Mác, Ăngghen và Lênin về quá độ lên CNXH, nhận thức ngày càng
rõ hơn, đầy đủ hơn về tính chất, đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH.
Cương lĩnh 2011 chỉ ra rằng, công cuộc xây dựng CNXH là “một quá trình
cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra

11


sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội đan xen”. Nhận thức lý luận ấy cùng với thực tế sinh động của đất
nước chính là cơ sở để Đảng ta xác định mơ hình CNXH Việt Nam với 8 đặc
trưng: 1) Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; 2) Do nhân dân
làm chủ; 3) Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; 4) Có nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; 5) Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện; 6) Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn
trọng và giúp nhau cùng phát triển; 7) Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; 8) Có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Thành tựu lý luận của Đảng ta trong nhận thức về mơ hình CNXH khơng
tách rời việc xác định hệ mục tiêu với những giá trị cơ bản, quan trọng nhất mà
Việt Nam hướng tới là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Để thực hiện được hệ mục tiêu đó, Đảng ta đã chỉ ra yêu cầu nắm vững và giải
quyết đúng đắn 9 mối quan hệ lớn như là điều kiện cần thiết, đảm bảo thành
cơng. Đó là, quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới về chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo
đảm định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn
thiện từng bước quan hệ sản xuất; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa
xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; giữa độc lập tự chủ và hội nhập
quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
2. Về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là vấn đề đầu tiên, có nghĩa như

phương thức quan trọng hàng đầu để hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước,
12


xây dựng CNXH. Trên cơ sở những bài học thực tế của đất nước, những kinh
nghiệm quốc tế và những thành tựu nghiên cứu lý luận nói chung, Đảng ta đã hình
thành hệ thống lý luận về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đề ra mục tiêu, nội dung
và phương pháp tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp với điều kiện Việt
Nam, bối cảnh thời đại và tuân theo quy luật chung của thế giới. Nội dung cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức và yêu cầu phát triển bền vững;
xây dựng cơ cấu hợp lý đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa các vùng, miền, khu
vực; xây dựng nền kinh tế tự chủ, hội nhập quốc tế, tham gia vào chuỗi giá trị toàn
cầu; xử dụng và phát huy hiệu quả các nguồn lực phát triển đất nước.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành trong thời kỳ
Đổi mới bắt đầu từ Đại hội VI và được Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn.
Đó là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của đất nước; là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự
quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN gắn liền với đặc trưng về
kinh tế trong mơ hình CNXH Việt Nam, trong đó xác định: “Có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp”. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, phát triển, cạnh tranh bình đẳng, hợp
tác cùng phát triển theo pháp luật, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Nhà nước khuyến
khích mọi người dân làm giàu hợp pháp. Phân phối được thực hiện chủ yếu theo
kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các
nguồn lực khác. Nhà nướcphát triển hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội để

bảo đảm công bằng và đời sống bền vững cho nhân dân.
13


Vượt qua những hạn chế, sai lầm của nền kinh tế kế hoạch hóa, quan liêu, bao
cấp thời kỳ trước Đổi mới, nhận thức lý luận về thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN là sự phát triển đầy sáng tạo, một thành tựu lý luận có ý nghĩa rất to lớn của
Đảng ta. Đây chính là một cơ sở, điều kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần
mang lại sự phát triển liên tục, mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta trong mấy thập niên
vừa qua.
3. Về văn hóa, xã hội và con người
Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một đặc trưng của mơ hình
XHCN được Đảng ta xác định từ Cương lĩnh 1991, một mục tiêu đặt ra để xây dựng,
phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nhận thức lý luận của Đảng về văn hóa là sự phát
triển nhất quán từ luận điểm về các đặc trưng dân tộc, khoa học, đại chúng được đặt
ra trong Đề cương văn hóa từ năm 1943. Trong q trình cách mạng, nhất là trong
Đổi mới, Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về vai trò, vị trí, tầm
quan trọng của văn hóa trong đời sống xã hội và trong xây dựng, phát triển đất nước.
Văn hóa được xác định là “nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan
trọng của phát triển”. Mục tiêu phát triển văn hóa chính là nhằm xây dựng một xã
hội dân chủ, cơng bằng, văn minh, vì hạnh phúc và lợi ích chân chính của nhân dân,
vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người. Để thực hiện được mục đích ấy,
Đảng chủ trương kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các dân
tộc trên thế giới; phát triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; phát
triển nền báo chí, truyền thơng tự do, hiện đại, phục vụ có hiệu quả cho nhu cầu ngày
càng phong phú của nhân dân, cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước giàu
mạnh.
Trong quá trình Đổi mới, nhận thức lý luận của Đảng về con người được bổ
sung, hoàn thiện sâu sắc hơn, đầy đủ hơn. Con người được Đảng xác định là “trung

tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”, là mục tiêu quyết
định duy nhất của phát triển, đồng thời cũng là động lực quan trọng nhất của phát
14


triển. Con người có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó với văn hóa; sự phát triển văn hóa
khơng ngồi mục đích hồn thiện nhân cách, nâng cao phẩm giá, thúc đẩy sự phát
triển toàn diện chân, thiện, mỹ và đảm bảo hạnh phúc của con người. Để xây dựng,
phát triển con người, Đảng chỉ ra yêu cầu “Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của
xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đồn thể và cộng đồng dân
cư”. Nói cách khác, cần phải tạo lập một mơi trường xã hội văn hóa, văn minh,
đồng bộ, toàn diện, đảm bảo cho những tác động tích cực nhằm giáo dục, dẫn dắt,
bồi đắp những tình cảm, lối sống tốt đẹp cho con người, ngăn chặn những tác động
tiêu cực, những yếu tố ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của mỗi con người, mỗi
công dân.
Đảng đã phát triển những cơ sở lý luận cho việc giải quyết những vấn đề
xã hội. Xuất phát từ nhận thức về mục tiêu của cuộc cách mạng và bản chất tốt
đẹp của chế độ XHCN, Đảng chủ trương “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
trong từng bước và từng chính sách” trong q trình xây dựng và phát triển đất
nước. Yêu cầu “tiến bộ và công bằng” được triển khai bao quát toàn diện các
lĩnh vực xã hội, từ giáo dục, y tế, gia đình, mơi trường, xóa đói giảm nghèo, đến
an sinh, phúc lợi xã hội, thể dục thể thao, văn hóa giải trí, trật tự, an tồn xã hội,
bảo đảm quyền con người, phịng chống tội phạm, tệ nạn xã hội. Nhà nước giữ
vai trò trung tâm, đồng thời động viên mọi nguồn lực xã hội cùng tham gia việc
giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo cho mọi người dân được thụ hưởng xứng
đáng, công bằng những thành tựu của phát triển, Đổi mới, tạo lập một xã hội văn
minh, hài hòa, mang lại hạnh phúc ngày càng nhiều hơn cho nhân dân.
4. Về quốc phòng, an ninh và đối ngoại
Trong thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc vì độc lập, tự do và thống
nhất cho đất nước, hệ thống lý luận của Đảng về quân sự, an ninh đã đã được

phát triển phong phú, là cơ sở cho việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng
với 3 thứ quân, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân toàn diện, làm nên những
chiến công “chấn động địa cầu”. Trong điều kiện mới, khi mà hệ thống XHCN
15


thế giới khơng cịn nữa, bối cảnh chung của thế giới đã có những thay đổi sâu
sắc, Đảng ta đã có những đổi mới, sáng tạo trong nhận thức lý luận về tính chất,
đặc điểm của hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa gìn an ninh quốc
gia. Đặc biệt, quan điểm về đối tác, đối tượng là một nhận thức mới, phù hợp với
tình hình thế giới với những mối quan hệ chính trị, lợi ích phức tạp, trong đóchỉ
rõ, những ai tơn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu
nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác.
Trên cơ sở nhận thức lý luận ấy, Đảng xác định việc củng cố quốc phòng, giữ
vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng
yếu thường xuyên, trong đó mục tiêu trọng yếu của quốc phịng, an ninh là: “kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ
lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững mơi trường hịa
bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu của quốc phịng, an ninh trong tình hình
mới, Đảng chủ trương tiếp tục xây dựng thế trận quốc phịng tồndân, kết hợp
chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc
phòng an ninh; xây dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, tư tưởng,
kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Để bảo đảm nền tảng
vững chắc cho quốc phòng, an ninh, Đảng chủ trương phát triển kinh tế - xã hội
đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh; kết hợp chặt chẽ kinh tế
với quốc phòng, an ninh. Về xây dựng lực lượng, Đảng chủ trương xây dựng
Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng

bước hiện đại; kết hợp giữa xây dựng lực lượng quân đội, cơng an chính quy, có
sức chiến đấu cao với lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ, lực lượng an
ninh bán chuyên trách, các cơ quan bảo vệ pháp luật và phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc. Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng, sự
16


quản lý thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân
và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Về lĩnh vực đối ngoại, Đường lối nhất quán của Đảng ta là độc lập, tự chủ,
hịa bình, hợp tác và phát triển, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt
Nam XHCN giàu mạnh. Trong điều kiện thế giới đã có nhiều thay đổi, sự phát
triển mới trong đường lối đối ngoại của Đảng ta chính là chủ trương đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị
thế của đất nước trên trường quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hịa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Đường lối đối ngoại xây dựng
trên cơ sở những đổi mới, sáng tạo trong nhận thức lý luận của Đảng thời gian
qua đã mở ra điều kiện thuận lợi để đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng, mở mang quan hệ ngoại giao, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, chắt lọc tiếp
thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây
dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
5. Về phát huy dân chủ XHCN, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
Trong q trình Đổi mới, nhận thức của Đảng ta về dân chủ XHCN đã được
phát triển ngày càng đầy đủ và toàn diện. Cương lĩnh 2011 của Đảng nhấn mạnh:
“Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển đất nước”. Từ nhận thức ấy, Đảng xác định phải từng bước xây dựng và
hoàn thiện nền dân chủ XHCN, đảm bảo dân chủ được thực thi một cách toàn diện,
đầy đủ trong thực tế cuộc sống; dân chủ đồng thời gắn với kỷ luật, kỷ cương xã hội
và phải được thể chế hóa và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật. Nhà nước có trách

nhiệm bảo đảm các quyền con người, bảo đảm cho cuộc sống hạnh phúc và sự phát
triển tự do của mỗi người dân. Nhân dân là chủ và thực quyền làm chủ của mình
thơng qua hoạt động của Nhà nước, hệ thống chính trị với các hình thức gián tiếp
và trực tiếp. Xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trở
thành nền tảng vững chắc cho sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, đại diện và bảo
17


vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của các tầng lớp nhân dân và thực hiện dân
chủ XHCN, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đảng chủ trương phát huy vai
trò, sức mạnh của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước, giáo dục đạo đức cách mạng, trách nhiệm, nghĩa vụ cơng dân, tăng cường
mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước.
Trên cơ sở những nguyên lý xây dựng đảng vô sản kiểu mới của chủ nghĩa
Mác - Lênin, bối cảnh chung của thế giới và đặc điểm cụ thể của Việt Nam, Đảng
ta đã có những phát triển sáng tạo lý luận có ý nghĩa quan trọng về xây dựng Đảng,
trong đó, vấn đề đầu tiên là nhận thức về tính chất của Đảng. Cương lĩnh 2011 xác
định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”.
Trong nhận thức mới về tính chất của Đảng, sự trung thành với chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện lý tưởng cách mạng nhất quán theo định
hướng XHCN của đảng Cộng sản Việt Nam; tính chất đại diện rộng rãi cho lợi ích
chung của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc phù hợp với bối
cảnh của thời kỳ quá độ và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đồng thời thể hiện tính
dân chủ, nhân văn của một chính đảng cách mạng gắn bó máu thịt với nhân dân, với
dân tộc. Đến lượt mình, nhận thức về tính chất của Đảng trở thành cơ sở cho Đảng
đề ra và tổ chức thực hiện những chủ trương, giải pháp nhằm không ngừng xây

dựng, chỉnh đốn Đảng một cách toàn diện về tư tưởng, tổ chức, cán bộ, đạo đức tư
cách đảng viên nhằm đáp ứng với yêu cầu của Đảng lãnh đạo, cầm quyền trong điều
kiện mới.
Từ nhận thức về nhà nước chun chính vơ sản đến nhận thức về nhà nước
pháp quyền XHCN là bước phát triển lý luận đầy sáng tạo, vừa đảm bảo sự kiên
định mục tiêu của cách mạng, phù hợp với những điều kiện, yêu cầu của công cuộc
18


xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vừa kế thừa hợp lý
thành tựu phát triển nhận thức của nhân loại về nhà nước trong lịch sử lâu dài, cho
phép tiếp thu được những kinh nghiệm thực tế về xây dựng, quản lý nhà nước của
các quốc gia trong thế giới hiện đại. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà
nước của dân, do dân và vì dân, mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân
cơng, phối hợp và kiểm sốt lẫn nhau giữa các cơ quan trong thực thi các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không
ngừng tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng đầy đủ
và hoàn thiện. Đặc biệt, Đảng nhấn mạnh mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân
dân, yêu cầu trách nhiệm của Nhà nước với nhân dân: “Nhà nước phục vụ nhân
dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân,
tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ
chế và biện pháp kiểm sốt, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ
nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc
và của nhân dân”.
Theo chỉ dẫn của V.I.Lênin được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu và nhấn
mạnh: “Khơng có lý luận cách mạng thì khơng có phong trào cách mạng”, trong
tồn bộ hoạt động của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất coi trọng và không
ngừng nâng cao nhận thức lý luận, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở cho việc hoạch định các chủ trương, đường lối, tổ
chức lực lượng cách mạng, chỉ đạo các hoạt động thực tiễn, thực hiện các nhiệm vụ
cách mạng. Đây chính là một vấn đề có tính quy luật, một trong những bài học
quan trọng, điều kiện hàng đầu, không thể thiếu của những thắng lợi vĩ đại của cách
mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự nghiệp Đổi mới, xây
dựng, phát triển đất nước hơn 30 năm vừa qua khơng nằm ngồi tính quy luật ấy.
19


Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, xây dựng,
phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc là logic tất yếu, hệ quả không tách rời của
những thành tựu của Đảng trong đổi mới nhận thức lý luận, phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên CNXH và tính
chất, đặc điểm về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội trong điều kiện cụ thể của Việt
Nam.

KẾT LUẬN
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một tổn thất, một
thất bại lớn nhất của phong trào cộng sản, nó phản ánh đúng cuộc đấu tranh cách
mạng, có thắng lợi cách mạng, thất bại là tạm thời, thất bại có trong sự trưởng
thành. Đây chỉ là sự thất bại của một mơ hình. Trên thực tế, sự tan rã ở Liên Xô và
Đông Âu không phải là sự thất bại của chế độ và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
xã hội mà chỉ là sự thất bại của một mơ hình thực tiễn nhất định. Mơ hình chủ
nghĩa xã hội kiểu Liên Xơ - mơ hình chủ nghĩa xã hội cứng nhắc, nó khơng đồng
nghĩa với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tính cách là một hình thái kinh tế - xã
hội mà loài người đang vươn tới. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu cũng khơng vì thế mà thay đổi nội dung, tính chất của thời đại. Thời đại
ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Sự tan rã
ấy chỉ chứng tỏ tính quanh co, phức tạp của sự phát triển xã hội mà thơi.
Có thể nói, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là

sự sụp đổ của một mơ hình chủ nghĩa xã hội chưa khoa học, chưa nhân văn. Đây
chỉ là một bước lùi tạm thời của chủ nghĩa xã hội chứ không phải là sự sụp đổ
của lí tưởng xã hội chủ nghĩa của nhân loại. Ngọn cờ của chủ nghĩa xã hội đã
từng tung bay trên những khoảng trời rộng lớn, từ bờ sông Enbơ đến bờ biển
Nam Hải rồi vượt trùng dương rộng lớn đến tận hòn đảo Cuba nhỏ bé anh hùng.
20


Ngọn cờ ấy tuy có dừng tung bay ở bầu trời Liên Xô và một số nước Đông Âu
nhưng rồi đây sẽ lại tung bay trên nhiều khoảng trời mênh mông xa lạ: Bầu trời
Đông Nam Á, bầu trời châu Phi, Mĩ Latinh và ngay trên cả cái nôi ồn ào, náo
nhiệt của chủ nghĩa tư bản phương Tây… Đó là ước mơ của nhân loại tiến bộ và
đó cũng là quy luật phát triển tất yếu của lịch sử xã hội lồi người. Và đó cũng
chính là triển vọng của chủ nghĩa xã hội trong tương lai. Triển vọng của chủ
nghĩa xã hội phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, trong đó nhân tố quan trọng nhất là
sự đổi mới, cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa. Chính cơng cuộc cải cách,
đổi mới ở các nước là động lực cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội thế giới
Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta đã trải qua một quá trình lâu dài và khơng đơn giản. Trong q trình đó
Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, xuất phát từ thực tiễn đất nước, có
nhiều tìm tịi, sáng tạo trong nhận thức lý luận, nhất là trong thời kỳ đổi mới. Công
cuộc đổi mới ở Việt Nam đã diễn ra qua hơn 30 năm, đạt được nhiều thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử. Một trong những thành tựu to lớn là Đảng và nhân dân ta
nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày
càng rõ hơn.
Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ khi thành lập Đảng đến nay, cho
thấy những câu trả lời cho hiện tại - tương lai - triển vọng của chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, của nhân dân và dân tộc ta là: Chủ nghĩa xã hội là sợ chỉ đỏ xuyên suốt

trong đường lối cách mạng Việt Nam. Mục tiêu, bản chất của chủ nghĩa xã hội,
của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng và văn minh. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung
tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm tạo lập cơ sở vật chất - kỹ
thuật hiện đại của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tường Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam,
21


xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là xây dựng một “xã hội ngày càng tiến,
vật chất ngày càng tang, tinh thần ngày càng tốt...”. Từ thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới đã khẳng định sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng và Bác Hồ về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là hoàn toàn
phù hợp với quy luật phát triển của xã hội trong thời đại ngày nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Đinh Thế Huynh: Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ
XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.24.
2. ĐCSVN: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, 1991, tr.6, 7-8.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
NXB CTQG H., 2011, tr.66.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Sđd, tr 70.
5. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung,
phát triển năm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 70.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII, VPTW Đảng, H, 2017, tr.30.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,

Sđd, tr. 75-76.

22


8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, VPTW, H, 2017, tr. 147-148.

23



×