Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.95 KB, 21 trang )

1
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp cách mạng hay là sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam
MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh cũng như những nhà cách
mạng yêu nước Việt nam cùng thời đều xác định được phải đánh đuổi ai để giành
độc lập dân tộc, nhưng lại khác nhau ở chỗ xác định ai đánh và đánh như thế nào,
chính sự khác nhau này – khác nhau về phương pháp cách mạng – là nguyên nhân
chính đưa đến sự thành công và không thành công của họ. Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh, Nguyễn Thái Học và nhiều người yêu nước khác tâm huyết rất tâm
huyết đấu tranh giành độc lập cho dân tộc và chấn hưng đất nước. Song các ơng
chưa có phương pháp cách mạng thích hợp. Phan Bội Châu với cách “cầu cứu nghĩa
cử đồng văn, đồng chủng”, “dĩ ngoại đột nội”. Phan Chu Trinh chủ trương bất bạo
động “bạo động tắc tử”, tiến hành “khai trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, “dựa vào
người Pháp để cầu tiến bộ” …vv. Tất cả các phương pháp đó khơng mang lại độc
lập cho dân tộc. Hồ Chí Minh không tán thành các cách tiến hành nêu trên. Người
dồn tâm trí tổng kết kinh nghiệm của những lãnh tụ các phong trào yêu nước Việt
nam chống Pháp; tổng kết kinh nghiệm các cuộc cách mạng tiêu biểu trên thế giới;
vận dụng phép biện chứng duy vật để phân tích xã hội Việt Nam những năm đầu thế
kỷ XX và đặt cách mạng Việt nam trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế
giới. Trên cơ sở đó, Người đã xác định cho mình một phương pháp cách mạng phù
hợp với thực tiễn Việt nam. Thực tiễn đã chứng minh, với phương pháp cách mạng
thích hợp, Hồ Chí Minh đã đưa cách mạng Việt nam đi đến thắng lợi.
Có thể nói phương pháp cách mạng là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong
hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh hiểu theo nghĩa rộng là sự vận động
của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn. Đó là những quy luật hoạt động mà theo
đó tư tưởng chính trị của người được hiện thực hóa. Theo nghĩa hẹp, phương pháp



2
cách mạng Hồ Chí Minh là hệ thống cách thức, biện pháp, quy trình hình thành các
nguyên tắc điều chỉnh và hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng trong
đấu tranh giành độc lập dân tộc, đi lên xây dựng CNXH ở Việt Nam. Và vấn đề đó
vẫn giữ nguyên giá trị thời sự trong tình hình thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình về nghiên cứu đề tài:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là đối tượng được các nhà khoa học và chính trị ở
trong nước và trên thế giới quan tâm nghiên cứu.
- Kỳ họp thứ 24 của UNESCO quyết định tơn vinh Hồ Chí Minh là danh
nhân văn hoá thế giới, một con người đã “để lại dấu ấn trong quá trình phát triển
của nhân loại”.
- Trong các chương trình khoa học cơng nghệ cấp Nhà nước có chương trình
KX.02 về tư tưởng Hồ Chí Minh với 13 để tài khoa học cấp Nhà nước. Nhiều luận
án Tiến sĩ, Phó tiến sĩ, Thạc sĩ về tư tưởng Hồ Chí Minh đã bảo vệ hoặc đang được
nghiên cứu.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt nam khẳng
định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đó là sự tổng kết của Đảng và của cả dân tộc,
vạch rõ nguồn gốc sâu xa cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt nam, đồng thời chỉ
rõ cơ sỏ lý luận và thực tiễn của sự nghiệp xây dựng đất nước từ nay về sau. Do đó,
việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là cần thiết hơn lúc nào hết.
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu:
Mục đích của việc nghiên cứu là làm sáng tỏ sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác Lê nin vào thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc Việt nam ở những năm đầu
thế kỷ XX của Hồ Chí Minh. Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành phương pháp
cách mạng Hồ Chí Minh.
Để đạt được những mục đích trên, tiểu luận cần phải giải quyết những vấn đề
sau:
- Nêu thực trạng cách mạng Việt nam trước khi chủ nghĩa Mác Lê nin truyền
bá vào nước ta.



3
- Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê nin và Quốc tế Cộng sản về vấn
đề dân tộc, về cách mạng chính quốc và cách mạng ở thuộc địa, về vai trò của quần
chúng nhân dân trong đấu tranh giải phóng dân tộc. Từ đó, phân tích sự sáng tạo,
nét độc đáo riêng biệt của tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc vận dụng vào thực tiễn
cách mạng nước ta. Cơ sỏ lý luận và thực tiễn cho sự hình thành phương pháp cách
mạng Hồ Chí Minh.
- Đánh giá những chuyển biến mang tính bước ngoặc trong phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc Việt nam để minh chứng cho sự hiệu quả của phương pháp
cách mạng Hồ Chí Minh.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận vận dụng các nguyên tắc, phương pháp luận triết học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lê nin.
Tiểu luận vận dụng phương pháp luận Hồ Chí Minh đó là: Lý luận gắn với
thực tiễn, quan điểm thống nhất biện chứng giữa lập trường giai cấp với lập trường
dân tộc, giữa dân tộc và thời đại.
Các phương pháp nghiên cứu được vận dụng trong tiểu luận là sự kết hợp của
phương pháp lịch sử với phương pháp logic, đồng thời có sự vận dụng của các
phương pháp diễn dịch, quy nạp, so sánh, phân tích.
5. Ý nghĩa của tiểu luận:
Có thể được vận dụng như một tài liệu tham khảo đối với những người
nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là phương pháp cách mạng của Hồ
Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc. Giá trị thời sự của phương pháp cách
mạng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn hiện nay.
6. Cơ cấu của tiểu luận:
Cơ cấu của tiểu luận gồm 4 phần: Mở đầu, nội dung, kết luận và phụ lục danh
mục các tài liệu tham khảo.
Phần 1: Mở đầu.

Phần 2: Nội dung, bao gồm 3 chương:


4
Nội dung chương 1: Về phương pháp giải quyết vấn đề dân tộc của Hồ Chí
Minh.
Nội dung chương 2: Về mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc và cách
mạng ở thuộc địa.
Nội dung chương 3: Về vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng
giải phóng dân tộc.
Phần 3: Kết luận
Kết luận được rút ra và tóm tắt từ những lập luận chương 1, chương 2 và
chương 3 của phần Nội dung.
Phần 4: Danh mục các tài liệu tham khảo.
NỘI DUNG
Lý luận và kinh nghiệm là cơ sở có tính quyết định, là điều kiện cần để hình
thành phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh. Song, thực trạng chính trị xã hội, yêu
cầu khách quan của lịch sử dân tộc Việt nam cuối thế kỷ 19 là cơ sở trực tiếp, quan
trọng là điều kiện đủ để hình thành phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh. Hay nói
cách khác, bản chất phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là phương pháp cách
mạng vô sản ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến.
Sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lê nin của Hồ Chí Minh vào thực tiễn
cách mạng Việt nam, hay nói cách khác, phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh
dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lê nin để giải quyết những vấn đề thực
tiễn của cách mạng Việt Nam, được thể hiện qua luận điểm sau:
CHƯƠNG 1: VỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRÊN CƠ SỞ
THỰC TIỄN:
1.1. Sinh thời, Mác cũng từng chỉ rõ rằng trong một dân tộc, lý luận bao giờ
cũng chỉ được thực hiện theo mức độ mà cách mạng là sự thực hiện những nhu cầu
của dân tộc ấy. Theo Mác, tư tưởng cố sức biến thành hiện thực vẫn chưa đủ, bản

thân hiện thực cũng phải cố sức hướng tới tư tưởng. Từ những thế kỷ trước, khi
khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác Lênin đã đề cập đến mối quan hệ giữa giải phóng giai cấp vơ sản với giải


5
phóng dân tộc. Sống và hoạt động trong thời đại CNTB đang lên, mâu thuẫn cơ bản
trong xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Do đó, Mác và
Ănghen đặt vấn đề dân tộc phụ thuộc vào vấn đề giai cấp. Quan điểm này thể hiện
rõ trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: " giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải
giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở
thành dân tộc, tuy hồn tồn khơng phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản
hiểu...hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột
dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ
dân tộc khong còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo".
Ănghen sau này cũng có nói " Chừng nào chưa có độc lập dân tộc, thì về mặt lịch
sử một dân tộc lớn thậm chí khơng thể bàn luận tương đối nghiêm túc bất kỳ vấn đề
nội bộ nào". Lênin sống trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, việc xâm chiếm thuộc địa
khắp nơi của các nước đế quốc chủ nghĩa làm cho vấn đề thuộc địa mang tính quốc
tế. Vì vậy, Lênin đã nêu vấn đề dân tộc thành vấn đề có tính quốc tế và ra sức ủng
hộ phong trào giải phóng dân tộc, song do hạn chế của điều kiện lịch sử nên Lênin
cũng chưa có dịp đề cập sâu đến mối quan hệ dân tộc - giai cấp ở thuộc địa.
1.2. Hồ Chí Minh là đã sớm vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác
Lênin vào hoàn cảnh một nước thuộc địa. Người nhấn mạnh ưu điểm nổi bật của
học thuyết Mác là phương pháp biện chứng. Người quán triệt quan điểm lập trường,
phương pháp của chủ nghĩa Mác Lênin để tổng kết kinh nghiệm, phân tích một cách
đúng đắn đặc điểm đất nước để đề ra đường lối cách mạng đúng đắn. Nhờ nắm
vững phép biện chứng duy vật, nên từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nêu vấn đề cần bổ
sung cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà
Mác ở thời mình khơng thể có được. Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử

của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông. Với phương pháp khoa học đó,
khi nghiên cứu thực tiễn đất nước, lịch sử dân tộc Việt Nam, Người khẳng định:
Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước, phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ
nhân danh Quốc tế Cộng sản là một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời, người
ta sẽ khơng thể làm gì được cho người Việt Nam nếu không dựa trên các động lực


6
vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ. Điều này thể hiện sự sáng tạo của Hồ
Chí Minh trong việc nắm vững và vận dụng phương pháp duy vật biện chứng của
Mác.
Là người rất am hiểu thuộc địa, nên từ rất sớm Người đã tích cực đấu tranh
cho thuộc địa, đồng thời ra sức chuẩn bị cho cuộc đấu tranh cho cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc của nhân dân thuộc địa. Vấn đề dân tộc, như Lênin đã dạy, chỉ là một
bộ phận của vấn đề chung về cách mạng vơ sản và chun chính vơ sản, chỉ có giải
phóng giai cấp vơ sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này
chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới. Điều đó
có nghĩa là vấn đề giải phóng giai cấp vơ sản gắn liền với vấn đề giải phóng dân
tộc, hai vấn đề đó khơng tách rời nhau. Thấm nhuần quan điểm của Mác, Ănghen,
Lênin, trên cơ sở thực tiễn, Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân
tộc - giai cấp trong điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến. Ở các nước thuộc
địa, mâu thuẫn giữa bọn đế quốc thực dân xâm lược và nhân dân các nước bị xâm
lược là mâu thuẫn chủ yếu. Do vậy, giải phóng dân tộc giành độc lập, tự do cho các
dân tộc thuộc địa là nhiệm vụ hàng đầu của các cuộc cách mạng thuộc địa. Còn về
mức độ gay gắt của mâu thuẫn giai cấp ở thuộc địa, ngay từ năm 1942, trong báo
cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ rằng sự phân hóa giai
cấp ở phương Đơng khơng diễn ra giống như ở phương Tây và đấu tranh giai cấp ở
đó khơng quyết liệt như ở phương Tây. Đến Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, chủ
trương giải quyết mối quan hệ dân tộc - giai cấp được thể hiện một cách sinh động.
1.3. Nhìn lại lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, chúng ta thấy

rằng, nhìn chung trong mối quan hệ dân tộc - giai cấp, vấn đề giải phóng giai cấp vơ
sản được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin chú ý nhiều hơn vì mâu thuẫn chủ
yếu trong xã hội tư bản là mâu thuẫn giai cấp, song đối với các dân tộc thuộc địa
vấn đề giải phóng dân tộc lại nổi lên hàng đầu, đặc điểm này cũng đã từng được
Quốc tế Cộng sản đề cập đến. Đề cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc
địa, nửa thuộc địa của Đại hội lần thứ VI Quốc tế Cộng sản đã chỉ rõ:" Ở các nước
thuộc địa, cách mạng dân chủ tư sản khác hẳn với cách mạng dân chủ tư sản ở các


7
nước độc lập, chủ yếu vì nó liên quan chặt chẽ với cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc khỏi ách đế quốc. Yếu tố dân tộc có ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình cách
mạng của tất cả các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, là nơi sự nô dịch của chủ
nghĩa đế quốc đã thể hiện hết sức trắng trợn, làm cho quần chúng nhân dân căm
phẫn đến tột độ. Một mặt, sự áp bức dân tộc đẩy nhanh khủng hoảng cách mạng
chín muồi và làm tăng thêm sự bất mãn của quần chúng công nông, do đó tạo điều
kiện thuận lợi để động viên họ và làm cho những cuộc bùng nổ cách mạng trở thành
một phong trào quần chúng, một cuộc cách mạng thật sự. Mặt khác, yếu tố dân tộc
chẳng những có thể ảnh hưởng đến phong trào giai cấp công nông, mà trong q
trình cách mạng nó cịn có thể làm thay đổi lập trường của tất cả những giai cấp
khác. Điều hết sức quan trọng là phải tuỳ từng trường hợp cụ thể mà nghiên cứu cẩn
thận ảnh hưởng đặc biệt của yếu tố dân tộc, là yếu tố quyết định phần lớn tính chất
độc đáo của cách mạng thuộc địa. Thực tiễn lịch sử chứng minh “Nêu cao nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu trong cách mạng tư sản dân quyền nước ta là một
chiến lược đúng đắn của Hồ Chí Minh”
CHƯƠNG 2: VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁCH MẠNG CHÍNH QUỐC
VÀ CÁCH MẠNG THUỘC ĐỊA:
2.1. Khi nghiên cứu về vấn đề dân tộc, thuộc địa và cách mạng giải phóng
dân tộc, Mác và Ănghen đã lưu ý đến mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc và
cách mạng thuộc địa. Song do hạn chế của điều kiện lịch sử, nên lúc đầu, Mác và

Ănghen nhấn mạnh vai trò chi phối, quyết định của cách mạng vô sản ở chính quốc
đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Chẳng hạn, Mác chỉ ra rằng: “…
thắng lợi của những người vơ sản Anh có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi của
tất cả những người bị áp bức đối với những kẻ áp bức họ. Đó là ngun nhân vì sao
mà phải giải phóng Ba Lan không phải ở Ba Lan mà ở Anh”. Ănghen cũng tán
thành quan điểm của Mác và cho rằng: Hiệu lệnh giải phóng Ba Lan sẽ do nước
Anh ra. Ba Lan sẽ chỉ được tự do khi nào các nước văn minh ở Tây Âu giành được
chế độ dân chủ. Tuy nhiên về sau, khi nghiên cứu kinh nghiệm đấu tranh giải phóng
của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa ở Châu Á, và phong trào giải phóng dân


8
tộc ở Châu Âu, Mác và Ănghen đã rút ra kết luận mới khác với trước đây. Các ông
nhận thấy phong trào cách mạng của nhân dân Châu Á sẽ ảnh hưởng sâu sắc và tác
động to lớn đến phong trào cách mạng của các nước tư bản chủ nghĩa Châu Âu.
Theo các ông, “ảnh hưởng mà cuộc cách mạng Trung Quốc có thể tác động vào thế
giới văn minh là một bằng chứng rõ ràng…..có thể mạnh dạn dự đốn rằng cuộc
cách mạng Trung Quốc sẽ phóng một tia lửa vào trái mìn của hệ thống cơng nghiệp
hiện tại đang sẵn sàng nổ tung và sẽ bắt buột cuộc tổng khủng hoảng đã chín muồi
từ lâu phải nổ ra và khi cuộc tổng khủng hoảng này lan ra nước ngồi, sẽ kéo theo
những cuộc cách mạng chính trị trên lục địa”. Qua việc khảo sát mối quan hệ dân
tộc giữa Ba Lan và Châu Âu, các ông đã nhận thức rõ: Châu Âu tự do dựa trên cơ
sở Ba Lan tự do và độc lập và đòn quyết định giáng vào giai cấp thống trị ở Anh.
Lênin và Quốc tế cộng sản cũng cho rằng: cách mạng thuộc địa giành thắng
lợi sau và phụ thuộc cách mạng chính quốc. Tuyên ngôn thành lập của Quốc tế cộng
sản (1919) chỉ rõ: “Việc giải phóng các thuộc địa chỉ có thể tiến hành đồng thời với
việc giải phóng giai cấp vơ sản ở chính quốc. Cơng nhân và nơng dân Anh khơng
chỉ ở Việt Nam, Angiêri, hay ở Bengan, mà cịn ở Iran, Ácmeni. Không thể tồn tại
độc lập khi nào mà công nhân Anh và Pháp chưa lật đổ được Lơi Góoc và
Clêmăngxơ, giành lấy chính quyền nhà nước”. Đề cương về phong trào cách mạng

ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa của Đại hội lần thứ VI Quốc tế Cộng sản nêu
rằng: “Việc giải phóng các nước thuộc địa khỏi ách đế quốc được thực hiện dễ dàng
hơn nhờ ở sự phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thế giới tư bản và sự
giải phóng đó chỉ có thể thực hiện được hồn tồn khi giai cấp vô sản giành được
thắng lợi ở các nước tư bản tiền tiến…”
Như vậy, có thể thấy, Mác, Ănghen, Lênin và Quốc tế cộng sản đã quan tâm
đến mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa, thấy được
mối liên hệ mật thiết giữa hai cuộc cách mạng này; song có một thực tế là cho đến
những năm 20 của thế kỷ XX, quan điểm cho rằng thắng lợi của cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản ở


9
chính quốc vẫn là phổ biến và chi phối trong phong trào cộng sản và cơng nhân
quốc tế.
2.2. Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa, lại được chứng
kiến cảnh bóc lột của đế quốc thực dân ở nhiều thuộc địa trên thế giới, đồng thời
được sống và hoạt động với phong trào công nhân và nhân dân lao động nhiều nước
tư bản, nên từ sớm, Người đã chỉ ra mối liên hệ gắn bó hữu cơ của cách mạng chính
quốc và cách mạng thuộc địa. Đồng thời Người chỉ rõ khả năng thắng lợi trước và
bổ trợ cho cuộc cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa, về tính chủ động
của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Vậy dựa trên cơ sở nào mà Hồ
Chí Minh đưa ra nhận định sáng tạo đó, trong khi nhiều quan điểm của Quốc tế
Cộng sản và các đảng Cộng sản Châu Âu cịn coi thường vai trị của cách mạng giải
phóng dân tộc ở các thuộc địa hoặc không tin tưởng vào khả năng thắng lợi trước
của nó, coi nó phải phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Nghiên cứu các bài viết của Người trong những năm 20 của thế kỷ XX, chúng ta
thấy những kiến giải cho nhận định trên:
Trước hết, Hồ Chí Minh nhận thức được tính tất yếu phải diệt vong của đế
quốc thực dân vì chính sự tàn bạo của chúng. Ngay từ rất sớm, Mác và Ănghen đã

chỉ ra rằng: “Những vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong
kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính giai cấp tư sản. Nhưng giai cấp tư sản
khơng những đã rèn vũ khí giết mình; nó cịn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy
chống lại nó, đó là những cơng nhân hiện đại, những người vô sản….giai cấp tư sản
sản sinh ra những người đào huyệt chơn chính nó”. Hồ Chí Minh trên cơ sở nghiên
cứu sâu sắc chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đơng Dương, tiếp tục làm rõ thêm tính tất
yếu phải diệt vong của chúng. Trong bài viết Chủ nghĩa tư bản đế quốc Pháp ở
Đông Dương, Người chỉ rõ: “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thực dân ở Đơng
Dương đã tạo ra ở xứ đó hai giai cấp vô sản, giai cấp vô sản công nghiệp và giai cấp
vơ sản nơng nghiệp”. Điều đó có nghĩa là nó tạo đã tạo ra hai giai cấp cơng nhân
trong lịng xã hội thuộc địa – lực lượng có khả năng thủ tiêu chủ nghĩa đế quốc. Và
Người khẳng định: “Việc đã tạo ra một giai cấp vô sản và dạy cho người Việt Nam


10
biết sử dụng súng ống là một bằng cớ chứng tỏ chủ nghĩa đế quốc tự đào hố để chơn
mình”.
Nhân dân Đơng Dương nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng dưới ách
thống trị của đế quốc thực dân đã khơng cịn bất kỳ quyền nào, kể cả quyền được
sống. “Người Đông Dương không được học, đúng thế, bằng sách vở và bằng diễn
văn, nhưng người Đông Dương nhận sự giáo dục bằng cách khác. Đau khổ, nghèo
đói và sự đàn áp tàn bạo là những người thầy duy nhất của họ. Nếu những người xã
hội chủ nghĩa lơ là việc giáo dục, thì giai cấp tư sản thực dân và bản xứ - bọn quan
lại – cứ phụ trách giáo dục bằng phương pháp của chúng. Người Đông Dương tiến
bộ một cách màu nhiệm và khi thời cơ cho phép họ sẽ biết tỏ ra xứng đáng với
người thầy của họ”. Trong bài Đơng Dương khổ nhục, Hồ Chí Minh tố cáo rằng, ở
Đông Dương giết người là việc xảy ra hàng ngày, “Từ người đại diện tối cao của
nhà nước chính quốc đến những tên thực dân bình thường, ai nấy cũng tự ý và đua
nhau giết hại, bóc lột đến tận xương tuỷ dân tộc đã bị chinh phục này…đế quốc
Pháp với quân lính của chúng đã coi tính mạng người Đơng Dương như cỏ rác,

muốn thì chúng tước đoạt của cải, thích thì chúng bắn giết”. Chính vì sự áp bức và
bóc lột vơ nhân đạo của đế quốc Pháp làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng
thì sống, khơng có cách mạng thì chết. Vì vậy mà phong trào cách mạng ngày càng
lớn mạnh: cơng nhân bãi cơng, học sinh bãi khố, nơng dân đòi ruộng đất, nhân dân
cả nước vùng dậy chống bọn đế quốc. Phong trào cách mạng Việt Nam làm đế quốc
Pháp run sợ, bởi vì sự áp bức càng đè nặng lên vai dân chúng bao nhiêu thì dân
chúng chóng lại bấy nhiêu. Điều đó chứng tỏ rằng “Bây giờ căm hờn đã sơi sục
trong lịng những người nơ lệ và từ đây chủ nghĩa đế quốc Pháp không cịn có thể
bóc lột dân chúng Đơng Dương mà khơng gặp những cuộc đấu tranh một sống một
chết”. Sự căm hờn đã sục sơi thì dù bọn đế quốc có đề phịng như thế nào đi nữa, thì
nạn nghèo khổ và sự bóc lột vẫn cứ thúc đẩy người Đơng Dương làm cách mạng, để
đạp đổ ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đế quốc. Theo Hồ Chí Minh, “Sự
tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi, chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm
cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thơi”.


11
Thứ hai, Hồ Chí Minh nhận thức rằng sự áp bức của đế quốc thực dân đối với
thuộc địa còn nặng nề hơn so với nhân dân lao động ở chính quốc. Trong bài Mấy ý
nghĩ về vấn đề thuộc địa, Người chỉ rõ: “Trong những luận cương về vấn đề thuộc
địa, Lênin đã tuyên bố rõ rệt rằng: “Nhiệm vụ của công nhân ở các nước đi chiếm
thuộc địa là phải giúp đỡ một cách tích cực nhất phong trào giải phóng của các nước
phụ thuộc”. Muốn thế, cơng nhân ở chính quốc cần phải biết rõ thuộc địa là cái gì,
phải biết những việc gì đã xảy ra ở thuộc địa, biết rõ nỗi đau khổ - hàng nghìn lần
đau khổ hơn cơng nhân ở chính quốc – những người anh em của họ, những người
vô sản thuộc địa phải chịu đựng”. Theo Người chế độ thực dân là hình thức tha hố
tàn bạo nhất, là kết quả tất yếu của sự phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa; nhân dân thuộc địa, vừa phải chịu sự nô dịch đè nén bằng lưỡi lê của nền văn
minh vừa bằng cây thánh giá của giáo hội sa đoạ làm ơ danh chúa. Trên thế giới,
khơng có dân tộc nào bị đàn áp hành hạ như người dân thuộc địa. Tại Hội nghị lần

thứ nhất Quốc tế nông dân, Hồ Chí Minh đã nêu rõ nỗi thống khổ của nông dân
trong các thuộc địa của Pháp, họ bị “hai tầng bóc lột: vừa như những người vơ sản
vừa như những người bị mất nước”. Người còn đưa ra hình ảnh so sánh giữa nơng
dân ta với nơng dân Nga để khắc hoạ địa vị xã hội của nông dân trong xã hội Việt
Nam thuộc địa: trong khi nông dân Nga giống như một người “ngồi chễm chệ trong
chiếc ghế bành” thì nơng dân Việt Nam lại giống như một người “bị trói vào chiếc
cột, đầu ngược xuống đất” khơng những thế, mà họ cịn “bị đóng đinh câu rút bởi
bốn thế lực liên hợp là Nhà nước, tên thực dân, nhà thờ và tên lái bn”. Cịn khi so
sánh sự bóc lột của bọn đế quốc với nơng dân ở chính quốc và thuộc địa, Người
khẳng định rằng “nông dân ở các thuộc địa là những người bị bóc lột và áp bức
nhiều hơn”. Và dù là nơng dân Việt Nam hay nông dân ở các thuộc địa khác thì họ
đều bị bọn đế quốc thực dân và tay sai của nó bóc lột thậm tệ. Trong bài Nơng dân
Bắc Phi, Hồ Chí Minh viết: “Tình cảnh nơng dân các thuộc địa đó như thế nào?
Thật là khủng khiếp. Khó có thể nói được rằng ai trong số họ: người Việt Nam ở
Đông Dương, người da đen ở Cônggô hay là Xênêgan, hay là người bản xứ ở Bắc
Phi bị bóc lột nhiều hơn. Giữa những người ấy có một cái chung: 1- Tất cả họ bị


12
dồn đến tình cảnh con vật thồ. 2- Họ khơng chỉ bị những kẻ chiến thắng bóc lột, mà
cịn bị những người bản xứ bóc lột nữa”. Và “cũng như những người anh em của họ
là nông dân Việt Nam, nông dân Châu Phi phải chịu cảnh cơ cực không thể chịu
nổi, phải lao dịch liên miên và phải gánh nhiều thứ thuế má nặng nề. Sự cùng khổ
của họ khơng sao tả xiết”. Rõ ràng, vì bị áp bức nặng nề như vậy nên nhân dân
thuộc địa, trong đó đông đảo nhất là công nhân, nông dân…đang tiềm ẩn một sự
phản kháng mãnh liệt và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến.
Thứ ba, Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng quyết định của
thuộc địa đối với sự tồn tại của chủ nghĩa đế quốc thực dân. Trong Lời phát biểu tại
Đại hội lần thứ XVIII Đảng xã hội Pháp, Hồ Chí Minh kêu gọi Đảng xã hội cần
phải hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức. Đảng

hứa một cách cụ thể rằng từ nay Đảng sẽ đánh giá đúng vấn đề thuộc địa. Song,
Người lấy làm tiếc về tình trạng thờ ơ của giai cấp vơ sản chính quốc đối với các
thuộc địa vẫn hết sức phổ biến, như Người đã viết trong bài Mấy ý nghĩ về vấn đề
thuộc địa: “Tiếc thay, một số đơng chiến sĩ vẫn cịn tưởng tượng rằng, thuộc địa
chẳng qua chỉ là một xứ dưới đầy cát và trên là mặt trời, vài cây dừa xanh và mấy
người khác màu da, thế thơi. Và họ hồn tồn khơng để ý gì tới”.
Từ sự phân tích ảnh hưởng của các thuộc địa đối với sự sống còn và phát
triển của chủ nghĩa tư bản, đế quốc, Người cho rằng: “Hiện nay, tất cả sinh lực của
chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy
nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ nhân công rẻ
mạt cho đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển những binh lính người bản xứ
cho các đạo quân phản cách mạng của nó”. Tại phiên họp lần thứ 8 Đại hội lần thứ
V Quốc tế cộng sản, Hồ Chí Minh sử dụng hình ảnh con rắn độc để minh hoạ một
cách sinh động về vai trò quan trọng của các thuộc địa đối với sự tồn tại của chủ
nghĩa tư bản đế quốc: “Hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ
nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc. Các thuộc địa cung cấp
nguyên liệu cho các nhà máy; các thuộc địa cung cấp binh lính cho quân đội của
chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản cách mạng.


13
Chúng ta muốn đánh đổ các nước đế quốc chủ nghĩa, thì trước hết chúng ta phải
làm cho chúng khơng còn thuộc địa nữa; còn khinh thường cách mạng thuộc địa thì
mới chỉ là “đánh rắn đằng đi”. Bằng những con số thống kê xác thực, Người dẫn
chứng cho thấy tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa: 9 nước (Anh, Pháp, Mỹ, Tây
Ban Nha, Ý, Nhật, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan) với tổng số dân 320,657,000 người và
với diện tích 11,407,600 km2 lột các nước thuộc địa gồm hàng trăm dân tộc với số
dân 560,193,000 người và với diện tích 55,637,000 km2 . Tồn bộ lãnh thổ của các
nước thuộc địa rộng gấp 5 lần lãnh thổ các nước chính quốc, cịn số dân của các
nước chính quốc chưa bằng 3/5 số dân của các nước thuộc địa. Rõ ràng chủ nghĩa

đế quốc hiện đại đặt nền móng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Bởi thế nó
chỉ tan rã hồn tồn và vĩnh viễn khi nào chúng ta phá bỏ được nền móng đó của lâu
đài đế quốc chủ nghĩa.
Thứ tư, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được tiềm năng to lớn của cách mạng
thuộc địa. Nhờ sinh trưởng ở một nước thuộc địa, lại được trải qua thực tiễn phong
phú của cuộc sống ở các nước thuộc địa khác nhau, nên Người có cái nhìn sâu sắc
và tồn diện về vấn đề dân tộc thuộc địa, thấy được sức mạnh vĩ đại trong các dân
tộc thuộc địa, thấy được tiềm năng cách mạng của các dân tộc bị áp bức là rất lớn,
nó sẽ bùng lên mạnh mẽ, hình thành một lực lượng khổng lồ khi họ được giác ngộ
và tổ chức. Người tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân thuộc địa sẽ vùng lên đánh
đổ ách thống trị ngoại bang và dự báo: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân Châu Á
bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lịng
tham khơng đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ”.
Đối với cách mạng Việt Nam, theo Người, dân tộc Việt Nam có truyền thống
lịch sử chống ngoại xâm lâu đời, nhân dân Việt nam giàu lòng yêu nước, bất khuất.
Trong lịch sử các quốc gia, hiếm có dân tộc nào phải chống giặc ngoại xâm nhiều
lần như dân tộc Việt nam, điều đáng lưu ý là những cuộc kháng chiến và chiến tranh
giải phóng dân tộc Việt nam diễn ra kéo dài về thời gian, số lượng lớn. Trong những
điều kiện khắc nghiệt đó, để sống và chiến thắng, dân tộc Việt nam phải phát huy
cao độ, ý chí độc lập tự chủ, tự lực tự cường, tinh thần buất khuất, lịng tự tơn dân


14
tộc. Có thể nói, chính chủ nghĩa dân tộc là động lực to lớn của đất nước, chính nó
đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho người culi biết phản đối,
nó làm cho những người nhà quê phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối,
cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn thúc đẩy các nhà buôn Việt Nam cạnh tranh với
người Pháp và người Trung Quốc, nó đã thúc giục thanh niên bãi khố, và làm cho
vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917. Do vậy, “Phát động chủ nghĩa dân tộc
bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản” là một chính sách mang tính hiện thực tuyệt

vời. Giờ đây, người ta sẽ khơng thể làm gì cho người Việt Nam nếu không dựa vào
những động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ.
Trên cơ sở nhận thức sức mạnh và tiềm năng to lớn của các dân tộc thuộc địa
trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do, Hồ Chí Minh đã khẳng định cuộc cách
mạng ở thuộc địa là do những nhân tố bên trong quyết định chứ khơng phải do nhân
tố bên ngồi. Ngay từ sớm, Hồ Chí Minh đã chỉ cho các dân tộc đang rên xiết dưới
ách đô hộ thực dân đế quốc rằng họ có sẵn một lực lượng cách mạng to lớn mà họ
chưa biết. Trong cuộc đấu tranh lật đổ ách đế quốc thực dân, giành độc lập tự do, dù
lực lượng bên ngồi có trợ giúp đến đâu, song vấn đề cốt yếu đảm bảo cho cách
mạng thuộc địa thắng lợi là lực lượng bên trong. Quan điểm đó được Hồ Chí Minh
khẳng định lại trong Tun ngơn của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đơng
rằng: “Muốn vượt qua vịng nơ lệ, chúng ta chỉ có thể cậy vào sức mình mà thơi”.
Thứ năm, Hồ Chí Minh nhận thức rõ vai trị ảnh hưởng của phong trào cách
mạng thế giới đối với các thuộc địa nói chung, cũng như đối với cách mạng Đơng
Dương nói riêng. Theo Hồ Chí Minh, Lênin đã đặt tiền đề cho một thời đại mới
thực sự cách mạng trong các nước thuộc địa, đã tìm ra những phương pháp có hiệu
quả để tiến hành có kết quả cơng tác trong các nước thuộc địa và nhấn mạnh là cần
phải sử dụng phong trào cách mạng dân tộc ở các nước này. Việc Lênin giải quyết
vấn đề dân tộc phức tạp ở nước Nga Xô viết, việc Đảng cộng sản thực hiện trong
thực tiễn vấn đề này là vũ khí tuyên truyền mạnh mẽ nhất trong các nước thuộc địa.
Mặt khác, trên cơ sở phân tích hồn cảnh lịch sử địa lý và phong trào cách mạng các
nước hiện đang là thuộc địa, nhất là ở Châu Á, Hồ Chí Minh đã nhận thấy những


15
điều kiện để dẫn đến bùng nổ một cuộc cách mạng sâu rộng đang được chuẩn bị
tích cực. Chẳng hạn, như ở Trung Quốc “trước kia và hiện nay vẫn là con bò sữa
của tư bản Âu Mỹ. Nhưng sự thành lập chính quyền của nhà cách mạng Tơn Dật
Tiên ở phía Nam đã hứa hẹn với chúng ta một nước Trung Hoa được tổ chức lại và
vơ sản hố. Có thể hy vọng một cách khơng q đáng rằng, trong một tương lai gần

đây, hai chị em – nước Trung Hoa mới và nước Nga công nhân – sẽ nắm tay nhau
trong tình hữu nghị để tiến lên”. Cịn nước Triều Tiên nghèo đói đang ở trong tay
chủ nghĩa tư bản Nhật, xứ Ấn độ đông dân và giàu có đang bị đè nặng dưới ách bóc
lột người Anh; nhưng “ý chí giải phóng đang làm sục sơi tất cả những người bị áp
bức đó, và một cuộc cổ động cách mạng sôi nổi đang lay chuyển tinh thần Ấn độ và
Triều tiên. Tất cả mọi người đều chuẩn bị một cách từ từ nhưng khôn khéo cho cuộc
đấu tranh tối cao và giải phóng”. Và luồng gió từ nước Nga thợ thuyền, từ Trung
Quốc cách mạng hoặc từ Ấn độ chiến đấu “đang thổi đến giải độc cho người Đông
Dương”; phong trào cách mạng Đông Dương đang vươn lên mạnh mẽ. Như vậy,
theo Hồ Chí Minh, những yếu tố lịch sử địa lý của phương Đông thuộc địa, cùng
với sự ảnh hưởng khơng gì ngăn nổi của phong trào cách mạng thế giới, đã tạo điều
kiện thuận lợi cho chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào đây dễ dàng hơn ở Châu Âu;
phong trào cách mạng ở các thuộc địa đã chuẩn bị các điều kiện cần thiết và sẵn
sàng vùng lên làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc khi thời cơ đến.
2.3. Với những cơ sở đó, chúng ta có thể nói rằng, luận điểm sáng tạo của Hồ
Chí Minh về khả năng giành thắng lợi của cách mạng thuộc địa trước cách mạng
chính quốc và nhân dân thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng cho mình đã dựa
trên những luận cứ khoa học vững chắc và có sức thuyết phục. Khẳng định tính chủ
động của cách mạng thuộc địa, Hồ Chí Minh kêu gọi giai cấp công nhân và nhân
dân lao động thuộc địa phải nêu cao tính tích cực chủ động và ý chí tiến cơng cách
mạng, khơng trơng chờ ỷ lại vào kết quả thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính
quốc mà phải dựa trước hết vào lực lượng của chính mình, chủ động vùng dậy đấu
tranh tự giải phóng cho mình; và hơn nữa, bằng thắng lợi của mình, họ có thể đóng
góp cho sự nghiệp cách mạng vơ sản ở chính quốc. Đây là một phát hiện thiên tài


16
của Hồ Chí Minh, cũng giống như Lênin trước đây đã khẳng định cách mạng vơ sản
có thể nổ ra ở một số nước, thậm chí ở một số nước không phải là nước tư bản phát
triển cao nhất nếu nó là mắc xích yếu nhất trong dây chuyền đế quốc chủ nghĩa.

Luận điểm này có giá trị khoa học và có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn rất quan trọng, là
cơ sở để Hồ Chí Minh tin tưởng và quyết tâm, tích cực, chủ động tổ chức nhân dân
ta vùng lên tự cởi bỏ xiềng xích nơ lệ đế quốc thực dân. Luận điểm này chính là cơ
sở của sự đoàn kết chiến đấu của lực lượng cách mạng dân tộc, đồng thời là cơ sở tư
tưởng của chiến lược đồn kết quốc tế vơ sản, của chủ nghĩa quốc tế vô sản trong
sáng, bền chặt.
Không chỉ đơn thuần nêu cao tính độc lập của cách mạng thuộc địa, mà Hồ
Chí Minh cịn ra sức chuẩn bị trong thực tế, gắn lý luận đó với phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, đưa cuộc cách mạng ấy theo hướng chủ động
tích cực chứ khơng trơng chờ ỷ lại vào sự trợ giúp bên ngoài. Thực tiễn đã chứng
minh, nhờ sự chuẩn bị lực lượng chu đáo và biết chớp đúng thời cơ nên năm 1945
Việt Nam đã giành độc lập, chính quyền do nhân dân làm chủ được thiết lập – điều
đó chứng tỏ rằng – cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có thể giành
thắng lợi trước, trong khi cách mạng vơ sản ở chính quốc chưa giành được thắng
lợi. Điều đó, giúp chúng ta hiểu rõ hơn giá trị quan điểm mà Hồ Chí Minh đã nêu ra
từ những năm 20 của thế kỷ XX. Người không chỉ nêu một luận điểm đúng đắn mà
cịn hiện thực nó một cách sinh động trong đời sống cách mạng thuộc địa. Đây là
một đóng góp hết sức có ý nghĩa của Hồ Chí Minh vào sự phát triển lý luận Mác Lê
nin về cách mạng giải phóng dân tộc.
CHƯƠNG 3: VAI TRỊ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG
CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC:
3.1. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin đã phát hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vô sản, đồng thời cũng rất quan tâm đến vấn đề lực lượng đồng minh
của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản. Các ông đã chỉ ra
rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, sự liên minh giai cấp, trước hết là
liên minh công nông, là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng, có vai


17
trò hết sức cần thiết trong việc đảm bảo thắng lợi của cuộc cách mạng vơ sản. Hồ

Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác Lênin là vì chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ ra cho các
dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. Trong điều kiện lịch sử của một nước
thuộc địa, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết cách mạng khoa học của
Mác, Ănghen, Lê nin nhằm đoàn kết lực lượng toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc thực dân.
3.2. Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, ngay từ rất sớm, Hồ
Chí Minh đã coi cơng nơng là gốc cách mạng, liên minh cơng nơng là lực lượng
nịng cốt của cách mạng. Song, trong xã hội thuộc địa, ách áp bức bóc lột của bọn
đế quốc thực dân bao trùm lên tồn bộ xã hội, do đó mâu thuẫn dân tộc là hàng đầu.
Chủ nghĩa đế quốc thực dân không chỉ là kẻ thù của riêng giai cấp cơng nhân và
nơng dân mà cịn là kẻ thù chung của nhân dân thuộc địa. Chính vì vậy khi nêu cao
chủ trương làm dân tộc cách mạng, Người xác định lực lượng cách mạng giải phóng
dân tộc bao gồm tồn dân tộc. Trong những năm 20 của thế kỷ XX, Người chỉ rõ
rằng cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp chung của cả dân chúng, dân tộc
cách mạng thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, cơng, nơng, thương đều nhất trí chống
lại cường quyền áp bức. Đến năm 1930, trong Cương lĩnh đầu tiên do Người soạn
thảo, vai trò cách mạng của quần chúng nhân dân được Hồ Chí Minh hiện thực hố
một cách sáng tạo. Theo tinh thần của Cương lĩnh thì Đảng phải tập hợp đại bộ
phận giai cấp công nhân và nông dân, lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nơng đi về
phe vô sản giai cấp, đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt nam mà
chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng phải trung lập họ; chỉ đánh
đổ đế quốc thực dân, đại địa chủ và bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng. Rõ ràng
đây là chủ trương hết sức mềm dẻo, linh hoạt của Hồ Chí Minh nhằm tập hợp hết
thảy mọi lực lượng mà cách mạng có thể tập hợp được, tránh tư tưởng hẹp hịi, cơ
độc. Chủ trương đó vừa động viên được lực lượng hùng hậu nhất là giai cấp nông
dân hăng hái tham gia cách mạng, đồng thời cách mạng vẫn có thể tranh thủ lôi kéo
được bộ phận trung, tiểu địa chủ để tập trung giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của xã
hội là mâu thuẫn dân tộc.



18
3.3. Sáng tạo trong việc giải quyết vấn đề nông dân ở một nước thuộc địa là
một cống hiến quan trọng của Hồ Chí Minh góp phần phong phú chủ nghĩa Mác Lê
nin về vai trò quần chúng nhân dân trong cách mạng giải phóng dân tộc. Ở Việt
nam, giai cấp nông dân chiếm đại bộ phận trong dân số, họ lại là lực lượng áp bức
rất nặng nề; họ sớm có ý thức giai cấp và ý thức dân tộc mạnh mẽ. Đứng trên lập
trường giai cấp vô sản để giải quyết vấn đề nơng dân, Hồ Chí Minh đã đánh giá vai
trò xứng đáng đối với cách mạng của một giai cấp lớn nhất của dân tộc. Sự sáng tạo
của Hồ Chí Minh cịn là ở chỗ Người không đặt nông dân đối lập với giai cấp công
nhân, mà coi nông dân là một lực lượng hùng hậu, hướng nông dân đi vào quỹ đạo
cách mạng vô sản, cùng với giai cấp công nhân hợp thành động lực chính của cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc. Chính nhờ sáng tạo đó, mà liên minh cơng nơng
khơng ngừng được củng cố và tăng cường, cùng với sự đoàn kết rộng rãi các tầng
lớp, giai cấp, các giới vì mục tiêu hàng đầu là giành độc lập, tự do mà cách mạng
Việt nam đã thành cơng.
Như vậy, với cái nhìn toàn diện phong phú về vấn đề dân tộc và thuộc địa, từ
nghiên cứu lý luận, kết hợp với việc khảo sát thực tế, Hồ Chí Minh đã bổ sung, vận
dụng và phát triển những quan điểm, tư tưởng của Mác, Ănghen, Lê nin một cách
sinh động và sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước thuộc địa với những đặc điểm
lịch sử, xã hội và con người vốn có của nó. Từ thực tiễn lịch sử của ngày hôm qua
cho ta bài học quý cho ngày hôm nay trong việc học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh để giải quyết nhiều vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra.
KẾT LUẬN
1. Tư tưởng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là hệ thống những quan
điểm của Người về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt nam nhằm thực hiện
mục tiêu độc lập, tự do cho dân tộc Việt nam theo con đường cách mạng vô sản. Tư
tưởng đó được hình thành và phát triển trên cơ sở cội nguồn từ truyền thống dân
tộc; kết hợp tinh hoa văn hoá tư tưởng và thực tiễn phương Đông, phương Tây, nhất
là chủ nghĩa Mác Lênin; được Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng và phát triển sáng
tạo trong điều kiện lịch sử cụ thể của dân tộc Việt nam thuộc địa. Hệ thống quan



19
điểm đó, qua thực tiễn cách mạng đã dần được bổ sung, hồn thiện và được hiện
thực hố trong mỗi chặng đường lịch sử; đồng thời được thực tiễn lịch sử cách
mạng Việt nam kiểm nghiệm và đánh giá là hồn tồn đúng đắn.
2. Hệ thống quan điểm giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh có ý nghĩa lịch
sử to lớn. Nhờ quan điểm đúng đắn sáng tạo và sự nhiệt tình, kiên trung cách mạng
của Hồ Chí Minh và những người Việt nam yêu nước mà ánh sáng cách mạng và
khoa học của thời đại đã được tiếp thu và phát triển trên cơ sở thực tiễn của cách
mạng Việt nam. Những luận điểm cách mạng khoa học của Hồ Chí Minh đã thâm
nhập vào các phong trào công nhân, phong trào yêu nước làm cho các phong trào
này trưởng thành nhanh chóng, dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt nam đầu
năm 1930. Sự ra đời của Đảng là điều kiện tiên quyết cho mọi thắng lợi của cách
mạng nước ta.
3. Giá trị lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc được thể
hiện qua q trình hình thành, hồn chỉnh đường lối chiến lược cách mạng giải
phóng dân tộc Việt nam. Nó cịn được thể hiện ở q trình Hồ Chí Minh vận dụng
đúng đắn và phát triển một cách sáng tạo lý luận về cách mạng thuộc địa của chủ
nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh Việt nam với tất cả những đặc điểm lịch sử, đất
nước, xã hội và con người vốn có của nó. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt nam
đầu năm 1930, với Cương lĩnh đúng đắn sáng taọ mang dấu ấn đậm nét quan điểm
lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, đã đánh dấu một bước
ngoặc lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt nam. Có thể thừa nhận rằng, Đảng Cộng
sản Việt nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp lý luận giải phóng dân tộc của chủ
nghĩa Mác Lênin, tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt nam trong những năm 20 của thế kỷ XX. Tư tưởng của
Người không chỉ làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa Mác Lê nin về cách
mạng giải phóng dân tộc, mà cịn bổ sung vào kho tàng tư tưởng Việt nam và làm
tiền đề lý luận cơ bản cho việc xây dựng cương lĩnh, chiến lược cách mạng Việt

nam về sau.


20
4. Khơng chỉ đóng góp về mặt lý luận, mà trên phương diện thực tiễn, hệ
thống quan điểm giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh cũng được phản ánh hết sức
đậm nét. Các quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh được hiện thực hố trong xã hội
Việt nam hồi đầu thế kỷ. Nó đáp ứng yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt nam lúc
đó, đồng thời phù hợp với xu thế phát triển của cách mạng thế giới. Chính vì thế,
phong trào cách mạng Việt nam đã nhanh chóng chuyển theo khuynh hướng cách
mạng vơ sản, đã lôi kéo được lực lượng đông đảo của cả dân tộc tham gia vào sự
nghiệp chung; đánh đuổi thực dân đế quốc, giành độc lập tự do. Thắng lợi vĩ đại của
Cách mạng tháng 8 năm 1945 là một trong những hiện thực cách mạng sinh động
nhất, minh chứng cho sự đúng đắn của quan điểm Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc.
5. Việc học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội đã và đang là vấn đề có ý nghĩa chiến lược; đặc biệt tư tưởng giải phóng
dân tộc của Người khơng chỉ góp phần đưa dân tộc Việt nam giành nhiều thắng lợi
hiển hách trong quá khứ mà vẫn cịn ngun giá trị và tính thời sự của nó trong sự
nghiệp cách mạng hiện tại. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức và không ngừng học
tập, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng giải phóng dân
tộc của Người nói riêng trong điều kiện mới hiện nay nhằm mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh là hết sức quan trọng và cần thiết, bởi vì
tư tưởng Hồ Chí Minh là sáng tạo và phát triển.

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO


21
1. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương: Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tiểu sử

và sự nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002.
2. Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002.
3. V.L Lênin: Tồn tập, tập 38, 41, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002.
4. PTS Nguyễn Khánh Bật, Những bài giảng về mơn học Tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1998.
5. Các tài liệu tham khảo trên mạng Internet.



×