Chính quyền địa phương
SƠ LƯỢC SỰ GIỒNG VÀ KHAC NHAU GIỮA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
THÁI LAN VÀ VIỆT NAM.
I. GIỚI THIỆU CHUNG
1. Vị trí địa lí
Với diện tích 513.115 km vuông và dân số khoảng 60 triệu (năm 1996), Thái Lan có thể
được coi là một quốc gia cỡ trung ở khu vực châu Á và Thái Bình Dương và một đất nước
nhỏ trong một so sánh quy mô thế giới. Thái Lan nằm ở trung tâm của khu vực Đông Nam
Á. Láng giềng gần gũi của nó là Myanmar, Lào và Việt Nam về phía bắc, Campuchia và
Việt Nam về phía đông, Malaysia, Indonesia và Singapore ở phía nam và Myanmar về phía
tây. Phần phía nam của đất nước là một bán đảo liên kết Thái Bình Dương (nghĩa là Biển
Đông) và Ấn Độ Dương.
2. Các cấp chính quyền địa phương
Chính quyền địa phương của thái lan được chia thành 3 cấp:
- Hành chính trung ương bao gồm: Thủ tướng , 13 bộ và 36 bộ trưởng cấu thành nội
các. Các bộ bao gồm: công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, tài chính, quốc phòng, ngoại
giao, truyền thông, nội vụ, lao động và phúc lợi xã hội, giáo dục, y tế công đồng, khoa học
và công nghệ, môi trường và đại học.
- Chính quyền hành chính cấp tỉnh bao gồm thống đốc tỉnh và viên chức cấp huyện.
cả nước được chia ra 75 tỉnh. Thống đốc và ông ta đại diện quản lý một tỉnh. Tỉnh chia cấp
quản lý ra thành các huyện, được lãnh đạo bởi viên chức cấp huyện, chịu trách nhiệm và
dưới quyền quản lý của thống đốc. Một huyện được chia ra cấp dưới của huyện (có thể
hiểu là tương đương cấp xã ở Việt nam) gọi là tambon, được lãnh đạo bởi thủ lĩnh. Một xã
được chia ra nhiều làng và được lãnh đạo bởi những người đứng đầu làng.
- Hành chính địa phương hay chính phủ địa phương có 6 đặc điểm khác nhau. Hành
chính địa phương hay hành chính của tỉnh thí có một vài phạm vi cộng đồng khác nhau.
Thái lan thì về mặt hành chính được chia thành các tỉnh, huyện và xã. Đó là những vùng
hành chính dưới quyền quản lý của tỉnh, như những vùng địa lý với những loại chính phủ
địa phương có chức năng khác nhau. Thống đốc của tỉnh và viên chức quản lí chuyên
ngành cấp huyện, trong sự quản lí của tỉnh, và hoạt động như một người đại diện cho chính
phủ trung ương ở tỉnh. Tất nhiên quyền quản lí chịu sự kiểm tra của chính phủ trung ương.
3. Hệ thống thứ bậc và các loại chính phủ địa phương.
Chính phủ địa phương ở thái lan thì đựơc tổ chức trong 6 hình thức khác nhau; phân bổ
giữa các vùng thành phố và nông thôn thì như nhau. Thành phố- hình thức tổ chức của
chính quyền địa phương bao gồm:
Thủ đô hành chính Băng Cốc, chính phủ địa phương chấp hành đặc biệt.
Đô thị tự trị, cai quản thành phố trong tỉnh.
Thành phố Pattaya, một chính phủ địa phương của thành phố, quản lí riêng biệt
Pattaya.
Nông thôn, hình thức của chính quyền địa phương bao gồm:
Quản lí hành chính tỉnh(PAO), cấu thành chính phủ địa phương như 1 cấp của tỉnh
Quản lí hành chính huyện, cấu thành chính phủ địa phương tạo cấp xã.
ủy ban vệ sinh, một chính phủ địa phương ở trung tâm nông thôn.
Bảng: các bộ phận cấu thành và các hình thức của chính phủ địa phương.
Các hình thức của chính phủ địa phương Diện tích và dân số Người lãnh đạo
Lập pháp
1
Chính quyền địa phương
1.Thủ đô hành chính Băng Cốc Đô thị, 1,565km2, 7,2 triệu người, có 38 quận
Thống đốc, được bầu trực tiếp phổ thông đầu phiếu, người bổ nhiệm 5 đại diện và
38 viên chức đầu quận38 thành viên của hội đồng, được bầu cử phổ thông, mỗi quận có 7
thành viên hội đồng được bầu phổ thông
2.Đô thị tự trị- có 3 loại đô thị tự trị. Thành phố Thị trưởng, được bầu cử bởi hội đồng
Hội đồng được bầu phổ thông nhiệm kỳ 4 năm
2.1.đô thị tự trị huyện 48(Tambon)
Trên 7000 người, 1500km2 Thị trưởng, được bầu bởi hội đồng, thị trưởng bổ
nhiệm 2 người thi hành 12 thành viên hội đồng có nhiệm kỳ 4 năm.
2.2 đô thị tự trị thị trấn (87) 10000 người, 3000 km2 Thị trưởng được bầu bởi hội
đồng thành phố, thị trưởng bổ nhiệm 2 giám đốc điều hành 18 thành viên hội đồng có
nhiệm kỳ 4 năm
2.3. thành phố tự trị (9) 50000 người, 3000km2 Thị trưởng được bầu bởi hội
đồng 24 thành viên hội đồng có nhiệm kỳ 4 năm
3. Thành phố tự trị Pataya Đô thị, 28.000 người, 208 km2( 22km2 trong tp, 186 km2
trên 3 đảo) Người quản lí được thuê 4 năm, người bổ nhiệm 2 người phó quản lí.
17 thành viên hội đồng, 9 người được bầu, 8 người được bổ nhiệm cón hiệm kỳ 4
năm
4. Cơ quan hành chính cấp tỉnh Thuộc tỉnh, thành phố Diện tích và dân số khác nhau
Thống đốc của tỉnh, được bổ nhiệm bởi bộ trưởng nội vụ, người được bổ nhiệm 1
cấp phó Hội đồng có nhiệm kỳ 4 năm. Diện tích và dân số khác nhau có, 24, 36, 42,
48 thành viên.
5. Tổ chức hành chính cấp huyện. Đô thị, dân số, diện tích khác nhau Người đứng
đầu được bổ nhiệm bởi thống đốc Một phần của hội đồng được bổ nhiệm bởi người
đứng đầu xã, và tất cả những người đứng đầu các làng, một phần được bầu cử từ mỗi làng.
6. Ủy ban môi trường Đô thị trung tâm có 1500 người, thu nhập 400.000 bạt Công
chức cấp huyện dduojc bổ nhiệm bởi chủ tịch ủy banủy ban bao gồm những thành viên cũ
được bổ nhiệm bởi huyện và 1 số được bầu.
4. Những chức năng của chính quyền địa phương
Thông thường chức năng của chính quyền địa phương có lẽ được phân ra làm 3 loại: loại
do pháp luật qui đinh, loại được phép làm tùy ý, loại quy định đặc biệt theo lập pháp. Tất
cả các hình thức chính quyền địa phương có chức năng thi hành giống nhau. Tất nhiên
chính quyền đô thi thi hành nhiều dịch vụ phức tạp hơn chính quyền ở nông thôn
Chức năng do pháp luật qui đinh:
+ Duy trì trật tự pháp luật
+ Cung cấp dịch vụ vận tải công cộng
+ Các dịch vụ về môi trường ( cung cấp nước, thoát nước, rác thải….)
+ Chữa cháy
+ Ngăn ngừa và kiểm soát sự lây lan bệnh dịch.
+ Dịch vị sát sinh( lò mỗ)
+ Cung cấp dịch vụ sức khỏe cộng đồng
+ Cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em.
+ Cung cấp nơi nghỉ ngơi công cộng
+ Cung cấp giáo dục tiểu học.
2
Chính quyền địa phương
Chức năng được phép làm tùy ý.
+ Cung cấp nơi buôn bán, dịch vụ bến phà và hải cảng
+ cung cấp dịch vụ hỏa táng.
+Cung cấp và bảo trì các bệnh viện;
+Cung cấp các tiện ích công cộng;
+Cung cấp và bảo trì các công viên, vườn thú và các khu vui chơi giải trí cũng như các cơ
sở thể thao;
+Cung cấp đào tạo nghề;
+Chương trình khuyến mại của nghề nghiệp của công dân;
+Cải thiện nhà ổ chuột; và
+Duy trì doanh nghiệp của chính phủ
Quy đinh đặc biệt theo lập pháp
+ Luật quảng cáo từ năm 1950
+Luật đăng ký dân sự có từ 1956
+ Luật minh bạch và nghi lễ quốc gia tư năm 1960
+Luật bãi xe hơi từ 1960
+ Luật kế hoạch thành phố năm 1975
+ Luật kiểm soát xây dựng từ 1979
+Luật quốc phòng từ 1979
Thực tế những chức năng trên, phạm vi của chính quyền đia phương thì rất hạn chế.
Những chức năng của chính phủ địa phương nông thôn thì bị hạn chế hơn nữa bởi sự
chồng chéo quyền lực giữa chính quyền địa phương và chính quyrfn hành chính cấp tỉnh.
Nhiều chức năng của chính quyền địa phương thì được thực thi bởi chính phủ trung ương.
4. Tài chính của chính quyền địa phương.
Tài chính chính phủ địa phương bao gồm: kế hoạch và quản lí của 2 phạm vi hoạt động
chủ yếu đó là thu nhập và tiêu dùng. Tất cả cơ quan hành chính địa phương theo một thủ
tục hành chính bao gồm 6 giai đoạn.
4.1.Quy hoạch phát triển
Theo nguyên tắc chính sách các đơn vị chính quyền địa phương điều hành kế hoạch phát
triển năm năm và hàng năm. Các kế hoạch phục vụ như là một khuôn khổ chung trong đó
ngân sách hàng năm được dự toán
. 4.2. Ngân sách từng năm.
Như thường lệ những đơn vị kế hoạch của chính quyền địa phương, sự phát triển tiêu
dùng tố trong phạm vi giới hạn của thu nhập. Dự án tài chính cảu chính quyền là một sợi
chỉ xuyên suốt cho ác kế hoạch hàng năm và 5 năm. Người thực thi quyền lực ở địa
phương đệ trình kế hoạch tài khóa hàng năm cho cơ quan laapij pháp địa phương thảo luận
và phê chuẩn trước năm tài khóa tiếp theo.
4.3. Thu nhập
Một khi ngân sách hàng năm được thông qua tại dưới hình thức một pháp lệnh chính quyền
địa phương, đơn vị chính quyền địa phương sẽ thu thập các khoản thu theo quy định của
pháp luật có liên quan và quy định.
4.5. Sự thu nhận và sự bồi hoàn
Thủ tục hành chính là công việc hàng ngày bao gồm sự thu nhận và sự bồi hoàn.
4.6. Sự thanh toán và kiểm toán
Thủ tục tính toán thực hiện bên trong và bên ngoài. Tổng cục kiểm toán. Một bộ của chính
phủ trung ương, thự hiện việc kiểm toán bên ngoài
3
Chính quyền địa phương
4.7. Cơ cấu thu nhập.
Tất cả các đơn vị của chính quyền địa phương thu hút doanh thu của họ từ
4 nguồn chính: thu thuế, trợ cấp của chính quyền trung ương, tài sản và các doanh nghiệp
và các khoản vay. Những khoản thu có thể được phân loại như sau:
Chính quyền địa phương các loại thuế, phân loại trong 3 loại:
Thuế thu thập bởi chính quyền địa phương. Chúng bao gồm thuế nhà ở, thuế đất, thuế biển
và thuế giết mổ Bổ sung về thuế của chính phủ trung ương. Bởi pháp luật về chính quyền
địa phương được thu thêm một tỷ lệ phần trăm trên đầu trang của các loại thuế thu bởi
chính phủ trung ương. Hai loại chính của các loại thuế bao gồm:
Thuế giá trị gia tăng trên hàng hoá và dịch vụ, trong đó tỷ lệ được xác định bởi
chính quyền trung ương. Theo luật định một chính quyền địa phương có thể thu thập một
giá trị bổ sung thuế lên tới một tỷ lệ nhất định trên đầu trang của các tỷ lệ được xác định
bởi chính quyền trung ương. Hiện nay thuế VAT là 10 phần trăm
Chính quyền địa phương của chia sẻ là 1 phần trăm, trong khi 9 phần trăm đi vào
chính phủ trung ương. Tỷ lệ thuế VAT là tiếp tục phân phối cho tất cả các chính quyền địa
phương tương ứng: 60 phần trăm được phân bổ cho các BMA, 25,43 phần trăm cho các đô
thị, 7,07 phần trăm cho PAOs( tổ chức hành chính cấp tỉnh-Provincial Administrative
Organization) , 5,5 phần trăm đến Sukhapiban và 2 phần trăm đến Taos ( tổ chức hành
chính cấp xã-Tambon Administrative Organization )
Thuế doanh nghiệp cụ thể là các loại thuế đánh vào kinh doanh nhất định. Tỷ giá
được xác định bởi chính quyền trung ương. Chúng bao gồm 3 phần trăm doanh thu về kinh
doanh ngân hàng và tài chính, 2,5 phần trăm về bảo hiểm nhân thọ, 3 phần trăm về kinh
doanh bảo hiểm nói chung và 2,5 phần trăm trên cầm đồ. Chính quyền địa phương có thể
thu thập một tỷ lệ phần trăm bổ sung không quá 10 phần trăm trong số này tỷ giá, tức là
0,3 phần trăm.
Đường và các loại thuế mà vận tải được thu thập do Sở Giao thông vận tải, một bộ
phận của chính phủ trung ương. Số tiền thuế thu trừ đi 5 cent cho mỗi phí dịch vụ hoàn
toàn giao cho chính quyền địa phương;
Trong thực tế, cơ quan chính phủ trung ương, lấy 5 phần trăm cổ phần của chính quyền địa
phương như là một phí dịch vụ, thực hiện việc thu thập thực tế của các loại thuế. Các loại
thuế khác của thể loại này bao gồm thuế rượu và các loại thuế đánh bạc.
5. Lệ phí, giấy phép, phạt tiền;
Doanh thu từ tài sản, các tiện ích công cộng và doanh nghiệp, chính quyền địa phương; và
Đóng góp, trợ cấp, các khoản vay và trợ cấp từ chính phủ trung ương
6. Chi phí chính quyền địa phương.
Nói chung chi tiêu chính phủ địa phương được có thể phân loại vào trong 2 nhóm lại.
Những chi phí Hành chính mà gồm có lương tuần, tiền lương, trả công, những chi phí của
những tiện ích, những giá vật tư và những sự trợ cấp.
Những chi phí đầu tư mà bao gồm những chi phí của xây dựng, đất và thiết bị. Thông
thường những chi phí đầu tư đại diện cho những chi phí của những dự án phát triển được
nhận làm bởi chính quyền địa phương.
7. Những vấn đề của tài chính công địa phương.
7.1.Không đủ doanh thu
Như được chỉ ra trước đó, chính quyền địa phương tại Thái Lan đang phải chịu sự kiểm
soát mạnh mẽ bởi chính phủ trung ương. Do đó, hầu hết các nguồn lực và doanh thu tạo ra
được rút ra vào trung tâm. Điều gì là trái với chính quyền địa phương hầu như không đủ để
4
Chính quyền địa phương
đáp ứng nhu cầu của cộng đồng địa phương, cả thành thị và nông thôn. Như trong bảng 5,
doanh thu chính quyền địa phương đều rất thấp, trung bình 1,2 phần trăm GDP, hoặc 7
phần trăm doanh thu của chính quyền trung ương. Điều này gây nên một khó khăn nghiêm
trọng cho chính quyền địa phương.
Trước hết, nó hạn chế năng lực của chính quyền địa phương để cung cấp dịch vụ cơ bản
cho cộng đồng đang phát triển nhanh, đặc biệt là những đô thị hóa. Thứ hai, năng lực lập
kế hoạch và thực hiện các dự án phát triển trên sáng kiến riêng của chính phủ địa phương
là bị giới hạn bởi các khoản thu không đủ. Hơn 90 phần trăm chi tiêu công cộng quốc gia
đang ở trong tay của các Bộ, chính phủ trung ương, các ngành. Do đó các cơ quan chính
phủ trung ương thực hiện dự án phát triển nhất trong các cộng đồng địa phương, thành thị
và nông thôn như nhau. Tất cả các chính quyền địa phương là phụ thuộc vào chính quyền
trung ương cho các cấp để thực hiện dự án phát triển lớn hơn. Thứ hai hầu hết các chính
phủ địa phương ở Thái Lan, có lẽ với ngoại lệ của BMA. đã không phát triển nhiều về
năng lực để cung cấp các dịch vụ và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng nhanh cộng đồng địa
phương và các vấn đề của họ. Vấn đề giao thông tại hầu hết các thành phố lớn, đặc biệt là
ở Bangkok, là một trường hợp tại điểm. Ba là, thu nhập thấp, hạn chế năng lực của chính
quyền địa phương để thu được cho các dự án phát triển của họ vì không có khả năng trả
nợ. Để có một khoản vay chính quyền địa phương phải giành được sự chấp thuận của
chính quyền trung ương cho dự án đề xuất. Chỉ có một số lớn các chính phủ địa phương (ví
dụ như các BMA-Bangkok Metropolitan Administration), Chiangmai đô thị và thành phố
Pattaya) gây quỹ thông qua khoản cho vay.
7.2. Bất bình đẳng phân phối thu nhập
Đa số các quốc gia giàu có về mặt doanh thu của chính phủ là tập trung trong tay của chính
quyền trung ương, do đó phân phố lại một tỷ lệ nhỏ cho chính quyền địa phương. Trong số
các phân bổ, BMA một mình nhận được 60 phần trăm, trong khi 144 đô thị, 75 PAOs,
2.761 Taos và 986 Sukhapiban nhận được phần còn lại. Tài trợ từ chính quyền trung ương
cũng được phân phối. Một vài thành phố lớn như Bangkok, Chiangmai và Hat Yai nhận
được nhiều nhất của các cấp, để lại đằng sau các thành phố nhỏ.
7.3. Mức độ tham gia công cộng
Về nguyên tắc, chính quyền địa phương là đơn vị cơ bản của một hệ thống chính trị dân
chủ. Ở cấp độ của người dân chính quyền địa phương tham gia vào hệ thống chính trị
thông qua các cuộc bầu cử của hành pháp và các ngành lập pháp của chính phủ. Khác hơn
là bỏ phiếu trong cuộc bầu cử này, nhân dân tham gia vào bất cứ cấp chính quyền địa
phương là tối thiểu. Không có điều khoản trong pháp luật về chính quyền địa phương cung
cấp một kênh hợp pháp thông qua đó người dân có thể tham gia vào công việc của chính
quyền địa phương. Ngoại lệ duy nhất là việc cung cấp ở Bangkok Metropolitan
Administration Act 1975 đó quy định rằng thống đốc của thành phố có thể trưng cầu dân
ý. Cung cấp này chưa bao giờ được đặt trong thực tế. Lý do tại sao trực tiếp tham gia vào
chính quyền địa phương đã được tối thiểu sẽ được quy cho 2 yếu tố chính. Thứ nhất, hầu
hết các luật pháp không cung cấp các biện pháp pháp lý do đó người dân có thể trực tiếp
tham gia vào công việc của chính quyền địa phương. Trong tình huống của cuộc xung đột
giữa công dân và chính quyền địa phương, thường là người đầu tiên đưa vấn đề cho đường
phố theo tinh thần của đơn khởi kiện và kháng nghị. Chỉ sau đó cuộc xung đột được báo
cáo trong các phương tiện truyền thông, nhưng không nhất thiết là giải pháp. Như vậy chỉ
khởi động một quá trình đàm phán. Trong trường hợp xung đột giữa chính quyền địa
phương và chính phủ trung ương, không có khung pháp lý để chăm sóc họ. Do đó tất cả
5