Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

tiểu luận nhà nước pháp quyền XHCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.41 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn chủ đề tiểu luận
Thế trận lòng dân là phạm trù hàm chứa những giá trị tinh thần, sức mạnh
tinh thần trong khoa học chính trị, xã hội, nhân văn, quân sự đã và đang được sử
dụng ngày càng phổ biến ở Việt Nam. Thế trận lòng dân là thuật ngữ chỉ trạng
thái “lòng dân” trở thành thế trận được tạo lập bởi lực lượng đại biểu lợi ích
quốc gia - dân tộc và được lực lượng đại biểu lợi ích quốc gia - dân tộc sử dụng
cho mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước.
“Lòng dân” là thuật ngữ dùng để chỉ trạng thái tâm lý, tinh thần của nhân
dân, bao gồm: Thái độ, nhận thức, tình cảm, ý chí, quyết tâm, lịng u nước,
tinh thần đồn kết dân tộc, sự đồng thuận, đồng sức, đồng lòng, niềm tin, sự ủng
hộ, phục tùng, trách nhiệm của nhân dân đối với các chủ thể chính trị, quan điểm
chính trị, đường lối chính trị, hoặc các vấn đề chính trị - xã hội. Do vậy, “lịng
dân” được hình thành một cách tự nhiên trước tác động của ngoại cảnh, phụ
thuộc vào giai cấp, lực lượng lãnh đạo nhưng không phải lúc nào cũng tin cậy,
ủng hộ, phục tùng, đồng thuận với sự lãnh đạo, điều hành của giai cấp lãnh đạo.
Trong lĩnh vực quân sự: Thế trận là tổng thể các biện pháp tổ chức, bố trí,
triển khai lực lượng và thiết bị chiến trường (kết hợp với yếu tố địa hình trên một
địa bàn cụ thể), nhằm tạo thế có lợi và phát huy cao nhất sức mạnh chiến đấu của
các lực lượng tham gia chiến đấu để giành thắng lợi trong tác chiến. Thế trận phải
phù hợp với ý định tác chiến, thế trận luôn vận động và phát triển theo các hoàn
cảnh, điều kiện cụ thể của việc đối chọi mưu kế và cách đánh giữa hai bên đối địch.
Xây dựng “thế trận lòng dân” là quan điểm xuyên suốt trong đường lối
qn sự, quốc phịng của Đảng. Quan điểm đó tiếp tục được quán triệt và thể
hiện nhất quán trong Chiến lược Quốc phòng Việt Nam thời kỳ mới.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chứng minh rằng: khi
“lịng dân thuận” thì nước mạnh, “lịng dân ly tán” thì nước yếu, nên bài học
hàng đầu mà ông cha ta đúc kết là “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” và “khoan
thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc là thượng sách giữ nước”. Kế thừa và phát
3



huy tư tưởng đó, trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn đặc biệt
coi trọng yếu tố “lòng dân”, lấy việc xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết
toàn dân tộc làm động lực chủ yếu để tạo nên sức mạnh tổng hợp cho công cuộc
giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xuất phát từ vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng của “thế trận lịng dân” đối
với tình hình cách mạng Việt Nam, tôi chọn vấn đề: “Một số giải pháp xây dựng
thế trận lịng dân góp phần xây dựng nền Quốc phịng toàn dân vững mạnh”
làm tiểu luận nghiên cứu.
2. Giới hạn của tiểu luận
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thế trận lòng dân trong lịch sử
dân tộc và quan điểm của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh; Thực trạng và giải
pháp cơ bản tăng cường “thế trận lịng dân”, tạo nền tảng xây dựng nền quốc
phịng tồn dân vững mạnh.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó coi
trọng phương pháp lơgíc - lịch sử, phân tích tổng hợp, tổng kết thực tiễn.
4. Giá trị, ý nghĩa của tiểu luận
Tiểu luận góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về “lòng
dân” và “thế trận lịng dân” trong tình hình mới; đề xuất một số giải pháp xây
dựng thế trận lòng dân trong giai đoạn hiện nay góp phần xây dựng nền quốc
phịng tồn dân vững chắc.
Kết quả nghiên cứu của tiểu luận có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong nghiên cứu, giảng dạy mơn quốc phịng an ninh ở Học viện Chính trị
hiện nay; và đối với việc tuyên truyền về xây dựng thế trận lịng dân góp phần
xây dựng nền quốc phịng tồn dân vững mạnh.
5. Cấu trúc của tiểu luận
Gồm: Mở đầu, nội dung (2 phần), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo.

4



NỘI DUNG
1. VẤN ĐỀ LÒNG DÂN, THẾ TRẬN LÒNG DÂN TRONG LỊCH
SỬ DÂN TỘC VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
1. 1 Vấn đề lịng dân, thế trận lòng dân trong lịch sử dân tộc
Lịch sử nhân loại đã chứng minh tầm quan trọng đặc biệt của quần
chúng nhân dân đối với sự tồn tại, phát triển của chế độ nhà nước, thậm chí
quốc gia - dân tộc. Đối với Việt Nam, từ xa xưa đến nay, vấn đề “lòng dân”,
củng cố “thế trận lòng dân” - “Chúng chí thành thành” ln được các triều
đại nhà nước phong kiến Đại Việt coi trọng bằng nhiều kế sách an dân,
khoan thư sức dân, bồi dưỡng sức dân… nhằm phục vụ cho việc bảo vệ
vương triều và công cuộc giữ nước của dân tộc. Vận nước nói chung, vận
mệnh của mỗi chế độ chính trị - xã hội nói riêng có quan hệ trực tiếp đến
lịng dân. Lịng dân thuận thì nước thịnh, lịng dân biến - “nhân tâm ly tán”
thì nước suy đã trở thành quy luật trong lịch sử. Vì thế, kể từ khi thành lập
và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh ln thấm nhuần tư tưởng đó, đặc biệt coi trọng nhân tố “lịng
dân”, lấy dân làm gốc trong hoạch định đường lối, chủ trương, quyết sách
của mình. Trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Xây dựng “thế trận lòng
dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an
ninh nhân dân”. Quan điểm nhất qn đó khơng chỉ thể hiện sự phát triển tư
duy lý luận của Đảng, mà còn phản ánh sự kế thừa tư tưởng, quan điểm giữ
nước mang tính truyền thống của dân tộc ta. Quán triệt, thực hiện tốt quan
điểm của Đảng về xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo cơ sở, nền tảng vững
chắc để xây dựng nền quốc phịng tồn dân vững mạnh trong tình hình mới
vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu của công cuộc đổi mới, đồng thời là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị, các lực lượng và toàn dân.
Xét tổng thể (cả về lý luận và thực tiễn), “lòng dân” là thuật ngữ dùng

để chỉ trạng thái tâm lý, chính trị - tinh thần của người dân, biểu hiện sự hài
5


lịng, tin cậy hoặc khơng hài lịng, tin cậy đối với cuộc sống và chế độ chính
trị - xã hội; trong đó, cốt lõi và bao trùm nhất là lịng u nước, tinh thần
đồn kết, ý chí quyết chiến quyết thắng vì độc lập, tự do cho dân tộc, vì sự
tồn vong của Tổ quốc. Với cách tiếp cận này, vấn đề “lòng dân” được bao
hàm bởi các yếu tố: nhận thức, thái độ, tình cảm, niềm tin, ý chí quyết
tâm; sự đồng thuận, đồng lòng; sự ủng hộ, phục tùng và trách nhiệm của
quần chúng nhân dân đối với chế độ chính trị - xã hội và lực lượng lãnh
đạo xã hội. Còn “thế trận lòng dân”, là cách thức tổ chức, khơi dậy, quy tụ
yếu tố “lòng dân” theo mục tiêu xác định, do lực lượng đại biểu cho lợi
ích của dân tộc tiến hành, nhằm hình thành “thế trận” có lợi nhất, tạo sức
mạnh tổng hợp, vững chắc để cùng với các nhân tố khác, thực hiện thắng
lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trọng yếu của đất nước.
Như vậy, yếu tố “lòng dân” và “thế trận lòng dân” là hai mặt của một
vấn đề có mối quan hệ biện chứng hữu cơ với nhau. Trong đó, “lịng dân”
bao giờ cũng hiện hữu, tồn tại một cách khách quan và là cơ sở, nền tảng
quan trọng, chủ yếu để tạo nên “thế trận lịng dân”. Đến lượt nó, “thế trận
lịng dân” được cố kết chặt chẽ sẽ có tác động tích cực làm cho yếu tố “lịng
dân” phát triển hài hòa, lành mạnh, vững chắc để hướng tới những mục tiêu
tốt đẹp của quốc gia và đời sống xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, yếu tố “lòng
dân” được biểu hiện với cả hai mặt tích cực và tiêu cực, tức là thuận và
không thuận sẽ không thể trở thành “thế trận” một cách tự nhiên, mà cần
phải có sự tác động của chủ thể con người bằng cách khắc phục mặt tiêu cực
(không thuận) và khai thác, củng cố mặt tích cực (đồng thuận) trong nhân
dân thì nó mới trở thành “thế trận lịng dân” vững chắc. Hơn nữa cần thấy
“thế trận lịng dân” có thể vững ở thời điểm này, giai đoạn này, nhưng yếu ở
thời điểm khác, giai đoạn khác và cũng không phải xây dựng vững rồi là

xong, mà phải thường xuyên được củng cố trong hoạt động thực tiễn thông
qua đường lối, chủ trương, chính sách “hợp lịng dân”, phục vụ cho mục
tiêu, nhiệm vụ xác định. Tiếp đó, “thế trận” này phải được đặt vào trạng
6


thái, tình thế nhất định, bố trí triển khai đồng thuận, thực hiện thống nhất
trong các tầng lớp dân cư, trong mọi lứa tuổi, giai tầng xã hội. Ngoài ra, mơi
trường chính trị - xã hội cũng là một trong những điều kiện tiên quyết bảo
đảm sự hình thành của “thế trận lòng dân”. Tất cả những vấn đề trên cho
thấy, “thế trận lòng dân” là dạng đặc biệt của thế trận; là một trong những
mạch nguồn sức mạnh nội sinh của một quốc gia - dân tộc và được biểu hiện
ở nhiều cấp độ khác nhau. Nếu “thế trận lịng dân” ở cấp độ cao thì sự gắn
kết của các nhân tố, nhất là nhân tố chính trị - tinh thần đạt độ vững chắc,
uyển chuyển, linh hoạt. Ngược lại, “thế trận lòng dân” ở cấp độ thấp, nghĩa
là sự gắn kết của các yếu tố đó cịn lỏng lẻo, phân tán, thậm chí trái chiều
nhau thì chẳng những hạn chế sức mạnh nội sinh, mà còn tạo mối nguy cho
quốc gia - dân tộc. Đây là vấn đề rất quan trọng, làm cơ sở để đánh giá, nhìn
nhận một cách khách quan, thực chất “thế trận lòng dân” trong từng giai
đoạn của lịch sử.
Nhìn lại lịch sử dân tộc, khơng khó để nhận thấy, yếu tố “lịng dân”,
“thế trận lịng dân” ln có vai trị to lớn và là nhân tố chủ yếu, quyết định
đến thắng lợi công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc. Ngay từ buổi
đầu dựng nước, trong nhân dân, lòng yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc luôn là
chất keo kết dính của khối đại đồn kết tồn dân và trở thành nét đặc sắc của
văn hóa bản địa. Đây chính là cơ sở, nền tảng và cội nguồn sâu xa để chúng
ta xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo sức mạnh tiềm tàng vùng lên giành độc
lập tự chủ sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc. Dưới thời nhà Trần, vai trò của
“thế trận lòng dân” - nhân tố quan trọng trong ba lần đánh thắng quân xâm
lược Nguyên còn được thể hiện ở tư tưởng: “Chúng chí thành thành” và chủ

trương “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc” là kế sách quan trọng
nhất để giữ nước. Đây cũng là một trong những nét nổi bật về xây dựng và
phát huy vai trò “thế trận lòng dân” vững chắc, thể hiện trí tuệ và nghệ thuật
giữ nước độc đáo trong điều kiện chế độ phong kiến của dân tộc. Đặc biệt,
trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh, bằng thực tiễn và trí tuệ
7


của mình, Nguyễn Trãi đã khái qt hết sức cơ đọng về sức mạnh của “thế
trận lịng dân”; đó là “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”, “lật thuyền
mới hay sức dân như nước”; có dân là có tất cả, khơng được lịng dân là mất
tất cả; từ đó, Ơng đã rút ra vấn đề căn cốt nhất: “việc nhân nghĩa cốt để yên
dân”. Nhờ đó, từ “đốm lửa” Lam Sơn, cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng trở
thành “biển lửa” kháng chiến của cả dân tộc và giành thắng lợi. Trái lại,
dưới thời nhà Hồ, lòng dân ly tán, trước họa xâm lăng mà trăm vạn người
trăm vạn lịng thì dù có qn đơng tướng giỏi, thành cao hào sâu, Tả tướng
quốc Hồ Nguyên Trừng vẫn phải thốt lên rằng: “thần khơng sợ đánh chỉ sợ
lịng dân khơng theo”. Đây là bài học lịch sử về việc không coi trọng xây
dựng “thế trận lịng dân” trong cơng cuộc giữ nước của dân tộc.
1.2 Quan điểm của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh về lịng dân và
thế trận lòng dân
Kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc và trên cơ sở nhận thức đúng
đắn vai trò của quần chúng nhân dân, của “thế trận lòng dân”, trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nhất qn
quan điểm: “lấy dân làm gốc”, sự nghiệp cách mạng là của toàn dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Sự sáng tạo của Đảng ta được thể hiện ở chỗ tùy
điều kiện, hoàn cảnh của từng giai đoạn cách mạng, việc xây dựng, củng cố
“thế trận lòng dân” được vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp. Lịch sử cho
thấy, thành công hay thất bại phụ thuộc vào ba điều kiện: thiên thời, địa lợi,
nhân hịa; trong đó, yếu tố nhân hịa mà cụ thể là lòng dân được biểu hiện

tập trung ở lòng u nước, sự đồn kết tồn dân “mn người như một”
là hết sức quan trọng. Và đó sẽ là bức thành đồng - lực lượng thống nhất, vô
địch mà không có đội qn xâm lăng nào có thể cơng phá được.
Trên cơ sở cả nước đồng lịng, tồn dân một ý chí, quyết tâm đánh
giặc giữ nước để thực hiện quốc phịng tồn dân, huy động tồn dân giữ
nước. Đó chính là nội dung cốt lõi, đặc điểm cơ bản, nổi bật trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc thời đại Hồ Chí Minh. Để thực hiện chủ
8


trương, quan điểm đó, cùng với gắn bó máu thịt với nhân dân, gương mẫu đi
đầu và sẵn sàng hy sinh trong các cuộc đấu tranh, Đảng ta đã đề ra đường
lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, sáng tạo, hợp lòng dân, nhất là đường
lối kháng chiến, kiến quốc, toàn dân, toàn diện (trong kháng chiến chống
Pháp); thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng (trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước) và đường lối đổi mới toàn diện đất nước trong thời kỳ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, lãnh đạo toàn dân triển khai thực
hiện, đưa các chủ trương, chính sách đó trở thành hiện thực đời sống xã hội.
Khơng chỉ vậy, Đảng ta cịn chú trọng giữ gìn đồn kết, thống nhất trong
Đảng và nhân dân; dũng cảm nhận khuyết điểm, sai lầm trước dân và kịp
thời sửa chữa; sáng tạo nhiều hình thức tổ chức thích hợp, thu hút đơng đảo
quần chúng tham gia sự nghiệp cách mạng, làm cho “thế trận lòng dân”
không ngừng được tăng cường, bổ sung những yếu tố mới, độc đáo và hiệu
quả. Qua đó, đã tạo ra “thế trận lịng dân” ngày càng vững chắc, góp phần
quan trọng, quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám (1945), cách
mạng giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cho đến trước Hội nghị Trung ương 9 (khóa IX), trong các văn kiện
chính thức, Đảng ta chưa sử dụng thuật ngữ “thế trận lòng dân”, nhưng tư
tưởng “dựa vào dân”, lấy “dân làm gốc”, đồn kết tồn dân để tạo sức mạnh
tổng hợp” ln nhất quán, xuyên suốt trong đường lối quân sự, quốc phịng

của Đảng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo
vệ Tổ quốc đã khẳng định: “sức mạnh của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới chính là sức mạnh tổng hợp. Trong đó, sức mạnh bên trong
của đất nước, sức mạnh của chế độ chính trị, sự trong sạch đội ngũ cán bộ và
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định”. Đại hội X của
Đảng lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “thế trận lòng dân” khi nhấn mạnh
nhiệm vụ “Xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc”. Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung
ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta tiếp tục khẳng
9


định phương châm giữ nước là phải chăm lo xây dựng cho “kinh tế phải
vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lịng dân phải n, chính
trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối thống nhất”; trong đó, Trung
ương đặc biệt nhấn mạnh đến yêu cầu “khơng ngừng củng cố, tăng cường
khối đại đồn kết dân tộc”.
Đại hội XII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ “Xây dựng
“thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phịng tồn
dân và nền an ninh nhân dân”. Điều đó cho thấy quan điểm nhất quán, xuyên
suốt của Đảng ta về xây dựng “thế trận lòng dân” trong đường lối quân sự,
quốc phòng bảo vệ Tổ quốc trước đây cũng như hiện nay.
Là sự cụ thể hóa đường lối qn sự, quốc phịng của Đảng, Chiến lược
Quốc phòng Việt Nam tiếp tục quán triệt quan điểm “xây dựng thế trận lòng
dân” trong xác định mục tiêu, phương châm chỉ đạo, phương thức xây dựng
nền quốc phịng tồn dân và các nhiệm vụ, giải pháp của quốc phịng trong
từng tình huống chiến lược. Chiến lược Quốc phòng khẳng định: xây dựng
“thế trận lòng dân” làm cơ sở, nền tảng để xây dựng các tiềm lực khác của
nền quốc phịng tồn dân; sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng, sự quản lý hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc

phịng; khối đại đồn kết tồn dân tộc và “thế trận lòng dân” vững chắc là
nhân tố trực tiếp, quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đồng
thời, nhấn mạnh xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; gắn tăng
trưởng kinh tế với thực hiện an sinh xã hội; gắn phát triển kinh tế với tăng
cường sức mạnh quốc phòng, an ninh… là những giải pháp để xây dựng “thế
trận lòng dân” vững chắc.
Nét mới của quan điểm “xây dựng thế trận lòng dân” trong Chiến lược
Quốc phòng là đặt nhiệm vụ này trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, với những thuận
lợi và thách thức đan xen. Thành tựu của hơn 30 năm đổi mới toàn diện đất
nước và những kết quả bước đầu của cơng cuộc phịng, chống tham nhũng
10


đã đem lại động lực mới, củng cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nhiều
hạn chế, yếu kém nảy sinh trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế cũng ảnh hưởng khơng nhỏ đến lịng tin của các tầng lớp nhân dân
vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những biểu hiện suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán
bộ, đảng viên; sự xuống cấp của các giá trị văn hóa; tình trạng phân cực giàu
nghèo trong xã hội… đã làm suy giảm lòng tin của một bộ phận nhân dân vào
Đảng, Nhà nước và chế độ. Bên cạnh đó, sự chống phá của các thế lực thù địch
bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Chúng ra sức
phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; phủ nhận nền tảng tư
tưởng của Đảng; lợi dụng các vấn đề dân tộc, dân chủ, nhân quyền, tơn giáo hịng
gây mất ổn định về chính trị - xã hội, chia rẽ Đảng, Nhà nước, Quân đội và Công
an với nhân dân, nhằm mục tiêu thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ chúng ta, tiến tới xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội
chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Tình hình đó đặt ra sự cần thiết phải

thường xuyên chăm lo sự thống nhất về chính trị - tinh thần của toàn dân, xây
dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng vững chắc cho nền quốc phịng tồn dân và
nền an ninh nhân dân.
Như vậy, có thể thấy, “thế trận lòng dân” là vấn đề gốc, tạo nên sức mạnh
tổng hợp, quyết định sự hưng thịnh hay suy vong của quốc gia - dân tộc; là thành
lũy kiên cố nhất, vững chắc nhất để bảo vệ đất nước. Đó cịn là cội nguồn sâu xa
từ bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử
giữ nước của dân tộc. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề có nội hàm rộng, phụ thuộc
và chịu sự tác động của nhiều yếu tố (cả bên trong, bên ngoài) và liên quan đến tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiện nay, trước sự tác động của tình hình thế
giới, khu vực sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, tồn dân, tồn qn ta có
phát triển mới, u cầu cao, do đó việc xây dựng “thế trận lịng dân” tạo cơ sở nền
tảng để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững chắc càng trở nên cấp thiết, quan
11


trọng. Trong quá trình thực hiện, phải nắm vững quan điểm, phương châm chỉ đạo
của Đảng, bảo đảm tính tồn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm; trong đó, cần
xác định rõ mục tiêu, yêu cầu, nội dung, giải pháp xây dựng “thế trận lòng dân”.
2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN TĂNG CƯỜNG “THẾ
TRẬN LÒNG DÂN”, TẠO NỀN TẢNG XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHỊNG
TỒN DÂN VỮNG MẠNH
2. 1 Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng, củng cố
“thế trận lòng dân” hiện nay
Nhận thức rõ tầm quan trọng của “thế trận lòng dân” đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và trên cơ sở kế thừa truyền thống dân tộc,
những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã tiến hành đồng bộ các chủ trương,
giải pháp tổ chức thực hiện và đạt được những kết quả quan trọng trên nhiều
lĩnh vực.
Nổi bật là: Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách phù

hợp với thực tiễn, hợp lịng dân, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế - xã
hội phát triển gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh ở từng khu vực và
trên phạm vi cả nước. Trong đó, các giải pháp về ổn định kinh tế vĩ mô, cơ
cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng… đã bảo đảm cho
nền kinh tế nước ta ổn định, tăng trưởng tương đối cao; dự kiến, mức tăng
GDP năm 2017 ước đạt 6,3% đến 6,7%, thu nhập bình quân đầu người ước
đạt khoảng 2.200 USD.
Tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII) ra nghị quyết xác định, kinh tế
tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đây là bước phát triển về tư duy, nhận thức của Đảng, tạo
động lực thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân và toàn bộ nền kinh tế phát triển;
đồng thời, tạo nền tảng cho xây dựng, củng cố nền quốc phịng tồn dân, thế
trận quốc phịng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là “thế trận
lòng dân” ngày càng vững chắc.

12


Điều đáng nói là, Đảng, Nhà nước ta ln gắn việc tăng trưởng kinh tế
với bảo đảm an sinh xã hội; thực hiện mỗi bước phát triển kinh tế là một
bước cải thiện đời sống nhân dân; đẩy mạnh thực hiện các chính sách xóa
đói giảm nghèo, chính sách ưu đãi đối với địa bàn vùng sâu, vùng xa, dân
tộc thiểu số, người có cơng với cách mạng; tạo việc làm cho người lao động,
miễn giảm thuế nông nghiệp nhằm “an dân”, “dưỡng dân”, v.v. Nhờ đó, “…
bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi”, hầu hết mọi
người dân “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” như ước
nguyện của Bác Hồ. Đó là minh chứng sinh động về thành tựu phát triển của
đất nước và xây dựng “thế trận lịng dân”.
Cùng với đó, Nhà nước đã sửa đổi, ban hành hiến pháp, các bộ luật,
luật, pháp lệnh, Quy chế Dân chủ ở cơ sở, nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ

nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân, cũng như đảm bảo thực hiện quyền con người, quyền cơng dân.
Cơng tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ
nạn xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội, khắc phục hậu
quả thiên tai, dịch bệnh, cải cách hành chính được tăng cường và có bước
chuyển biến tích cực.
Việc phát triển các lĩnh vực: giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ;
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây
dựng khối đại đoàn kết tồn dân tộc thường xun được chú trọng, góp
phần quan trọng vào quy tụ, tập hợp các tầng lớp nhân dân, người Việt
Nam ở nước ngồi cùng đồng lịng, chung sức xây dựng nước Việt Nam
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nhiệm vụ đối ngoại,
hội nhập quốc tế được đẩy mạnh cả về bề rộng và chiều sâu, phục vụ đắc
lực trong bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định đất nước, được
nhân dân đồng tình, ủng hộ và đánh giá cao.

13


Công tác xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức và đạo đức ln được coi trọng, triển khai thực hiện bằng
nhiều giải pháp. Đặc biệt, việc triển khai có hiệu quả Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và Chỉ thị 05-CT/TW
của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang củng cố niềm tin của nhân
dân vào Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó, Đảng ta thể hiện
rõ sự kiên quyết đấu tranh làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn “diễn biến
hịa bình” của các thế lực thù địch gắn với phòng chống, khắc phục biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, tăng cường giáo dục,

rèn luyện đảng viên, cán bộ vừa “hồng” vừa “chun”.
Như vậy, có thể thấy, với các chủ trương, chính sách đúng đắn, khoa
học, “hợp lòng” dân, đáp ứng nguyện vọng, quyền lợi chính đáng của nhân
dân, đã tạo sự đồng thuận, tin tưởng của nhân dân vào đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, vào cơng cuộc đổi mới và triển vọng
phát triển tốt đẹp của đất nước là minh chứng cho thành tựu cơ bản, nổi bật
trong xây dựng “thế trận lòng dân” những năm qua.
Bên cạnh kết quả đạt được, do nhiều nguyên nhân, cả khách quan, chủ
quan cùng sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, việc xây dựng
“thế trận lịng dân” cịn có mặt hạn chế, đó là:
Một số chủ trương, giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân đạt hiệu quả chưa cao, khoảng
cách giàu nghèo ngày càng lớn; việc vận hành nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính
sách, phương thức quản lý, khả năng phân tích, dự báo,… cịn bất cập;
năng suất, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp;
nhiều dự án được Nhà nước đầu tư lớn nhưng quản lý kém, hiệu quả thấp,
thậm chí thua lỗ, phá sản, gây thất thốt, lãng phí lớn; hiện tượng “được
mùa mất giá”, “được giá thì mất mùa” trong sản xuất nông nghiệp diễn ra
14


khá phổ biến,… làm cho một bộ phận nhân dân mất việc làm, thu nhập
giảm sút; đời sống của nông dân, gia đình chính sách, vùng sâu, vùng xa,
đồng bào dân tộc thiểu số, người hưởng lương gặp nhiều khó khăn. Những
nhân tố đó là mầm mống tạo sự bất bình ở trong xã hội.
Việc giải quyết những vấn đề “nổi cộm” gây bức xúc trong đời sống
xã hội chưa đạt kết quả bền vững, nhất là: tình trạng ơ nhiễm mơi trường,
mất an tồn thực phẩm, dịch bệnh, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội; sự gia
tăng các vụ án hình sự, v.v. Tham nhũng, lãng phí “vẫn còn nghiêm trọng,

với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận,
ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước”.
Một số cấp ủy, chính quyền địa phương có biểu hiện thiếu dân chủ,
chưa thật lắng nghe ý kiến của nhân dân, còn để xảy ra khiếu kiện kéo dài,
vượt cấp; một số cán bộ cửa quyền, thối hóa, biến chất, tham nhũng, có tài
sản lớn; giải quyết chính sách đất đai, giải phóng mặt bằng, các chế độ,
chính sách xã hội chưa triệt để, dẫn đến các vụ khiếu kiện đơng người, gây
căng thẳng trong quan hệ giữa chính quyền cơ sở với nhân dân; việc giải
quyết khiếu kiện còn biểu hiện đùn đẩy giữa các cấp, ngành; xử lý các vụ án
tham nhũng chưa nghiêm minh, “giơ cao, đánh khẽ”; thủ tục hành chính cịn
rườm rà, cán bộ, cơng chức chưa nêu cao tinh thần phục vụ, v.v.
Lợi dụng những hạn chế, yếu kém đó các thế lực thù địch đẩy mạnh
các hoạt động chống phá bằng những âm mưu, thủ đoạn thâm độc làm cho
tình hình ngày càng diễn biến phức tạp.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý nhà nước về văn hóa chậm được
đổi mới, chưa thật quyết liệt, có lúc có nơi bị xem nhẹ, thậm chí bị bng
lỏng. Các loại hình giải trí, lễ hội, in-tơ-nét phát triển phong phú, nhưng
thiếu tính định hướng chính trị, thẩm mỹ, bản sắc dân tộc và sự lành mạnh…
đã và đang tác động nhiều mặt đến xã hội, đặc biệt là lớp trẻ có biểu hiện sai
lệch về chuẩn mực giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống, trái với truyền thống

15


của dân tộc, giá trị con người mới xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây
dựng, ảnh hưởng đến sự đồng thuận, gắn kết trong “thế trận lòng dân”.
Việc quán triệt và triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, các
nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng - an ninh của
một số cấp ủy, chính quyền có nơi, có lúc chưa kiên quyết, triệt để; cịn
thiếu những giải pháp mang tính chiến lược, tổng thể. Kết hợp giữa phát

triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh trên một số lĩnh
vực, địa bàn có lúc, có nơi chưa chặt chẽ, thiếu hiệu quả. Cơ chế, chính
sách, pháp luật về quốc phịng - an ninh chưa hồn thiện.
Cơng tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, nhất là “tình trạng suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp
hơn”. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) gắn với học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chưa đều, chưa
đi vào chiều sâu; một số nơi thực hiện cịn mang tính hình thức, làm hạn chế
việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên - những người trực tiếp
lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức xây dựng “thế trận lịng dân”.
Bên cạnh đó, việc tun truyền, giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam, đường lối, quan điểm của Đảng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chống âm mưu, hoạt
động “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch, phòng, chống “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” cịn bị động, hiệu quả chưa cao.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội đang đặt ra nhiều vấn đề mới
nhưng chưa được nghiên cứu, giải đáp thấu đáo. Thực tế đó, làm cho một bộ
phận nhân dân thiếu niềm tin vào chế độ, vào sự lãnh đạo của Đảng. Điều đáng
tiếc là, có một số cán bộ, đảng viên thiếu rèn luyện về bản lĩnh chính trị bị các
thế lực thù địch tuyên truyền, kích động, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”, có ý kiến trái chiều về mục tiêu, lý tưởng, nền tảng tư tưởng của Đảng.

16


Từ thực trạng về xây dựng “thế trận lòng dân” nêu trên, đã, đang đặt
ra một số vấn đề cấp thiết cần được coi trọng giải quyết, đó là:
1. Nhận thức của các cấp, ngành, lực lượng và toàn dân về vai trị, vị
trí của “thế trận lịng dân” và sự cần thiết phải tăng cường thế trận này trong

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới chưa ngang tầm. Trong
đó, xác định xây dựng “thế trận lòng dân” là nhiệm vụ chiến lược, trọng yếu
thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị
nhằm tạo nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phịng tồn dân vững
mạnh chưa được quán triệt sâu rộng, đầy đủ.
2. Thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với thực hiện tốt
bảo đảm an sinh xã hội trên từng lĩnh vực, địa bàn và cả nước chưa thật hiệu
quả, chưa tạo được bước chuyển mới trong nâng cao đời sống vật chất tinh
thần cho nhân dân.
3. Hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp,
nhất là cấp ủy, chính quyền ở cơ sở trong xây dựng tiềm lực chính trị - tinh
thần, “thế trận lòng dân”, nhất là trên các địa bàn trọng điểm chưa được tăng
cường.
4. Cơng tác phịng chống tham nhũng, lãng phí tuy đã có chuyển biến
tiến bộ, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu; giải quyết những vấn đề bức
xúc trong nhân dân chưa triệt để, còn để kéo dài, vượt cấp, tạo kẽ hở cho các
thế lực thù địch lợi dụng chống phá.
Giải quyết tốt những vấn đề trên là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn
quân, của cả hệ thống chính trị sẽ thiết thực góp phần “an dân”, xây dựng
“thế trận lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở, hướng tới mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2. 2 Những giải pháp cơ bản tăng cường “thế trận lòng dân”, tạo nền
tảng xây dựng nền quốc phịng tồn dân vững mạnh
Từ thực trạng và những vấn đề đặt ra cho thấy, việc xây dựng “thế trận
lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phịng tồn dân
17


khơng chỉ là u cầu khách quan, mà cịn là nhiệm vụ cấp bách đối với sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Trong tình hình hiện nay, để thực hiện tốt vấn đề này,

đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, ngành, lực lượng và toàn dân, với một
hệ thống giải pháp đồng bộ; trong đó, cần tập trung vào một số giải pháp cơ
bản sau:
Một là, thường xuyên chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho nhân dân.
Đây là vấn đề rất quan trọng, thiết thực nhất để xây dựng “thế trận
lòng dân” vững chắc. Việc chăm lo đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân phải được tiến hành thường xuyên, thực chất bằng các chính sách
cụ thể, làm cho dân no, dân yên, dân tin… vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã
hội chủ nghĩa.
Quá trình thực hiện, Đảng, Nhà nước cần có chủ trương, cơ chế, chính
sách phù hợp, ưu tiên những vùng đặc biệt khó khăn bằng những chương
trình, dự án kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an ninh, nhằm khai thác
tiềm năng, thế mạnh tại chỗ, đồng thời tạo điều kiện cho các địa phương và
nhân dân tiếp cận vốn và ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ tiên
tiến vào hoạt động sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống, thu hẹp khoảng
cách giàu nghèo, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội vì mục tiêu phát
triển con người.
Tiếp tục đẩy mạnh nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân
tài; chăm lo sức khỏe cho nhân dân; chú trọng giải quyết các vấn đề bất
bình đẳng về lợi ích, phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, miền.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, chăm lo
bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; có cơ chế phù hợp để nhân dân
được tham gia bàn bạc, phản biện, giám sát trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội, trong đó có lĩnh vực quốc phịng. Đây là một trong những nền tảng quan
trọng để tạo sự đồng thuận của nhân dân trong xây dựng nền quốc phịng tồn
dân vững mạnh.
18



Hai là, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân về
tầm quan trọng của “thế trận lịng dân” đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc
phịng

tồn

dân

trong

tình

hình

mới.

Thực tiễn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc những năm vừa qua
cho thấy, một trong những yếu tố cơ bản, có tính quyết định trong xây dựng
“thế trận lòng dân” là phải tạo sự thống nhất về nhận thức, tư tưởng và hành
động của toàn dân.
Đặc biệt, trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế sâu rộng, thực hiện nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch đẩy mạnh
“diễn biến hịa bình” chống phá tồn diện trên các lĩnh vực thì cần phải tuyên
truyền để nhân dân thấy rõ những thuận lợi, khó khăn, nhất là những thách thức
đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phịng tồn dân nói chung, “thế trận lịng
dân” nói riêng. Trên cơ sở đó để nhân dân hiểu rõ vấn đề nghĩa vụ, quyền lợi,
trách nhiệm và sự cần thiết tham gia của cả hệ thống chính trị.
Phát huy vai trị của các tổ chức, lực lượng, phương tiện thông tin truyền thông và thiết chế văn hóa ở cơ sở. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh phong
trào thi đua nhằm tạo lập các điển hình tiên tiến về xây dựng “thế trận lịng
dân”; từ đó, tổ chức học tập, rút kinh nghiệm và nhân rộng ở từng cơ quan,

đơn vị, địa phương và cả nước.
Ba là, chú trọng kiện toàn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của hệ thống chính trị các cấp ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình
mới.
Trên cơ sở quán triệt, thực hiện nghiêm túc quan điểm, đường lối của
Đảng, quy định của Hiến pháp năm 2013 và thực tế hoạt động, cần thường
xuyên rà soát, kiện toàn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị các cấp, nhất là ở cơ sở, tạo sức mạnh và uy tín để củng cố
niềm tin trong nhân dân.

19


Trước hết, cần đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng theo phương hướng
mà Đại hội XII đã chỉ ra, trực tiếp là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII),
làm cho từng tổ chức đảng và đảng viên thực sự trong sạch, vững mạnh, ln
gắn bó mật thiết với nhân dân, đủ sức lãnh đạo xây dựng “thế trận lòng dân”,
nền quốc phịng tồn dân, đáp ứng u cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới.
Tiếp tục kiện tồn và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức
chính quyền các cấp; đẩy mạnh việc cơ cấu lại bộ máy các cơ quan trong
hệ thống hành chính nhà nước, thực hiện tốt việc phân cấp gắn với tăng
cường thanh tra, kiểm tra.
Bốn là, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, củng
cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Đây là nhiệm vụ quan trọng, tác động trực tiếp tới việc xây dựng “thế
trận lịng dân”. Do đó, cần có sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính
trị. Chỉ có như vậy mới củng cố được niềm tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa - cũng tức là tăng cường “thế trận lòng

dân” ngày càng vững chắc.
Củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc sẽ tạo nền tảng cho xây dựng
nền quốc phịng tồn dân vững mạnh. Đây là vấn đề hệ trọng và trong tình
hình hiện nay có nhiều nội dung mới, cần nghiên cứu thấu đáo để có hệ
thống giải pháp đồng bộ, phù hợp để vừa đáp ứng yêu cầu cấp thiết trước
mắt, vừa cơ bản, lâu dài, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến
lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.

20


KẾT LUẬN
Lý luận và thực tiễn đã khẳng định “thế trận lịng dân” là thế trận vững
chắc nhất. Vì thế, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng khu
vực phòng thủ hiện nay, chúng ta cần coi trọng đẩy mạnh xây dựng “thế trận
lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở. Xây dựng “thế trận lòng dân” trong thời
kỳ mới là xây dựng, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước
và công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng,
văn minh”. Đó là q trình thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp về chính trị, tư
tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng và an ninh. Xây dựng “thế trận
lòng dân” là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Thực hiện các giải pháp
xây dựng “thế trận lòng dân” cần thường xuyên quán triệt phát biểu bế mạc
Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “ta
làm hợp lịng dân thì dân tin và chế độ ta cịn, Đảng ta cịn. Ngược lại, nếu cái
gì làm trái lịng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”; bởi “sức dân như nước,
chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân”. Ngun lý đó ln ln đúng
với mọi thời đại.
21



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 - ĐCSVN - Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb CTQG, H. 2003, tr. 46.
2 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG,
H. 2006, tr. 109.
3 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb
CTQG, H. 2016, tr. 149.
4 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb
CTQG, H. 2016, tr. 65-66.
5 - Theo công bố năm 2016 của tổ chức nghiên cứu kinh tế - xã hội New
Economics Foundation (NEF) có trụ sở tại Anh, thì Chỉ số Hành tinh hạnh phúc
của Việt Nam đứng thứ 4 thế giới.
6 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội địa biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb
CTQG, H. 2011, tr. 196.
7 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 19.
8 - Hồ Chí Minh - Tồn tập, Tập 9, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 518.

22



×