Chương 4.
KỸ NĂNG TRANH LUẬN
4.1. Những vấn đề chung về tranh luận
4.1.1. Khái niệm về tranh luận
Tranh luận (argument, debate), có khi cịn được gọi là
tranh biện (tranh luận – phản biện) là một hình thức giao tiếp
ngơn ngữ đặc thù, thường xuất hiện trong những tình huống
giao tiếp có tính đối kháng cao, trong đó các bên tranh luận
dùng lý lẽ, lập luận để phân tích, luận giải nhằm xác định
đúng/sai, phải/trái… về một quan điểm, một tư tưởng, một
vấn đề, một sự việc… nào đó. Theo Đại từ điển tiếng Việt thì
tranh luận là “bàn cãi có phân tích lý lẽ để tìm ra lẽ phải”1.
Có tranh (giành/cạnh tranh, đấu tranh…) mà khơng có luận
(bàn bạc, biện luận, bình luận, đàm luận, thảo luận…) thì chỉ
là sự cãi cọ, đấu khẩu dựa trên cảm tính cá nhân, chủ quan,
khơng phân tích đúng/sai, khơng sử dụng lý lẽ và lập luận để
xác định chân lý/nghịch lý, phải/trái, hợp lý/bất hợp lý…
Ngược lại, nếu chỉ có luận mà khơng có tranh thì đó là thuyết
trình, diễn giảng, thuyết giảng… trong đó quan điểm của các
bên là cùng hướng, khơng mâu thuẫn, khơng đối nghịch…
nghĩa là khơng địi hỏi thẩm tra để xác định đúng/sai, hay/dở,
tốt/xấu, phải/trái…
1
Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thơng tin,
tr.1686.
194
Một cuộc tranh luận bao giờ cũng đòi hỏi người tham
gia phải chứng minh được quan điểm của mình là đúng đắn.
Đó là cách ơn hịa nhất giúp mọi người cùng đi đến một nhận
thức chung. Chính vì thế, tranh biện được coi là tinh hoa của
năng lực sử dụng ngơn ngữ, là cách thức phát triển trí tuệ, là
hịn đá mài sắc tư duy, là vũ khí đánh đổ mọi sai lầm.
Tranh luận xuất hiện ở mọi mặt của đời sống và trong
các sinh hoạt xã hội với mục đích cuối cùng là truy tìm chân
lý. Do có sự khác nhau về lịch sử, văn hóa, tập quán, kinh tế,
địa vị xã hội… dẫn đến sự khác biệt về giới hạn nhận thức
nên nhiều khi đúng/sai, phải/trái, tốt/xấu… thường bị lẫn lộn,
khó phân định. Tranh luận chính là cuộc đấu trí, đấu khẩu, là
sự tương tác, cọ xát giữa các quan điểm, tư tưởng trái chiều,
đối lập nhau, những cách nhìn khác nhau về một vấn đề, một
sự việc… để nhận thức lại.
Tranh luận có đường biên khơng tách rời với logic. Hơn
thế, logic còn là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá một
cuộc tranh luận đúng nghĩa. Khi tranh luận, các chủ thể giao
tiếp phải lập luận dựa trên các sự kiện, tức là dựa trên diễn
biến thực tế để đưa ra những kết luận có tác động thuyết phục
người nghe/đọc. Một kết luận chỉ thực sự chân thực khi xuất
phát từ những tiền đề chân thực và phải tuân thủ các quy luật,
quy tắc logic. Do vậy, logic là mạch sống của tranh luận,
muốn tranh luận có sức hấp dẫn, thuyết phục thì tất yếu phải
có sức mạnh của logic khuynh đảo. Một cuộc giao đấu ngôn
từ không chứa đựng hạt nhân logic không thể được coi là một
195
cuộc tranh luận. Ở phía ngược lại, tranh luận là cơ sở, là mảnh
đất để sinh ra logic.
Từ đó, có thể định nghĩa: tranh luận là hình thức giao
tiếp ngơn ngữ mang tính đối kháng, nảy sinh khi có sự khác
biệt hoặc đối lập gay gắt về quan điểm trước cùng một vấn
đề, một sự viêc, một hiện tượng… trong đó hai bên tranh luận
đều nỗ lực dùng lý lẽ, bằng chứng và lập luận để bác bỏ quan
điểm của đối phương, đồng thời khẳng định chân lý, lẽ phải
thuộc về mình.
Định nghĩa trên cho thấy:
- Trong tranh luận có tranh cãi, nhưng bản thân tranh cãi
không phải là tranh luận.
Tranh cãi (cãi lộn) là cuộc đấu khẩu bằng lời lẽ khơng
có quy tắc, luật lệ, mang nặng cảm tính và chỉ trích cá nhân
mà hậu quả thường vượt khỏi sự kiểm sốt của lý trí. Trong
khi đó, tranh luận lại là sự đấu khẩu bằng lý lẽ và lập luận, là
sự tranh thắng bằng lý luận, là sự kết hợp giữa khoa học và
nghệ thuật, đòi hỏi phải huy động tổng lực mọi năng lực tinh
thần: trí tuệ, tâm lý, cảm xúc, ngơn ngữ, văn hóa… và ln
địi hỏi phải tuân thủ các quy tắc, quy luật của tư duy logic.
Lý luận càng chặt chẽ, luận chứng càng chắc chắn, thái độ
càng mềm dẻo nhưng chứa đựng sự cứng rắn và cương quyết
thì sức thuyết phục càng cao. Nói khác đi, tranh luận không
chỉ là hoạt động ngôn ngữ mà cịn chịu sự kiểm sốt, thẩm tra
của lý trí và cảm xúc.
196
Hoạt động tranh luận hiệu quả phải được xây dựng,
kiểm soát và vận hành trên nền tảng của năng lực tư duy phản
biện và năng lực lập luận. Do đó, sự khác nhau giữa tranh
luận với cãi lộn ngoài sự biểu hiện ở động cơ, thái độ thì chỉ
dấu quan trọng hơn cả là “cấu trúc” của nội dung thể hiện.
Tranh luận để bảo vệ, chứng minh cho tính đúng đắn của một
tư tưởng, một quan điểm… phải là sự diễn giải trình tự logic,
khoa học theo một “cấu trúc” chặt chẽ gồm:
- Các luận điểm.
- Các lý lẽ làm cơ sở, làm chỗ dựa cho các luận điểm, và
- Các minh chứng xác thực cho sự tồn tại của những lý
lẽ đã nêu ra.
Ngược lại, các cuộc đấu khẩu theo kiểu “tranh cãi”,
“tranh chấp”, “cãi lộn” chỉ là sự khăng khăng ý kiến chủ quan
với mục đích duy nhất là bảo vệ lợi ích cá nhân, “hạ bệ”
người khác, lấy ý kiến của riêng mình làm thước đo luận điểm
của người khác và nếu cực đoan, có thể đẩy tới sự áp đặt.
Thực chất chỉ là sự tranh cãi “lấy được”, khơng mang tính
học thuật. Vì thế, nó khơng giải quyết được chính vấn đề
đang có nhu cầu làm tường minh hoặc cần phải xác tín về một
sự chắc chắn hơn.
- Tranh luận khác với thảo luận, trao đổi.
Thảo luận và trao đổi là hai khái niệm khá tương đồng,
gần như khơng có sự khác biệt và đều có chung một nội dung
là nói chuyện, bàn bạc ý kiến, trao đổi, phân tích bằng lý lẽ
197
với nhau để làm sáng tỏ một vấn đề1.
Như đã nói, tranh luận là cuộc đấu khẩu, đấu trí giữa hai
(hay các) quan điểm, tư tưởng, ý kiến khác biệt, trái chiều,
xung khắc nhau để dẫn đến xác định đúng/sai trong quan điểm
hoặc cao hơn là sự phân định kẻ thắng - người thua. Trong
khi đó, thảo luận (trao đổi) lại là hình thức giao tiếp mang
tính “hợp tác”. Đó là cuộc nói chuyện qua lại nhằm xem xét
sâu hơn, toàn diện và cụ thể hơn một vấn đề, một phương án,
một giải pháp… mà các bên cùng quan tâm và đồng thuận
tham gia thực hiện nhằm đạt được hiệu quả cao nhất mà các
bên cùng mong muốn. Đây là lý do dẫn đến sự khác nhau về
kết quả của hai hình thức giao tiếp: kết quả của cuộc tranh luận
luôn là sự phân định đúng/sai, tốt/xấu, phải/trái… nghĩa là đạt
tới mục đích khẳng định cái (điều) gì đúng, cịn với thảo luận
(trao đổi) thì kết quả nhận được là nội dung thảo luận sẽ được
hồn thiện hơn, có chất lượng cao hơn, nghĩa là hướng tới mục
đích thống nhất, hoàn chỉnh các ý kiến. Tất nhiên, trong thảo
luận cũng có thể xuất hiện tranh luận khi có bất đồng, nhưng
sự bất đồng ở đây chỉ mang tính tiểu tiết, cục bộ, bất đồng
trong xu thế hợp tác, hướng đến mục tiêu chung. Vì thế, tính
chất tranh luận trong thảo luận thường khơng căng thẳng,
khơng gây cấn, và khơng có tính đối kháng. Bảng 4.1 trình bày
một số điểm khác biệt giữa tranh luận với thảo luận (trao đổi).
1
Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin,
tr.1533, 1687.
198
Bảng 4.1. Một số điểm khác biệt giữa tranh luận
với thảo luận (trao đổi).
Thảo luận (Discussion)
Tranh luận (Debate)
Mang tính cộng tác hướng tới Mang tính đối lập, hướng tới việc
sự chia sẻ, hiểu biết.
chứng minh đối phương sai.
Lắng nghe để hiểu biết, để tìm Lắng nghe với chủ tâm tìm kẽ
ra ý nghĩa, tìm ra cái nền chung. hở, nhược điểm để cơng kích.
Mở rộng và thay đổi quan Để bảo vệ những điều giả định
điểm, có cái nhìn rộng rãi, bao như chân lý.
dung với tinh thần trách nhiệm.
Tạo ra một thái độ tâm thức Tạo ra một tâm thức đóng, một
cởi mở, một sự khai thị làm thái độ phải đúng.
cho mắt sáng ra, cởi mở để sai
lầm có thể hiển lộ và cởi mở để
thay đổi.
Tìm kiếm sức mạnh trong các
quan điểm.
Tìm kiếm điểm yếu trong các
quan điểm khác với mình.
Tơn trọng ý kiến của mọi người, Phản bác ý kiến đối lập, bảo vệ
khơng kích bác, xúc phạm ý quan điểm của mình.
kiến trái chiều.
Thừa nhận ý kiến khác biệt để Chỉ có một câu trả lời đúng.
có sự hiểu biết rộng hơn. Kết Kết thúc chỉ có một kết luận.
thúc ln ở trạng thái mở.
- Tranh luận cũng khơng phải là phê bình, chỉ trích bởi
tranh luận là dùng lý lẽ, dùng lập luận để phân định lẽ phải,
phân định chân lý trong khi phê bình, chỉ trích là sự phê phán,
199
phủ định một chiều, mang tính áp đặt khi đứng trên một quan
điểm nào đó. Sự khác biệt ở đây chính là tranh luận ln nhìn
nhận, xem xét vấn để từ cả hai phía, nghĩa là bên trong khái
niệm tranh luận luôn chứa đựng nội hàm là sự phản biện.
4.1.2. Các hình thức tranh luận trong đời sống
Có nhiều cách khác nhau để phân loại một tranh luận.
Theo tác giả Lê Thị Hồng Vân1, có thể phân loại tranh luận dựa
trên các tiêu chí: Tính chất mâu thuẫn, Hình thức thực hiện
tranh luận và Chức năng, mục đích tranh luận.
4.1.2.1. Căn cứ vào tính chất mâu thuẫn
Bao gồm tranh luận khơng có tính đối kháng và tranh
luận có tính đối kháng.
a/. Tranh luận khơng có tính đối kháng
Là loại tranh luận xuất phát từ sự mâu thuẫn, sự đối lập
không mang tính bản chất, chỉ là mâu thuẫn mang tính tạm
thời, cục bộ. Đó là:
- Mâu thuẫn do đối lập về quan điểm sống, về chuẩn
mực đạo đức và ứng xử giữa các cá nhân/thế hệ trong gia
đình cũng như ngoài xã hội (tranh luận đời thường).
- Mâu thuẫn do đối lập về quyền lợi kinh tế (giữa các
nhóm lợi ích, các tầng lớp khác nhau trong xã hội). Ví dụ:
tranh luận trên báo chí hay ở nghị trường về một quyết sách,
một chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hay
của địa phương…; hoặc sự đối lập về quan điểm học
1
Lê Thị Hồng Vân, Sđd, tr.290.
200
thuật/nghệ thuật (giữa các trường phái khoa học, các quan
điểm nghệ thuật). Ví dụ: tranh luận giữa các trường phái phê
bình văn học…
b/. Tranh luận đối kháng
Là loại tranh luận do mâu thuẫn mang tính bản chất,
tồn diện, sâu sắc, khơng thể dung hịa (về quyền lợi, tư
tưởng), có tính chất đối đầu quyết liệt, phủ định, loại trừ nhau
“một mất, một còn” giữa hai lực lượng đối địch nhau về các
lợi ích. Thuộc nhóm này có:
- Tranh luận tại tòa giữa hai bên nguyên đơn và bị đơn,
giữa bên công tố (buộc tội) và luật sư bào chữa (gỡ tội).
- Tranh luận chính trị, tư tưởng do mâu thuẫn đối kháng
mang tính xã hội giữa các giai cấp, đảng phái chính trị nhằm
loại trừ nhau để tranh giành quyền lực. Vì tính chất căng thẳng,
quyết liệt, khơng khoan nhượng nên tranh luận này còn gọi là
luận chiến.
4.1.2.2. Căn cứ vào hình thức tranh luận
Có thể chia tranh luận thành: tranh luận trực tiếp và tranh
luận gián tiếp.
a/. Tranh luận trực tiếp: là dạng thức tranh luận trong
đó hai bên tranh luận bằng cách đấu khẩu, đối đáp trực tiếp.
Hình thức này thường diễn ra với các dạng tranh luận đời
thường, tranh luận trong hội thảo, trong lớp học, trên nghị trường,
trong phiên tòa…
b/. Tranh luận gián tiếp: là dạng thức tranh luận bằng
văn bản viết, được đăng tải trên báo chí (gọi là bút chiến, nên
cuộc tranh luận thường diễn ra căng thẳng, kéo dài).
201
4.1.2.3. Căn cứ vào chức năng, mục đích
Dựa vào chức năng, mục đích có thể phân loại tranh luận
thành: tranh luận đời thường, tranh luận theo chủ để và tranh
luận mô phỏng.
a/. Tranh luận đời thường: dạng tranh luận này thường
diễn ra trong phạm vi gia đình, cơ quan, cơng ty, hội đoàn…
hoặc trong các quan hệ xã hội như anh em, bạn bè, đồng
nghiệp, đối tác… Chủ đề tranh luận khá đa dạng, xuất hiện
ngẫu nhiên, tùy hứng, tùy hồn cảnh, khơng có chuẩn bị trước
mà thường bắt nguồn từ những bất đồng quan điểm nảy sinh
trong cuộc sống và các mối quan hệ thường ngày.
b/. Tranh luận theo chủ đề: đây là dạng tranh luận có
chủ đề đã định trước và các bên tham gia tranh luận thường
có sự chuẩn bị chu đáo, bài bản. Chủ đề tranh luận thường là
các vấn đề xã hội có tính thời sự, có ý nghĩa rộng rãi, được dư
luận quan tâm. Dạng tranh luận này thường diễn ra trong học
thuật, tranh luận nghị trường, tranh luận trong các hội nghị,
hội thảo, tranh luận trên báo chí, trong các phiên tịa…
c/. Tranh luận mô phỏng: là dạng tranh luận với chủ đề
và bối cảnh giả định. Mục đích là thơng qua cuộc thi tranh
luận để đánh giá trình độ kiến thức, sự hiểu biết, năng lực tư
duy, khả năng lập luận, tài ứng biến và hùng biện. Dạng tranh
luận này thường được tổ chức trong nhà trường nhằm rèn
luyện và nâng cao các kỹ năng thuyết trình và tranh luận cho
học sinh, sinh viên.
202
Đối với những người hoạt động trong lĩnh vực Luật, dạng
thức tranh luận quan trọng thường được gặp là tranh luận đối
kháng và trực tiếp.
Ngồi ra, do tính đặc thù của hoạt động trong lĩnh vực
Luật, người ta còn phân chia tranh luận thành tranh luận trong
tố tụng và tranh luận ngoài tố tụng.
- Tranh luận trong tố tụng là tranh luận trong suốt các
giai đoạn của hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật,
mà trọng tâm là tranh luận tại phiên tòa, lấy phiên tòa làm
trung tâm, lấy kết quả tranh luận tại phiên tòa là kết quả chủ
yếu trong việc giải quyết toàn bộ vụ án.
- Tranh luận ngồi tố tụng là tranh luận khơng theo quy
định của pháp luật, do các bên tiến hành để làm rõ các vấn
đền có liên quan đến vụ án. Tranh luận ngồi tố tụng có thể
thực hiện trước vụ án (tiền tố tụng) hoặc sau vụ án (sau khi có
phán quyết của tịa án).
Trong một số trường hợp, người ta có thể phân loại
tranh luận thành tranh luận song phương hoặc đa phương;
tranh luận theo một trình tự, thủ tục nhất định (hình sự khác
dân sự); tranh luận trong tố tụng hình sự, dân sự, hành chính,
lao động.
Việc phân loại các hình thức tranh luận như trên cho
thấy một cuộc tranh luận có thể được diễn ra ở mọi cấp độ,
mọi nơi, mọi lúc và thường gồm có hai phía: phía ủng hộ và
phía chống đối. Tuy nhiên, tranh luận cũng có thể được diễn
ra trong chính bản thân mỗi người, được biểu hiện qua sự tự
vấn, tự đấu tranh với chính các tri thức trong bản thân để tìm
ra những tri thức mới (sự sáng tạo) hoặc hồn thiện hơn các
203
tri thức của chính mình. Thường xun tự tranh luận cũng là
một trong những cách hiệu quả để tự tu dưỡng, góp phần
hồn thiện và nâng cao giá trị bản thân.
4.2. Vai trò của tranh luận trong đời sống và xã hội
Tranh luận tự do trên các diễn đàn công khai là một hoạt
động lâu đời, là một hình thức trao đổi ý kiến và cũng là nề
nếp sinh hoạt không thể thiếu trong các xã hội dân chủ và văn
minh. Trong xã hội dân chủ hiện đại, quyền tranh luận có vai
trị đặc biệt quan trọng, đồng thời lưu lượng của những tranh
luận cởi mở, nghiêm túc được xem là chỉ dấu, là thước đo của
một xã hội lành mạnh. Các mối quan hệ trong xã hội luôn
luôn làm nảy sinh những tình huống phức tạp chứa đựng
những mâu thuẫn địi hỏi phải giải quyết, bất kể đó là lĩnh vực
nào của đời sống: từ đạo đức, lối sống, văn hóa… đến chính
trị, giáo dục, khoa học, kinh tế, luật pháp… Tranh luận là
cách giải quyết các mâu thuẫn dựa trên sức mạnh của trí tuệ –
ngơn từ, là cách giải tỏa mâu thuẫn một cách ơn hịa, giúp cân
bằng các mối quan hệ, giúp mọi người san bằng cách biệt và
được chung sống hịa bình bên nhau.
Tranh luận là hoạt động cần thiết để các quan điểm đối
nghịch, mâu thuẫn nhau có cơ hội cọ xát nhằm phân định
đúng/sai, phải/trái. Khi có sự khác nhau về quan điểm, tranh
luận xảy ra là điều khó tránh, hơn thế là điều rất cần thiết. Sự
khác biệt về điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, văn hóa,
giáo dục… tất yếu dẫn đến những khác biệt, thậm chí mâu
thuẫn về quan điểm, cách nhìn nhận, xem xét đánh giá một
vấn đề, một sự việc. Tranh luận là giải pháp cần thiết và
204
khơng thể thay thế để các bên có cơ hội nhìn nhận đầy đủ và
thấu đáo quan điểm của mình và của người khác. Từ đó, nhận
diện và tiếp cận chân lý, loại bỏ cái sai, cái bất hợp lý…, đó là
con đường khoa học để giải quyết mâu thuẫn, để lựa chọn
quyết định đúng đắn, là động lực cho sự phát triển, là nhu cầu
tự nhiên và tất yếu của một xã hội dân chủ và lành mạnh. Xã
hội khơng có tranh luận là một xã hội chỉ cịn sự thinh lặng
hoặc chỉ có những tiếng nói đồng nhất, những lời ca tụng
nhiều màu sắc. Về hình thức, một xã hội khơng có tiếng nói
tranh luận là một xã hội có vẻ bề ngồi n ổn, nhưng là sự
n ổn của bề ao tù nước đọng. Một quốc gia khơng thể phát
triển hay kiến tạo được điều gì nếu chỉ có đơn nhất một tư
tưởng mà khơng có tranh luận. Vì lẽ đó, trao đổi và tranh luận
học thuật là việc làm bình thường, cần thiết và tất yếu đối với
sự phát triển.
Khi được sống, làm việc và sinh hoạt trong một mơi
trường coi trọng triết lý tìm sự đồng thuận qua tranh luận và
phản biện, bản thân mỗi người sẽ có sơ hội để rèn luyện sự
linh hoạt, nhạy bén và logic trong tư duy, rèn luyện khả năng
sử dụng ngôn ngữ sắc sảo, khả năng hùng biện thuyết phục,
khả năng bảo vệ những hạt nhân hợp lý trong quan điểm của
mình đồng thời bác bỏ những sai trái trong quan điểm của
người khác. Tranh luận không chỉ là con đường để mọi cơng
dân có cơ hội đề xuất các giải pháp khả thi, hiệu quả hơn
những gì tồn tại trước đó, mà cịn là cách thức để phát triển trí
tuệ, là hịn đá mài sắc tư duy, là vũ khí đánh đổ mọi ngộ nhận,
sai lầm, là kỹ năng và là phẩm chất không thể thiếu của một
công dân trong một xã hội văn minh, hiện đại.
205
Đối với trí thức, những người có sứ mệnh cao cả góp
phần thức tỉnh xã hội và hướng mọi người đến cái đúng, cái
hay, cái đẹp thì tranh luận khơng chỉ là cách để họ hiểu và
đồng thuận với nhau hơn, hiểu rõ hơn trách nhiệm, vai trị của
cơng dân đối với đất nước mà quan trọng hơn là xã hội được
thêm những tri thức từ họ, dân trí được nâng cao thông qua
hoạt động tranh luận chứ không chỉ từ giáo dục.
Đối với người lãnh đạo, tranh luận là con đường, là
phương tiện để có những quyết sách đúng đắn, hợp quy luật,
hợp lòng dân. Phương pháp cầm quyền và đạo đức của người
cầm quyền đòi hỏi những người lãnh đạo khơng chỉ biết tìm
cách loại bỏ tận gốc thói quen nhẫn nhục, chỉ biết chấp nhận,
tuân thủ… mà cịn phải biết khơi dậy và tạo dựng văn hóa
tranh luận trong xã hội, xây dựng môi trường thuận lợi cho sự
phát triển nhu cầu tranh luận, coi tranh luận là điều kiện
khơng thể thiếu để loại bỏ trì trệ, lạm dụng quyền lực dẫn đến
chủ quan, nóng vội, sai lầm, thậm chí là nguy hại đối với sự
phát triển và tiền đồ của đất nước. Đúng như quan điểm của
cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama về tầm quan trọng và vai
trò của sự tranh biện, đại ý: Sự tranh biện tạo ra những người
lãnh đạo. Một người lãnh đạo thực thụ sẽ phải là người có
tầm nhìn, sự thấu cảm, sự hiệu quả, cùng khả năng giải quyết
vấn đề một cách kiên quyết. Và tất cả điều đó đều được trau
dồi qua việc tranh biện. Trong một thế giới mà thông tin sai
luôn tràn ngập và sự bất công ln rình rập ở khắp mọi nơi,
tranh biện là điều kiện để tạo ra những người lãnh đạo có bản
lĩnh để định hướng xã hội theo những giá trị tốt đẹp.
206
Nếu trong các lĩnh vực của đời sống nói chung, tranh
luận/phản biện là nhu cầu quan trọng và cần thiết, thì đối với
những người làm việc trong lĩnh vực Luật và các hoạt động
liên quan đến pháp luật, tranh luận/phản biện là điều kiện
không thể thiếu và luôn chiếm vị trí đặc biệt quan trọng.
Những người làm việc, hoạt động trong lĩnh vực liên quan
đến luật pháp có thể được coi là những “bàn tay” thắt nút cho
xã hội: họ có vai trị sắp xếp, điều chỉnh và quản lý xã hội
thông qua luật pháp; bảo vệ và thực thi công lý. Muốn ban
hành được một đạo luật đúng, phù hợp với thực tiễn, giảm
thiểu phiền hà và chi phí tài chính của xã hội; muốn thực thi
hiệu quả pháp luật thì khơng thể chỉ dựa trên ý chí chủ quan
của nhà lập pháp mà còn phải dựa trên kết quả tranh
luận/phản biện giữa các nhà lập pháp với nhau, giữa các nhà
lập pháp với các nhà khoa học và các đối tượng liên quan
khác để tìm hướng đi đúng cho một đạo luật.
Bên cạnh đó, tính đặc thù của nghề Luật địi hỏi phải sử
dụng sức mạnh của trí tuệ và ngôn từ, dùng năng lực hùng
biện làm phương tiện, vũ khí để giải quyết mâu thuẫn, tranh
chấp, khẳng định đúng/sai, phải/trái, cơng/tội… thơng qua các
cuộc đấu trí, đấu khẩu trong tranh tụng. Tại đây, sức thuyết
phục và sự thành bại trong các cuộc “khẩu chiến” phụ thuộc
rất lớn vào kỹ năng lập luận, tranh luận/phản biện. Trong tố
tụng thì chân lý, lẽ phải là kết quả của sự biện luận, tranh luận
giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Vì vậy, đối với nghề Luật nói
chung và nghề Luật sư nói riêng, kỹ năng tranh luận/phản
207
biện là “công cụ” tối cần thiết để hành nghề và tài hùng biện
là một yếu tố tiên quyết đối với sự thành đạt trong sự nghiệp.
Cũng bởi vậy, không ngừng rèn luyện để trang bị cho mình
kỹ năng tranh luận tích cực và hiệu quả là yêu cầu bắt buộc
đặt ra cho bất kỳ ai đang và sẽ hoạt động trong lĩnh vực liên
quan đến luật pháp. Hơn nữa, ngành Luật là một trong những
ngành có những địi hỏi khắt khe nhất đối với sinh viên về các
yêu cầu đào tạo, bởi đặc thù của ngành Luật là đào tạo ra
những sản phẩm để phục vụ cho lĩnh vực pháp luật và sâu xa
hơn là cho xã hội, như: Nhà lập pháp, Luật sư, Chánh án,
Công tố viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán… kể cả các nguyên
thủ quốc gia. Do đó, ngồi tri thức và các kiến thức cơ bản,
sinh viên ngành Luật cần phải được trang bị một cách hệ
thống và hoàn chỉnh các kỹ năng phục vụ cho các hoạt động
nghề nghiệp, trong đó kỹ năng tranh luận chiếm vị trí đặc biệt
quan trọng.
4.3. Các khái niệm và mơ hình cấu trúc của lập luận trong
tranh luận
Một cuộc tranh luận (Debate) diễn ra giữa hai bên đối
lập về quan điểm: bên khẳng định (Proposition) và bên phủ
định (Opposition) về một kiến nghị (Motion) cụ thể, thuộc
một chủ đề (Topic) hay lĩnh vực nhất định.
Mỗi bên trình bày hệ thống các lập luận (Argument – A)
trái chiều, được tổ chức sắp xếp một cách hợp lý (có chiến
thuật), trong đó mỗi lập luận đưa ra thường bao gồm:
- Luận đề (Treatise): là vấn đề gây ra những quan điểm
208
đối lập dẫn đến tranh luận. Với mỗi chủ đề tranh luận cụ thể, luận
đề của lập luận thường bao gồm một số luận điểm (Claim – C).
- Bảo vệ cho các luận điểm là các luận cứ liên quan, bao
gồm lý lẽ (Reason – R) và các bằng chứng (Evidence – E).
Trong quá trình tranh luận, các bên nỗ lực để làm tốt
cơng việc của mình, gồm:
+ Trình bày lập luận và quan điểm của mình một cách
rõ ràng, thuyết phục;
+ Phản biện lập luận và hệ thống luận điểm của đối phương.
+ Đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi.
Sự nỗ lực đó nhằm thuyết phục để trọng tài (Judge) và
khán giả (Audience) nhìn thấy và thừa nhận lẽ phải, sự đúng
đắn thuộc về phía mình.
Như vậy, lập luận được đưa ra khi tranh luận – để khẳng
định hay phủ định luận đề đang tranh luận – có thể được minh
họa bằng sơ đồ:
Luận điểm 1.
LUẬN
ĐỀ
Luận điểm 2.
Lý lẽ 1
+
Bằng chứng 1
+
Bằng chứng 2
Lý lẽ 2
……...
……...
(Lập luận)
209
……...
Sức mạnh của lập luận phụ thuộc vào sức mạnh của các
luận điểm. Sức mạnh của các luận điểm lại được quyết định
bởi các luận cứ, bao gồm: sự vững vàng và minh định của các
lý lẽ (Reason) cũng như tính chính xác, đầy đủ, hiển nhiên, rõ
ràng và thuyết phục của các bằng chứng (Evidence).
Có thể cơng thức hóa thành phần của một lập luận
dưới dạng:
A=C+R+E
Trong đó: A: là lập luận; C: là lời khẳng định cho luận
điểm được đưa ra (cũng là tiêu đề cho luận điểm); R: là lý lẽ
và E: là bằng chứng.
Có thể coi lý lẽ (R) và bằng chứng (E) là nguyên vật
liệu để xây dựng nên “bức tường” khẳng định (C). Nguyên
vật liệu có chất lượng tốt sẽ đảm bảo sự vững chắc, kiên cố
của “bức tường”, khiến đối phương khó có thể phá vỡ.
Ví dụ: Trong đề tài tranh luận “Luật hóa về quyền chuyển
đổi giới tính, nên hay khơng?”, lập luận ủng hộ quan điểm
này có thể bao gồm một số luận điểm, chẳng hạn với luận
điểm (C): Chuyển đổi giới tính được coi là một quyền nhân
thân, các lý lẽ và bằng chứng hỗ trợ có thể được dẫn ra là:
- R: Bất cứ ai cũng có quyền được sống thật với con
người của mình. Đưa mình trở về với đúng bản chất của mình
khơng phải là một tệ nạn hay thói hư, tật xấu.
- E: *Điều 37 Bộ luật Dân sự năm 2015 được Quốc hội
khóa XIII thơng qua ngày 24/11/2015 quy định cho phép xác
định lại giới tính.
210
* Theo Hiệp hội chuyên môn Thế giới về sức khỏe
chuyển giới (WPATH) về mặt thuật ngữ y học thì “xác định
lại giới tính” là để chỉ “q trình mà những đặc điểm giới tính
của một người được thay đổi bằng các biện pháp y học như
phẫu thuật hoặc điều trị hooc–mơn”.
……….
Nói chung, kiến nghị (Motion) đưa ra tranh luận có thể
là một nhận định, một đề xuất hay một dự báo về một vấn đề
nào đó. Cịn chủ đề (Topic) là lĩnh vực bao hàm vấn đề đang
được tranh luận. Chủ đề có thể rất rộng hoặc được thu hẹp
nhưng có tính khái qt hơn kiến nghị.
Ví dụ: Chính quyền Hà Nội nên áp dụng chính sách
thay đổi giờ làm để hạn chế tắc đường, vì một trong những
nguyên nhân chính gây nên tắc đường là các đối tượng tham
gia giao thông (bao gồm con người và phương tiện), đổ ra
đường cùng một lúc vào những thời gian nhất định. Theo ghi
nhận của camera và phóng viên của Đài phát thanh VOV
Giao thông, hàng ngày từ 7h00 đến 8h30 và từ 16h30 đến
18h00, rất nhiều ngả đường chính bị ách tắc như Đội Cấn,
Kim Liên, Lê Duẩn… mà lý do là các khu vực đó tập trung
nhiều cơ quan văn phịng, trường học có cùng khoảng thời
gian đến và về.
Ở ví dụ này, chủ đề được quan tâm là Tình trạng ách tắc
giao thơng đơ thị. Kiến nghị được đưa ra để bàn luận là “Nên
thay đổi giờ làm việc ở các Thành phố lớn như Hà Nội để hạn
chế tắc đường”. Ở ví dụ này, lập luận dưới hình thức quy nạp
đã dẫn ra các quan sát cụ thể từ các lý lẽ và bằng chứng (ghi
211
nhận của camera giao thơng và của phóng viên VOV giao
thông) để chứng minh cho nguyên nhân dẫn đến tắc đường,
đó là sự gia tăng mạnh phương tiện giao thơng vào giờ cao điểm
(giờ đi làm và giờ tan tầm) ở các ngả đường chính, từ đó khẳng
định sự đúng đắn của kiến nghị nên thay đổi giờ làm việc.
Cần lưu ý về sự tin cậy, mức độ cập nhật và độ khả thi
để thẩm định nguồn thông tin. Bằng chứng càng tin cậy, càng
cập nhật và việc thẩm định có tính khả thi càng cao thì sức
thuyết phục càng mạnh, như yêu cầu của lập luận quy nạp (ví
dụ: theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới; theo báo cáo kết
quả điều tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường năm…). Các
luận cứ sử dụng trong tranh luận cần được trích dẫn nguồn
khi trình bày.
Sự đối lập về quan điểm trong tranh luận tất yếu làm
nẩy sinh mâu thuẫn, xung đột (Clashes). Đây vừa là trọng tâm
cần giải quyết, vừa là “vẻ đẹp” của một cuộc tranh luận. Một
cuộc tranh luận tồi hay thất bại là một cuộc tranh luận hoặc
không tạo ra hoặc tạo ra những xung đột mờ nhạt.
4.4. Các đặc điểm cơ bản của tranh luận
4.4.1. Tính trí tuệ
Như đã nói, một cuộc tranh luận đúng nghĩa là một cuộc
đấu trí thơng qua cơng cụ ngôn ngữ để bảo vệ, chứng minh
cho sự đúng đắn trong quan điểm, nhận định, kết luận… của
mỗi bên. Tranh luận là sự tranh thắng bằng lý luận, bằng thiện
chí học thuật. Lý luận chặt chẽ, luận chứng vững vàng, lập luận
logic là sản phẩm, là kết quả của hoạt động trí tuệ.
212
Do vậy, chất lượng của một cuộc tranh luận phụ thuộc
trước hết vào thái độ của các bên trong việc tơn trọng và chú
tâm tìm ra sự thật trên nền tảng logic, khoa học. Huy động
cao nhất năng lực trí tuệ của bản thân để chứng minh, phân
tích nhằm thuyết phục đối phương thừa nhận lẽ phải là mục
đích cuối cùng của một cuộc tranh luận. Điều đó chỉ có thể
thực hiện được khi các bên đều cùng có chung ý thức lấy trí
tuệ làm chỗ dựa, làm sức mạnh để giành chiến thắng. Bỏ rơi
đặc điểm trí tuệ, sự “giao đấu” sẽ khơng cịn dựa trên lý trí,
mà chỉ dựa trên cảm xúc nhất thời, thiển cận, hẹp hòi. Điều
đó chắc chắn sẽ đưa cuộc tranh luận vượt khỏi sự kiểm sốt
và có nhiều nguy cơ bị gãy đổ.
Đặc điểm trí tuệ khơng chỉ thể hiện ở sự logic và khoa
học trong nội dung của lập luận khi tranh luận mà còn là sự
sáng suốt, linh hoạt, tinh tường trong phán đoán, nắm bắt ý đồ
của đối phương và ứng xử nhạy bén, tài tình để hóa giải hiệu
quả những tình huống phức tạp, bất lợi thường xuyên diễn ra
trong suốt q trình tranh luận.
4.4.2. Tính đối lập
Mâu thuẫn, bất đồng, đối kháng trong nhận thức, quan
điểm, lợi ích… là nguyên nhân, là tiền đề dẫn tới tranh luận
và tranh luận là phương cách hữu hiệu để giải quyết những
mâu thuẫn, bất đồng, đối kháng đó. Việc khơng thừa nhận
hoặc làm triệt tiêu sự khác biệt trong nhận thức, tư tưởng
đồng nghĩa với việc triệt tiêu mọi cuộc tranh luận. Vì vậy,
tính đối lập và khơng có sự tương nhượng là đặc điểm làm
213
khởi phát mọi tranh luận. Tuy nhiên, tùy thuộc vào tính chất
của mâu thuẫn mà tính chất cũng như mức độ căng thẳng,
quyết liệt của cuộc tranh luận cũng sẽ khác nhau:
- Với những mâu thuẫn, bất đồng tạm thời, cục bộ khơng
mang tính đối kháng thì mục đích của tranh luận chỉ nhằm
phân tích, giải thích, trình bày quan điểm của các bên; chia sẻ,
đề xuất để tìm sự đồng thuận trong cách nhìn nhận và cách
lựa chọn phương án giải quyết vấn đề; có tác dụng định hướng,
thuyết phục, làm thay đổi nhận thức, tạo sự đồng tình của mọi
người với thái độ và quan điểm của mình… Ở đây, sự đối lập
về nhận thức, quan điểm có thể có cơ hội được hóa giải.
- Với những mâu thuẫn có tính đối kháng thì tranh luận
sẽ diễn ra căng thẳng, quyết liệt, không thể thỏa hiệp. Kết quả
cuối cùng của tranh luận không thể chỉ là sự “chia sẻ”, tạo sự
“đồng thuận” giữa các bên mà phải là sự khẳng định, phân rõ
đúng/sai, phải/trái, được/mất một cách rạch ròi, phân minh,
nghĩa là mâu thuẫn phải được giải quyết. Điển hình cho trường
hợp này là tranh luận trực tiếp tại tòa giữa bên buộc tội và bên
gỡ tội, trước HĐXX đóng vai trị là trọng tài.
4.4.3. Tính tương tác
Tranh luận là một quá trình giao tiếp - giao đấu ngơn
ngữ - giữa các bên, do đó cũng như mọi q trình giao tiếp
khác, tranh luận có đặc điểm là tính tương tác. Hình thức
tương tác cũng hội tụ những đặc trưng của một q trình giao
tiếp thơng thường, đó là sự luân phiên đổi vai giữa người
nói/người nghe; giữa người nhận/gửi thông điệp; giữa khẳng
214
định/bác bỏ thông điệp… mà cụ thể là sự tương tác hai chiều
giữa các bên có quan điểm đối lập nhau: bên khẳng định hay
tán thành (gọi là bên chính biện – C) và bên phủ định hay
phản đối (gọi là bên phản biện – P) trong từng luận điểm của
chủ đề tranh luận. Có thể mơ tả sự tương tác của các bên
tranh luận bằng sơ đồ sau:
Chính biện (C)
- Trình bày luận điểm C(1) đưa ra luận cứ (lý lẽ và
bằng chứng) hỗ trợ để bảo
vệ luận điểm C(1).
Phản biện (P)
(a)
- Trình bày luận điểm P(1) đưa ra luận cứ hỗ trợ để
bảo vệ luận điểm P(1).
(b)
- Bác bỏ luận điểm P(1) đưa ra luận cứ hỗ trợ để
phủ định P(1).
- Trình bày luận điểm C(2) đưa ra luận cứ hỗ trợ để
bảo vệ luận điểm C(2).
- Bác bỏ luận điểm C(1) đưa ra luận cứ hỗ trợ để
phủ định C(1).
(c)
(d)
- Bác bỏ luận điểm C(2) đưa ra luận cứ hỗ trợ để
phủ định C(2).
- Trình bày luận điểm P(2) đưa ra luận cứ hỗ trợ để
bảo vệ luận điểm P(2).
- Bác bỏ luận điểm P(2) đưa ra luận cứ hỗ trợ để
phủ định P(2).
………
(a, b, c, d… ký hiệu các bước tuần tự diễn ra khi tranh luận).
Hình 1.4. Sơ đồ biểu diễn sự tương tác trong tranh luận
215
Tuy nhiên, do sự tương tác trong tranh luận là tương tác
có tính đối trừ và bổ khuyết các quan niệm, đánh giá có ý
thức nên kết quả cịn dẫn đến làm thay đổi các mối quan hệ:
đối với các cá nhân và xã hội, sự tương tác có thể gây nên sự
thay đổi về nhận thức, tư tưởng và hành động; đối với các bên
tham gia tranh luận, tùy thuộc chủ đề tranh luận, trình độ
nhận thức và hiểu biết của các cá nhân mà sự tương tác có thể
gia tăng hoặc làm giảm (thậm chí làm mất) các mối quan hệ
sẵn có.
4.4.4. Tính cạnh tranh
Mỗi cuộc tranh luận đều chứa đụng trong nó sự đối lập,
mâu thuẫn về quan điểm, lợi ích… giữa các bên tham gia
tranh luận và địi hỏi phải có sự phân định đúng/sai, phải/trái,
nghĩa là phải chỉ rõ và khẳng định đâu là chân lý, đâu là
nghịch lý. Điều đó cho thấy, tranh luận là sự cạnh tranh quyết
liệt, không khoan nhượng. Mỗi bên đều nỗ lực đưa ra các
bằng chứng, lý lẽ và lập luận để bảo vệ chính kiến của mình
với niềm tin vững chắc vào tính chân lý trong quan điểm của
mình và quyết tâm bảo vệ đến cùng niềm tin đó.
Tính cạnh tranh trong tranh luận là ngun nhân, là động
lực thúc đẩy các bên tranh luận huy động tối đa sức mạnh bản
thân để “hạ gục” đối phương, giành chiến thắng. Kết quả của
cuộc tranh luận có thể nguy hại là dẫn đến một cuộc “hỗn chiến
ngôn ngữ”, bất chấp luật lệ theo kiểu “mạnh ai nấy được” hoặc
là một sự cạnh tranh lành mạnh, sự thuyết phục “thấu tình, đạt
lý”. Tất cả tùy thuộc vào tính trí tuệ và văn hóa trong tranh luận.
216
4.4.5. Tính văn hóa
Đi tìm chân lý, lẽ phải trong sự đối kháng, bất đồng về
quan điểm đòi hỏi các bên tranh luận phải có thái độ tơn trọng
lẫn nhau, có ý thức cầu thị và biết giữ hịa khí. Đó là lý do vì
sao một cuộc tranh luận có chất lượng trước hết phải là một
quá trình giao tiếp có tính văn hóa.
Văn hóa tranh luận là văn hóa đối thoại. Nó hồn tồn
trái ngược với văn hóa độc thoại. Trong khi phong cách điển
hình của văn hóa độc thoại là khép kín, bảo thủ, hẹp hịi, độc
đốn, ln tin rằng mình đã nắm vững chân lý, kẻ khác chỉ có
nghĩa vụ chấp nhận, thì văn hóa đối thoại thừa nhận chân lý
chỉ có thể là kết quả của một q trình phân tích, thảo luận,
xây dựng với một thái độ ứng xử cởi mở, dung nhận, thực sự
cầu thị và bình đẳng.
Tính văn hóa u cầu mỗi bên tranh luận phải biết gạt
bỏ cảm tính và tham vọng cá nhân, kìm chế sự bùng phát của
những cảm xúc bản năng, chi phối con người trong hành vi
ứng xử và phát ngơn, khơng dùng những ngơn ngữ có tính
cay cú, đả kích theo kiểu “lấy ngơn đè người”, khơng bao giờ
cố có tiếng nói cuối để làm “người thắng cuộc” trong sự hãnh
tiến, không nấp vào số đông để đàn áp ý kiến thiểu số theo
kiểu “ném đá”, cũng không dựa vào địa vị để “độc quyền
chân lý”.
Một khi những chuẩn mực tối thiểu của của văn hóa
tranh luận bị phá bỏ, thậm chí thay bằng sự thơ tục, hằn học thì
sự thất bại của cuộc tranh luận sẽ đến như một tất yếu.
217
Cần nhận thức rằng: Mặc dù tranh luận nẩy sinh khi có
sự bất đồng, thậm chí “đối đầu” về quan điểm, tuy nhiên bất
đồng khơng hồn tồn đồng nghĩa với “tôi đúng, anh sai” hay
ngược lại “tôi sai, anh đúng”, bởi điều đó cịn tùy thuộc vào
“hệ quy chiếu”, vào “góc nhìn” khác nhau về cùng một vấn
đề dựa trên văn hóa, tơn giáo, hồn cảnh… Vì vậy, trong
tranh luận cần tuyệt đối tránh, khơng được để “cái tơi” của
mình dẫn dắt, chi phối, làm mất đi yếu tố khách quan khi
nhận thức và tiếp thu ý kiến của đối phương.
4.5. Các yêu cầu của tranh luận
Với những đặc điểm nêu trên, bất cứ cuộc tranh luận
đúng nghĩa nào cũng đòi hỏi phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
4.5.1. Phải có thái độ khách quan, cơng bằng
Để tiếp cận chân lý, hiểu rõ và đúng sự thật, khi tranh
luận phải xuất phát từ thái độ nhìn nhận sự vật khách quan,
cơng bằng. Có thể nói, u cầu khách quan, cơng bằng là yêu
cầu quan trọng hàng đầu, có tác dụng chi phối hầu hết các
nguyên tắc phải tuân thủ khi tranh luận. Một tâm thế khách
quan, công bằng trong hoạt động tranh luận là sự hội tụ đồng thời
của nhiều yếu tố, nhưng có thể tóm lại trong 2 điểm quan trọng:
- Khơng được để các ý tưởng, tình cảm mang tính chủ
quan can thiệp, chi phối mục đích tranh luận.
Trong hầu hết các cuộc tranh luận, mục đích cuối cùng
và sâu xa mà tranh luận cần và muốn hướng tới là sự nhất trí,
cùng chia sẻ sự tin tưởng vào kết quả cuối cùng. Do đó, thái
độ khách quan, luôn tôn trọng và công bằng khi xem xét,
218