Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Tinh chien dau cua Tuyen Ngon Doc lap

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.78 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Tính chiến đấu của Tun Ngơn Độc lập</b>



“Tun ngơn độc lập” của Hồ Chí Minh là đỉnh cao của văn chương chính luận Việt Nam.
“Tun ngơn độc lập” của Hồ Chí Minh là đỉnh cao của văn chương chính luận Việt Nam.
“Tun ngơn độc lập” được ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, sau hang nghìn năm
nhân dân Việt Nam sống dưới chế độ quân chủ, ngót một trăm năm sống dưới chế độ thực dân, 5
năm phát xít Nhật đơ hộ, mùa thu năm 1945, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản đã làm cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8 thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng hồ ra
đời. Tuy nhiên, chính quyền non trẻ của ta đang bị âm mưu quay trở lại xâm lược lần thứ hai của
thực dân Pháp. Xâm lược Việt nam lần này, thực dân Pháp hòng núp dưới hai chiêu bài lừa bịp
công luận quốc tế. Một là chúng có cơng bảo hộ, khai hố làm văn minh đất nước ta ngót một thế
kỉ qua. Hai là trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, Pháp đã đứng về phía quân Đồng minh
Liên Xơ để chống lại phát xít Nhật ở Châu Á-Thái Bình Dương. Vì vậy, chúng có quyền thu hồi
mảnh đất Việt Nam - mảnh đất đã từng nằm trong tay phát xít. Đứng trước tình hình ấy, nhất là
ngày 19/8 chính quyền về đến Hà Nội, ngày 26/8 ta giải phóng đến Huế cũng là ngày Hồ Chí
Minh soạn thảo bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tại số
nhà 48 phố Hàng Ngang-Hà Nội. “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh nhằm xé toang hai
chiêu bài lừa bịp của thưc dân Pháp. Bản tuyên ngôn được Bác đọc tại vườn hoa Ba Đình lịch sử
ngày 2/9/1945 trước hơn 50 vạn đồng bảo cả nước với một cảm xúc đặc biệt. Nhà thơ Tố Hữu
trong bài thơ “Sáng tháng 5” đã ghi lại xúc cảm của Người khi đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”:
“Giọng của Người đâu phải sấm trên cao


Ấm từng tiếng thấm vào lòng mong ước
Con nghe Bác tưởng nghe lời non nước
Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau”


“Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh là một tác phẩm có nhiều giá trị ở nhiều lĩnh vực. Nếu
đứng về góc độ pháp lí thì bản “Tun ngơn độc lập” là văn kiện pháp lí đầu tiên khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trên trường quốc tế. Nếu đứng từ góc độ ngoại giao, “Tun
ngơn độc lập” cũng là văn bản ngoại giao đầu tiên đặt nền móng quan hệ ngoại giao giữ Việt
Nam với các nước trên thế giới. Nếu đặt “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh trong dịng


chảy lịch sử nước nhà thì đây là bản tun ngơn lần thứ ba của dân tộc Việt Nam. Nhớ lại bản
tuyên ngôn đầu tiên của nước ta là “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt với lời khẳng định:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở


Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”


Vang vang đâu đây cùng lời thơ thần của Lý Thường Kiệt là Bình Ngơ Đại Cáo của Nguyễn
Trãi-được xem là bản tuyên ngon lần thứ hai của dân tộc Việt Nam với lời khẳng định:
“Như nước Đại Việt ta ngày trước


Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia


Phong tục Bắc Nam cũng khác”


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

lần đâu tiên vùng dậy chặt đứt xiềng xích của thực dân giành chính quyền giải phịng cho mình.
Đó là một dân tộc lầm than đã từng “giũ bùn đứng dậy sáng loà” như lời thơ của Nguyễn Đình
Thi trong bài “Đất nước”:


“Xiềng xích chúng bay khơng khố được.
Trời đầy chim và đất đầy hoa


Súng đạn chúng bay khơng bắn được
Lịng dân ta u nước thương nhà.”


Nếu đứng từ góc độ văn chương nghệ thuật thì “Tun ngơn độc lập” là đỉnh cao của văn chính
luận đạt đến trình độ mẫu mực. Để làm sáng tỏ nhận định trên, ta tập trung tìm hiểu giá trị nội
dung và giá trị nghệ thuật của bản “Tuyên ngôn độc lập”.



Trước hết là giá trị nội dung, “Tuyên ngôn độc lập” được Bác Hồ viết dưới hai nguồn cảm hứng
chính - ấy là cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân văn. Nếu cảm hứng yêu nước là tiếng nói
của một nhà ái quốc vĩ đại thì cảm hứng nhân văn là tiếng nói của một nhà nhân đạo cộng sản đã
hi sinh cả cuộc đời mình để đấu tranh vì quyền con người, trong khi đó cảm hứng yêu nước như
một sợi chỉ đó xuyên suốt cả ba phần của “Tuyên ngơn độc lập”.


Phần I của bản tun ngơn Hồ Chí Minh khẳng định quyền độc lập của dân tộc trên cơ sở lí lẽ
khơng ai có thể chối cãi được. Ở phần này, Bác dẫn lời bản “Tuyên ngôn độc lập” của nước Mỹ
ngày 4/7/1776, ở đó có đoạn viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hố
cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Bác cịn dẫn lời bản “Tun ngơn nhân quyền dân
quyền” của cách mạng Pháp năm 1791. Trong 17 điều của bản “Tuyên ngôn nhân quyền dân
quyền” Bác có dẫn đoạn: “Người ta sinh ra tự do, bình đẳng về quyền lợi và phải ln được tự
do, bình đẳng về quyền lợi”. Có thể khẳng định đây là những lẽ phải, những chân lí mà thế giới
đã từng công nhận. Từ những lẽ phải và chân lí này, Bác suy ra một chân lí thứ ba buộc mọi
người phải thừa nhận: “Suy rộng ra câu ấy nghĩa là: tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng. Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.


Cách lập luận của Hồ Chí Minh trong bản “Tun ngơn độc lập” vừa tỏ ra khôn khéo, lại vừa tỏ
ra kiên quyết. Khôn khéo bởi lẽ người dung lời lẽ của bản “Tuyên ngôn nhân quyền dân quyền”
của cách mạng Pháp để so sánh việc làm đồi bại của chúng trên đất nước Việt Nam ngót một thế
kỉ qua. Từ đo nhằm mục đích xé toang hai chiêu bài lừa bịp của thực dân Pháp trên trường quốc
tế. Ở đây Người dùng nghệ thuật gậy ông đập lại lưng ông nghĩa là Bác dung cây gậy độc lập
dân tộc để đánh vào lưng kẻ chuyên mang qn đi xâm lược mà miệng lại ln nói về quyền tự
do, bình đẳng, bác ái – trong tranh luận , khơng gì sung sướng và thú vị bằng việc lấy lời lẽ của
đối phương để khoá lại miệng đối phưong. Hồ Chí Minh đã làm tốt nghệ thuật này ngay trong
phần I của “Tuyên ngôn độc lập”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Chí Minh xứng đáng là nhà văn của nhân loại như lời của Muyđenstande.



Phần II, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định quyền độc lập của dân tộc trên cơ sở tình hình thực
tiễn ở Việt Nam. Ở phần này, “Tuyên ngôn độc lập” chẳng khác nào như một bản cáo trạng đanh
thép nhằm kết tội tội ác của thực dân Pháp với hai tội trạng:” Tội xâm lược Việt Nam gây bao
đau khổ cho đồng bào Việt Nam và tội bán Việt Nam cho Nhật”.


Trước hết là tội xâm lược Việt Nam. Thực dân Pháp bắt đầu đặt chân xâm lược nước ta từ 1858
với sự kiện nổ sung ở cảng Đà Nẵng. Sau khi bình định được nước ta, chúng tập trng khai thác
tài nguyên, thiên nhiên, vật liệu để làm giàu cho chính quốc. Để vạch trần tội ác này, Hồ Chí
Minh đã tập trung tố cao trên nhiều phương diện. Trươc hết là phường diện chính trị. Thực dân
Pháp dùng chính sách “chia để trị”. Chúng chia nước ta ra làm ba kì với ba hình thức cai trị khác
nhau. Chúng cịn dùng chính sách chia rẽ đồng bào, dân tộc ta. Chúng thi hành lụât pháp dã man.
Chúng không cho dân ta môt chút quyền tự do dân chủ nào. Chúng thẳng tay đàn áp, chém giết
những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng dìm các cuộc khởi nghĩa của ta trong biển máu,
… Về kinh tế, chúng cướp không ruộng đất của nhân dân ta để lập đồn điền, hầm mỏ. Chúng độc
quyền in giấy bạc. Chúng thiết lập một hàng rào thuế quan nghiêm ngặt, không cho hàng của
Việt Nam ra nước ngoài cũng như hang của nước ngoài vào Việt Nam nhằm độc quyền chiếm
giữ thị trường Việt Nam. Chúng đặt ra những thứ thuế dã man, vơ lí làm cho mọi giai tầng của ta
khơng thể ngóc đầu lên được. Về văn hố-xã hội, thực dân Pháp mở nhà tù nhiều hơn trường học
rồi dung chính sách nhồi sọ ngu dân để dễ bề cai trị. Chúng còn đầu độc dân ta bằng rượu cồn,
thuốc phiện để dân ta bị suy kiệt về nòi giống… Chính sách xâm lược của thực dân Pháp kết hợp
với phát xít Nhất từ mùa thu năm 1940 đã dẫn đến hậu quả cuối 1944 - đầu 1945, hơn 2 triệu
đồng bào Việt Nam bị chết đói từ Quảng Trị trở ra Bắc Kì. ới cách tố cáo này, thực dân Pháp
không phải là kẻ bảo hộ nước ta, khai hoá làm văn minh nước Việt Nam như luận điệu chúng
đang lừa bịp công luận quốc tế. Thực chất, thực dân Pháp là kẻ xâm lược Việt Nam gây bao đau
khổ cho đồng bào Việt Nam. Chiêu bài bảo hộ của thực dân Pháp đã bị Hồ Chí Minh xé toang
trên trường quốc tế.


Khơng chỉ dừng lại ở đó, lời văn sâu cay của Hồ Chí Minh cịn vạch trần tội ác thứ hai của kẻ
thù. Đó là tội dã tâm bán Việt Nam cho phát xít Nhật. Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật tràn qua


biên giới Việt – Trung vào Việt Nam để mở rộng căn cứ đánh Đồng minh. Vì quá bất ngờ nên
thực dân Pháp đã mở cửa nước ta rước Nhật. Bắt đầu từ đây nhân dân Việt Nam sống cuộc đời
“1 cổ 2 tròng”: thực dân Pháp và phát xít Nhật. Đã nhiều lần Việt Minh kêu gọi thực dân Pháp
đứng về phía Việt Minh để chống Nhật. Thực dân Pháp chẳng những không nghe mà còn tiếp tục
chem. giết những người yêu nước thương nòi của ta. Trong vòng 5 năm trời(từ mùa thu 40 –
19/3/1945) thực dân Pháp đã hai lần nhục nhã bán Việt Nam cho Nhật. Điều này chứng tỏ rằng
thực dân Pháp khơng hề đứng về phía Đồng minh chống Nhật mà là kẻ đầu hàng phát xít Nhật
một cách nhục nhã. Với cách tố cáo này, chiêu bài thứ hia của thực dân Pháp đã bị xé toang trên
trường quốc tế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

không cịn là thuộc địa của Pháp nữa vì thực dân Pháp đã bán ta hai lần cho phát xít Nhật. Nhân
dân Việt Nam có quyền thốt li mọi sự lệ thuộc, dính líu với thực dân Pháp. Việt Nam có thể xố
bỏ tất cả các Hiệp ước mà Pháp đã kí về Việt Nam. Ta khơng cịn là thuộc địa của Nhật nữa vì
nhân dân Việt Nam đã cướp chính quyền từ tay phát xít Nhật. Hơn thế nữa, ta đã có Chính phủ
lâm thời đại diện cho nước Việt Nam mới đủ sức lãnh đạo cách mạng Viêt Nam tới ngày Tổng
tuyển cử trong cả nước.


Phần III, Hồ Chí Minh khẳng định quyền độc lập dân tộc trên trường quốc tế. Ở phần này, Người
đã khẳng định: Nếu công luận quốc tế thừa nhận nguyên tắc độc lập của các nước thành viên tại
hai hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn thì khơng thể không thừa nhận nguyên tắc độc lập của
dân tộc Việt Nam.


Tun ngơn cịn được bằng lời thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh: “Toàn thể dân tộc Vịêt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập
ấy”


“Tun ngơn độc lập” của Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa tinh thần yêu nước từ các bản tun
ngơn trong lịch sử mà cịn kế thừa tinh thần nhân văn, nhân đạo. Đó là tinh thần của một dân tộc
“Thương người như thể thương than”. Điều này được thể hiện rõ trong bản “Tuyên ngôn độc
lập”. Mặc dù thực dân Pháp xâm lược thế Việt Nam gây bao đau khổ cho đồng bào Việt Nam


nhưng khơng phải vì thế mà nhân dân Việt Nam không đối xử khoan hồng, nhân đạo với người
Pháp. Nhất là đêm 9/3/1945 khi Nhật đảo chính Pháp trên tồn cõi Đơng Dương, Việt Minh đã
giúp cho những người lính Pháp vượt qua biên giới rồi trốn khỏi nhà giam của phát xít Nhật
nhằm bảo tồn tính mạng cho họ. Nêu cao tinh thần nhân đạo, nhân văn, một lần nữa thông qua
“Tuyên ngôn độc lập” Hồ Chí Minh muốn khẳng định trước cơng luận thế giới rằng: đây là tinh
thần nhân đạo của một dân tộc:


“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”


Nhân văn, nhân đạo hiểu nôm na là tình yêu thương con người. Điều này chỉ thể hiện rõ trong
bản “Tuyên ngôn độc lập” khi Hồ Chí Minh tố cáo tội ác của kẻ thù. Bác khơng chỉ đứng trên lập
trường dân tộc mà cịn đứng trên quyền con người để tố cáo. Vì vậy, “Tun ngơn độc lập” của
Hồ Chí Minh là bản tuyên ngôn nhân quyền mang sắc thái quốc tế.


</div>

<!--links-->

×