Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

20 TAC PHAM CHUYEN THI VAO LOP 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (956.54 KB, 99 trang )

Facebook: Thế Văn
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
(Trích Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ)
Chú ý: Bản tài liêu này khơng thể chỉnh sửa, để tải
bản chỉnh sửa vui lịng truy cập link dưới:

20 tác phẩm chuyên thi vào lớp
10 môn ngữ văn
Giữ nút ctrl và click vào link để mở tài liệu
Thầy cơ có thể tự đăng ký tài khoản để tải hoặc sử
dụng tài khoản sau
Tài khoản: Giaoanxanh
Mật khẩu: Giaoanxanh
Nhận thêm tài liệu Ngữ văn THCS tại đây:
/>Nhận thêm tài liệu Ngữ văn THPT tại đây:
/>
I- GỢI Ý
1. Tác giả:
Nguyễn Dữ (chưa rõ năm sinh, năm mất), người huyện Trường Tân, nay là huyện
Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI, là thời kì triều đình nhà
Lê đã bắt đầu khủng hoảng, các tập đồn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành
quyền bính, gây ra những cuộc nội chiến kéo dài. Ông học rộng, tài cao, nhưng chỉ
làm quan có một năm rồi xin nghỉ.
2. Tác phẩm:
Tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Dữ là Truyền kì mạn lục, gồm 20 truyện viết
bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác
giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả.
Chuyện người con gái Nam Xương thể hiện niềm cảm thương của tác giả đối với
số phận oan nghiệt, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của của người phụ nữ Việt
Nam dưới chế độ phong kiến.
... Về mặt nội dung, Truyền kì mạn lục chứa đựng nội dung phản ánh hiện thực và


giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm cũng đồng thời cho thấy những phức tạp trong tư
tưởng nhà văn.
Nguyễn Dữ phản ánh hiện thực xã hội thời đại mình qua thể truyền kì nên tác giả
thường lấy xưa để nói nay, lấy cái kì để nói cái thực. Đọc Truyền kì mạn lục nếu biết


bóc tách ra cái vỏ kì ảo sẽ thấy cái cốt lõi hiện thực, phủi đi lớp sương khói thời gian
xưa cũ, sẽ thấy bộ mặt xã hội đương thời. Đời sống xã hội dưới ngịi bút truyền kì của
nhà văn hiện lên khá toàn diện cuộc sống người dân từ bộ máy nhà nước với quan
tham lại nhũng đến những quan hệ với nền đạo đức đồi phong bại tục.
Nếu khi phê phán, tố cáo hiện thực xã hội, Nguyễn Dữ chủ yếu đứng trên lập
trường đạo đức thì khi phản ánh số phận con người, ông lại xuất phát tự lập trường
nhân văn. Chính vì vậy, Truyền kì mạn lục chứa đựng một nội dung nhân đạo sâu sắc.
Về phương diện này, Nguyễn Dữ là một trong những nhà văn mở đầu cho chủ nghĩa
nhân văn trong văn học trung đại Việt Nam. Truyền kì mạn lục phản ánh số phận con
người chủ yếu qua số phận của người phụ nữ, đồng thời hướng tới những giải pháp
xã hội, nhưng vẫn bế tắc trên đường đi tìm hạnh phúc cho con người". (Từ điển văn
học - NXB Thế giới, 2005).
3. Thể loại:
Truyện truyền kì là những truyện kì lạ được lưu truyền. Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ là sự ghi chép tản mạn về những truyện ấy. Tác phẩm được viết bằng chữ
Hán, khai thác các truyện cổ dân gian, các truyền thuyết lịch sử, dã sử của Việt Nam.
Nhân vật chính trong Truyền kì mạn lục phần lớn là những người phụ nữ đức hạnh
nhưng lại bị các thế lực phong kiến, lễ giáo khắc nghiệt xô đẩy vào những cảnh ngộ
éo le, oan khuất. Bên cạnh đó cịn có kiểu nhân vật là những người trí thức có tâm
huyết nhưng bất mãn với thời cuộc, khơng chịu trói mình vào vịng danh lợi chật hẹp.
4. Tóm tắt:


Câu chuyện kể về Vũ Thị Thiết - người con gái q ở Nam Xương, tính tình nết

na thuỳ mị. Lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng
ở nhà phụng dưỡng mẹ già và nuôi con nhỏ. Để dỗ con, nàng thường chỉ bóng mình
trên tường và bảo đó là cha nó. Khi Trương Sinh về thì con đã biết nói. Đứa bé ngây
thơ kể với Trương Sinh về người đêm đêm vẫn đến nhà. Trương Sinh sẵn có tính
ghen, mắng nhiếc và đuổi vợ đi. Phẫn uất, Vũ Thị Thiết chạy ra bến Hoàng Giang tự
vẫn. Khi hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn, Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng.
Cũng có thể tạm chia truyện thành hai phần, lấy mốc là việc Vũ Nương nhảy
xuống sông tự tử:
- Đoạn 1 (từ đầu đến "và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ"): bị chồng nghi oan.
Vũ Nương tự vẫn.
- Đoạn 2 (còn lại): nỗi oan được giải, Vũ Nương được cứu sống nhưng vẫn khơng
trở về đồn tụ cùng gia đình.
II- GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Có lẽ người Việt Nam chúng ta ai cũng hiểu và biết cách sử dụng cụm từ "oan
Thị Kính"  một nỗi oan khuất mà người bị oan khơng có cách gì để thanh minh. Thị
Kính chỉ được giải oan nhờ Đức Phật hay nói đúng hơn là nhờ tấm lịng bao dung độ
lượng, ln hiểu thấu và sẵn sàng bênh vực cho những con người bé nhỏ, thua thiệt,
oan ức trong xã hội của những nghệ sĩ dân gian.
Người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương khơng có được cái may
mắn như Thị Kính mặc dù nỗi oan của nàng cũng khơng kém gì, thậm chí kết cục cịn
bi thảm hơn. Thị Kính được lên tồ sen trong khi người phụ nữ này phải tìm đến cái
chết để chứng tỏ sự trong sạch của mình. Mặc dù vậy, nhân vật này vẫn khơng được
nhiều người biết đến, có lẽ bởi phương thức kể. Ai cũng biết đến Thị Kính vì câu
chuyện về nàng được thể hiện qua một vở chèo  một loại hình nghệ thuật dân gian
quen thuộc, được nhân dân ưa thích từ xa xưa, trong khi Người con gái Nam Xương
là một tác phẩm văn học viết thời trung đại (trong điều kiện xã hội phong kiến, nhân
dân lao động hầu hết đều không biết chữ). Ngày nay đọc lại tác phẩm này, chúng ta
có thể hiểu thêm rất nhiều điều về thân phận những người phụ nữ trong xã hội phong
kiến qua nghệ thuật dựng truyện, dẫn dắt mạch truyện cũng như nghệ thuật xây dựng
nhân vật, cách thức kết hợp các phương thức tự sự, trữ tình và kịch của tác giả.

Trong phần đầu của truyện, trước khi biến cố lớn xảy ra, tác giả đã dành khá
nhiều lời để ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, từ nhan sắc cho đến đức hạnh. Hầu
như không có sự kiện nào thật đặc biệt ngồi những chi tiết (tiễn chồng đi lính, đối xử
với mẹ chồng...) chứng tỏ nàng là một người con gái đẹp người đẹp nết, một người
vợ hiền, một người con dâu hiếu thảo. Chỉ có một chi tiết ở đoạn mở đầu: "Song
Trương có tính đa nghi, đối với vợ phịng ngừa q sức". Bạn đọc có thể dễ bỏ qua
chi tiết này vì với phẩm hạnh của nàng, dẫu Trương Sinh có đa nghi đến đâu cũng
khó có thể xảy ra chuyện gì được.
Nhưng đó lại là một chi tiết rất quan trọng, thể hiện tài kể chuyện của tác giả. Chi
tiết nhỏ được cài rất khéo đó chính là sợi dây nối giữa phần trước và phần sau, xâu
chuỗi các yếu tố trong truyện, đồng thời giúp bạn đọc hiểu được nội dung tư tưởng
của tác phẩm.
Mạch truyện được dẫn rất tự nhiên. Sau khi giặc tan, Trương Sinh trở về nhà, bế
đứa con nhỏ ra thăm mộ mẹ. Thằng bé quấy khóc, khi Sinh dỗ dành thì nó nói:
2
Gr: 2k6 Thi Vào 10


 "Ơ hay! Thế ra ơng cũng là cha tơi ư? Ơng lại biết nói, chứ khơng như cha tơi
trước kia chỉ nín thin thít".
Thật chẳng khác gì một tiếng sét bất chợt. Lời con trẻ vơ tình đã thổi bùng lên
ngọn lửa ghen tng trong lịng người đàn ơng đa nghi (tác giả đã nói đến từ đầu).
Nếu coi đây là một vở kịch thì lời nói của đứa con chính là nút thắt, mở ra mâu thuẫn
đồng thời ngay lập tức đẩy mâu thuẫn lên cao. Sau khi gạn hỏi con, nghe thằng bé nói
có một người đàn ông "đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng
ngồi...", mối nghi ngờ của Sinh đối với vợ đã đến mức không thể nào gỡ ra được.
Một lần nữa, chi tiết về tính hay ghen của Sinh phát huy tác dụng triệt để. Nó lí
giải diễn biến câu chuyện, đồng thời giải đáp những thắc mắc của bạn đọc một cách
hợp lí. Tại sao Sinh khơng chịu nghe lời người vợ thanh minh? Tại sao Sinh khơng
nói cho vợ biết lí do mình tức giận như thế? (Nếu Sinh nói ra thì ngay lập tức câu

chuyện sẽ sáng tỏ). Đó chính là hệ quả của tính đa nghi. Vì đa nghi nên Sinh khơng
thể tỉnh táo suy xét mọi việc. Cũng vì đa nghi nên lời nói (dù rất mơ hồ) của một đứa
bé cũng trở thành một bằng chứng "không thể chối cãi" rằng vợ chàng đã ngoại tình
khi chồng đi vắng. Sự vơ lí đã trở nên hợp lí bởi sự kết hợp giữa hồn cảnh và tính
cách nhân vật.
Khơng biết vì sao Sinh lại nghi oan nên người vợ không thể thanh minh. Để
chứng tỏ sự trong sạch của mình, nàng chỉ có mỗi cách duy nhất là tự vẫn. Vợ Sinh
chết mà mâu thuẫn kịch vẫn không được tháo gỡ, mối nghi ngờ trong lịng Sinh vẫn
cịn ngun đó.
Theo dõi mạch truyện từ đầu, bạn đọc tuy không một chút nghi ngờ phẩm hạnh
của người phụ nữ nhưng cũng khơng lí giải nổi chuyện gì đã xảy ra và vì sao đứa bé
lại nói như vậy. Đây cũng là một yếu tố chứng tỏ nghệ thuật kể chuyện của tác giả.
Thủ pháp "đầu cuối tương ứng" được vận dụng. Đứa trẻ ngây thơ là ngun nhân dẫn
đến bi kịch thì cũng chính nó trở thành nhân tố tháo gỡ mâu thuẫn một cách tình cờ.
Sau khi vợ mất, một đêm kia, đứa trẻ lại nói:

 Cha Đản lại đến kia kìa!
Chàng hỏi đâu. Nó chỉ bóng chàng ở trên vách:

 Đây này!
Mâu thuẫn được tháo gỡ cũng bất ngờ như khi nó phát sinh. Đứa trẻ có biết đâu
rằng, nó đã gây ra một sự hiểu lầm khủng khiếp để rồi khi người chồng hiểu ra, hối
hận thì đã quá muộn. Ngay cả bạn đọc cũng phải sững sờ: sự thật giản đơn đến thế
mà cũng đủ đẩy một con người vào cảnh tuyệt vọng.
Ai là người có lỗi? Đứa trẻ đương nhiên là khơng vì nó vẫn cịn q nhỏ, chỉ biết
thắc mắc vì những lời nói đùa của mẹ. Vợ Sinh cũng khơng có lỗi vì nàng biết đâu
rằng những lời nói đùa với con để vợi nỗi nhớ chồng lại gây ra hậu quả đến thế! Có
trách chăng là trách Trương Sinh vì sự ghen tng đến mất cả lí trí. Chi tiết này gợi
lên nhiều suy nghĩ: giá như không phải ở trong xã hội phong kiến trọng nam khinh
nữ, giá như người vợ có thể tự bảo vệ cho lẽ phải của mình thì nàng đã khơng phải

chọn cái chết thảm thương như vậy. Tính đa nghi của Sinh đã không gây nên hậu quả
xấu nếu như nó khơng được ni dưỡng trong một mơi trường mà người phụ nữ luôn
luôn phải nhận phần thua thiệt về mình. ý nghĩa này của tác phẩm hầu như khơng
được tác giả trình bày trực tiếp nhưng qua hệ thống các biến cố, sự kiện được sắp xếp
hợp lí, đưa bạn đọc từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, tác giả đã thể hiện một cách tinh


tế sự cảm thơng sâu sắc của mình đối với những số phận bất hạnh, đặc biệt là của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Nếu câu chuyện dừng lại ở đây thì có thể cho rằng nó đã được sáng tạo theo một
lỗi viết khá mới mẻ và hiện đại. Nhưng Nguyễn Dữ lại là người nổi tiếng với những
câu chuyện truyền kỳ. Hoang đường, kì ảo là những yếu tố không thể thiếu trong
những sáng tác thuộc loại này. Mặt khác, tuy là một tác giả của văn học viết trung đại
nhưng hẳn Nguyễn Dữ cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều từ tư tưởng "ở hiền gặp lành"
của nhân dân lao động. Bản thân ông cũng luôn đứng về phía nhân dân, đặc biệt là
những người phụ nữ có hồn cảnh éo le, số phận oan nghiệt trong xã hội cũ. Bởi vậy,
tác giả đã tạo cho câu chuyện một lối kết thúc có hậu. Tuy khơng được hoá Phật để
rồi sống ở miền cực lạc như Thị Kính nhưng người phụ nữ trong truyện cũng được
thần rùa cứu thoát, tránh khỏi một cái chết thảm thương.
Phần cuối truyện cịn được cài thêm nhiều yếu tố kì ảo khác nữa. Ví dụ như chi
tiết chàng Phan Lang trở thành ân nhân của rùa, sau lại được rùa đền ơn. Trên đường
chạy giặc, bị đắm thuyền, dạt lên đảo và được chính con rùa năm xưa cứu thốt. Đó
có thể coi là sự "đền ơn trả nghĩa"  những hành động rất phù hợp với lí tưởng thẩm
mĩ của nhân dân. Việc người phụ nữ trở về gặp chồng nhưng khơng đồng ý trở lại
chốn nhân gian có lẽ cũng nhằm khẳng định tư tưởng nhân nghĩa ấy. Mặc dù đã được
cứu thốt, được giải oan nhưng vì lời thề với vợ vua biển Nam Hải, nàng quyết khơng
vì hạnh phúc riêng mà bỏ qua tất cả. Những chi tiết đó càng chứng tỏ vẻ đẹp trong
tính cách của người phụ nữ, đồng thời cũng cho thấy thái độ ngưỡng mộ, ngợi ca của
tác giả đối với người phụ nữ trong câu chuyện này nói riêng và người phụ nữ Việt
Nam nói chung.


HỒNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
(Trích Hồi thứ mười bốn - Ngô gia văn phái)
I- GỢI Ý
1. Tác giả:
Tác giả của Hồng Lê nhất thống chí là Ngơ gia văn phái, một tập thể tác giả
thuộc dòng họ Ngơ Thì, ở làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà
Tây. Hai tác giả chính là Ngơ Thì Chí và Ngơ Thì Du.
- Ngơ Thì Chí (1753-1788) là em ruột Ngơ Thì Nhậm, từng làm quan dưới thời
Lê Chiêu Thống. Ông tuyệt đối trung thành với nhà Lê, từng chạy theo Lê Chiêu
Thống khi Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, dâng
Trung hưng sách bàn kế khơi phục nhà Lê. Sau đó ông được Lê Chiêu Thống cử đi
Lạng Sơn chiêu tập những kẻ lưu vong, lập nghĩa binh chống Tây Sơn, nhưng trên
đường đi ông bị bệnh, mất tại huyện Gia Bình (Bắc Ninh). Nhiều tài liệu nói ơng viết
bảy hồi đầu của tác phẩm.
- Ngơ Thì Du (1772-1840) là anh em chú bác ruột với Ngơ Thì Chí, học giỏi nhưng


khơng đỗ đạt gì. Dưới triều Tây Sơn, ơng ẩn mình ở vùng Kim Bảng (Hà Nam). Thời
nhà Nguyễn, ơng ra làm quan, được bổ Đốc học Hải Dương, đến năm 1827 thì về nghỉ.
Ơng là tác giả bảy hồi tiếp theo của Hồng Lê nhất thống chí.
2. Tác phẩm:
Văn bản bài học được trích từ Hồi 14  tiểu thuyết chương hồi của Ngô gia văn
phái  tái hiện lại những diễn biến quan trọng trong cuộc đại phá quân Thanh của vua
Quang Trung  Nguyễn Huệ. Mặc dù là một tiểu thuyết lịch sử nhưng Hoàng Lê nhất
thống chí (biểu hiện cụ thể ở đoạn trích này) khơng chỉ ghi chép lại các sự việc, sự
kiện mà đã tái hiện khá sinh động hình ảnh của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, sự
thảm bại của quân xâm lược cùng với số phận bi đát của đám vua tơi nhà Lê phản
dân, hại nước.
3. Thể loại:

- Hồng Lê nhất thống chí là cuốn sách viết theo thể chí (một thể văn vừa có tính
chất văn học vừa có tính chất lịch sử), ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà
Lê, vào thời điểm anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ lãnh đạo nông dân Tây Sơn nổi
dậy khởi nghĩa, tiêu diệt nhà Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. ý nghĩa tiêu đề của tác
phẩm là như thế nhưng sau khi vua Lê dành lại được quyền thế từ tay chúa Trịnh, rất
nhiều biến cố lịch sử đã diễn ra, trong đó có cuộc tấn cơng thần tốc của nghĩa quân
Tây Sơn, dưới sự thống lĩnh của vua Quang Trung (tức Nguyễn Huệ) đánh tan hai
mươi vạn quân Thanh xâm lược. Tất cả đã được ghi chép lại một cách khá đầy đủ và
khách quan trong tác phẩm.
4. Tóm tắt:
Được tin báo quân Thanh vào Thăng Long, Bắc Bình Vương rất giận, liền họp các
tướng sĩ rồi tế cáo trời đất, lên ngơi hồng đế, hạ lệnh xuất quân ra Bắc, thân hành cầm
quân, vừa đi vừa tuyển quân lính. Ngày ba mươi tháng chạp, đến núi Tam Điệp, vua
mở tiệc khao quân, hẹn mùng bảy năm mới vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng.
Bằng tài chỉ huy thao lược của Quang Trung, đạo quân của Tây Sơn tiến lên như vũ
bão, quân giặc thua chạy tán loạn. Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa khơng kịp đóng n,
người khơng kịp mặc áo giáp, chuồn thẳng về biên giới phía Bắc, khiến tên vua bù
nhìn Lê Chiêu Thống cũng phải chạy tháo thân.
II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Một nhân tố quan trọng cần phải xem xét trước hết trong văn bản này là tác giả.
Khi sáng tạo tác phẩm, tác giả không chỉ tái hiện hiện thực khách quan mà còn thể
hiện những tư tưởng, tình cảm, quan điểm chính trị, xã hội... của mình. Tác giả của
Hồng Lê nhất thống chí là Ngơ gia văn phái  một nhóm tác giả rất trung thành với
nhà Lê. Nếu xét theo quan điểm phong kiến thì trong con mắt của Ngô gia, vua
Quang Trung là kẻ nghịch tặc. Thế nhưng trong tác phẩm, hình ảnh Quang Trung 
Nguyễn Huệ lại được miêu tả khá sắc nét với tài cầm qn "bách chiến bách thắng",
tính quyết đốn cùng nhiều phẩm chất tốt đẹp khác. Điều đó một phần bởi triều đại
nhà Lê khi đó đã quá suy yếu, mục nát, dù có là bề tơi trung thành đến mấy thì các tác
giả trong Ngơ gia văn phái cũng khó có thể phủ nhận. Mặt khác, có thể chính tài năng
và đức độ của vua Quang Trung đã khiến cho các tác giả này thay đổi quan điểm của

mình, từ đó đã tái hiện lại các sự kiện, nhân vật,... một cách chân thực.
Các chi tiết, sự kiện trong phần đầu đoạn trích này cho thấy vua Quang Trung là


người rất mạnh mẽ, quyết đốn nhưng khơng hề độc đốn, chun quyền. Ơng sẵn
sàng lắng nghe và làm theo ý kiến của thuộc hạ, lên ngôi vua để giữ lòng người rồi
mới xuất quân ra Bắc. Ngay khi đến Nghệ An, ông lại cho vời một người Cống sĩ đến
để hỏi về việc đánh quân Thanh như thế nào. Chi tiết này cho thấy Quang Trung luôn
quan tâm đến ý dân, lịng dân. Khi vị Cống sĩ nói: "Chúa công đi ra chuyến này,
không quá mười ngày, quân Thanh sẽ bị dẹp tan", ơng "mừng lắm", khơng chỉ vì
người Cống sĩ nói đúng ý mình mà chủ yếu là vì chủ trương của ơng, quyết tâm của
ơng đã được nhân dân đồng tình ủng hộ. Bằng chứng là ngay sau đó ơng cho tuyển
qn, "chưa mấy lúc, đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ".
Cách ăn nói của vua Quang Trung cũng rất có sức thuyết phục, vừa khéo léo,
mềm mỏng vừa rất kiên quyết, hợp tình hợp lí. Khi nói với binh sĩ, ơng đã cho họ
ngồi (một cử chỉ biểu lộ sự gần gũi mặc dù ông đã xưng vương), từng lời nói đều
giản dị, dễ hiểu. Sau khi lấy lịch sử từ các triều đại trước ra để cho binh sĩ thấy nỗi
khổ của nhân dân dưới ách thống trị ngoại bang, ông không quên tuyên bố sẽ trừng
phạt những kẻ phản bội, ăn ở hai lịng. Điều đó khiến cho binh sĩ thêm đồng lịng,
quyết tâm chống giặc.
Đó cũng là cách ứng xử của ơng đối với các tướng lĩnh. Khi quân đến Tam Điệp,
hai tướng Sở và Lân mang gươm trên lưng đến xin chịu tội, ông thẳng thắn chỉ ra tội
của họ nhưng lại cho mọi người hiểu họ cũng là người đã có cơng lớn trong việc bảo
tồn được lực lượng, chờ đợi thời cơ  điều đó khơng những khiến cho qn ta tránh
được những thương vong vơ ích mà cịn làm cho giặc trở nên kiêu ngạo, chủ quan,
tạo điều kiện thuận lợi để ta đánh chúng sau này.
Những lời nói, việc làm của vua Quang Trung thật hợp tình, hợp lí và trên hết là
hợp với lịng người. Vừa mềm dẻo vừa kiên quyết, xét đúng công, đúng tội, đặt lợi
ích của quốc gia và của dân chúng lên trên hết, ông đã khiến cho binh sĩ thêm cảm
phục, càng quyết tâm chống giặc. Đó là một yếu tố rất quan trọng tạo nên những

chiến thắng liên tiếp của quân Tây Sơn dưới sự thống lĩnh của vua Quang Trung.
Cuộc tiến quân ra Bắc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung thực sự chỉ có
thể diễn tả bằng từ "thần tốc". ở phần tiếp theo của đoạn trích, để diễn tả khơng khí
chiến trận rất khẩn trương, quyết liệt, các tác giả đã chú trọng nhiều hơn đến các sự
kiện nhưng khơng vì thế mà làm mờ nhạt hình ảnh tài năng của vị thống lĩnh. Lời hứa
chắc chắn trước lúc xuất quân của ông đã được đảm bảo bằng tài thao lược, xử trí hết
sức nhạy bén, mưu trí trong những tình huống cụ thể: đảm bảo bí mật hành qn,
nghi binh tấn cơng làng Hà Hồi, dùng ván phủ rơm ướt để tấn công đồn Ngọc Hồi,...
Tài dùng binh khơn khéo đó khiến cho qn Thanh hoàn toàn bị bất ngờ, khi chúng
biết được tin tức thì đã khơng thể chống cự lại được nữa, chỉ còn cách dẫm đạp lên
nhau mà chạy.
Phần cuối của đoạn trích chủ yếu diễn tả cuộc tháo chạy hỗn loạn, nhục nhã của
đám quan quân nhà Thanh. Ra đi "binh hùng tướng mạnh", vậy mà chưa đánh được
trận nào đã phải tan tác về nước. Rất có thể sau khi bại trận, qn số của Tơn Sĩ Nghị
(trước đó là hai mươi vạn) vẫn cịn đơng hơn qn của vua Quang Trung nhưng trước
sức tấn công như vũ bão của quân Tây Sơn, dưới sự chỉ huy của một vị tướng tài ba
và quyết đốn, chúng đã khơng cịn hồn vía nào để nghĩ đến chuyện chống trả.
Trong đoạn này, giọng điệu của các tác giả tỏ ra vô cùng hả hê, vui sướng. Khi
miêu tả tài "xuất quỷ nhập thần" của quân Tây Sơn, các tác giả viết: "Thật là: "Tướng
ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên"... Ngược lại, khi viết về Tơn Sĩ Nghị thì:


"Tơn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa khơng kịp đóng n, người khơng kịp mặc áo giáp...".
Đó khơng cịn là giọng của một người ghi chép lại các sự kiện một cách khách quan
mà là giọng điệu sảng khoái của nhân dân, của dân tộc sau khi đã khiến cho bọn xâm
lược ngoại bang, vốn trước ngạo nghễ là thế, giờ đây phải rút chạy nhục nhã.
Đoạn nói về vua tôi nhà Lê càng khẳng định thái độ của các tác giả khi viết tác
phẩm này. Mặc dù luôn đề cao tư tưởng trung nghĩa nhưng trước sự nhu nhược, hèn
hạ của đám vua tôi nhà Lê, các tác giả vẫn thể hiện ít nhiều thái độ mỉa mai, châm
biếm. Số phận những kẻ phản dân, hại nước cũng thảm hại chẳng kém gì những kẻ

cậy đơng, đem qn đi xâm lược nước khác. Đó là số phận chung mà lịch sử giành
cho lũ bán nước và lúc cướp nước.
Cuộc đại phá quân Thanh xâm lược là một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu
tranh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Người làm nên kì tích ấy là Quang Trung 
Nguyễn Huệ, vị "anh hùng áo vải" vừa có tài thao lược vừa ln hết lịng vì dân, vì
nước.
Trang sử hào hùng ấy đã được ghi lại bởi Ngơ gia văn phái  nhóm tác giả đã
vượt qua những tư tưởng phong kiến cố hữu để tái hiện lại lịch sử một cách chân
thực.
CHỊ EM THUÝ KIỀU
(Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)
I - GỢI Ý
1. Tác giả:
- Nguyễn Du (1765-1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê làng Tiên
Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; sinh trưởng trong một gia đình đại q tộc,
nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ,
từng giữ chức Tể tướng, anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng từng làm quan
to dưới triều Lê - Trịnh.
Nguyễn Du sống trong một thời đại có nhiều biến động: cuối thế kỉ XVIII - nửa
đầu thế kỉ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, bão táp phong
trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn đánh đổ các
tập đoàn phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn, quét sạch hai mươi vạn quân Thanh, rồi phong
trào Tây Sơn thất bại, nhà Nguyễn được thiết lập. Những biến cố đó đã in dấu ấn trong
sáng tác của Nguyễn Du, như chính trong Truyện Kiều ông viết: Trải qua một cuộc bể
dâu - Những điều trơng thấy mà đau đớn lịng.
Nguyễn Du từng trải một cuộc đời phiêu bạt: sống nhiều nơi trên đất Bắc, ở ẩn ở
Hà Tĩnh, làm quan dưới triều Nguyễn, đi sứ Trung Quốc. Vốn hiểu biết sâu rộng,
phong phú về cuộc sống của Nguyễn Du có phần do chính cuộc đời phiêu bạt, trải
nghiệm nhiều tạo thành.
2. Tác phẩm:

- Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị lớn, cả bằng
chữ Hán và chữ Nơm. Thơ chữ Hán có ba tập, gồm 243 bài. Thơ chữ Nôm, xuất sắc
nhất là cuốn truyện Đoạn trường tân thanh, cịn gọi là Truyện Kiều.
- "Có thể tìm thấy một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Du từ


thơ chữ Hán đến Truyện Kiều, Văn chiêu hồn. Nguyễn Du vĩ đại chính vì Nguyễn Du
là một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa. Mặc dù xuất thân từ giai tầng quý tộc, nhưng
Nguyễn Du lăn lộn nhiều trong cuộc sống của quần chúng, đã lắng nghe được tâm
hồn và nguyện vọng của quần chúng, nhà thơ đã ý thức được những vấn đề trọng đại
của cuộc đời và, với một nghệ thuật tuyệt vời, ông đã làm cho những vấn đề trọng đại
ấy trở thành bức thiết hơn, da diết hơn, ám ảnh hơn trong tác phẩm của mình. Thơ
Nguyễn Du dù viết bằng chữ Nôm hay chữ Hán đều đạt đến trình độ điêu luyện.
Riêng những tác phẩm viết bằng chữ Nôm của ông, đặc biệt là Truyện Kiều là một
cống hiến to lớn của nhà thơ đối với sự phát triển của ngôn ngữ văn học dân tộc. Về
phương pháp sáng tác, qua Truyện Kiều, chúng ta thấy Nguyễn Du đã phá vỡ rất
nhiều nguyên tắc của mĩ học truyền thống, những yếu tố ước lệ tưởng tượng của nghệ
thuật phong kiến phương Đông để đi đến chủ nghĩa hiện thực. Nhưng do những giới
hạn về mặt lịch sử, cho nên mặc dù Nguyễn Du là một thiên tài vẫn không thể phá vỡ
được triệt để, vẫn chưa thể thực sự đến được với chủ nghĩa hiện thực. Cuối cùng,
Nguyễn Du vẫn là một nhà thơ dừng lại trước ngưỡng cửa của chủ nghĩa hiện thực.
(Nguyễn Lộc - Từ điển văn học, NXB Thế giới, 2005).
- Khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã mượn cốt truyện từ một cuốn tiểu thuyết
(Kim Vân Kiều truyện) của Thanh Tâm Tài Nhân, một nhà văn Trung Quốc. Khi sáng
tác, Nguyễn Du đã thay đổi, bổ sung nhiều yếu tố trong cốt truyện cho phù hợp với
hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Tác phẩm được viết lại bằng chữ Nôm, gồm 3524 câu, theo thể thơ lục bát truyền
thống. Ngồi các yếu tố như ngơn ngữ, thể loại (vốn đã là những sáng tạo đặc sắc,
đóng góp lớn của Nguyễn Du vào q trình phát triển ngơn ngữ dân tộc), tác phẩm
còn thể hiện rất rõ hiện thực cuộc sống đương thời, đằng sau đó là "con mắt trơng

thấu sáu cõi, tấm lịng nghĩ tới mn đời" của nhà văn.
Có thể tóm tắt Truyện Kiều theo bố cục ba phần:
- Gặp gỡ và đính ước: Kiều xuất thân như thế nào? Có đặc điểm gì về tài sắc?
Kiều gặp Kim Trọng trong hồn cảnh nào? Mối tình giữa Kiều và Kim Trọng đã nảy
nở ra sao? Họ kiếm lí do gì để gần được nhau? Kiều và Kim Trọng đính ước.
- Gia biến và lưu lạc: Gia đình Kiều bị mắc oan ra sao? Kiều phải làm gì để cứu
cha? Làm gì để khơng phụ tình Kim Trọng? Kiều bị bọn Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở
Khanh lừa gạt, đẩy vào cuộc sống lầu xanh; Kiều được Thúc Sinh cứu ra khỏi lầu
xanh; Kiều trở thành nạn nhân của sự ghen tuông, bị Hoạn Thư đày đoạ; Kiều trốn
đến nương nhờ cửa Phật, Giác Dun vơ tình gửi nàng cho Bạc Bà - Kiều rơi vào lầu
xanh lần thứ ha i; Thuý Kiều đã gặp Từ Hải như thế nào? Tại sao Từ Hải bị giết?
Kiều bị Hồ Tôn Hiến làm nhục ra sao? Kiều trẫm mình xuống sơng Tiền Đường,
được sư Giác Duyên cứu.
-Đoàn tụ: Kim Trọng trở lại tìm Kiều như thế nào? Tuy kết duyên cùng Th
Vân nhưng Kim Trọng chẳng thể ngi được mối tình với Kiều; Kim Trọng lặn lội đi
tìm Kiều, gặp Giác Dun, gặp lại Kiều, gia đình đồn tụ; Chiều ý mọi người, Thuý
Kiều nối lại duyên với Kim Trọng nhưng cả hai cùng nguyện ước điều gì?
Đoạn trích Chị em Thuý Kiều nằm ở phần mở đầu tác phẩm.
Đoạn thơ này miêu tả vẻ đẹp của hai chị em Thuý Kiều và Thuý Vân. Với ngòi
bút tài hoa, khả năng vận dụng khéo léo ngôn ngữ dân tộc kết hợp với các điển tích,
điển cố, có thể nói Nguyễn Du đã giúp bạn đọc hình dung được những chuẩn mực về


vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội xưa, đó cũng có thể coi là chuẩn mực của cái
đẹp trong của văn học trung đại.
Không chỉ miêu tả những hình mẫu, chân dung Thuý Kiều và Thuý Vân trong tác
phẩm còn thể hiện những dụng ý nghệ thuật sâu xa của tác giả. Mặc dù "Mỗi người
một vẻ, mười phân vẹn mười" nhưng với mỗi nhân vật, sự miêu tả của Nguyễn Du
dường như đã dự báo những số phận khác nhau của hai chị em. Điều đó vừa thể hiện
bút pháp miêu tả nhân vật khá sắc sảo của Nguyễn Du nhưng đồng thời cũng cho thấy

quan niệm "tài mệnh tương đố" của ông.
II- GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Khi nói đến tác giả của Truyện Kiều, khơng chỉ nhân dân lao động mà tất cả các
nhà văn, nhà nghiên cứu đều thống nhất tên gọi: "Đại thi hào dân tộc". Với "con mắt
trơng thấu sáu cõi và tấm lịng nghĩ tới muôn đời" (Mộng Liên Đường), Nguyễn Du
nổi tiếng trước hết bởi cái tâm của một người luôn nghĩ đến nhân dân, luôn bênh vực
cho những cuộc đời, những số phận éo le, oan trái, đặc biệt là thân phận người phụ nữ
trong xã hội cũ. Mặt khác, những câu thơ của Nguyễn Du sở dĩ có thể khắc sâu trong
lòng nhân dân như vậy còn bởi trong Truyện Kiều, ông đã bộc lộ sự tài hoa, sắc sảo
trong việc miêu tả nhân vật, trong việc khắc hoạ những nét tâm lí nhất quán đến từng
chi tiết... Trong phần mở đầu tác phẩm, đoạn miêu tả hai chị em Th Kiều, Th Vân
có thể coi là một ví dụ tiêu biểu.
Trong những câu miêu tả khái quát, vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều đã có thể xếp
vào hàng "tuyệt thế giai nhân":
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Chỉ trong một câu thơ sáu chữ, tác giả đã khẳng định được một vẻ đẹp tồn bích,
từ nhan sắc cho đến tính tình của cả hai chị em. Điều kì diệu là cả hai vẻ đẹp đều
hoàn thiện ("mười phân vẹn mười") nhưng "Mỗi người một vẻ", không ai giống ai.
Đọc những câu thơ tiếp theo, ta càng có thể khẳng định tài năng của Nguyễn Du
trong việc miêu tả nhân vật. Không chỉ phân biệt được "Mỗi người mỗi vẻ", tác giả
còn chỉ ra sự khác nhau đó được biểu hiện cụ thể như thế nào. Mặt khác, Nguyễn Du
tả nhan sắc nhưng dường như mục đích của tác giả khơng dừng lại ở đó. Càng tả càng
gợi. Qua những câu thơ của Nguyễn Du, người đọc luôn cảm nhận được những suy
nghĩ trăn trở của nhà thơ về cuộc đời, về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong
kiến đầy dẫy những cạm bẫy:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Trong phần tả khái quát, vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều đã được miêu tả rất tồn
vẹn, tưởng khó có thể ca ngợi hơn nữa. Trong bốn câu này, ba câu trên là lời khẳng
định vẻ đẹp "mười phận vẹn mười" kia. Thế nhưng câu thơ thứ tư thật sự khiến bạn
đọc bất ngờ bởi khả năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ. Tả một người con gái đẹp
mà "Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang" là đã đạt đến chuẩn mực, thêm "Hoa
cười, ngọc thốt, đoan trang" thì nghe chẳng khác gì những tiếng trầm trồ của một


người đang được chiêm ngưỡng một vẻ đẹp chưa từng có. Thế mà vẫn chưa hết,
người con gái ấy cịn đẹp đến mức "Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da" thì vẻ
đẹp ấy cịn vượt lên trên cả vẻ đẹp của thiên nhiên. Đó là một sự khác thường bởi nếu
chúng ta đọc lại thơ ca trung đại, thậm chí đọc cả ca dao dân ca, vẻ đẹp của con người
cùng lắm cũng chỉ sánh ngàng với vẻ đẹp của thiên nhiên mà thôi:
Cổ tay em trắng như ngà
Đôi mắt em sắc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen...
Rõ ràng là Thuý Vân rất đẹp, một vẻ đẹp khá sắc nét nhưng vẫn hồn hậu, thuỳ mị.
Giả sử được ngắm một người con gái như vậy, người ta thường nghĩ đến hạnh phúc,
đến một cuộc sống ấm áp, êm đềm.
Đọc đoạn miêu tả Thuý Vân, ta đã có thể thấy được cái tài, cái khéo của Nguyễn
Du trong việc sử dụng từ ngữ. Thế nhưng việc miêu tả Thuý Vân mới chỉ là bước
đệm để tác giả miêu tả Thuý Kiều. Một lần nữa, tác giả lại khiến bạn đọc phải sửng
sốt vì năng lực miêu tả của mình:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Các giá trị thẩm mĩ tưởng như đã được đẩy lên đến tận cùng của các giới hạn
nhưng rồi lại còn được đẩy lên cao thêm nữa:
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Hội hoạ cổ điển phương Đơng có những bút pháp khá độc đáo: "lấy điểm để tả
diện", "vẽ mây nẩy trăng", ý là khi muốn tả một người con gái đẹp, không cần tả
mọi đường nét, chỉ chọn những nét tiêu biểu nhất, hay như khi muốn tả một vầng
trăng sáng có thể không cần tả vầng trăng, chỉ cần tả đám mây xung quanh mà
người xem biết ngay đó là trăng rất sáng. Nguyễn Du đã tả Thuý Kiều qua "Làn thu
thuỷ, nét xuân sơn"  những yếu tố nghệ thuật đầy tính ước lệ, thật khó hình dung
nàng Kiều đẹp như thế nào nhưng ai cũng phải thừa nhận, tả như thế là tuyệt khéo.
Lại thêm "Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh"  khơng cần nói nhan sắc của
Kiều ra sao, chỉ cần nói hoa cịn phải ghen, liễu cịn phải hờn với nhan sắc của Kiều
thì tưởng như với nhan sắc ấy, khơng lời nào có thể diễn tả nổi nữa.
Tuy nhiên, nếu đọc kĩ lại từng câu, từng lời, ta sẽ thấy dường như trong vẻ đẹp
của Kiều đã ẩn chứa những mầm tai hoạ. Nếu như với vẻ đẹp của Thuý Vân, "Mây
thua nước tóc, tuyết nhường màu da", sự "thua" và "nhường" còn rất hiền hồ thì với
vẻ đẹp của Th Kiều, hoa đã phải "ghen" (tức), liễu đã phải "hờn" (giận). Có thể
nói, vẻ đẹp của Thuý Vân tuy có phần trội hơn nhưng chưa tạo ra sự đố kị, trong khi
đó vẻ đẹp của Thuý Kiều đã vượt hẳn lên, ngạo nghễ thách thức với thiên nhiên, vượt
ra khỏi vòng kiềm toả của tạo hố.
Khơng chỉ nhan sắc, tài năng của Kiều cũng hàm chứa một sự thách thức:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.


Những từ ngữ đầy tính ước lệ (làn thu thuỷ, nét xuân sơn, nghiêng nước nghiêng
thành) xuất hiện với mật độ cao càng chứng tỏ tài năng của Nguyễn Du trong việc sử
dụng từ ngữ. Một lần nữa, vẻ đẹp của nàng Kiều lại được khẳng định dù sự khẳng
định ấy càng tô đậm thêm sự "bất an" của nhan sắc. Vậy mà sự thách thức của nhan
sắc vẫn chưa phải là yếu tố duy nhất, tài năng của Kiều cịn là một sự thách thức khác
nữa:
Thơng minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm

Cung thương, lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ cho rằng nhan sắc là một cái hoạ tiềm
ẩn đối với người phụ nữ ("hồng nhan bạc mệnh") mà còn nhiều lần nhấn mạnh: tài
năng cũng là một cái hoạ khác:
- Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.
- Chữ tài liền với chữ tai một vần.
 Tài tình chi lắm cho trời đất ghen...
Th Kiều vừa có tài lại vừa có sắc, hơn nữa, cả hai yếu tố đều nổi bật đến mức
cây cỏ còn phải ghen tức, ốn giận... Xét trên nhiều yếu tố, có thể nói qua cách miêu
tả, Nguyễn Du đã ngầm báo trước những điều không may sẽ xảy đến với người con
gái này. Hãy nghe tiếng đàn của Kiều, đó khơng phải là những âm thanh nhàn tản,
thảnh thơi:
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên "bạc mệnh" lại càng não nhân.
Có thể cho là Kiều chỉ vơ tình, nhưng bài nhạc mà nàng đã lựa chọn, đã thể hiện
nó trong tiếng đàn sầu não kia cho thấy rằng, đó là một người con gái rất đa sầu đa
cảm. Theo quan niệm từ xa xưa, đây cũng là một yếu tố tạo nên số phận đau khổ của
con người. Những sự biến sau này của cuộc đời Kiều (gặp Đạm Tiên, phải bán mình
chuộc cha, gặp Thúc Sinh, gặp Từ Hải,...) đều chứng tỏ sự miêu tả của Nguyễn Du về
Thuý Kiều là hồn tồn có ngụ ý.
Đoạn cuối như lời vĩ thanh, Nguyễn Du để cho lời thơ buông trôi, nhấn mạnh
phẩm chất gia giáo của Thuý Kiều.
Đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều, Nguyễn Du dành đến 24 câu thơ,
trong đó có bốn câu tả khái quát, bốn câu tả Thuý Vân, còn đến 16 câu chỉ để nói về
Thuý Kiều. Có thể chúng ta chưa hiểu hết quan niệm về nhân sinh, nhất là về người
phụ nữ của ơng, có thể cịn nhiều vấn đề xung quanh tư tưởng "tài mệnh tương đố"
cần tiếp tục xem xét nhưng qua 24 câu thơ, Nguyễn Du không chỉ chứng tỏ một tài
năng bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ mà còn cho thấy những nét rất đặc sắc trong nghệ

thuật miêu tả con người.
CẢNH NGÀY XUÂN
(Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)


I - GỢI Ý
1. Tác giả:
(Xem bài Chị em Thuý Kiều).
2. Đoạn trích:
Đây là đoạn trích ở phần đầu tác phẩm (sau đoạn tả tài sắc của chị em Thuý
Kiều). Cơn tai biến đối với gia đình Thuý Kiều chưa xảy ra. Hai chị em đang sống
những ngày tháng êm đềm. Nhân tiết Thanh minh, hai chị em đi trảy hội.
Đoạn trích gồm mười tám câu, bốn câu thơ đầu miêu tả cảnh đẹp ngày xuân, tám
câu tiếp theo tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh, sáu câu cuối tả cảnh chị em
Thuý Kiều du xuân trở về.
II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
1. Trong bốn câu thơ đầu, Nguyễn Du đã sử dụng rất ít từ ngữ mà vẫn thể hiện
được rất nhiều điều, từ phong cảnh (đường nét, màu sắc, khí trời, cảnh vật) cho đến
tâm trạng của con người trước cảnh vật. Điều đó chỉ có được nhờ khả năng sử dụng,
phối hợp từ ngữ đến mức điêu luyện. Những màu sắc tương phản được đặt cạnh
nhau, việc đưa các yếu tố ngôn ngữ dân gian vào tác phẩm khiến cho ngôn ngữ thơ
thêm hàm súc, giàu sức diễn tả.
2. Tám câu thơ tiếp theo, tác giả sử dụng rất nhiều từ ghép đôi, từ láy đôi đã được
tác giả sử dụng trong các cấu trúc danh từ, động từ, tính từ,... góp phần đắc lực trong
việc thể hiện một khung cảnh lễ hội rộn ràng màu sắc, âm thanh, hình ảnh. Hầu hết
các câu thơ đều được ngắt theo nhịp đôi (2/2) cũng là một yếu tố gợi tả khung cảnh
nhộn nhịp, đông vui của lễ hội.
Đó là một lễ hội đã có từ xa xưa. Mặc dù ngày nay đã khơng cịn phổ biến nhưng
qua những câu thơ tả cảnh của Nguyễn Du, người đọc có thể hình dung rất rõ khung
cảnh náo nức, nhộn nhịp của lễ hội ấy.

3. Sáu câu thơ cuối diễn tả cảnh chị em Thuý Kiều trên đường trở về. Một khung
cảnh yên tĩnh, êm ả, dường như đối lập với cảnh lễ hội lúc trước. Vẫn có những từ láy
đơi nhưng hầu như chỉ cịn là những tính từ: tà tà, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ,...
Không gian vì thế trở nên n tĩnh lạ thường, khơng cịn cảnh người đi kẻ lại tấp nập
(được thể hiện chủ yếu qua những danh từ, động từ ở đoạn trước), khơng cịn ríu rít
tiếng nói cười.
Thủ pháp tả đã được thay bằng thủ pháp gợi. Những tính từ tà tà, thanh thanh, nao
nao, nho nhỏ không chỉ gợi lên một khơng gian êm đềm mà cịn thể hiện khá rõ tâm
trạng của chị em Th Kiều. Có cái gì mơ hồ như là sự bâng khng, nuối tiếc. Lịng
người hồ trong cảnh vật, như đang lắng lại cùng cảnh vật.
4. Qua đoạn thơ tả cảnh chị em Thuý Kiều đi du xuân trong tiết Thanh minh, ta có
thể thấy rất rõ nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du. Yếu tố quan trọng
trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên ấy là nghệ thuật sử dụng từ ngữ. Bằng cách sử
dụng hệ thống từ ghép, từ láy giàu chất tạo hình, giàu sức gợi tả theo những mật độ
khác nhau và phương thức khác nhau, Nguyễn Du đã phác hoạ những bức tranh
phong cảnh vô cùng đặc sắc.


KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
(Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)
I - GỢI Ý
1. Tác giả:
(Xem bài Chị em Thuý Kiều).
2. Đoạn trích:
Đoạn trích nằm ở phần thứ hai trong Truyện Kiều (Gia biến và lưu lạc). Gia đình
Kiều gặp cơn nguy biến. Do thằng bán tơ vu oan, cha và em Kiều bị bắt giam. Để
chuộc cha, Kiều quyết định bán mình. Tưởng gặp được nhà tử tế, ai dè bị bắt vào
chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự tử. Tú Bà (chủ quán lầu xanh) vờ hứa hẹn gả
chồng cho nàng, đem nàng ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, sau đó mụ sẽ nghĩ cách
để bắt nàng phải tiếp khách làng chơi.

Đoạn trích gồm hai mươi hai câu. Sáu câu thơ đầu thể hiện hồn cảnh cơ đơn,
tội nghiệp của Thuý Kiều; tám câu thơ tiếp thể hiện nỗi thương nhớ của nàng về Kim
Trọng và về cha mẹ; tám câu còn lại thể hiện tâm trạng đau buồn, âu lo của Thuý
Kiều.
II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Nguyễn Du là một bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ơng có thể coi
như là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển:
- Dưới trăng, quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập l đâm bơng.
-

Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng...
Với những câu thơ này, Nguyễn Du đã làm đẹp, làm giàu có thêm rất nhiều cho
ngơn ngữ dân tộc. Từng có ý kiến cho rằng, so với tiếng Hán vốn có tính hàm súc,
tính biểu hiện rất cao thì tiếng Việt trở nên q nơm na, ít khả năng biểu hiện. Tuy
nhiên, Nguyễn Du đã chứng minh rằng ngơn ngữ tiếng Việt có một khả năng biểu
hiện vô giới hạn.
Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà cịn giỏi về tả tình cảm, tả tâm
trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh khơng tách rời nhau mà ln
đi liền với nhau, bổ sung cho nhau. Ví dụ, trong hai câu thơ tả cảnh chị em Thuý
Kiều đi chơi xuân:
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Cảnh rất đẹp và thanh, ứng với tâm hồn hai chị em đang nhẹ nhàng thơi thới.
Ngược lại, khi người buồn thì cảnh cũng buồn theo. Trong một đoạn thơ khác thuộc
Truyện Kiều, ông viết:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Hai câu thơ này thể hiện rất rõ quan niệm của Nguyễn Du về mối quan hệ giữa



tâm trạng của con người và cảnh vật. Cảnh vật đẹp hay khơng đẹp, nhẹ nhàng, thanh
thốt hay nặng nề, u ám phụ thuộc rất nhiều vào tâm trạng của con người trước cảnh
đó.
Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là sự kết hợp, giao hoà của hai yếu tố cảnh
vật và tâm trạng. Về cảnh vật có lầu cao, có non xanh nước biếc, sơn thuỷ hữu tình.
Nếu Th Kiều ở vào một hoàn cảnh khác, trong tâm trạng khác thì hẳn cảnh đó sẽ rất
đẹp. Tuy nhiên, tâm trạng Kiều lại đang rất u ám, sầu não: bị Tú Bà giam lỏng ở lầu
Ngưng Bích, Kiều da diết nhớ cha mẹ, nhớ người yêu, đồng thời lại rất đau xót cho
thân phận mình. Cảnh vật, do đó, nhuốm màu tâm trạng:
Trước lầu Ngưng Bích khố xn
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.
Kiều ngắm cảnh hay Kiều đối cảnh? Thật khó có thể nói là "ngắm" theo nghĩa
thơng thường của từ này. Bởi "ngắm" có nghĩa là chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn. Kiều
đang trong tâm trạng như thế sao có thể thưởng ngoạn cho được? Bởi vậy, dù có cả
"vẻ non xa" lẫn "tấm trăng gần" nhưng cảnh vật ấy chẳng thể nào gợi lên một chút
tươi vui hay ấm áp. Nhà thơ đã dùng hai chữ "ở chung" thật khéo. Kiều trơng thấy tất
cả những thứ đó nhưng với nàng, chúng chẳng khác gì nhau và càng khơng có gì đặc
biệt. Hai yếu tố trái ngược (non xa, trăng gần) tưởng như phi lí nhưng thực ra đã diễn
tả rất chính xác sự trống trải của cảnh vật qua con mắt của Kiều. Khung cảnh "bốn bề
bát ngát" chỉ càng khiến cho lòng người thêm gợi nhớ:
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Có thể hình dung rất rõ một khơng gian mênh mang đang trải rộng ra trước mắt
Kiều. Một người bình thường đứng trước khơng gian ấy cũng khó ngăn được nỗi
buồn. Với Kiều, không gian rộng rãi, trống trải ấy chỉ càng khiến nàng suy nghĩ về
cuộc đời mình:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Bởi trong những câu thơ tả cảnh trên đã thấm đẫm cái "tình" (tâm trạng) của Kiều
nên đến những câu thơ này, Nguyễn Du đã bắt vào mạch tả tâm trạng một cách hết sức
tự nhiên. ý thơ chuyển đổi rất linh hoạt: tả cảnh gắn với không gian. Không gian cao
rộng (non xa, trăng gần) càng khiến cho cảnh mênh mang, dàn trải. Tả tâm trạng lại gắn
với thời gian. Thời gian dằng dặc (mây sớm, đèn khuya) càng cho thấy tâm trạng chán
nản, buồn tủi của Kiều. "Nửa tình nửa cảnh"  trước mắt là tình hay là cảnh, dường như
cũng khơng cịn phân biệt được nữa.
Theo dịng tâm trạng của Kiều câu thơ bắt vào nỗi nhớ:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Nhớ nhà, trước hết Kiều nhớ đến Kim Trọng, nhớ đến chén rượu thề nguyền dưới
trăng. Đối với một người ln đa sầu đa cảm, nặng tình nặng nghĩa như Thuý Kiều,
cảm xúc ấy thật xa xót. Càng nhớ đến Kim Trọng thì Kiều lại càng đau đớn cho thân


phận mình. Việc Kiều thương Kim Trọng đang chờ mong tin mình một cách vơ vọng
đã cho thấy một vẻ đẹp khác trong tâm hồn nàng: Kiều luôn nghĩ đến người khác
trước khi nghĩ đến bản thân mình. Tấm lịng ấy thật cao đẹp và đáng quý biết bao!
Tiếp theo là Kiều nhớ đến cha mẹ. Có ý kiến cho rằng, Kiều đã nhớ đến người
yêu trước rồi mới nhớ đến cha mẹ, phải chăng là nàng đã đặt chữ "tình" lên trên chữ
"hiếu"? Thực ra, việc Nguyễn Du miêu tả nỗi nhớ của Kiều dành cho Kim Trọng
trước rồi mới miều tả nỗi nhớ cha mẹ là hoàn toàn hợp lí. Kiều khơng hề đặt chữ
"hiếu" sau chữ "tình". Khi gia đình gặp tai biến, trước câu hỏi "Bên tình bên hiếu bên
nào nặng hơn?", Kiều đã dứt khốt lựa chọn chữ "hiếu" bằng hành động bán mình
chuộc cha. Giờ đây, khi cha và em nàng đã được cứu, người mà nàng cảm thấy mình
có lỗi chính là Kim Trọng. Nhưng khơng vì thế mà nỗi nhớ cha mẹ kém phần day
dứt:
Xót người tựa cửa hơm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Những thành ngữ, điển tích, điển cố (tựa cửa hơm mai, quạt nồng ấp lạnh, Sân
Lai, gốc tử) liên tục được sử dụng đã thể hiện rất rõ tình cảm nhớ nhung sâu nặng
cũng như những băn khoăn trăn trở của Thuý Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn
phận làm con của mình. Trong hồn cảnh thực tế, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng
chứng tỏ nàng là một người con rất mực hiếu thảo.
Tám câu thơ cuối cũng nằm trong số những câu thơ tả cảnh hay nhất của Truyện
Kiều. Chúng thể hiện rất rõ nét nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" của Nguyễn Du:
Buồn trơng cửa bể chiều hơm,
Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?
Buồn trơng ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh...
Nếu tách riêng các yếu tố ngoại cảnh ra mà xét thì có thể thấy đó là một khung
cảnh thật thơ mộng và lãng mạn: có cánh buồm thấp thống, có man mác hoa trơi, có
nội cỏ chân mây mặt đất một màu... Thế nhưng khi đọc lên, những câu thơ này chỉ
khiến cho lòng người thêm sầu muộn, ảo não. Nguyên nhân là bởi trước mỗi cảnh vật
kia, sừng sững án ngữ cụm từ "buồn trông". Không phải là "xa trơng" như người ta
vẫn nói, cũng khơng phải là "ghé mắt trông" như Xuân Hương đã từng tinh nghịch
mà điền trước đền thờ Sầm Nghi Đống, ở đây, nhân vật trữ tình chỉ có một tâm thế
duy nhất: "buồn trơng". Tâm trạng nàng đang ngổn ngang trăm mối: nhớ người u,
nhớ cha mẹ, cảm giác mình là người có lỗi,... và nhất là đang hết sức đau xót cho thân
phận mình. Bởi vậy, cảnh vật ấy cần được cảm nhận theo con mắt của Thuý Kiều:
cánh buồm thấp thoáng nổi trôi vô định, hoa trôi man mác càng gợi nỗi phân li, nội
cỏ không mơn mởn xanh mà "dàu dàu" trong sắc màu tàn úa... Nổi bật lên trong cảnh
vật đó là những âm thanh mê hoặc:
Buồn trơng sóng cuốn mặt duềnh



ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã nhiều lần miêu tả âm thanh. Có thể nói
lần nào ơng cũng thành cơng. Có khi chỉ qua một vài từ, ông đã diễn tả rất chính xác
cảnh huyên náo trong nhà Thuý Kiều khi bọn vô lại kéo đến nhà:
Trước thầy sau tớ xôn xao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
Nguyễn Du đặc biệt thành công khi ông tả tiếng đàn của Kiều. Tuỳ theo tâm
trạng, mỗi lần tiếng đàn của Kiều cất lên là một lần người nghe phải chảy nước mắt
khóc cho số phận oan nghiệt của nàng.
Trong đoạn thơ này, Nguyễn Du khơng tả tiếng đàn mà tả tiếng sóng. Trong
khung cảnh bát ngát, mênh mang, tiếng sóng vỗ "ầm ầm" (lưu ý: nhà thơ đã đảo ngữ
để cho ấn tượng đó càng rõ ràng hơn) quả là một thứ âm thanh hết sức bất thường.
Dường như nó muốn phá vỡ khung cảnh nặng nề nhưng yên tĩnh, nó dứt Kiều ra khỏi
dịng suy tư về gia đình, người thân mà trả nàng về với thực tại nghiệt ngã.
Ngoài ra, dường như đó cịn là những dự cảm về qng đời đầy những khổ đau,
tủi nhục ê chề mà Kiều sắp phải trải qua.
ĐỒNG CHÍ
(Chính Hữu)
I - GỢI Ý
1. Tác giả:
Nhà thơ Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926, quê huyện
Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1946 ơng gia nhập Trung đồn Thủ đơ và hoạt động
trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Chính
Hữu hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh.
"Bài thơ đầu tiên của Chính Hữu được biết đến là bài Ngày về (1947), thể hiện ý
chí của những người chiến sĩ Hà Nội quyết trở về giành lại quê hương đang nằm
trong tay giặc. Chính Hữu thành cơng thực sự là bài Đồng chí (1948). Bài thơ được
viết ngay sau chiến dịch Việt Bắc, thể hiện chân thực hình ảnh người lính cách mạng

trong vẻ đẹp bình dị và tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng, thắm thiết của họ. Trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cũng như trong hịa bình, Chính Hữu
gần như chỉ viết về người chiến sĩ và cuộc chiến đấu: tình đồng chí, đồng đội (Đồng
chí, Giá từng thước đất), cảm xúc và suy nghĩ của người lính về nhân dân, đất nước
(Tháng Năm ra trận, Sáng hôm nay, Lá nguỵ trang. Ngọn đèn đứng gác...), tình cảm
tha thiết với gia đình (Gửi mẹ, Thư nhà), nỗi đau thương và căm giận trước tội ác của
kẻ thù thúc giục người chiến sĩ ra trận (Trang giấy học trị). Thơ Chính Hữu in đậm
những hình ảnh của một đất nước ngày đêm đánh giặc, với khí thế mạnh mẽ và hào
hùng của những cuộc hành quân không ngừng nghỉ. Mọi khung cảnh, âm vang của
thời đại đã được đón nhận và tái hiện với sức vang ngân rất sâu trong tâm khảm nhà
thơ, để trở thành những hình ảnh và ấn tượng đậm nét, giàu sức gợi cảm và ý nghĩa
biểu trưng.
Hiện Chính Hữu mới chỉ công bố: tập thơ Đầu súng trăng treo (1966), Thơ Chính
Hữu (1977), Tuyển tập Chính Hữu (1988). Thơ Chính Hữu giàu hình ảnh, nhiều suy


tưởng, ngơn ngữ chọn lọc, cơ đọng. Ơng thường sử dụng thể thơ tự do, giàu nhạc điệu,
mà chủ yếu là nhạc điệu của nội tâm, vừa lắng đọng vừa có sức âm vang. Chính Hữu
làm thơ khơng nhiều nhưng vẫn có một vị trí xứng đáng trong nền thơ hiện đại Việt
Nam, và một số bài thơ của ông thuộc số những tác phẩm tiêu biểu nhất của thơ ca
kháng chiến (Đồng chí, Đường ra mặt trận, Ngọn đèn đứng gác, Trang giấy học trị).
Chính Hữu được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000"
(Nguyễn Văn Long - Từ điển văn học, Sđd).
2. Tác phẩm:
Bài thơ Đồng chí được sáng tác đầu năm 1948, thể hiện những cảm xúc sâu xa và
mạnh mẽ của nhà thơ Chính Hữu với đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc. Cảm hứng
của bài thơ hướng về chất thực của đời sống kháng chiến, khai thác cái đẹp và chất
thơ trong sự bình dị của đời thường.
Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội gắn bó thắm thiết của những người nơng
dân mặc áo lính trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong

hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, tình cảm đó thật cảm động, đẹp đẽ.
II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Nói đến thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp khơng thể khơng nói đến Đồng
chí (1948) của Chính Hữu. Bài thơ mang vẻ đẹp của tình đồng đội, đồng chí giản dị,
mộc mạc mà sâu sắc của những người lính cách mạng trong những tháng ngày kháng
chiến gian lao.
Nhà thơ Chính Hữu đã từng nói về tác phẩm của mình:
"... Trong bài thơ Đồng chí, tơi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội. Suốt cả cuộc
chiến đấu, chỉ có một chỗ dựa dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến đấu là tình
đồng chí, tình đồng đội. Đồng chí ở đây là tình đồng đội. Khơng có đồng đội, tơi
khơng thể nào hồn thành được trách nhiệm, khơng có đồng đội, có thể nói, tơi cũng
chết lâu rồi. Bài Đồng chí là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đội, tặng người bạn nơng
dân của mình."
Thật vậy, khơng gian trữ tình trong Đồng chí giá buốt mà khơng lạnh lẽo. Hơi ấm
toả ra từ tình người, từ tình tri kỉ, kề vai sát cánh bên nhau của những con người
chung lí tưởng, chung chí hướng. Đứng trong hàng ngũ cách mạng, chiến đấu cho
độc lập, tự do của Tổ quốc, người lính vượt lên trên mọi gian khó bằng sự sẻ chia,
đồng tâm hiệp lực. Họ sống trong tình đồng đội, nhờ đồng đội, vì đồng đội.
Những người đồng đội ấy thường là những người "nông dân mặc áo lính". Điểm
giống nhau về cảnh ngộ xuất thân giúp họ có thể dễ dàng gần gũi, đồng cảm với
nhau:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
"Anh và tôi" từ những vùng quê khác nhau, chỉ giống nhau cái nghèo khó của đất
đai, đồng ruộng. Anh từ miền quê ven biển: "nước mặn đồng chua". Tôi từ vùng đất
cao "cày lên sỏi đá". Hai người xa lạ, từ hai phương trời xa lạ trở thành tri kỉ:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu



Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Những người "nông dân mặc áo lính" ấy gặp nhau trong cuộc chiến đấu vì chính
cuộc sống của họ, cùng đứng trong hàng ngũ những "người lính cụ Hồ". Sự nghiệp
chung của dân tộc đã xoá bỏ mọi khoảng cách xa lạ về không gian nơi sinh sống của
mỗi người. ""Súng bên súng" là chung chiến đấu, "đầu sát bên đầu" thì chung rất
nhiều: không chỉ là gần nhau về không gian mà cịn chung nhau ý nghĩ, lí tưởng"
(Trần Đình Sử - Đọc văn học văn, Sđd). Đến khi đắp chung chăn trong đêm giá rét thì
họ đã thực sự là anh em một nhà. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết: "Bát cơm sẻ nửa,
chăn sui đắp cùng" để thể hiện tình kháng chiến gắn bó, bền chặt. Để nói về sự gần
gũi, sẻ chia, về cái thân tình ấm áp khơng gì hơn là hình ảnh đắp chăn chung. Như
thế, tình đồng chí đã bắt nguồn từ cơ sở một tình tri kỉ sâu sắc, từ những cái chung
giữa "anh" và "tôi".
Câu thơ thứ bảy chỉ gồm hai tiếng: "Đồng chí". Nếu khơng kể nhan đề thì đây là
lần duy nhất hai tiếng "đồng chí" xuất hiện trong bài thơ, làm thành riêng một câu
thơ. Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của tồn bài. Nó đánh dấu một mốc
mới trong mạch cảm xúc và bao hàm những ý nghĩa sâu xa. Sáu câu thơ đầu là tình
đồng đội tri kỉ, đến đây được nâng lên thành tình đồng chí thiêng liêng. Đồng chí
nghĩa là khơng chỉ có sự gắn bó thân tình mà cịn là cùng chung chí hướng cao cả.
Những người đồng chí - chiến sĩ hồ mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân tộc.
Gọi nhau là đồng chí thì nghĩa là đồng thời với tư cách họ là những con người cụ thể,
là những cá thể, họ cịn có tư cách quân nhân, tư cách của "một cây" trong sự giao kết
của "rừng cây", nghĩa là từng người không chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chí vừa
giản dị, thân mật lại vừa cao quý, lớn lao là vì thế.
ở phần tiếp theo của bài thơ, với những chi tiết, hình ảnh cụ thể tác giả đã thể hiện
tình cảm sâu sắc của những người đồng chí. Trước hết, họ cùng chung một nỗi nhớ
quê hương:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà khơng, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Trong nỗi nhớ quê hương ấy có nỗi nhớ ruộng nương, nhớ ngơi nhà, nhớ giếng
nước, gốc đa. Nhưng ruộng nương cũng như nhớ tay ai cày xới, ngơi nhà nhớ người
trong lúc gió lung lay, và giếng nước, gốc đa cũng đang thầm nhớ người ra đi. Nỗi
nhớ ở đây là nỗi nhớ hai chiều. Nói "giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính" cũng là
thổ lộ nỗi nhớ cồn cào về giếng nước, gốc đa. Tình q hương ln thường trực, đậm
sâu trong những người đồng chí, cũng là sự đồng cảm của những người đồng đội.
Người lính hiện ra cứng cỏi, dứt khốt lên đường theo tiếng gọi non sơng song tình
q hương trong mỗi người không khi nào phai nhạt. Và bên cạnh hình bóng q
hương, điểm tựa vững chắc cho người lính, là đồng đội:
Anh với tơi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
áo anh rách vai
Quần tơi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân khơng giày


Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Kể sao xiết những gian khổ mà người lính phải trải qua trong chiến đấu. Nói về
cái gian khổ của người lính trong kháng chiến chống Pháp, ta nhớ đến cái rét xé thịt
da trong bài Lên Cấm Sơn của Thơi Hữu:
Cuộc đời gió bụi pha sương máu
Đợt rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!
Lịng tơi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa
Nhớ đến cái ác nghiệt của bệnh sốt rét trong Tây Tiến của Quang Dũng:
Tây Tiến đoàn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm.

Ta cũng có thể thấy cái buốt giá của núi rừng Việt Bắc, cái ớn lạnh tốt mồ hơi
của bệnh sốt rét trong những câu thơ của Chính Hữu. Nhưng nếu như Thôi Hữu viết
về cái rét xé thịt da để khắc hoạ những con người chấp nhận hi sinh, "Đem thân xơ
xác giữ sơn hà", Quang Dũng nói đến sốt rét để tô đậm vẻ đẹp bi tráng của những
người chiến sĩ thì Chính Hữu nói về cái rét, cái ác nghiệt của sốt rét là để nói về tình
đồng đội, đồng chí trong gian khổ, là sự thấu hiểu, cảm thơng giữa những người lính.
Trong bất cứ sự gian khổ nào cũng thấy họ sát cánh bên nhau, san sẻ cho nhau: "Anh
với tôi biết...", "áo anh... - Quần tôi...", "tay nắm lấy bàn tay". Cái "Miệng cười buốt
giá" kia là cái cười trong gian khổ để vượt lên gian khổ, cười trong buốt giá để lòng
ấm lên, cũng là cái cười đầy cảm thông giữa những người đồng đội. Giá buốt mà
khơng lạnh lẽo cũng là vì thế.
Bài thơ kết bằng hình tượng những người đồng chí trong thời điểm thực tại, khi
họ đang làm nhiệm vụ chiến đấu:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Có thể xem đây là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất về người lính trong thơ
ca kháng chiến. Ba câu thơ phác ra một bức tranh vừa mang chất chân thực của bút
pháp hiện thực, vừa thấm đẫm cái bay bổng của bút pháp lãng mạn. Trên sắc xám
lạnh của nền cảnh đêm rừng hoang sương muối, hiện lên hình ảnh người lính - khẩu
súng - vầng trăng. Dưới cái nhìn của người trong cuộc, người trực tiếp đang cầm
súng, trong một sự kết hợp bất ngờ, đầu súng và vầng trăng như không cịn khoảng
cách xa về khơng gian, để thành: "Đầu súng trăng treo.". Sự quan sát là hiện thực, còn
sự liên tưởng trong miêu tả là lãng mạn. Hình ảnh súng tượng trưng cho hành động
chiến đấu, tinh thần quyết chiến vì đất nước. Trăng tượng trưng cho cái đẹp yên bình,
thơ mộng. Hình ảnh "đầu súng trăng treo" mang ý nghĩa khái quát về tư thế chủ động,
tự tin trong chiến đấu, tâm hồn phong phú của người lính. Nói rộng ra, hai hình ảnh
tương phản sóng đơi với nhau tạo nên biểu tượng về tinh thần, ý chí sắt đá mà bay
bổng, trữ tình của dân tộc Việt Nam.
Những người lính là đồng đội, đồng chí, cả dân tộc là đồng chí. Người nghệ sĩ



cũng trở thành đồng chí, nên Hồng Nguyên và Chính Hữu đồng cảm với nhau trước
những người áo vải:
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi "một hai"
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài,
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Lột sắt đường tàu,
Rèn thêm dao kiếm,
áo vải chân không,
Đi lùng giặc đánh.
Chung nhau cảnh ngộ, chung nhau lí tưởng, chung nhau cái rét, cái khổ,... những
người lính - những người đồng chí sống, chiến đấu vì sự nghiệp chung của dân tộc.
Bài thơ Đồng chí đã thể hiện rất rõ vẻ đẹp của những con người sống và chiến đấu
cho hạnh phúc, tự do.
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHƠNG KÍNH
(Phạm Tiến Duật)
I - GỢI Ý
1. Tác giả:
Nhà thơ Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
Sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 1964, Phạm
Tiến Duật gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành
một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ cứu
nước.
Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên

tuyến đường Trường Sơn. Thơ ơng có giọng điệu sơi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh
nghịch mà sâu sắc.
Các tác phẩm đã xuất bản: Vầng trăng quầng lửa (thơ, 1970); Thơ một chặng
đường (thơ, 1971); ở hai đầu núi (thơ, 1981); Vầng trăng và những quầng lửa (thơ,
1983); Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994); Nhóm lửa (thơ, 1996).
Nhà thơ đã được nhận Giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1969-1970.
2. Tác phẩm:
Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính là tác phẩm thuộc chùm thơ của Phạm Tiến Duật
được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969-1970.
Trong bài thơ, tác giả đã thể hiện khá đặc sắc hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ hiên
ngang, dũng cảm, trẻ trung và những chiếc xe khơng kính ngộ nghĩnh giữa tuyến


đường Trường Sơn lịch sử thời kì kháng chiến chống Mĩ.
Với nhan đề "Nói thêm về tiểu đội xe khơng kính", tác giả Võ Minh trong Tài hoa
trẻ, số 347-348, tháng 12-2004, đã viết:
"Thường mỗi bài thơ đều có xuất phát điểm thư hứng. Hứng mà xuất thân thì bài
thơ lấy "hứng" làm chủ đạo, từ đó cấu trúc thành "tứ", thành ý làm nổi bật cái "sự",
phô diễn cái "tình". Khơng ít bài thơ do cái "sự: thúc bách thì "sự" là chủ đạo để hình
thành tứ cho bài thơ trên nền móng của "tình" làm chất liệu. Bài thơ "Tiểu đội xe
khơng kính" của Phạm Tiến Duật thuộc mơ típ thứ hai này. Hồi đó, vào những năm
1968-1973, trên tuyến đường mịn Hồ Chí Minh thuộc địa phận đất bạn Lào có cả
một hệ thống đường giao thơng bộ. Những con đường chằng chịt, luồn lách trong bạt
ngàn rừng già được các lực lượng bộ đội công binh Thanh niên xung phong dân công
hỏa tuyến ngày đêm khai mờ. Phần lớn sức vóc khổng lồ của hậu phương miền Bắc
tham gia cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc được vận hành, chuyên chở trên những
con đường này. Sự vận chuyển diễn ra suốt ngày đêm không ngưng nghỉ, âm thầm
mà náo nhiệt, dồn sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam. Trong các hình thức
vận chuyển hậu cần qui mô to lớn ấy, xe ô tô là lực lượng vận chuyển chủ lực. Có
nhiều trung đồn, tiểu đồn ơ tơ ở các binh trạm, trong đó có tiểu đoàn vận tải 61 là

đơn vị hai lần đoạt danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang. Phạm Tiến Duật là một
chiến sĩ - nhà thơ trong tiểu đoàn 61 anh hùng đó.
Vì lí do trên nên máy bay Mĩ thường trực ngày đêm bắn chặn ta. Năm 1969, qui
mô bắn phá của kẻ thù vô cùng ác liệt. Tại địa bàn của binh trạm 27, lộ trình vận
chuyển qua cửa khẩu biên giới Việt - Lào có những nút giao thông như "Cua chữ A"
(đường 10), đỉnh Cổng trời (đường 20), v.v... sau vài tiếng đồng hồ lại có một tốp ba
chiếc B52 đến rải thảm bom với hàng trăm quả đủ loại. Những con đường ngày một
quang dần vì bom đạn Mĩ, có nhiều đoạn phơi lưng lộ diện giữa hiên đại trùng trùng.
Tiểu đoàn 61 đã có nhiều chiếc xe bị cháy, bị lật nhào xuống vực và bị vỡ kính vì
"bom giật, bom rung".
Sự ác liệt tăng lên, sự hi sinh của người lính tăng lên và tất nhiên, những tác động
tâm lí tạo nên sự do dự cũng tăng lên trong bộ đội. Công tác chính trị đặt ra phải tạo
được khí thế tiến công cách mạng đồng loạt, người chiến sĩ lái xe phải bám xe, bám
đường vận chuyển hàng hóa trong bất kì hồn cảnh nào. Từng đơn vị phải có điển
hình cụ thể, phải tạo được "cái hích" tiến lên của đơn vị mình. Chính vì thế ở tiểu
đồn 60 thành lập một tiểu đội mới bao gồm những chiến sĩ cảm tử lái những chiếc
xe "thương tích" vì trận mạc. Phạm Tiến Duật đã đi trên một chiếc xe của tiểu đội ấy
để chở hàng và bài thơ về tiểu đội xe khơng kính ra đời sau lần đi như thế. Bài thơ có
tên gọi bình dị nhất. Viết xong, anh đọc ngay cho chính những chiến sĩ trong cuộc
nghe trước khi nó được đăng lên tờ Tin tức Mặt trận của đoàn 559 và trước khá lâu
trên báo Văn nghệ trong một cuộc dự thi. Sau lần đọc đó, có một thơng lệ của đơn vị
61 là, trước mỗi lần cho xe "xuất kích" cả tiểu đồn ngồi nghe đọc bài thơ.
Chỉ một tuần sau khi bài thơ ra đời, cả mặt trận có vơ số tiểu đội xe khơng kính.
Sau này, vào những năm cuối cuộc kháng chiến, đã có những chiến sĩ lái xe tự ý đập
vỡ kính để mắt thường nhìn trực tiếp mặt đường chằng chịt hố bom cho rõ hơn dưới
ánh sáng lù mù của chiến đèn gầm soi. Thậm chí, có người cịn tháo cả cảnh của
buồng lái để tiện cho việc xử lí tình huống khi xe bị máy bay AC130 săn đuổi - loại
máy bay bắn rốc-két hay đạn 27 li vào mục tiêu di động bằng thiết bị dò âm thanh
mặt đất và bằng kính nhìn có tia hồng ngoại.



Mạn phép nói thêm cái chất thực của bài thơ để chúng ra hiểu rằng, một bài thơ
có nhiều khi vượt qua khỏi phạm trù cái đẹp văn chương thuần tuý, dâng cho cuộc
sống những giá trị thực tiễn lớn lao biết nhường nào. Bài thơ " Bài thơ về tiểu đội xe
khơng kính" có cái mãnh lực thần kì ấy, nó vừa mang tính chiến đấu nóng bỏng, tính
thời sự tức thời vừa mang tầm vóc lịch sử! Tất nhiên một bài thơ như thế phải là tiếng
nói của cuộc sống thực hào hùng. Đó là tiếng nói chân thành, độc đáo của người
trong cuộc. Nó như một tuyên ngôn về lẽ sống của một thế hệ người Việt Nam!
Giờ đây mỗi lần có dịp đọc lại hay nghe ai đó đọc lên bài thơ này, khơng ít người
như tôi lại bồi hồi nhớ về một quãng đời chiến tranh ở đường 9 - Nam Lào, nhớ về
hình ảnh anh Phạm Tiến Duật lần đầu đứng trước anh em đơn vị D61. Anh đọc cho
anh em nghe bài thơ nói về họ trước giờ xuất kích. Đã hết câu cuối bài thơ mà cả đơn
vị còn lặng im, rồi phút chốc cùng vùng dậy, thoáng đã ngồi sau tay lái. Một khoảng
rừng già rộ lên, những cỗ xe dắt kín lá ngụy trang rùng rùng chuyển bánh đi về hướng
Nam đã định".
II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Bài thơ về Tiểu đội xe khơng kính nằm trong chùm bài thơ của Phạm Tiến Duật
được giải nhất báo Văn nghệ năm 1969. Bài thơ về Tiểu đội xe khơng kính ghi lại ý
nghĩ, tình cảm, cảm xúc của các chiến sĩ lái xe hoạt động trên đường mịn Hồ Chí
Minh ngày đêm đưa người và hàng chi viện cho miền Nam. ở đường mịn Hồ Chí
Minh, mỗi chiến sĩ lái xe ngày và đêm đối mặt với bom đạn của giặc Mĩ, đối mặt với
cái chết. Họ đã thể hiện tinh thần quả cảm, ý chí gang thép của người chiến sĩ cách
mạng. Tinh thần ấy, ý chí ấy truyền vào từng ý thơ, từng hình ảnh và nhạc điệu khiến
cho bài thơ có những nét riêng rất đặc biệt.
Trước tiên đó là giọng thơ ngang tàng có vẻ bất cần tất cả. Lí giải vì sao xe khơng
có kính, người chiến sĩ cho biết:
Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Câu thơ trên có 10 tiếng lặp lại ba tiếng khơng. Cụm từ "khơng có kính" đứng ở
đầu và cuối câu thơ tưởng như chỉ là sự lặp lại thông thường nhưng thực chất lại bao

hàm hai nghĩa khác nhau. Cách diễn đạt ấy mang đậm chất lính. Chất đời thường
dường như xa lạ với thơ nhưng lại là câu mở đầu cho một bài thơ hay. Bài thơ được
giải nhất trong một cuộc thi thơ của báo Văn nghệ. Chính cái khẩu khí ấy đã qui định
giọng điệu của cả bài thơ, đã kéo theo liền một mạch ba câu liền trong khổ thơ thứ
nhất:
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Kính vỡ vì bom giật, bom rung, điều giải thích ấy có thể hiểu được. Đến câu thơ
thứ ba, ý thơ đột ngột chuyển hẳn sang một hướng khác, tả lại phong thái của người
chiến sĩ lái xe ngồi trên chiếc xe khơng kính đó:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Hai tiếng ung dung vừa gợi hình, vừa tả được thái độ tự tin, được vẻ phớt đời, coi
thường bom đạn của người chiến sĩ lái xe. Tư thế ung dung ngồi trong buồng lái mặc


cho bom giật, bom rung lại càng được khẳng định khi ta dõi theo cặp mắt người chiến
sĩ:
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Câu thơ ngắt làm ba nhịp, hai nhịp đầu hướng cặp mắt người chiến sĩ tới hai đối
tượng: đất và trời. Tới nhịp thứ ba, đối tượng không cịn, người chiến sĩ hướng cặp
mắt tới phía trước trong tư thế bình thản, tự nhiên và dũng cảm: nhìn thẳng. Nhìn
thẳng vào bom đạn kẻ thù, nhìn thẳng vào con đường đang bị bắn phá đầy chết chóc
để lái xe vượt qua tất vả. Cái tứ nhìn thẳng này sẽ dẫn tới câu kết là lời giải thích
nguyên nhân vì sao người chiến sĩ lái xe lại có dũng khí ấy:
Một trái tim yêu nước, yêu đời. Một trái tim đập vì nước Nam thân thương như
Bác Hồ thường nói:
Vì trên xe có một trái tim
Vượt lên trên chết chóc, bom đạn, anh chợt nhận ra:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái
Hai khổ thơ sau của đoạn trích ghi lại hình ảnh anh chiến sĩ lái xe đang hăng hái
làm nhiệm vụ đưa hàng ra tiền tuyến trên chiếc xe khơng kính. Cũng vẫn cái giọng
ngang tàng đó, người chiến sĩ kể:
... Khơng có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tn, mưa xối như ngồi trời
Một tiếng "ừ" quả quyết, ngắn gọn, bất chấp tất cả, cả mưa tuôn, cả gió thổi, cả
ướt áo. Cái khí phách ấy mang lại cho hai câu thơ sau một nhịp thơ rắn đanh, chắc
nịch:
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khơ mau thơi
Khổ thơ cuối có hai hình ảnh đẹp. Hình ảnh thứ nhất ghi lại vẻ đẹp của những
người lính lịng can đảm dám vượt qua thử thách nơi chiến trường:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Hình ảnh thứ hai ghi lại vẻ đẹp của những người lính giàu tính đồng đội. Cách
biểu lộ tình cảm của họ cũng ngang tàng và rất lính:
Gặp bè bạn suốt đọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Cái cửa kính vỡ rồi, cái xe khơng có kính, nhưng tiểu đội xe khơng kính vẫn lao
lên phía trước, lao ra tiền tuyến để tiếp tế súng đạn, lương thực vì ngày tồn thắng
của đất nước. Hình ảnh tiểu đội xe khơng kính trở thành biểu tượng anh hùng tuyệt
vời cho những người lính lái xe trên đường mịn Hồ Chí Minh vượt Trường Sơn
hướng tới miền Nam.


ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
(Huy Cận)

I - GỢI Ý
1. Tác giả:
Nhà thơ Huy Cận (1919-2005), tên đầy đủ là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú,
huyện Vũ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, nay là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh.
Huy Cận nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng. Ông tham gia
cách mạng từ trước năm 1945 và sau Cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng
trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu
của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Huy Cận được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ
Chí Minh về văn học nghệ thuật (năm 1996).
Hơn 60 năm hoạt động văn học nói chung và làm thơ nói riêng, với gần 20 thi
phẩm thơ đi từ nỗi buồn "từ ngàn xưa" đến niềm vui lớn hôm nay, Huy Cận luôn gắn
liền với mạch đời chung của dân tộc. Thơ Huy Cận vừa bám lấy cuộc đời, vừa hướng
tới những khoảng rộng xa của tạo vật và thời gian, vừa trăn trở với cái chết, vừa nâng
niu sự sống trước qui luật tử sinh, vừa triết lí suy tư, vừa hồn nhiên thơ trẻ, vừa bay
bổng lãng mạn, vừa hiện thực đời thường trong cái khoảnh khắc hữu hạn của đời
người vẫn muốn hoá thân vào cái vĩnh cửu, trường sinh (Trời mỗi ngày lại sáng, Đất
nở hoa, Bài thơ cuộc đời, Những năm sáu mươi, Chiến trường gần đến chiến trường
xa, Ngày hằng sống, ngày hằng thơ, Ngôi nhà giữa nắng, Ta về với biển, Lời tâm
nguyện cùng hai thế kỷ). Với ý thức vận động và sự chuyển hoá giữa nhiều yếu tố
trong hình tượng cái tơi trữ tình, Huy Cận đã tạo cho mình một phong cách đặc sắc,
độc đáo. Huy Cận đã tỏ ra sở trường về thể thơ lục bát và có đóng góp đáng kể trong
sự mở rộng hình thức và nâng cao chất trí tuệ cho thơ theo hướng suy tưởng, vươn tới
những khái quát rộng xa, giàu liên tưởng trong những bài thơ mở rộng khn khổ,
kích thước.
2. Tác phẩm:
- Nhà thơ đã xuất bản: Lửa thiêng (thơ, 1940); Vũ trụ ca (thơ, 1942); Kinh cầu tự
(văn xi, 1942); Tính chất dân tộc trong văn nghệ (nghiên cứu, 1958); Trời mỗi
ngày lại sáng (thơ, 1958); Đất nở hoa (thơ, 1960); Bài ca cuộc đời (thơ, 1963); Hai
bàn tay em (thơ, 1967); Phù Đổng Thiên vương (thơ, 1968); Những năm sáu mươi
(thơ, 1968); Cô gái Mèo (thơ, 1972); Thiếu niên anh hùng họp mặt (thơ, 1973); Chiến

trường gần đến chiến trường xa (thơ, 1973); Những người mẹ, những người vợ (thơ,
1974); Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (thơ, 1975); Sơn Tinh, Thủy Tinh (thơ, 1976);
Ngôi nhà giữa nắng (thơ, 1978); Hạt lại gieo (thơ, 1984); Văn hóa và chính sách Văn
hóa ở Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (viết bằng tiếng Pháp, xuất bản ở Pari
1985); Tuyển tập (thơ, 1986); Nước thủy triều Đông (thơ, song ngữ, xuất bản ở Paris,
1944); Hồi ký song đôi (1997).
- Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá thể hiện sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và
cảm hứng thiên nhiên, vũ trụ của nhà thơ Huy Cận.
Bài thơ được bố cục theo hành trình một chuyến ra khơi của đồn thuyền đánh cá.
Hai khổ đầu là cảnh lên đường và tâm trạng náo nức của con người, bốn khổ tiếp theo
là hoạt động của đoàn thuyền đánh cá và khổ cuối là cảnh đồn thuyền trở về trong
buổi bình minh của một ngày mới.


×