Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

SKKN NCKHSPUD lich su MOT SO KINH NGHIEM VE VIEC SUDUNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.75 KB, 24 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh. Mã số:…………..... SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. Đề tài. MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ VIỆC SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 12. Người thực hiện: HOÀNG VĂN TÂM Lĩnh vực nghiên cứu: Quản lý giáo dục: Phương pháp dạy học bộ môn LỊCH SỬ Phương pháp giáo dục: Lĩnh vực khác:. £ £ £ £. Có đính kèm:. £ Mô hình. £ Phần mềm. £ Phim ảnh. £ Hiện vật khác.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Năm học: 2010-2011 SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: HOÀNG VĂN TÂM 2. Ngày tháng năm sinh: 20- 04 -1973 3. Nam, nữ: Nam 4. Địa chỉ: 18/4 QL15 khu phố 1 – Phường Tam Hòa – Thành phố Biên Hòa – Tỉnh Đồng Nai 5. Điện thoại: 0613834289 (CQ)/ 0613811264 (NR); ĐTDĐ: 0989008720 6. Fax: E-mail: 7. Chức vụ: giáo viên 8. Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị cao nhất: Cử nhân - Năm nhận bằng: 1995 - Chuyên ngành đào tạo: Lịch sử III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: giảng dạy môn lịch sử - Số năm có kinh nghiệm: 13 năm - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: + “SỬ DỤNG KÊNH HÌNH VÀ VĂN THƠ NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, HỨNG THÚ CỦA HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC LỊCH SỬ” năm học 2006-2007 + “MỘT VAØI KINH NGHIỆM VAØ BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT” năm học 2007-2008 + MỘT VÀI KINH NGHIỆM VỀ ĐỔI MỚI NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC KIẾM TRA MIỆNG NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT” năm học 2008-2009 + “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THI TỐT NGHIỆP THPT MÔN LỊCH SỬ” năm học 2009-2010.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Biên Hòa, ngày 20 tháng 5 năm 2011. PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học: 2010-2011 Tên sáng kiến kinh nghiệm: MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ VIỆC SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 12 Họ và tên tác giả: HOÀNG VĂN TÂM Đơn vị (Tổ): Khoa học xã hội Lĩnh vực: Quản lý giáo dục £ Phương pháp dạy học bộ môn lịch sử £ Phương pháp giáo dục £ Lĩnh vực khác £ 1. Tính mới: - Có giải pháp hoàn toàn mới £ - Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có £ 2. Hiệu quả: - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao. £. - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao £ - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao £ - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả £ 3. Khả năng áp dụng - Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách: Tốt £ Khá £ Đạt £ - Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống: Tốt £ Khá £ Đạt £.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng: Tốt £ Khá £ Đạt £ XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN. HIỆU TRƯỞNG.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh Mã số. SẢN PHẨM SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài. MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ VIỆC SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 12. Người thực hiện: Hoàng Văn Tâm Lĩnh vực nghiên cứu: Quản lý giáo dục: Phương pháp dạy học bộ môn: Phương pháp giáo dục: Lĩnh vực khác: Có đính kèm:. £ Mô hình. £ Phần mềm. £ Phim ảnh. Năm học: 2010-2011. £ Hiện vật khác.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ VIỆC SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 12 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Môn Lịch sử ở trường trung học phổ thông nhằm giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động và thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống xã hội. Vì vậy, phương pháp và hình thức dạy học môn lịch sử rất phong phú đa dạng, bao gồm cả các phương pháp hiện đại và các phương pháp truyền thống, trong đó phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan là một trong những phương pháp cơ bản của lí luận dạy học . Bởi lẽ, việc nhận thức lịch sử vừa phải tuân thủ theo quy luật nhận thức nói chung, nhưng đồng thời còn có nét đặc thù riêng “ Học sinh không thể trực tiếp nhận thức ( tri giác ) các sự kiện lịch sử, vì lịch sử là cái đã qua không lặp lại nguyên xi, không thể dựng lại hoàn toàn hay thí nghiệm như khoa học tự nhiên. Do đó, dạy học lịch sử trước hết là một quá trình truyền thông tin, thu nhận và xử lý thông tin giữa giáo viên và học sinh qua các phương tiện dạy học. Thông tin về sự kiện lịch sử càng chính xác, chân thật, phong phú ( Sinh động và vừa sức thì nhận thức lịch sử của học sinh càng sâu sắc bền vững) lời nói, hình ảnh cũng như các loại đồ dùng trực quan ( hiện vật, tranh ảnh, bản đồ, băng đĩa, máy chiếu…) là những phương tiện dạy học, có khả năng chứa hoặc truyền thông tin rất đa dạng và phong phú. Các phương tiện này đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm tính trực quan và tạo biểu tượng lịch sử chân thật cho học sinh nhằm góp phần đạt được mục tiêu dạy học. Tuy nhiên trong những năm vừa qua, trong quá trình thực hiện tranh tra hoạt động sư phạm của một số giáo viên dạy sử trong địa bàn tỉnh, tôi nhận thấy, vẫn còn không ít giáo viên chưa kết hợp phương pháp này vào dạy học, nếu có chăng cũng chỉ minh họa qua loa, chưa phát huy tính chủ động tích cực của học sinh trong việc khai thác tư liệu lịch sử ở các đồ dùng dạy học, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục bộ môn lịch sử. Chính vì điều đó, tôi xin mạn phép đưa ra “Một số kinh nghiệm về việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12” để chia sẻ với quý thầy cô nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn theo xu thế đổi mới phương pháp dạy học hiện nay..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI 1/ Cơ sở lý luận. Nguyên tắc trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy học nhằm tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành các khái niệm trên cơ sở trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan minh họa sự vật. Trong dạy học lịch sử, phương pháp trực quan góp phần quan trọng tạo biểu tượng cho học sinh cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hóa lịch sử của học sinh. Đồ dùng trực quan là chỗ dựa để hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử, là phương tiện rất có hiệu lực để hình thành các khái niệm lịch sử quan trọng nhất, giúp cho học sinh nắm vững các quy luật phát triển của xã hội. Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực quan. Cùng với việc góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm lịch sử, đồ dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh. Nhìn vào bất cứ loại đồ dùng trực quan nào, học sinh cũng thích nhận xét, phán đoán, hình dung quá khứ lịch sử được phản ảnh, minh họa như thế nào? Các em suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua. Ý nghĩa giáo dục tư tưởng, cảm xúc thẩm mỹ của đồ dùng trực quan cũng rất lớn. Ngắm nhìn một bức tranh diễn tả một cuộc đấu tranh cách mạng như “Đấu tranh trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931”, hay xem một cuốn phim tài liệu “ Chiến thắng Điện Biên Phủ” hoặc “ vài hình ảnh về cuộc đời hoạt động của chủ tịch Hồ Chí Minh” … học sinh có những tình cảm mạnh mẽ về lòng yêu mến lãnh tụ, chiến sĩ cách mạng, lòng quý trọng lao động và nhân dân lao động, lòng căm thù bọn xâm lược và chiến tranh…… Với tất cả ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển nêu trên, đồ dùng trực quan góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú học tập cho học sinh, nó là chiếc “cầu nối” giữa hiện thực quá khứ khách quan với đời sống hiện tại. 2/ Cơ sở thực tiễn: Đã nhiều lần chúng ta bàn đến việc sử dụng các phương tiện trực quan trong dạy học lịch sử, coi đó là nguyên tắc trong dạy học, một phương pháp không thể thiếu được trong quá trình giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông. Tuy nhiên sử dụng như thế nào để có hiệu quả dạy học nói chung, phát huy tính tích cực hoạt động độc lập của học sinh nói riêng trong dạy học lịch sử thì không đơn.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> giản, chưa có sự thống nhất, mỗi người sử dụng một cách. Tình trạng sử dụng các phương tiện dạy học còn mang tính hình thức chưa phát huy được những ưu thế của các đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử. Trong bài viết này, tôi không trình bày lại phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trọng dạy học lịch sử nói chung mà chủ yếu đề xuất một số kinh nghiệm sử dụng nhằm phát huy tính tích cực hoạt động độc lập của học sinh. Trước tiên khẳng định hiệu quả của việc sử dụng phương pháp trực quan trong dạy học lịch sử do nhiều yếu tố quyết định: như chất lượng đồ dùng trực quan, hiện vật, bản đồ, tranh ảnh lịch sử … Phương pháp sử dụng, kỹ năng, năng lực sư phạm của giáo viên và đặc biệt là trình độ nhận thức của học sinh. Đồ dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết hợp được hai hệ thống tín hiệu trong quá trình nhận thức “ Tai ngheMắt thấy” tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được mối quan hệ thần kinh tạm thời khá phong phú, phát huy ở học sinh năng lực chú ý, quan sát, hứng thú, đặc biệt là tính tích cực hoạt động độc lập. Ngược lại nếu không sử dụng đúng mức mà bị lạm dụng thì dễ làm cho học sinh phân tán xử lý, không tập trung vào các dấu hiệu cơ bản chủ yếu, thậm chí hạn chế phát triển năng lực tư duy trừu tượng của học sinh. Thực tế giảng dạy ở trường phổ thông đã cho thấy: không ít giáo viên đã coi nhẹ việc sử dụng đồ dùng trực quan. Nếu có chăng phải sử dụng thì chủ yếu là minh hoạ một cách tẻ nhạt, cho học sinh xem qua loa mang tính hình thức, chứ không dùng trong khi giảng dạy. Lý luận dạy học chỉ ra cho chúng ta thấy cần phải tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy và học tập. Để đáp ứng yêu cầu này cũng như khắc phục tình trạng trước đây, chúng ta cần phải biết kết hợp hài hoà giữa lời dạy và hình ảnh cụ thể qua đồ dùng trực quan. Tuy nhiên đối với mỗi loại, chúng ta cần có những phương pháp sử dụng riêng phù hợp với nội dung từng loại bài. 3. Nội dung nghiên cứu Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử có nhiều loại, mỗi loại có cách sử dụng riêng. Sau đây, tôi xin giới thiệu một số cách sử dụng cơ bản đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12. a/ Phương pháp sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong SGK: Tranh ảnh trong sách giáo khoa là một phương tiện trực quan tạo hình có tác dụng rất lớn trong dạy học lịch sử, nó cung cấp cho học sinh hình ảnh về quá khứ một cách cụ thể, sinh động và khá xác thực, chẳng hạn như bức ảnh của Nguyễn Ái Quốc tại đại hội của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua (hình 27), Lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ( hình 39), hay bức ảnh về “Quân dân miền Bắc bắn rơi máy bay Mỹ” v.v….Những hình ảnh lịch sử này có giá trị như một tư liệu lịch sử quý giá, giúp học sinh hiểu sâu sắc tính chất sự kiện lịch sử và tạo cho học sinh những ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc về quá khứ..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Hay các bức ảnh cảnh làng quê đang vào mùa gặt hái với những chiếc máy cày đang thay thế sức trâu hoặc những hình ảnh Thanh niên xung phong tham gia khôi phục tuyến đường sắt Hà Nội-Mục Nam Quan (1957) ( hình 60 ), toàn cảnh khu gang thép Thái Nguyên (hình 64), thanh niên miền Bắc nô nức tham gia phong trào “3 sẵn sàng ” ( hình 65 ). Qua các hình ảnh này khắc họa cho học sinh thấy được sự phát triển của cách mạng miền Bắc trong thời kì đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã đảm nhiệm vai trò hậu phương lớn của cách mạng cả nước. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên kết hợp hướng dẫn các em quan sát các tranh ảnh in trong sách giáo khoa. Học sinh thích xem tranh ảnh lịch sử nhưng ít biết khai thác nội dung của tranh ảnh để phục vụ bài học. Vì thế để sử dụng có hiệu quả, giáo viên hướng dẫn gợi mở giúp học sinh tự tìm ra nội dung tranh ảnh. Sau đó giáo viên bổ sung, sửa chữa để các em hiểu bức ảnh một cách đầy đủ, toàn diện sâu sắc hơn. Ví như: khi sử dụng bức ảnh “Lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” ( hình 39 ) trong bài 16 “ Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1939-1945 ”. Giáo viên phải gợi mở để học sinh quan sát: Lá cờ biểu hiện điều gì? Ai là người chỉ huy trực tiếp đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân khi mới thành lập? Trang bị lúc đầu như thế nào? Tất cả những điều này cuối cùng giúp học sinh nắm được Đảng ta đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã sinh ra và lãnh đạo lực lượng vũ trang đầu tiên của cách mạng. Họ là những người du kích trong đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ” và “ Cứu quốc quân ” (5/1945). Tuy số lượng còn ít ỏi ( chỉ có 34 người ) vũ khí trang bị còn thô sơ nhưng đã.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> tích cực hoạt động góp phần rất quan trọng vào thắng lợi của các mạng. Đồng thời đây là mầm mống đầu tiên của lực lượng vũ trang Việt Nam sau này. Hình vẽ, tranh ảnh trong SGK là một phần của đồ dùng trực quan trong quá trình dạy học. Nó có ý nghĩa hết sức to lớn, không chỉ là nguồn kiến thức có tác dụng giáo dục tính cách, mà còn phát triển tư duy học sinh, sử dụng tốt loại phương tiện trực quan này sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh, tạo ra sự hứng thú trong quá trình nhận thức. Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới công việc tư duy trừu tượng. Bản thân tranh ảnh không thể gây ra sự quan sát tích cực của học sinh nếu như nó không được quan sát trong tình huống có vấn đề. Mặt khác thông qua quan sát, miêu tả tranh ảnh học sinh được rèn luyện khả năng sử dụng ngôn ngữ của các em ngày càng phong phú và trong sáng hơn. Vì vậy trong dạy học lịch sử chúng ta cần phải khai thác triệt để nội dung lịch sử được biểu hiện qua tranh ảnh, hình vẽ trong SGK. Đồng thời khi sử dụng cần kết hợp sử dụng câu hỏi, miêu tả hoặc tường thuật kiến thức lịch sử biểu hiện trong đồ dùng trực quan. Sau khi quan sát, học sinh cần nêu lên suy nghĩ của mình, phát biểu của các em dù đúng, sai, nông cạn hay sâu sắc đều là cơ sở để giáo viên đánh giá trình độ của học sinh để uốn nắn, hướng dẫn nhận thức của các em. Trong những điều kiện có thể cần gợi ý, tạo ra các cuộc thảo luận, tranh luận của các em khi quan sát một bức tranh hay một hình vẽ nào đó. Sách giáo khoa hiện nay kênh hình tương đối đầy đủ và phong phú, do vậy việc sử dụng hình vẽ tranh ảnh để giới thiệu khắc sâu bài học lịch sử cho học sinh nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh hiệu quả nhất.. Ví dụ :ở bài 22 trang 176 SGK, giáo viên cho học sinh xem hình 70 “Nhân dân Mỹ biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam, đòi quân Mỹ rút về nước” và hình 71 “ Thanh niên học sinh, sinh viên Sài Gòn biểu tình đòi Mỹ, chính quyền Sài gòn bãi bỏ lệnh tổng động viên”. Qua các kênh hình này giáo viên có thể phát vấn học sinh “ Em hãy cho biết tình hình nước Mỹ và nước ta trong giai đoạn lịch sử này”?. Học sinh trả lời, sau đó giáo viên khái quát: “ Đây là giai đoạn Mỹ thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ ở Việt Nam, âm mưu cốt.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> lõi là nhằm “Mỹ hóa”cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Với việc ào ạt đưa quân viễn chinh và quân chư hầu cùng với các phương tiện chiến tranh tối tân do Mỹ viện trợ nhằm đàn áp lực lượng cách mạng và nhân dân ta. Nhưng rất đáng tiếc cuộc chiến tranh của Mỹ ngày càng gặp nhiều khó khăn. Các cuộc phản đối chiến tranh ở Mỹ bùng nổ mạnh mẽ, đòi đưa con em của họ về nước, lên án việc leo thang chiến tranh của GiônXơn. Ở Việt Nam các phong trào đấu tranh của mọi giai cấp, giai tầng nổ ra vô cùng mạnh mẽ, phản đối và lên án hành vi xâm lược của Đế quốc Mỹ, đấu tranh đòi bãi bỏ lệnh tổng động viên mà chính quyền Sài Gòn đưa ra nhằm bắt lính làm bia đỡ đạn cho Mỹ ”. b/ Sử dụng ảnh chân dung của các nhân vật lịch sử Chân dung các nhân vật lịch sử có tác dụng tạo biểu tượng về đặc điểm các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, của các nhà cách mạng v.v…giáo viên sử dụng để giảng dạy nhằm tăng cường, cụ thể hóa về hình ảnh cũng như đặc điểm tính cách tài đức của các nhân vật lịch sử. Khi sử dụng, giáo viên không nên miêu tả quá nhiều về hình dáng bên ngoài của nhân vật mà chủ yếu là làm nổi bật những nét tính cách, tài đức, lập trường, quan điểm và nội tâm của nhân vật để cho học sinh hiểu nhân vật một cách trọn vẹn, sâu sắc. Chẳng hạn như khi dạy về Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng tháng 10/1930, học sinh không thể không biết đến Trần Phú - Tổng bí thư đầu tiên của Đảng- người cộng sản trung kiên đã khởi thảo ra bản Luận cương của Đảng. Để học sinh hiểu rõ về Trần Phú. Trần Phú (1904-1931).

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Trước hết, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát chân dung ( hình 5 ), và phát biểu những hiểu biết của mình về Trần Phú, sau đó giáo viên chốt lại những nét tiêu biểu nhằm giúp học sinh có ấn tượng sâu sắc về nhà cách mạng trẻ tuổi này. Giáo viên có thể dựa vào đoạn tư liệu sau: “Trần Phú sinh ngày 1/5/1904 tại Quảng Ngãi ( nguyên quán ở huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh ). Ngay từ thuở thơ ấu Trần Phú đã sống trong cảnh côi cút tha phương cầu thực vô cùng cực khổ, vì cha mẹ mất sớm. Trước cuộc sống quá khó khăn, anh em Trần Phú phải về Quảng Trị tìm họ hàng nương tựa, nhờ bà con giúp đỡ, Trần Phú vào học ở trường Quốc học Huế. Ông học rất giỏi và nuôi trong lòng một hoài bão lớn, rồi sau đó Trần Phú đi theo cách mạng, trở thành người chiến sĩ trung kiên chiến đấu vì độc lập tự do. Tháng 10/1930 Ông tham gia Hội nghị Ban chấp hành trung ương lâm thời và được cử làm Tổng bí thư. Trần Phú được cử thảo ra Luận cương chính trị, để viết luận cương, Ông đã dựa vào Chính cương, điều lệ vắn tắt của Nguyễn Ái Quốc; đi vào tìm hiểu thực tế phong trào công nhân ở Hải Phòng, lên Hà Nội dựa vào anh em bồi bếp làm cho tên công chức cao cấp thực dân Pháp ở số nhà 90 Phố Thợ Nhuộm. Tại đây Trần Phú đã bí mật thảo Luận cương chính trị của Đảng ngay dưới tầng hầm của ngôi nhà. Sau một thời gian hoạt động, vì sự phản bội của Ngô Đức Trì, ngày 19/4/1931 Trần Phú bị bắt tại số nhà 66, đường Săm bơ nhơ (Sài Gòn). Những tên mật thám khét tiếng đã điên cuồng tra tấn Trần Phú ( bắt ngồi vào thùng nước bẩn rồi cho dòng điện chạy qua, đến thủ đoạn treo ngược lên xà nhà, cắt gân bàn chân rồi cho xăng đốt ). Cuối cùng, chúng phải lắc đầu trước tinh thần gang thép của người chiến sĩ trẻ tuổi. Trước khi chết, Trần Phú đã nhắn lại các đồng chí của mình “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”. Câu nói của Ông đã trở thành vũ khí chiến đấu của mỗi người Việt Nam đi vào trận đánh. Trần Phú hy sinh giữa lúc 27 tuổi đời, tuổi thanh niên rất tươi đẹp”. Cách giới thiệu bức chân dung kết hợp với một vài nét chấm phá về tiểu sử nhân vật sẽ khắc vào trái tim các em lòng yêu mến, kính phục người chiến sĩ cách mạng đã hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc. Nói tóm lại, sử dụng tốt kênh hình đã in sẵn trong sách giáo khoa có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử. Bởi vì, hình ảnh rõ ràng, cụ thể của kênh hình không những giúp học sinh hiểu sâu sắc kiến thức mà còn nảy sinh những cảm xúc lịch sử trong tâm hồn các em. c/ Phương pháp sử dụng bản đồ, lược đồ, bảng biểu, sơ đồ. c1. Sử dụng bản đồ, lược đồ, bảng biểu. - Bản đồ, lược đồ, bảng biểu là những đồ dùng trực quan quy ước không thể thiếu được trong dạy học lịch sử. Nhờ có bản đồ, lược đồ lịch sử mà học sinh có biểu tượng đúng đắn về hình ảnh địa lý, địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử. Chúng ta đều biết rằng mỗi một sự kiện lịch sử bao giờ cũng gắn liền với một không.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> gian và thời gian nhất định. Tách sự kiện khỏi không gian và thời gian, chúng ta sẽ không hiểu được nội dung ý nghĩa của sự kiện đó. Nắm được địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử sẽ không phải chỉ là biết tên địa điểm xảy ra sự kiện mà quan trọng hơn gắn liền với mỗi địa danh đó là các yếu tố, địa hình phạm vi không gian cũng như đặc điểm điều kiện tự nhiện của địa điểm đó. Trong khi sử dụng bản đồ, lược đồ giáo viên luôn chú ý đến sự thu nhận của học sinh, giúp học sinh phân tích, nêu kết luận khái quát về sự kiện được phản ánh trên bản đồ, lược đồ chứ không nên cho học sinh tiếp thu một cách thụ động. Ví như: khi giảng về “ Chương trình khai thác thuộc địa lần 2 của thực dân Pháp ” trong bài 12 “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 đến 1925 ”, giáo viên sử dụng lược đồ của trường, nếu không có thì giáo viên tự vẽ hoặc cho học sinh vẽ.. Lược đồ Nguồn lợi của tư bản Pháp trong cuộc khai thác thuộc đại lần thứ hai.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Tác dụng của việc sử dụng lược đồ này là nhằm cụ thể hóa kiến thức giúp học sinh thấy rõ mục đích, quy mô của cuộc khai thác cũng như hậu quả của cuôc khai thác đối với Việt Nam, qua đó các em hiểu sâu hơn bản chất và những thủ đoạn tàn bạo trắng trợn của thực dân Pháp. Sau khi đã chuẩn bị lược đồ trong tiến trình giảng dạy giáo viên thực hiện các bước sau: Sau khi đã phân tích rõ nguyên nhân mục đích của cuộc khai thác thuộc địa lần hai của thực dân Pháp. Giáo viên treo lược đồ lên tường (Nơi mà học sinh có thể nhìn rõ ) để lần lượt trình bày quá trình khai thác của thực dân Pháp về mục đích, quy mô, hậu quả v.v… kết hợp với lời giảng, giáo viên chỉ rõ cho các em những vị trí, địa điểm mà thực dân Pháp khai thác, khai thác những nguồn lợi gì, ở đâu? Tại sao lại khai thác những nguồn lợi này? Nó có tác dụng gì? v.v... sau đó yêu cầu các em nhận xét và rút ra kết luận khái quát. Việc giảng dạy kết hợp với việc sử dụng lược đồ, bảng biểu thực tế đã cho những kết quả tốt, hầu hết các em đã chăm chú lắng nghe, dễ hiểu và nắm được bài học ngay trên lớp. Không những thế còn làm nảy sinh những xúc cảm lịch sử của các em. Đó là thái độ căm phẫn trước những hành động vơ vét tàn bạo của thực dân Pháp, là lòng xót xa, sự uất ức đối với người dân Việt Nam sống trong cảnh nước mất nhà tan. Ví dụ trong bài 20 “ Cuộc kháng chiến chống thực Pháp kết thúc 1953 – 1954 ” giáo viên kết hợp sử dụng lược đồ, bảng biểu trống, trình bày diễn biến chiến cuộc Đông Xuân 1953 – 1954, sau đó hướng dẫn các em lập bảng biểu hoàn chỉnh. Thời gian 12/1953 Đầu tháng 12/1953 Tháng 1/1954 Tháng 2/1954. Sự kiện lịch sử Bộ đội chủ lực của ta tấn công Thị xã Lai Châu Liên quân Lào – Việt tấn công địch ở Trung Lào Liên quân Lào – Việt tấn công địch ở Thượng Lào Quân ta tấn công địch ở Bắc Tây Nguyên. Ví dụ: khi dạy về bài “ Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời,” giáo viên có thể hướng dẫn học sinh xây dựng và sử dụng bảng so sánh: Cương lĩnh chính trị ( tháng 2 năm 1930) của Nguyễn Ái Quốc với luận cương chính trị của Trần Phú (tháng 10/1930) để giúp các em rút ra những mặt hạn chế của luận cương chính trị tháng 10/1930 Nội dung so sánh Mục tiêu. Chính cương vắn tắt, Luận cương chính trị sách lược vắn tắt ( 10/1930 ) ( 2/1930 ) Đánh đổ Đế quốc, phong kiến, Đánh đổ phong kiến, cách bóc lột tư sản phản cách mạng tiền tư bản, thực hiện cách mạng.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> thổ địa triệt để Giai cấp Vô sản (Nhân tố quyết đinh thắng lợi cách mạng là sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương ) Đánh đổ Đế quốc Pháp, lật đổ phong kiến. Giai cấp Vô sản (Nhân tố quyết Giai cấp đinh thắng lợi cách mạng là sự lãnh đạo lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam ) Tịch thu tài sản ruộng đất của Nhiệm vụ Đế quốc và bọn phản cách mạng chia cho dân cày Liên minh công-nông chặt chẽ, Liên minh công-nông chặt chẽ Lực bên cạnh đó phải biết đoàn kết lượng với tư sản dân tộc, tiểu tư sản CM trí thức, thành phần trung nông Cách mạng Việt Nam là một bộ Cách mạng Đông Dương là một Vị trí phận của cách mạng Thế giới bộ phận của cách mạng Thế giới. c2. Sử dụng sơ đồ. Mục đích sử dụng sơ đồ trong dạy học lịch sử nhằm phát huy khả năng suy luận logic của học sinh khi diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử...... Như vậy, khi dựa vào vào sơ đồ học sinh có thể phân tích, giải thích, suy luận các sự kiện lịch sử có quan hệ ràng buộc lẫn nhau một cách chính xác, khoa học. Từ đó tư duy học sinh phát triển cao hơn và chất lượng dạy học sẽ được nâng lên Ví dụ: để cụ thể hóa nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giáo viên hướng dẫn học sinh xây dựng sơ đồ sau :.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Do có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh Chủ quan. Nhân dân ta yêu nước, đoàn kết, chiến đấu dũng cảm Hậu phương miền Bắc lớn mạnh. Sự phối hợp chiến đấu và đoàn kết của ba nước Đông Dương.. Khách quan. Sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước, nhất là của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN Nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ. Như vậy với việc sử dụng bản đồ, lược đồ, sơ đồ, bảng biểu trong quá trình giảng dạy làm cho tiết học trở nên sôi nổi, gây được sự chú ý tập trung của học sinh, phát huy khả năng độc lập tư duy cũng như khả năng khái quát tổng kết kiến thức lịch sử của học sinh. Chính vì lẽ đó, trong các giờ dạy lịch sử nếu có điều kiện cho phép, giáo viên nên tích cực sử dụng có hiệu quả các loại đồ dùng trực quan này. 4/ Đồ dùng trực quan do giáo viên, học sinh tự làm hoặc tự sưu tầm: Hiện nay kênh hình trong SGK đã phong phú, sáng sủa hoặc các loại đồ dùng dạy học đã có ở nhà trường, phần nào đã có sức hấp dẫn đối với học sinh. Tuy nhiên, do hạn chế về số trang nên có một số bản đồ, lược đồ, sơ đồ, bảng biểu, tranh minh họa cần thiết lại không có, chính vì lẽ đó để khắc phục tồn tại này trong quá trình giảng dạy giáo viên và học sinh cần phải sưu tầm, bổ sung nhằm tăng tính hình ảnh, tính cụ thể cho các sự kiện trong SGK. Giúp cho việc tiếp thu kiến thức của các em có hiệu quả. Ví dụ trong bài 20 “ Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc 1953- 1954”, khi dạy phần 2: Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, giáo.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> viên và học sinh có thể tự tổ chức đắp mô hình sa bàn Điện Biên Phủ ( tất nhiên có sự hỗ trợ kinh phí của nhà trường ). Trước hết cần làm nổi bật cho học sinh thấy: “Đây là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, một pháo đài không thể công phá ( như lời nhận xét của bọn Mỹ ), có 3 phân khu: phân khu Bắc gồm (Độc Lập, Bản Kéo, Him Lam) – phân khu trung tâm (có sân bay chính Mường Thanh) – phân khu Nam (có sân bay phụ Hồng Cúm), có 49 cứ điểm, Các cứ điểm quan trọng đó là các đồi A1, C1, E1, D1... Đặc biệt cần kết hợp với khâu thiết bị để xây dựng một mô hình Điện Biên Phủ thật sống động (Có các hệ thống đèn điện thì thật tốt ). Thêm vào đó cần đắp các chiến hào mà trong lịch sử quân và dân ta đã “ Khoét núi, vạch rừng” xây dựng nên. Với việc xây dựng mô hình Điện Biên Phủ như thế thì thật bổ ích cho học sinh trong quá trình quan sát, trình bày diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ. Bằng mô hình sa bàn như thế dễ khắc sâu kiến thức, có thể hình dung một thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc ta, một chiến thắng hiển hách vang dội núi sông khắp năm châu bốn bể. Đây là chiến thắng vĩ đại nhất của Thế kỷ XX của dân tộc Việt Nam... Đối với những bài học nào cần có bản đồ, lược đồ.... mà sách giáo khoa không có, giáo viên tự sưu tầm hoăc tự vẽ trên cơ sở nội dung của bài nhằm bổ sung cho sách giáo khoa. Ví dụ: Khi dạy về những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc để truyền bá chủ nghĩa Mác- Lê Nin về trong nước ( 1919-1925 ), để giới thiệu cho học sinh một cách ngắn gọn và sinh động những hoạt động cứu nước của Người từ 1911 đến khi trở lại Pháp hoat động, cũng như trong những năm tiếp theo. Giáo viên cần sưu tầm lược đồ về “hành trình cứu nước của Nguyễn Ái Quốc từ 1911-1941” nhằm giúp học sinh nắm kiến thức một cách có hình ảnh, có hệ thống và tiết kiệm được thời gian. Những bài nào cần tranh ảnh, chân dung lịch sử minh họa, giáo viên và học sinh có thể tự sưu tầm để đưa vào nội dung của bài nhằm tăng tính hình ảnh sự hấp dẫn đối với bài học. Ví dụ: khi dạy về “ chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ 1954 ” ở bài 20 “Cuộc kháng chiến toàn Quốc chống thực dân Pháp kết thúc 1953-1954” giáo viên và học sinh có thể sưu tâm bức tranh Tô Vĩnh Diện lấy thân chèn pháo; Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai.....trong điều kiện những bức ảnh như vậy khó tìm, giáo viên, học sinh có thể sưu tầm chân dung của họ đưa vào bài giảng. Những bức ảnh minh họa này có giá trị lịch sử to lớn giúp học sinh hiểu sự kiện một cách cụ thể, sinh động và gợi lên cảm xúc lịch sử của các em. Trong sách giáo khoa chúng ta mới thấy có các nhân vật chính diện tiêu biểu cho cái đẹp ( chủ yếu là các nhà cách mạng ) mà chưa có các nhân vật phản diện, đại diện cho cái xấu, cái thấp hèn phản động. Trong giảng dạy nếu có điều kiện thuận lợi giáo viên có thể sưu tầm và sử dụng chân dung của các nhân vật phản diện. Song ở đây phải chú ý tới sự phù hợp của tranh ảnh lịch sử với nội dung sự kiện lịch sử..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Đặc biệt trong giảng dạy lịch sử 12 rất cần có bảng biểu, sơ đồ song cả phần lịch sử Việt Nam hầu như không có, chính vì điều đó để nâng cao hiệu quả giờ dạy, giáo viên, học sinh cần lập một số sơ đồ, bảng biểu trong một số bài học lịch sử cụ thể :ví dụ khi dạy bài 22 “Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống Đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân Miền Bắc vừa chiến đấu, vừa sản xuất” ở phần III giáo viên có thể lập bảng hệ thống về cuộc chiến đấu chống chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn như sau: Mặt trận Chính trị Ngoại giao. Quân sự. Sự kiện chính - 06/6/1969: Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời - 24-25/4/1970: Hội nghị cấp cao 3 nước Đông Dương. Kết quả - Tăng thêm sức mạnh cho cách mạng miền Nam - Biểu hiện tinh thần đoàn kết chống kẻ thù chung của nhân dân 3 nước Đông Dương - 30/4 đến 30/6/1970: Bộ đội Loại khỏi vòng chiến đấu chủ lực của ta đã kết hợp với 17.000 tên địch giải phóng quân dân Campuchia đánh được 4,5 triệu dân bại cuộc hành quân xâm lược Campuchia của Mỹ và quân đội Sài Gòn - Từ 12/2 đến 23/3/1971: Bộ đội chủ lực của ta đã kết hợp với quân dân Lào đánh bại cuộc hành quân “Lam Sơn- - Loại khỏi vòng chiến đấu 719” 22000 quân địch. Hoặc sau khi học xong bài 21 và bài 22, giáo viên có thể hướng dẫn và giao cho học sinh lập bảng so sánh chiến lược chiến tranh đặc biệt và chiến lược chiến tranh cụ bộ như sau: Nội dung so sánh Thời gian thực hiện Tổng thống Âm mưu Thủ đoạn Phạm vi Quy mô Lực lượng quân. Chiến tranh đặc biệt. Chiến tranh cục bộ.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Khi hướng dẫn học sinh lập bảng so sánh giáo viên cần phải tuân thủ các yêu cầu về mặt sư phạm, chọn lựa kiến thức chính xác, nội dung ngắn gọn dễ hiểu, không rườm rà, có tính trực quan. Sau khi giới thiệu và phân tích rõ nội dung các sự kiện nói trên giáo viên yêu cầu học sinh so sánh rút ra những điểm giống và khác nhau của hai chiến lược đó. Việc lập bảng này giúp các em nắm kiến thức cơ bản một cách vững chắc. Hiểu rõ bản chất của sự kiện đồng thời bồi dưỡng cho các em năng lực tư duy so sánh đánh giá sự kiện. Sau khi học xong bài 27 “ Tổng kết lịch sử Việt Nam từ năm 1919-2000”, giáo viên hướng dẫn học sinh về nhà xây dựng bảng niên biểu tổng hợp những sự kiện lớn trong tiến trình phát triển lịch sử Việt Nam từ 1930-1991 như sau: Thời gian Sự kiện chính 1930 Đảng cộng sản Việt Nam ra đời Cao trào cách mạng 1930-1931 và sự thành lập Xô Viết Nghệ1930-1931 Tĩnh 1936 Thành lập mặt trận dân chủ Đông Dương 1941 Bác Hồ về nước và chủ trì Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 8 Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ 1945 cộng hòa ra đời Tổng tuyển cử bầu quốc hội; Toàn quốc kháng chiến chống 1946 thực dân Pháp xâm lược 1951 Đại hội lần thứ II của Đảng- Đại hội kháng chiến thắng lợi Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ; Hội nghị Giơnevơ về việc 1954 lập lại hòa bình ở Đông Dương. Miền Bắc xây dựng CNXH, miền Nam tiếp tục cách mạng DTDCND 1959-1960 Miền Nam Đồng khởi 1960 Đại hội lần thứ III của Đảng 1968 Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt tết Mậu Thân 1968 1973 Hiệp định Pari Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 ở miền Nam, 1975 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, Việt Nam hoàn toàn độc lập 1976 Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng 1981 Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng 1986 Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng 1991 Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng Khi tiến hành bài tổng kết, giáo viên dựa vào bảng niên biểu để dạy, yêu cầu học sinh cùng xây dựng bảng niên biểu, trên cơ sở đó mà bổ sung, sửa chữa những điều chưa chính xác trong bảng niên biểu của các em..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Tóm lại: sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa, cũng như sử dụng các đồ dùng trực quan do giáo viên và học sinh tự sưu tầm, tự làm, bổ sung cho sách giáo khoa là một điều hết sức cần thiết có tác dụng lớn lao trong dạy học lịch sử. Đây là phương tiện quan trọng tạo nên hình ảnh lịch sử. Song khi sử dụng giáo viên cần chú ý đến các yêu cầu của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử 5/ Sử dụng phim tư liệu lịch sử: Ngày nay công nghệ thông tin đã đạt được những bước tiến vượt bậc và có tác động lớn đến giáo dục đặc biệt là môn lịch sử. Các nhà làm phim tái hiện lại hình ảnh lịch sử một thời trong quá khứ. Những nhân vật lịch sử, những sự vật hiện tượng, những sự kiện đã qua nhằm giúp học sinh nắm bắt lịch sử một cách chính xác dễ nhận biết, dễ nhớ làm tăng hiệu quả học tập, lôi cuốn học sinh tham gia tích cực vào bài giảng. Cần coi trong việc sử dụng phim tài liệu vào quá trình dạy học nhằm tận dụng mọi cơ hội lịch sử một cách cụ thể giàu cảm xúc, được trực tiếp quan sát các sự vật hiện tượng, được tiếp xúc các nhân vật lịch sử, điều này giúp cho học sinh dường như đang “ Trực quan sinh động ”, quá khứ có thật mà hiện tại không có. Trong giai đoạn lịch sử 1919-1930: Giáo viên có thể sử dụng các đoạn phim tư liệu nói về quá trình ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh (trong CD đính kèm) để minh họa cho bài 12, 13. Trong giai đoạn lịch sử 1930-1945: Giáo viên có thể sử dụng các đoạn phim minh họa như Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa 2/9/1945 ..... (có trong CD đính kèm) Tiếp theo ở giai đoạn lịch sử 1945-1954: Giáo viên cho học sinh xem bộ phim tư liệu “ Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ” . Các em sẽ được chứng kiến những hình ảnh chân thực của một thời kì lịch sử hào hùng với các hình ảnh của các anh hùng như Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ Châu Mai, Tô Vĩnh Điện lấy thân chèn Pháo. Hình ảnh quân và dân ta đào hầm khoét núi, nếm mật, nằm gai, chịu bao khổ cực vận chuyển lương thực, thực phẩm, phương tiện vũ khí để đến với chiến dịch lịch sử này. Thông qua các đoạn phim tư liệu lịch sử như thế thì giờ học lịch sử không thể nào còn nhàm chán nữa. Hoặc ở giai đoạn lịch sử Việt Nam từ 1954 – 1975: có rất nhiều phim tư liệu phục vụ cho bài dạy lịch sử như: phong trào Đồng Khởi, nhân d6an miền Nam chiến đấu chống chiến tranh đặc biệt, chống chiến tranh cục bộ, chống chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, Cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Tổng tiến công và và nổi dậy xuân 1975.....( có đính kèm trong CD ). Qua.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> đó, sẽ giúp cho các em học sinh là những người sống trong thời kỳ hòa bình, phải biết sống như thế nào cho xứng đáng với cha ông, với các anh hùng đã hy sinh trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập và bảo vệ Tổ Quốc. Các em có ý thức hơn trong học tập và rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức về vị trí và vai trò của bộ môn lịch sử. - Ở giai đoạn 1975-2000, giáo viên cũng có thể giới thiệu đến học sinh những đoạn phim tư liệu về những thành tựu đạt được của Đảng và nhân dân ta sau Đại hội VI ( có đính kèm trong CD) để khẳng định hơn nữa, đường lối đổi mới của Đảng hoàn toàn là đúng đắn, phù hợp với sự phát triển của xã hội. III KẾT QUẢ Trong những năm vừa qua tôi đã sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử theo những kinh nghiệm đã đúc kết ở nội dung trên, đây không phải là phương pháp mới, có thể cũng đã được thầy cô ở nhiều trường áp dụng. Tuy vậy với bản thân phần nào cũng đạt được một số kết quả nhất định, cụ thể năm học 2009-2010, nhà trường phân công tôi dạy 4 lớp lịch sử 12, đã đạt hơn 90% số học sinh có điểm trung bình từ 5 đến 9,25 điểm trong kì thi tốt nghiệp 2010 Qua kết quả trên cho chúng ta thấy được tính khả thi của việc áp dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử đã phát huy tính tích cực hoạt động độc lập của học sinh. IV. KIẾN NGHỊ 1/ Đối với giáo viên Khi sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử cần chú ý các nguyên tắc sau: - Phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu giáo dục của bài học để lựa chọn đồ dùng trực quan tương ứng thích hợp. Vì vậy cần xây dựng một hệ thống đồ dùng trực quan phong phú, phù hợp với từng loại bài lịch sử. - Có phương pháp thích hợp đối với việc sử dụng mỗi loại đồ dùng trực quan. - Phải đảm bảo được sự quan sát đầy đủ đồ dùng tực quan của học sinh. - Phát huy tính tích cực của học sinh khi sử dụng đồ dùng trực quan. - Đảm bảo kết hợp lời nói và việc trình bày các đồ dùng trực quan, đồng thời rèn luyện khả năng thực hành của học sinh khi sử dụng đồ dùng trực quan (đắp sa bàn, vẽ bản đồ, tường thuật trên bản đồ, miêu tả hiện vật......) - Tùy theo yêu cầu của bài học và loại hình đồ dùng trực quan mà có cách sử dụng khác nhau. Loại đồ dùng trực quan treo tường được sử dụng nhiều nhất trong dạy học lịch sử hiện nay là lược đồ, sơ đồ, bảng biểu, trước khi sử dụng chúng cần chuẩn bị thật kĩ (nắm chắc nội dung, ý nghĩa của từng loại, phục vụ.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> cho nội dung nào của giờ học.......). Trong khi giảng cần xác định đúng thời điểm để treo bản đồ... không nên treo trên bảng đen vì còn dùng bảng để viết mà treo cao ở góc bên phải của bảng, nơi có ánh sáng cho tất cả học sinh nhìn thấy rõ, giáo viên cần đứng bên phải đồ dùng, dùng que chỉ vị trí thật chính xác. - Loại đồ dùng trực quan cỡ nhỏ được sử dụng riêng cho từng học sinh trong giờ học, trong việc tự học ở nhà, giáo viên phải hướng dẫn học sinh sử dụng tốt loại đồ dùng trực quan này, quan sát kĩ, tìm hiểu sâu sắc nội dung, hoàn thành các bài tập, tập vẽ bản đồ, chứ không phải “can” theo sách. - Tổ chuyên môn cần tăng cường tổ chức các giờ hoạt động ngoại khóa, các chuyên đề lịch sử như các cuộc thi đố vui, các trò chơi lịch sử sẽ tăng cường bổ sung tính hình ảnh thông qua các đồ dùng trực quan phục vụ cho bài học trên lớp. 2/ Đối với trường: - Cần tạo điều kiện về phòng ốc nhất là phòng học Bộ môn, đèn chiếu để phục vụ giảng dạy. Tăng cường hơn nữa trang thiết bị đồ dùng dạy học trong các tiết dạy lịch sử. - Cần có nơi để đồ dùng dạy học một cách ngăn nắp khoa học hơn. - Cần mua các tư liệu lịch sử có liên quan trong chương trình học để giáo viên và học sinh tham khảo nhằm bồi dưỡng thêm tri thức và tăng tính hiệu quả của bộ môn. V/ KẾT LUẬN Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi giáo dục phổ thông phải đào tạo những con người phát triển toàn diện, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mỗi môn học ở nhà trường phổ thông với đặc trưng của mình đều phải góp phần đào tạo thế hệ trẻ, trong đó có lịch sử. Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông có chức năng, nhiệm vụ to lớn trong việc đào tạo con người Việt Nam vừa có trình độ khoa học phong phú vừa thấm nhuần truyền thống bản sắc dân tộc, có năng lực tư duy sáng tạo để hội nhập với thế giới và khu vực, để đáp ứng được yêu cầu trên, cần phải có sự đổi mới về phương pháp dạy học môn Lịch sử mà trong đó phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan có hiệu quả là một trong nhân tố góp phần to lớn để đạt được mục tiêu giáo dục trong dạy học lịch sử cả về mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển nhân cách cho học sinh. Biển học là vô bờ. Tôi nghĩ rằng mỗi thầy cô giáo đều có những biện pháp riêng để nâng cao chất lượng dạy học lịch sử. Trong phạm vi hạn hẹp của đề tài, tôi chỉ mạn phép nêu lên “Một số kinh nghiệm về việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử việt Nam lớp 12” mà bản thân đã thực hiện trong quá trình giảng dạy và đạt được một số hiệu quả nhất định. Thiết nghĩ rằng, những kinh nghiệm trên ít nhiều.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> có thể giúp quý thầy cô tham khảo, bổ sung và ứng dụng trong quá trình giảng dạy của mình nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử. Những thiếu sót trong quá trình viết đề tài là điều không thể tránh khỏi, rất mong được sự góp ý chân thành của quý thầy cô. Biên Hòa ngày 15/05/2011 Người viết sáng kiến. Hoàng Văn Tâm.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. SGK lịch sử 12 – Phan Ngọc Liên – Chủ biên – NXB giáo dục 2009 2. SGV lịch sử 12 – Phan Ngọc Liên – Chủ biên – NXB giáo dục 2009 3. Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPTPhan Ngọc Liên- chủ biên-NXB Đại học sư phạm. 4. Tài liệu hội nghị - Bộ giáo dục và đào tạo vụ trung học phổ thông 5. Các con đường biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông – Nguyễn Thị Côi- NXB Đại học sư phạm năm 2006 6. Kênh hình trong dạy học lịch sử ở trường THPT – Nguyễn Thị Côi – NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

<span class='text_page_counter'>(25)</span>

×