Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

skkn một số kinh nghiệm về việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử việt nam lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.46 KB, 21 trang )


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh



Mã số:…………



SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM




Đề tài
MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ VIỆC SỬ DỤNG
ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 12


Người thực hiện: HOÀNG VĂN TÂM
Lĩnh vực nghiên cứu:
Quản lý giáo dục: 
Phương pháp dạy học bộ môn LỊCH SỬ 
Phương pháp giáo dục: 
Lĩnh vực khác: 

Có đính kèm:
 Mô hình  Phần mềm  Phim ảnh  Hiện vật khác







Năm học: 2010-2011

SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC


I. THƠNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: HỒNG VĂN TÂM
2. Ngày tháng năm sinh: 20- 04 -1973
3. Nam, nữ: Nam
4. Địa chỉ: 18/4 QL15 khu phố 1 – Phường Tam Hòa – Thành phố Biên Hòa –
Tỉnh Đồng Nai
5. Điện thoại: 0613834289 (CQ)/ 0613811264 (NR); ĐTDĐ: 0989008720
6. Fax: E-mail:
7. Chức vụ: giáo viên
8. Đơn vị cơng tác: Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị cao nhất: Cử nhân
- Năm nhận bằng: 1995
- Chun ngành đào tạo: Lịch sử
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chun mơn có kinh nghiệm: giảng dạy mơn lịch sử
- Số năm có kinh nghiệm: 13 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
+ “SỬ DỤNG KÊNH HÌNH VÀ VĂN THƠ NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH
CỰC, HỨNG THÚ CỦA HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC LỊCH SỬ” năm học

2006-2007
+ “MỘT VÀI KINH NGHIỆM VÀ BIỆN PHÁP BỒI DƯỢNG HỌC SINH
GIỎI MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT” năm học 2007-2008
+ MỘT VÀI KINH NGHIỆM VỀ ĐỔI MỚI NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC
KIẾM TRA MIỆNG NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MƠN
LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT” năm học 2008-2009
+ “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THI TỐT NGHIỆP
THPT MƠN LỊCH SỬ” năm học 2009-2010









SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Biên Hòa, ngày 20 tháng 5 năm 2011

PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2010-2011

Tên sáng kiến kinh nghiệm: MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ VIỆC SỬ DỤNG
ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP
12
Họ và tên tác giả: HOÀNG VĂN TÂM Đơn vị (Tổ): Khoa học xã
hội

Lĩnh vực:
Quản lý giáo dục  Phương pháp dạy học bộ môn lịch sử

Phương pháp giáo dục  Lĩnh vực khác 
1. Tính mới:
- Có giải pháp hoàn toàn mới 
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có 
2. Hiệu quả:
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao

- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp
dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao 
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao 
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp
dụng tại đơn vị có hiệu quả 
3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính
sách: Tốt  Khá  Đạt 
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực
hiện và dễ đi vào cuộc sống: Tốt  Khá  Đạt 
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt
hiệu quả trong phạm vi rộng: Tốt  Khá  Đạt 

XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN HIỆU TRƯỞNG



I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Môn Lịch sử ở trường trung học phổ thông nhằm giúp học sinh có được

những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần
hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất
nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành
động và thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống xã hội. Vì vậy, phương pháp
và hình thức dạy học môn lịch sử rất phong phú đa dạng, bao gồm cả các phương
pháp hiện đại và các phương pháp truyền thống, trong đó phương pháp sử dụng
đồ dùng trực quan là một trong những phương pháp cơ bản của lí luận dạy học .
Bởi lẽ, việc nhận thức lịch sử vừa phải tuân thủ theo quy luật nhận thức nói
chung, nhưng đồng thời còn có nét đặc thù riêng “ Học sinh không thể trực tiếp
nhận thức ( tri giác ) các sự kiện lịch sử, vì lịch sử là cái đã qua không lặp lại
nguyên xi, không thể dựng lại hoàn toàn hay thí nghiệm như khoa học tự nhiên.
Do đó, dạy học lịch sử trước hết là một quá trình truyền thông tin, thu nhận và
xử lý thông tin giữa giáo viên và học sinh qua các phương tiện dạy học. Thông
tin về sự kiện lịch sử càng chính xác, chân thật, phong phú ( Sinh động và vừa
sức thì nhận thức lịch sử của học sinh càng sâu sắc bền vững) lời nói, hình ảnh
cũng như các loại đồ dùng trực quan ( hiện vật, tranh ảnh, bản đồ, băng đĩa, máy
chiếu…) là những phương tiện dạy học, có khả năng chứa hoặc truyền thông tin
rất đa dạng và phong phú. Các phương tiện này đóng vai trò rất quan trọng trong
việc bảo đảm tính trực quan và tạo biểu tượng lịch sử chân thật cho học sinh
nhằm góp phần đạt được mục tiêu dạy học. Tuy nhiên trong những năm vừa qua,
trong quá trình thực hiện tranh tra hoạt động sư phạm của một số giáo viên dạy
sử trong địa bàn tỉnh, tôi nhận thấy, vẫn còn không ít giáo viên chưa kết hợp
phương pháp này vào dạy học, nếu có chăng cũng chỉ minh họa qua loa, chưa
phát huy tính chủ động tích cực của học sinh trong việc khai thác tư liệu lịch sử
ở các đồ dùng dạy học, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục
bộ môn lịch sử.
Chính vì điều đó, tôi xin mạn phép đưa ra “Một số kinh nghiệm về việc sử
dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12” để chia sẻ với
quý thầy cô nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong việc nâng cao chất lượng dạy
học bộ môn theo xu thế đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.

II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI

1/ Cơ sở lý luận.
Nguyên tắc trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận
dạy học nhằm tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành các khái niệm
trên cơ sở trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan minh họa
sự vật.

Trong dạy học lịch sử, phương pháp trực quan góp phần quan trọng tạo
biểu tượng cho học sinh cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại
hóa lịch sử của học sinh.
Đồ dùng trực quan là chỗ dựa để hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử,
là phương tiện rất có hiệu lực để hình thành các khái niệm lịch sử quan trọng
nhất, giúp cho học sinh nắm vững các quy luật phát triển của xã hội.
Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu
sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt
vững chắc trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực
quan.
Cùng với việc góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm lịch sử, đồ
dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn
ngữ của học sinh. Nhìn vào bất cứ loại đồ dùng trực quan nào, học sinh cũng
thích nhận xét, phán đoán, hình dung quá khứ lịch sử được phản ảnh, minh họa
như thế nào? Các em suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói chính xác, có
hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua.
Ý nghĩa giáo dục tư tưởng, cảm xúc thẩm mỹ của đồ dùng trực quan cũng
rất lớn. Ngắm nhìn một bức tranh diễn tả một cuộc đấu tranh cách mạng như
“Đấu tranh trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931”, hay xem một
cuốn phim tài liệu “ Chiến thắng Điện Biên Phủ” hoặc “ vài hình ảnh về cuộc
đời hoạt động của chủ tịch Hồ Chí Minh” … học sinh có những tình cảm mạnh
mẽ về lòng yêu mến lãnh tụ, chiến sĩ cách mạng, lòng quý trọng lao động và

nhân dân lao động, lòng căm thù bọn xâm lược và chiến tranh……
Với tất cả ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển nêu trên, đồ dùng
trực quan góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú học
tập cho học sinh, nó là chiếc “cầu nối” giữa hiện thực quá khứ khách quan với
đời sống hiện tại.
2/ Cơ sở thực tiễn:
Đã nhiều lần chúng ta bàn đến việc sử dụng các phương tiện trực quan
trong dạy học lịch sử, coi đó là nguyên tắc trong dạy học, một phương pháp
không thể thiếu được trong quá trình giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông. Tuy
nhiên sử dụng như thế nào để có hiệu quả dạy học nói chung, phát huy tính tích
cực hoạt động độc lập của học sinh nói riêng trong dạy học lịch sử thì không đơn
giản, chưa có sự thống nhất, mỗi người sử dụng một cách. Tình trạng sử dụng
các phương tiện dạy học còn mang tính hình thức chưa phát huy được những ưu
thế của các đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử. Trong bài viết này, tôi
không trình bày lại phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trọng dạy học lịch
sử nói chung mà chủ yếu đề xuất một số kinh nghiệm sử dụng nhằm phát huy
tính tích cực hoạt động độc lập của học sinh.

Trước tiên khẳng định hiệu quả của việc sử dụng phương pháp trực quan
trong dạy học lịch sử do nhiều yếu tố quyết định: như chất lượng đồ dùng trực
quan, hiện vật, bản đồ, tranh ảnh lịch sử … Phương pháp sử dụng, kỹ năng, năng
lực sư phạm của giáo viên và đặc biệt là trình độ nhận thức của học sinh. Đồ
dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác
quan, sẽ kết hợp được hai hệ thống tín hiệu trong quá trình nhận thức “ Tai nghe-
Mắt thấy” tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được mối quan hệ
thần kinh tạm thời khá phong phú, phát huy ở học sinh năng lực chú ý, quan sát,
hứng thú, đặc biệt là tính tích cực hoạt động độc lập. Ngược lại nếu không sử
dụng đúng mức mà bị lạm dụng thì dễ làm cho học sinh phân tán xử lý, không
tập trung vào các dấu hiệu cơ bản chủ yếu, thậm chí hạn chế phát triển năng lực
tư duy trừu tượng của học sinh.

Thực tế giảng dạy ở trường phổ thông đã cho thấy: không ít giáo viên đã
coi nhẹ việc sử dụng đồ dùng trực quan. Nếu có chăng phải sử dụng thì chủ yếu
là minh hoạ một cách tẻ nhạt, cho học sinh xem qua loa mang tính hình thức, chứ
không dùng trong khi giảng dạy. Lý luận dạy học chỉ ra cho chúng ta thấy cần
phải tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy và học tập. Để đáp
ứng yêu cầu này cũng như khắc phục tình trạng trước đây, chúng ta cần phải
biết kết hợp hài hoà giữa lời dạy và hình ảnh cụ thể qua đồ dùng trực quan. Tuy
nhiên đối với mỗi loại, chúng ta cần có những phương pháp sử dụng riêng phù
hợp với nội dung từng loại bài.
3. Nội dung nghiên cứu
Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử có nhiều loại, mỗi loại có cách sử
dụng riêng. Sau đây, tôi xin giới thiệu một số cách sử dụng cơ bản đồ dùng trực
quan trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12.
a/ Phương pháp sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong SGK:
Tranh ảnh trong sách giáo khoa là một phương tiện trực quan tạo hình có
tác dụng rất lớn trong dạy học lịch sử, nó cung cấp cho học sinh hình ảnh về quá
khứ một cách cụ thể, sinh động và khá xác thực, chẳng hạn như bức ảnh của
Nguyễn Ái Quốc tại đại hội của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua (hình 27), Lễ thành
lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ( hình 39), hay bức ảnh về
“Quân dân miền Bắc bắn rơi máy bay Mỹ” v.v….Những hình ảnh lịch sử này có
giá trị như một tư liệu lịch sử quý giá, giúp học sinh hiểu sâu sắc tính chất sự
kiện lịch sử và tạo cho học sinh những ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc về quá khứ.
Hay các bức ảnh cảnh làng quê đang vào mùa gặt hái với những chiếc máy cày
đang thay thế sức trâu hoặc những hình ảnh Thanh niên xung phong tham gia
khôi phục tuyến đường sắt Hà Nội-Mục Nam Quan (1957) ( hình 60 ), toàn cảnh
khu gang thép Thái Nguyên (hình 64), thanh niên miền Bắc nô nức tham gia
phong trào “3 sẵn sàng ” ( hình 65 ). Qua các hình ảnh này khắc họa cho học
sinh thấy được sự phát triển của cách mạng miền Bắc trong thời kì đầu xây dựng

chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã đảm nhiệm vai trò hậu phương lớn của cách mạng

cả nước.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên kết hợp hướng dẫn các em quan sát
các tranh ảnh in trong sách giáo khoa. Học sinh thích xem tranh ảnh lịch sử
nhưng ít biết khai thác nội dung của tranh ảnh để phục vụ bài học. Vì thế để sử
dụng có hiệu quả, giáo viên hướng dẫn gợi mở giúp học sinh tự tìm ra nội dung
tranh ảnh. Sau đó giáo viên bổ sung, sửa chữa để các em hiểu bức ảnh một cách
đầy đủ, toàn diện sâu sắc hơn.
Ví như: khi sử dụng bức ảnh “Lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân” ( hình 39 ) trong bài 16 “ Phong trào giải phóng dân tộc và
tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1939-1945 ”


Giáo viên phải gợi mở để học sinh quan sát: Lá cờ biểu hiện điều gì? Ai là
người chỉ huy trực tiếp đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân khi mới
thành lập? Trang bị lúc đầu như thế nào? Tất cả những điều này cuối cùng giúp
học sinh nắm được Đảng ta đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã sinh ra và lãnh
đạo lực lượng vũ trang đầu tiên của cách mạng. Họ là những người du kích trong
đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ” và “ Cứu quốc quân ” (5/1945).
Tuy số lượng còn ít ỏi ( chỉ có 34 người ) vũ khí trang bị còn thô sơ nhưng đã
tích cực hoạt động góp phần rất quan trọng vào thắng lợi của các mạng. Đồng
thời đây là mầm mống đầu tiên của lực lượng vũ trang Việt Nam sau này.
Hình vẽ, tranh ảnh trong SGK là một phần của đồ dùng trực quan trong
quá trình dạy học. Nó có ý nghĩa hết sức to lớn, không chỉ là nguồn kiến thức có
tác dụng giáo dục tính cách, mà còn phát triển tư duy học sinh, sử dụng tốt loại
phương tiện trực quan này sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh, tạo ra sự
hứng thú trong quá trình nhận thức. Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới công việc

tư duy trừu tượng. Bản thân tranh ảnh không thể gây ra sự quan sát tích cực của
học sinh nếu như nó không được quan sát trong tình huống có vấn đề. Mặt khác
thông qua quan sát, miêu tả tranh ảnh học sinh được rèn luyện khả năng sử dụng

ngôn ngữ của các em ngày càng phong phú và trong sáng hơn. Vì vậy trong dạy
học lịch sử chúng ta cần phải khai thác triệt để nội dung lịch sử được biểu hiện
qua tranh ảnh, hình vẽ trong SGK. Đồng thời khi sử dụng cần kết hợp sử dụng
câu hỏi, miêu tả hoặc tường thuật kiến thức lịch sử biểu hiện trong đồ dùng trực
quan. Sau khi quan sát, học sinh cần nêu lên suy nghĩ của mình, phát biểu của
các em dù đúng, sai, nông cạn hay sâu sắc đều là cơ sở để giáo viên đánh giá
trình độ của học sinh để uốn nắn, hướng dẫn nhận thức của các em. Trong những
điều kiện có thể cần gợi ý, tạo ra các cuộc thảo luận, tranh luận của các em khi
quan sát một bức tranh hay một hình vẽ nào đó.
Sách giáo khoa hiện nay kênh hình tương đối đầy đủ và phong phú, do vậy
việc sử dụng hình vẽ tranh ảnh để giới thiệu khắc sâu bài học lịch sử cho học
sinh nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh hiệu quả nhất.

Ví dụ :ở bài 22 trang 176 SGK, giáo viên cho học sinh xem hình 70
“Nhân dân Mỹ biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam, đòi quân Mỹ rút về
nước” và hình 71 “ Thanh niên học sinh, sinh viên Sài Gòn biểu tình đòi Mỹ,
chính quyền Sài gòn bãi bỏ lệnh tổng động viên”. Qua các kênh hình này giáo
viên có thể phát vấn học sinh “ Em hãy cho biết tình hình nước Mỹ và nước ta
trong giai đoạn lịch sử này”?. Học sinh trả lời, sau đó giáo viên khái quát: “ Đây
là giai đoạn Mỹ thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ ở Việt Nam, âm mưu cốt
lõi là nhằm “Mỹ hóa”cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Với việc ào ạt đưa quân viễn
chinh và quân chư hầu cùng với các phương tiện chiến tranh tối tân do Mỹ viện
trợ nhằm đàn áp lực lượng cách mạng và nhân dân ta. Nhưng rất đáng tiếc cuộc
chiến tranh của Mỹ ngày càng gặp nhiều khó khăn. Các cuộc phản đối chiến
tranh ở Mỹ bùng nổ mạnh mẽ, đòi đưa con em của họ về nước, lên án việc leo
thang chiến tranh của GiônXơn. Ở Việt Nam các phong trào đấu tranh của mọi
giai cấp, giai tầng nổ ra vô cùng mạnh mẽ, phản đối và lên án hành vi xâm lược

của Đế quốc Mỹ, đấu tranh đòi bãi bỏ lệnh tổng động viên mà chính quyền Sài
Gòn đưa ra nhằm bắt lính làm bia đỡ đạn cho Mỹ ”.

b/ Sử dụng ảnh chân dung của các nhân vật lịch sử
Chân dung các nhân vật lịch sử có tác dụng tạo biểu tượng về đặc điểm
các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, của các nhà cách mạng v.v…giáo viên sử
dụng để giảng dạy nhằm tăng cường, cụ thể hóa về hình ảnh cũng như đặc điểm
tính cách tài đức của các nhân vật lịch sử. Khi sử dụng, giáo viên không nên miêu
tả quá nhiều về hình dáng bên ngoài của nhân vật mà chủ yếu là làm nổi bật
những nét tính cách, tài đức, lập trường, quan điểm và nội tâm của nhân vật để
cho học sinh hiểu nhân vật một cách trọn vẹn, sâu sắc. Chẳng hạn như khi dạy về
Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng tháng 10/1930, học sinh không thể
không biết đến Trần Phú - Tổng bí thư đầu tiên của Đảng- người cộng sản trung
kiên đã khởi thảo ra bản Luận cương của Đảng. Để học sinh hiểu rõ về Trần Phú

Trần Phú (1904-1931)
Trước hết, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát chân dung ( hình 5 ), và
phát biểu những hiểu biết của mình về Trần Phú, sau đó giáo viên chốt lại những
nét tiêu biểu nhằm giúp học sinh có ấn tượng sâu sắc về nhà cách mạng trẻ tuổi
này.
Giáo viên có thể dựa vào đoạn tư liệu sau: “Trần Phú sinh ngày 1/5/1904
tại Quảng Ngãi ( nguyên quán ở huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh ). Ngay từ thuở thơ ấu
Trần Phú đã sống trong cảnh côi cút tha phương cầu thực vô cùng cực khổ, vì cha

mẹ mất sớm. Trước cuộc sống quá khó khăn, anh em Trần Phú phải về Quảng Trị
tìm họ hàng nương tựa, nhờ bà con giúp đỡ, Trần Phú vào học ở trường Quốc học
Huế. Ông học rất giỏi và nuôi trong lòng một hoài bão lớn, rồi sau đó Trần Phú đi
theo cách mạng, trở thành người chiến sĩ trung kiên chiến đấu vì độc lập tự do.
Tháng 10/1930 Ông tham gia Hội nghị Ban chấp hành trung ương lâm thời và
được cử làm Tổng bí thư. Trần Phú được cử thảo ra Luận cương chính trị, để viết
luận cương, Ông đã dựa vào Chính cương, điều lệ vắn tắt của Nguyễn Ái Quốc;
đi vào tìm hiểu thực tế phong trào công nhân ở Hải Phòng, lên Hà Nội dựa vào
anh em bồi bếp làm cho tên công chức cao cấp thực dân Pháp ở số nhà 90 Phố

Thợ Nhuộm. Tại đây Trần Phú đã bí mật thảo Luận cương chính trị của Đảng
ngay dưới tầng hầm của ngôi nhà.
Sau một thời gian hoạt động, vì sự phản bội của Ngô Đức Trì, ngày
19/4/1931 Trần Phú bị bắt tại số nhà 66, đường Săm bơ nhơ (Sài Gòn). Những
tên mật thám khét tiếng đã điên cuồng tra tấn Trần Phú ( bắt ngồi vào thùng nước
bẩn rồi cho dòng điện chạy qua, đến thủ đoạn treo ngược lên xà nhà, cắt gân bàn
chân rồi cho xăng đốt ). Cuối cùng, chúng phải lắc đầu trước tinh thần gang thép
của người chiến sĩ trẻ tuổi. Trước khi chết, Trần Phú đã nhắn lại các đồng chí của
mình “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”. Câu nói của Ông đã trở thành vũ khí
chiến đấu của mỗi người Việt Nam đi vào trận đánh. Trần Phú hy sinh giữa lúc
27 tuổi đời, tuổi thanh niên rất tươi đẹp”. Cách giới thiệu bức chân dung kết hợp
với một vài nét chấm phá về tiểu sử nhân vật sẽ khắc vào trái tim các em lòng
yêu mến, kính phục người chiến sĩ cách mạng đã hi sinh vì độc lập tự do của tổ
quốc.
Nói tóm lại, sử dụng tốt kênh hình đã in sẵn trong sách giáo khoa có tác
dụng rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử. Bởi vì, hình ảnh rõ
ràng, cụ thể của kênh hình không những giúp học sinh hiểu sâu sắc kiến thức mà
còn nảy sinh những cảm xúc lịch sử trong tâm hồn các em.
c/ Phương pháp sử dụng bản đồ, lược đồ, bảng biểu, sơ đồ.
c1. Sử dụng bản đồ, lược đồ, bảng biểu.
- Bản đồ, lược đồ, bảng biểu là những đồ dùng trực quan quy ước không thể
thiếu được trong dạy học lịch sử. Nhờ có bản đồ, lược đồ lịch sử mà học sinh có
biểu tượng đúng đắn về hình ảnh địa lý, địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử. Chúng
ta đều biết rằng mỗi một sự kiện lịch sử bao giờ cũng gắn liền với một không
gian và thời gian nhất định. Tách sự kiện khỏi không gian và thời gian, chúng ta
sẽ không hiểu được nội dung ý nghĩa của sự kiện đó. Nắm được địa điểm xảy ra
sự kiện lịch sử sẽ không phải chỉ là biết tên địa điểm xảy ra sự kiện mà quan
trọng hơn gắn liền với mỗi địa danh đó là các yếu tố, địa hình phạm vi không
gian cũng như đặc điểm điều kiện tự nhiện của địa điểm đó.
Trong khi sử dụng bản đồ, lược đồ giáo viên luôn chú ý đến sự thu nhận

của học sinh, giúp học sinh phân tích, nêu kết luận khái quát về sự kiện được

phản ánh trên bản đồ, lược đồ chứ không nên cho học sinh tiếp thu một cách thụ
động. Ví như: khi giảng về “ Chương trình khai thác thuộc địa lần 2 của thực dân
Pháp ” trong bài 12 “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 đến 1925 ”,
giáo viên sử dụng lược đồ của trường, nếu không có thì giáo viên tự vẽ hoặc cho
học sinh vẽ.

Lược đồ Nguồn lợi của tư bản Pháp trong cuộc khai thác thuộc đại lần thứ hai
Tác dụng của việc sử dụng lược đồ này là nhằm cụ thể hóa kiến thức giúp
học sinh thấy rõ mục đích, quy mô của cuộc khai thác cũng như hậu quả của
cuôc khai thác đối với Việt Nam, qua đó các em hiểu sâu hơn bản chất và những
thủ đoạn tàn bạo trắng trợn của thực dân Pháp. Sau khi đã chuẩn bị lược đồ trong
tiến trình giảng dạy giáo viên thực hiện các bước sau:
Sau khi đã phân tích rõ nguyên nhân mục đích của cuộc khai thác thuộc
địa lần hai của thực dân Pháp. Giáo viên treo lược đồ lên tường (Nơi mà học sinh
có thể nhìn rõ ) để lần lượt trình bày quá trình khai thác của thực dân Pháp về

mục đích, quy mô, hậu quả v.v… kết hợp với lời giảng, giáo viên chỉ rõ cho các
em những vị trí, địa điểm mà thực dân Pháp khai thác, khai thác những nguồn lợi
gì, ở đâu? Tại sao lại khai thác những nguồn lợi này? Nó có tác dụng gì? v.v
sau đó yêu cầu các em nhận xét và rút ra kết luận khái quát.
Việc giảng dạy kết hợp với việc sử dụng lược đồ, bảng biểu thực tế đã cho
những kết quả tốt, hầu hết các em đã chăm chú lắng nghe, dễ hiểu và nắm được
bài học ngay trên lớp. Không những thế còn làm nảy sinh những xúc cảm lịch sử
của các em. Đó là thái độ căm phẫn trước những hành động vơ vét tàn bạo của
thực dân Pháp, là lòng xót xa, sự uất ức đối với người dân Việt Nam sống trong
cảnh nước mất nhà tan.
Ví dụ trong bài 20 “ Cuộc kháng chiến chống thực Pháp kết thúc 1953 –
1954 ” giáo viên kết hợp sử dụng lược đồ, bảng biểu trống, trình bày diễn biến

chiến cuộc Đông Xuân 1953 – 1954, sau đó hướng dẫn các em lập bảng biểu
hoàn chỉnh.

Thời gian Sự kiện lịch sử
12/1953 Bộ đội chủ lực của ta tấn công Thị xã Lai Châu
Đầu tháng 12/1953 Liên quân Lào – Việt tấn công địch ở Trung Lào
Tháng 1/1954 Liên quân Lào – Việt tấn công địch ở Thượng Lào
Tháng 2/1954 Quân ta tấn công địch ở Bắc Tây Nguyên

Ví dụ: khi dạy về bài “ Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời,” giáo viên có
thể hướng dẫn học sinh xây dựng và sử dụng bảng so sánh: Cương lĩnh chính trị
( tháng 2 năm 1930) của Nguyễn Ái Quốc với luận cương chính trị của Trần Phú
(tháng 10/1930) để giúp các em rút ra những mặt hạn chế của luận cương chính
trị tháng 10/1930



c2. Sử dụng sơ đồ.
Mục đích sử dụng sơ đồ trong dạy học lịch sử nhằm phát huy khả năng
suy luận logic của học sinh khi diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một chế độ
chính trị, mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử Như vậy, khi dựa vào vào sơ
đồ học sinh có thể phân tích, giải thích, suy luận các sự kiện lịch sử có quan hệ
ràng buộc lẫn nhau một cách chính xác, khoa học. Từ đó tư duy học sinh phát
triển cao hơn và chất lượng dạy học sẽ được nâng lên
Ví dụ: để cụ thể hóa nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, giáo viên hướng dẫn học sinh xây dựng sơ đồ sau :
Nội dung
so sánh
Chính cương vắn tắt,
sách lược vắn tắt

( 2/1930 )
Luận cương chính trị
( 10/1930 )
Mục tiêu
Đánh đổ Đế quốc, phong kiến,
tư sản phản cách mạng
Đánh đổ phong kiến, cách bóc lột
tiền tư bản, thực hiện cách mạng
thổ địa triệt để
Giai cấp
lãnh đạo
Giai cấp Vô sản (Nhân tố quyết
đinh thắng lợi cách mạng là sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam )
Giai cấp Vô sản (Nhân tố quyết
đinh thắng lợi cách mạng là sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông
Dương )
Nhiệm vụ

Tịch thu tài sản ruộng đất của
Đế quốc và bọn phản cách
mạng chia cho dân cày
Đánh đổ Đế quốc Pháp, lật đổ
phong kiến
Lực
lượng
CM
Liên minh công-nông chặt chẽ,

bên cạnh đó phải biết đoàn kết
với tư sản dân tộc, tiểu tư sản
trí thức, thành phần trung nông
Liên minh công-nông chặt chẽ
Vị trí
Cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng Thế giới
Cách mạng Đông Dương là một
bộ phận của cách mạng Thế giới


Như vậy với việc sử dụng bản đồ, lược đồ, sơ đồ, bảng biểu trong quá
trình giảng dạy làm cho tiết học trở nên sôi nổi, gây được sự chú ý tập trung của
học sinh, phát huy khả năng độc lập tư duy cũng như khả năng khái quát tổng kết
kiến thức lịch sử của học sinh. Chính vì lẽ đó, trong các giờ dạy lịch sử nếu có
điều kiện cho phép, giáo viên nên tích cực sử dụng có hiệu quả các loại đồ dùng
trực quan này.
4/ Đồ dùng trực quan do giáo viên, học sinh tự làm hoặc tự sưu tầm:
Hiện nay kênh hình trong SGK đã phong phú, sáng sủa hoặc các loại đồ
dùng dạy học đã có ở nhà trường, phần nào đã có sức hấp dẫn đối với học sinh.
Tuy nhiên, do hạn chế về số trang nên có một số bản đồ, lược đồ, sơ đồ, bảng
biểu, tranh minh họa cần thiết lại không có, chính vì lẽ đó để khắc phục tồn tại
này trong quá trình giảng dạy giáo viên và học sinh cần phải sưu tầm, bổ sung
nhằm tăng tính hình ảnh, tính cụ thể cho các sự kiện trong SGK. Giúp cho việc
tiếp thu kiến thức của các em có hiệu quả.
Ví dụ trong bài 20 “ Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
kết thúc 1953- 1954”, khi dạy phần 2: Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, giáo
Nguyên
nhân
thắng

lợi của
cuộc
kháng
chiến
chống
Mỹ
Chủ
quan
Khách
quan
Do có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh
Nhân dân ta yêu nước, đoàn kết, chiến
đấu dũng cảm
Hậu phương miền Bắc lớn mạnh
Sự phối hợp chiến đấu và đoàn kết của ba
nước Đông Dương.

Sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước, nhất là
của Liên Xô, Trung Quốc và các nước
XHCN

Nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới phản
đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam
của Mỹ

viên và học sinh có thể tự tổ chức đắp mô hình sa bàn Điện Biên Phủ ( tất nhiên
có sự hỗ trợ kinh phí của nhà trường ). Trước hết cần làm nổi bật cho học sinh
thấy: “Đây là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, một pháo đài
không thể công phá ( như lời nhận xét của bọn Mỹ ), có 3 phân khu: phân khu

Bắc gồm (Độc Lập, Bản Kéo, Him Lam) – phân khu trung tâm (có sân bay chính
Mường Thanh) – phân khu Nam (có sân bay phụ Hồng Cúm), có 49 cứ điểm,
Các cứ điểm quan trọng đó là các đồi A1, C1, E1, D1 Đặc biệt cần kết hợp với
khâu thiết bị để xây dựng một mô hình Điện Biên Phủ thật sống động (Có các hệ
thống đèn điện thì thật tốt ). Thêm vào đó cần đắp các chiến hào mà trong lịch sử
quân và dân ta đã “ Khoét núi, vạch rừng” xây dựng nên. Với việc xây dựng mô
hình Điện Biên Phủ như thế thì thật bổ ích cho học sinh trong quá trình quan sát,
trình bày diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ. Bằng mô hình sa bàn như thế dễ
khắc sâu kiến thức, có thể hình dung một thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc ta,
một chiến thắng hiển hách vang dội núi sông khắp năm châu bốn bể. Đây là
chiến thắng vĩ đại nhất của Thế kỷ XX của dân tộc Việt Nam
Đối với những bài học nào cần có bản đồ, lược đồ mà sách giáo khoa
không có, giáo viên tự sưu tầm hoăc tự vẽ trên cơ sở nội dung của bài nhằm bổ
sung cho sách giáo khoa. Ví dụ: Khi dạy về những hoạt động của Nguyễn Ái
Quốc để truyền bá chủ nghĩa Mác- Lê Nin về trong nước ( 1919-1925 ), để giới
thiệu cho học sinh một cách ngắn gọn và sinh động những hoạt động cứu nước
của Người từ 1911 đến khi trở lại Pháp hoat động, cũng như trong những năm
tiếp theo. Giáo viên cần sưu tầm lược đồ về “hành trình cứu nước của Nguyễn Ái
Quốc từ 1911-1941” nhằm giúp học sinh nắm kiến thức một cách có hình ảnh,
có hệ thống và tiết kiệm được thời gian.
Những bài nào cần tranh ảnh, chân dung lịch sử minh họa, giáo viên và
học sinh có thể tự sưu tầm để đưa vào nội dung của bài nhằm tăng tính hình ảnh
sự hấp dẫn đối với bài học. Ví dụ: khi dạy về “ chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ
1954 ” ở bài 20 “Cuộc kháng chiến toàn Quốc chống thực dân Pháp kết thúc
1953-1954” giáo viên và học sinh có thể sưu tâm bức tranh Tô Vĩnh Diện lấy
thân chèn pháo; Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong điều kiện
những bức ảnh như vậy khó tìm, giáo viên, học sinh có thể sưu tầm chân dung
của họ đưa vào bài giảng. Những bức ảnh minh họa này có giá trị lịch sử to lớn
giúp học sinh hiểu sự kiện một cách cụ thể, sinh động và gợi lên cảm xúc lịch sử
của các em.

Trong sách giáo khoa chúng ta mới thấy có các nhân vật chính diện tiêu
biểu cho cái đẹp ( chủ yếu là các nhà cách mạng ) mà chưa có các nhân vật phản
diện, đại diện cho cái xấu, cái thấp hèn phản động. Trong giảng dạy nếu có điều
kiện thuận lợi giáo viên có thể sưu tầm và sử dụng chân dung của các nhân vật
phản diện. Song ở đây phải chú ý tới sự phù hợp của tranh ảnh lịch sử với nội
dung sự kiện lịch sử.

Đặc biệt trong giảng dạy lịch sử 12 rất cần có bảng biểu, sơ đồ song cả
phần lịch sử Việt Nam hầu như không có, chính vì điều đó để nâng cao hiệu quả
giờ dạy, giáo viên, học sinh cần lập một số sơ đồ, bảng biểu trong một số bài học
lịch sử cụ thể :ví dụ khi dạy bài 22 “Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu
chống Đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân Miền Bắc vừa chiến đấu, vừa sản
xuất” ở phần III giáo viên có thể lập bảng hệ thống về cuộc chiến đấu chống
chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn như sau:

Mặt trận Sự kiện chính Kết quả
Chính trị -
Ngoại giao
- 06/6/1969: Chính phủ Cách
mạng lâm thời cộng hòa miền
Nam Việt Nam ra đời
- 24-25/4/1970: Hội nghị cấp
cao 3 nước Đông Dương
- Tăng thêm sức mạnh cho
cách mạng miền Nam
- Biểu hiện tinh thần đoàn
kết chống kẻ thù chung của
nhân dân 3 nước Đông
Dương
Quân sự

- 30/4 đến 30/6/1970: Bộ đội
chủ lực của ta đã kết hợp với
quân dân Campuchia đánh
bại cuộc hành quân xâm lược
Campuchia của Mỹ và quân
đội Sài Gòn
- Từ 12/2 đến 23/3/1971: Bộ
đội chủ lực của ta đã kết hợp
với quân dân Lào đánh bại
cuộc hành quân “Lam Sơn-
719”
Loại khỏi vòng chiến đấu
17.000 tên địch giải phóng
được 4,5 triệu dân






- Loại khỏi vòng chiến đấu
22000 quân địch

Hoặc sau khi học xong bài 21 và bài 22, giáo viên có thể hướng dẫn và
giao cho học sinh lập bảng so sánh chiến lược chiến tranh đặc biệt và chiến lược
chiến tranh cụ bộ như sau:

Nội dung so sánh Chiến tranh đặc biệt Chiến tranh cục bộ
Thời gian thực hiện
Tổng thống

Âm mưu
Thủ đoạn
Phạm vi
Quy mô
Lực lượng quân

Khi hướng dẫn học sinh lập bảng so sánh giáo viên cần phải tuân thủ các
yêu cầu về mặt sư phạm, chọn lựa kiến thức chính xác, nội dung ngắn gọn dễ
hiểu, không rườm rà, có tính trực quan. Sau khi giới thiệu và phân tích rõ nội
dung các sự kiện nói trên giáo viên yêu cầu học sinh so sánh rút ra những điểm
giống và khác nhau của hai chiến lược đó. Việc lập bảng này giúp các em nắm
kiến thức cơ bản một cách vững chắc. Hiểu rõ bản chất của sự kiện đồng thời bồi
dưỡng cho các em năng lực tư duy so sánh đánh giá sự kiện.
Sau khi học xong bài 27 “ Tổng kết lịch sử Việt Nam từ năm 1919-2000”,
giáo viên hướng dẫn học sinh về nhà xây dựng bảng niên biểu tổng hợp những
sự kiện lớn trong tiến trình phát triển lịch sử Việt Nam từ 1930-1991 như sau:
Thời gian Sự kiện chính
1930 Đảng cộng sản Việt Nam ra đời
1930-1931
Cao trào cách mạng 1930-1931 và sự thành lập Xô Viết Nghệ-
Tĩnh
1936 Thành lập mặt trận dân chủ Đông Dương
1941 Bác Hồ về nước và chủ trì Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 8
1945
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời
1946
Tổng tuyển cử bầu quốc hội; Toàn quốc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược
1951 Đại hội lần thứ II của Đảng- Đại hội kháng chiến thắng lợi

1954
Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ; Hội nghị Giơnevơ về việc
lập lại hòa bình ở Đông Dương. Miền Bắc xây dựng CNXH,
miền Nam tiếp tục cách mạng DTDCND
1959-1960 Miền Nam Đồng khởi
1960 Đại hội lần thứ III của Đảng
1968 Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt tết Mậu Thân 1968
1973 Hiệp định Pari
1975
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 ở miền Nam,
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, Việt Nam
hoàn toàn độc lập
1976 Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng
1981 Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng
1986 Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng
1991 Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng
Khi tiến hành bài tổng kết, giáo viên dựa vào bảng niên biểu để dạy, yêu
cầu học sinh cùng xây dựng bảng niên biểu, trên cơ sở đó mà bổ sung, sửa chữa
những điều chưa chính xác trong bảng niên biểu của các em.

Tóm lại: sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa, cũng như sử
dụng các đồ dùng trực quan do giáo viên và học sinh tự sưu tầm, tự làm, bổ sung
cho sách giáo khoa là một điều hết sức cần thiết có tác dụng lớn lao trong dạy
học lịch sử. Đây là phương tiện quan trọng tạo nên hình ảnh lịch sử. Song khi sử
dụng giáo viên cần chú ý đến các yêu cầu của việc sử dụng đồ dùng trực quan
trong dạy học lịch sử
5/ Sử dụng phim tư liệu lịch sử:

Ngày nay công nghệ thông tin đã đạt được những bước tiến vượt bậc và có
tác động lớn đến giáo dục đặc biệt là môn lịch sử. Các nhà làm phim tái hiện lại

hình ảnh lịch sử một thời trong quá khứ. Những nhân vật lịch sử, những sự vật
hiện tượng, những sự kiện đã qua nhằm giúp học sinh nắm bắt lịch sử một cách
chính xác dễ nhận biết, dễ nhớ làm tăng hiệu quả học tập, lôi cuốn học sinh tham
gia tích cực vào bài giảng.
Cần coi trong việc sử dụng phim tài liệu vào quá trình dạy học nhằm tận
dụng mọi cơ hội lịch sử một cách cụ thể giàu cảm xúc, được trực tiếp quan sát
các sự vật hiện tượng, được tiếp xúc các nhân vật lịch sử, điều này giúp cho học
sinh dường như đang “ Trực quan sinh động ”, quá khứ có thật mà hiện tại không
có.
Trong giai đoạn lịch sử 1919-1930: Giáo viên có thể sử dụng các đoạn
phim tư liệu nói về quá trình ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh (trong
CD đính kèm) để minh họa cho bài 12, 13.
Trong giai đoạn lịch sử 1930-1945: Giáo viên có thể sử dụng các đoạn
phim minh họa như Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, Bác Hồ đọc tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa 2/9/1945 (có
trong CD đính kèm)
Tiếp theo ở giai đoạn lịch sử 1945-1954: Giáo viên cho học sinh xem bộ
phim tư liệu “ Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954 và chiến
dịch lịch sử Điện Biên Phủ” . Các em sẽ được chứng kiến những hình ảnh chân
thực của một thời kì lịch sử hào hùng với các hình ảnh của các anh hùng như
Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ Châu Mai, Tô Vĩnh Điện lấy thân chèn
Pháo. Hình ảnh quân và dân ta đào hầm khoét núi, nếm mật, nằm gai, chịu bao
khổ cực vận chuyển lương thực, thực phẩm, phương tiện vũ khí để đến với chiến
dịch lịch sử này. Thông qua các đoạn phim tư liệu lịch sử như thế thì giờ học lịch
sử không thể nào còn nhàm chán nữa.
Hoặc ở giai đoạn lịch sử Việt Nam từ 1954 – 1975: có rất nhiều phim tư
liệu phục vụ cho bài dạy lịch sử như: phong trào Đồng Khởi, nhân d6an miền
Nam chiến đấu chống chiến tranh đặc biệt, chống chiến tranh cục bộ, chống
chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, Cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân
1968, Tổng tiến công và và nổi dậy xuân 1975 ( có đính kèm trong CD ). Qua


đó, sẽ giúp cho các em học sinh là những người sống trong thời kỳ hòa bình,
phải biết sống như thế nào cho xứng đáng với cha ông, với các anh hùng đã hy
sinh trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập và bảo vệ Tổ Quốc. Các em có ý
thức hơn trong học tập và rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức về vị trí và vai trò
của bộ môn lịch sử.
- Ở giai đoạn 1975-2000, giáo viên cũng có thể giới thiệu đến học sinh
những đoạn phim tư liệu về những thành tựu đạt được của Đảng và nhân dân ta
sau Đại hội VI ( có đính kèm trong CD) để khẳng định hơn nữa, đường lối đổi
mới của Đảng hoàn toàn là đúng đắn, phù hợp với sự phát triển của xã hội.
III KẾT QUẢ

Trong những năm vừa qua tôi đã sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học
lịch sử theo những kinh nghiệm đã đúc kết ở nội dung trên, đây không phải là
phương pháp mới, có thể cũng đã được thầy cô ở nhiều trường áp dụng. Tuy vậy
với bản thân phần nào cũng đạt được một số kết quả nhất định, cụ thể năm học
2009-2010, nhà trường phân công tôi dạy 4 lớp lịch sử 12, đã đạt hơn 90% số
học sinh có điểm trung bình từ 5 đến 9,25 điểm trong kì thi tốt nghiệp 2010
Qua kết quả trên cho chúng ta thấy được tính khả thi của việc áp dụng đồ
dùng trực quan trong dạy học lịch sử đã phát huy tính tích cực hoạt động độc lập
của học sinh.
IV. KIẾN NGHỊ

1/ Đối với giáo viên

Khi sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử cần chú ý các
nguyên tắc sau:
- Phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu giáo dục của bài học để lựa chọn đồ
dùng trực quan tương ứng thích hợp. Vì vậy cần xây dựng một hệ thống đồ dùng
trực quan phong phú, phù hợp với từng loại bài lịch sử.

- Có phương pháp thích hợp đối với việc sử dụng mỗi loại đồ dùng trực
quan.
- Phải đảm bảo được sự quan sát đầy đủ đồ dùng tực quan của học sinh.
- Phát huy tính tích cực của học sinh khi sử dụng đồ dùng trực quan.
- Đảm bảo kết hợp lời nói và việc trình bày các đồ dùng trực quan, đồng
thời rèn luyện khả năng thực hành của học sinh khi sử dụng đồ dùng trực quan
(đắp sa bàn, vẽ bản đồ, tường thuật trên bản đồ, miêu tả hiện vật )
- Tùy theo yêu cầu của bài học và loại hình đồ dùng trực quan mà có cách
sử dụng khác nhau. Loại đồ dùng trực quan treo tường được sử dụng nhiều nhất
trong dạy học lịch sử hiện nay là lược đồ, sơ đồ, bảng biểu, trước khi sử dụng
chúng cần chuẩn bị thật kĩ (nắm chắc nội dung, ý nghĩa của từng loại, phục vụ

cho nội dung nào của giờ học ). Trong khi giảng cần xác định đúng thời điểm
để treo bản đồ không nên treo trên bảng đen vì còn dùng bảng để viết mà treo
cao ở góc bên phải của bảng, nơi có ánh sáng cho tất cả học sinh nhìn thấy rõ,
giáo viên cần đứng bên phải đồ dùng, dùng que chỉ vị trí thật chính xác.
- Loại đồ dùng trực quan cỡ nhỏ được sử dụng riêng cho từng học sinh
trong giờ học, trong việc tự học ở nhà, giáo viên phải hướng dẫn học sinh sử
dụng tốt loại đồ dùng trực quan này, quan sát kĩ, tìm hiểu sâu sắc nội dung, hoàn
thành các bài tập, tập vẽ bản đồ, chứ không phải “can” theo sách.
- Tổ chuyên môn cần tăng cường tổ chức các giờ hoạt động ngoại khóa,
các chuyên đề lịch sử như các cuộc thi đố vui, các trò chơi lịch sử sẽ tăng cường
bổ sung tính hình ảnh thông qua các đồ dùng trực quan phục vụ cho bài học trên
lớp.
2/ Đối với trường:

- Cần tạo điều kiện về phòng ốc nhất là phòng học Bộ môn, đèn chiếu để
phục vụ giảng dạy. Tăng cường hơn nữa trang thiết bị đồ dùng dạy học trong các
tiết dạy lịch sử.
- Cần có nơi để đồ dùng dạy học một cách ngăn nắp khoa học hơn.

- Cần mua các tư liệu lịch sử có liên quan trong chương trình học để giáo
viên và học sinh tham khảo nhằm bồi dưỡng thêm tri thức và tăng tính hiệu quả
của bộ môn.
V/ KẾT LUẬN

Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi giáo dục phổ thông phải
đào tạo những con người phát triển toàn diện, phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Mỗi môn học ở nhà trường phổ thông với đặc trưng
của mình đều phải góp phần đào tạo thế hệ trẻ, trong đó có lịch sử. Bộ môn lịch
sử ở trường phổ thông có chức năng, nhiệm vụ to lớn trong việc đào tạo con
người Việt Nam vừa có trình độ khoa học phong phú vừa thấm nhuần truyền
thống bản sắc dân tộc, có năng lực tư duy sáng tạo để hội nhập với thế giới và
khu vực, để đáp ứng được yêu cầu trên, cần phải có sự đổi mới về phương pháp
dạy học môn Lịch sử mà trong đó phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan có
hiệu quả là một trong nhân tố góp phần to lớn để đạt được mục tiêu giáo dục
trong dạy học lịch sử cả về mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển nhân cách cho
học sinh.
Biển học là vô bờ. Tôi nghĩ rằng mỗi thầy cô giáo đều có những biện pháp riêng
để nâng cao chất lượng dạy học lịch sử. Trong phạm vi hạn hẹp của đề tài, tôi chỉ mạn
phép nêu lên “Một số kinh nghiệm về việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy
học lịch sử việt Nam lớp 12” mà bản thân đã thực hiện trong quá trình giảng dạy và
đạt được một số hiệu quả nhất định. Thiết nghĩ rằng, những kinh nghiệm trên ít nhiều

có thể giúp quý thầy cô tham khảo, bổ sung và ứng dụng trong quá trình giảng dạy của
mình nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử. Những thiếu sót trong quá trình viết
đề tài là điều không thể tránh khỏi, rất mong được sự góp ý chân thành của quý thầy
cô.

Biên Hòa ngày 15/05/2011
Người viết sáng kiến





Hoàng Văn Tâm




TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. SGK lịch sử 12 – Phan Ngọc Liên – Chủ biên – NXB giáo dục 2009
2. SGV lịch sử 12 – Phan Ngọc Liên – Chủ biên – NXB giáo dục 2009
3. Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT-
Phan Ngọc Liên- chủ biên-NXB Đại học sư phạm.
4. Tài liệu hội nghị - Bộ giáo dục và đào tạo vụ trung học phổ thông
5. Các con đường biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường
phổ thông – Nguyễn Thị Côi- NXB Đại học sư phạm năm 2006
6. Kênh hình trong dạy học lịch sử ở trường THPT – Nguyễn Thị Côi –
NXB Đại học quốc gia Hà Nội













×