Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Thực trạng pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân bằng phương thức trọng tài và tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.76 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU........................................................................................................2
B. NỘI DUNG.....................................................................................................3
I. KHÁI NIỆM CHUNG....................................................................................3
1. Khái niệm người tiêu dùng............................................................................3
2. Khái niệm tổ chức, cá nhân kinh doanh.......................................................4
3. Tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh:..........6
II.PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG
TÀI VÀ TỊA ÁN.....................................................................................................7
1.

Phương thức giải quyết bằng tịa án:........................................................7

2.

Phương thức giải quyết bằng trọng tài:....................................................9

3.

Đánh giá phương thức giải quyết tranh châp bằng tòa án và trọng

tài:
…………………………………………………………………………….13
C. KẾT LUẬN..................................................................................................16

0


A. MỞ ĐẦU
Bảo vệ người tiêu dùng là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của
toàn xã hội. Không chỉ tại Việt Nam, hầu hết các nước trên thế giới đều rất coi


trọng công tác này, bởi lẽ bảo vệ người tiêu dùng chính là bảo vệ sự phát triển
bền vững của xã hội. Do đó, nhiều quốc gia đã sớm ban hành các đạo luật với
mục đích bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Tại Việt
Nam, năm 1999, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Bảo vệ
người tiêu dùng. Đây có thể coi là một bước ngoặt quan trọng trong công tác
bảo vệ người tiêu dùng ở nước ta cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước
ta đối với công tác này. Bên cạnh Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng, vấn đề bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng Việt Nam còn được quy định
bởi rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật
Hình sự, Luật thương mại, Luật cạnh tranh, Luật chất lượng sản phẩm, hàng
hóa…
Hiện nay, tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh
được hiểu là các tranh chấp dân sự thông thường nên được xử lý theo các quy
định hiện hành về pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, các tranh chấp của người
tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh có đặc thù là những tranh chấp nhỏ,
đơn giản và cần được giải quyết nhanh chóng, thuận tiện cho người tiêu dùng.
Thực tế cho thấy việc áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành để giải quyết các khiếu nại, tranh chấp của người tiêu dùng là khơng phù
hợp vì giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự là quá phức tạp và tốn kém, không
phù hợp với khiếu nại, giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng. Đây là lý do
chính dẫn đến việc người tiêu dùng nước ta thường e ngại, không muốn khiếu
nại, khởi kiện ra toà khi bị vi phạm quyền lợi. Lợi dụng điều này, nhiều tổ chức
cá nhân kinh doanh thường xem nhẹ, thiếu ý thức bào vệ quyền lợi người tiêu
1


dùng dẫn đến thiệt hại quyền lợi người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của các phương thức giải quyết tranh chấp giữa
người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa và dịch vụ, em xin
chọn Đề 15: “Thực trạng pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp giữa

người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân bằng phương thức trọng tài và tịa án.” làm
chủ đề chính cho bài tập học kỳ.

2


B. NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM CHUNG
1. Khái niệm người tiêu dùng: Theo khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ Người
tiêu dùng 2010, Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho
mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.
Quyền của người tiêu dùng được quy định tại Điều 8 Luật Bảo vệ người tiêu
dùng năm 2010 như sau:
“Điều 8. Quyền của người tiêu dùng
1. Được bảo đảm an tồn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp.
2. Được cung cấp thơng tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc, xuất
xứ hàng hóa; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch
và thông tin cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử
dụng.
3. Lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc không
tham gia giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch với tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
4. Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá cả,
chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và
nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.

3


5. Tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
6. Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, cơng dụng, giá cả
hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công
bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết.
7. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo
vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật này và các quy định khác của
pháp luật có liên quan.
8. Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa, dịch
vụ.”
Nghĩa vụ của người tiêu dùng được quy định tại Điều 9 Luật Bảo vệ người
tiêu dùng năm 2010 như sau:
“Điều 9. Nghĩa vụ của người tiêu dùng
1. Kiểm tra hàng hóa trước khi nhận; lựa chọn tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ
có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, không làm tổn hại đến môi trường, trái với thuần
phong mỹ tục và đạo đức xã hội, không gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe
của mình và của người khác; thực hiện chính xác, đầy đủ hướng dẫn sử dụng
hàng hóa, dịch vụ.
2. Thơng tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan khi phát
hiện hàng hóa, dịch vụ lưu hành trên thị trường khơng bảo đảm an toàn, gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người
tiêu dùng; hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.”
4



2. Khái niệm tổ chức, cá nhân kinh doanh: Tổ chức, cá nhân kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ là tổ chức, cá nhân thực hiện một, một số hoặc tất cả các
cơng đoạn của q trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ hàng hóa hoặc cung
ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm:
 Thương nhân theo quy định của Luật thương mại;
 Cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, không phải đăng
ký kinh doanh.
Các hành vi bị cấm của Tổ chức, cá nhân linh doanh hàng hóa, dịch vụ
được quy định tại Điều 10 Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 như sau:
“Điều 10. Các hành vi bị cấm
1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lừa dối hoặc gây nhầm lẫn
cho người tiêu dùng thông qua hoạt động quảng cáo hoặc che giấu, cung cấp
thông tin khơng đầy đủ, sai lệch, khơng chính xác về một trong các nội dung
sau đây:
a) Hàng hóa, dịch vụ mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
cung cấp;
b) Uy tín, khả năng kinh doanh, khả năng cung cấp hàng hóa, dịch vụ của tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ;
c) Nội dung, đặc điểm giao dịch giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ quấy rối người tiêu dùng
thơng qua tiếp thị hàng hóa, dịch vụ trái với ý muốn của người tiêu dùng từ 02

5


lần trở lên hoặc có hành vi khác gây cản trở, ảnh hưởng đến cơng việc, sinh
hoạt bình thường của người tiêu dùng.
3. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ ép buộc người tiêu dùng
thơng qua việc thực hiện một trong các hành vi sau đây:

a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các biện pháp khác gây thiệt hại
đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của người tiêu
dùng;
b) Lợi dụng hồn cảnh khó khăn của người tiêu dùng hoặc lợi dụng thiên tai,
dịch bệnh để ép buộc giao dịch.
4. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện hoạt động xúc
tiến thương mại, đề nghị giao dịch trực tiếp với đối tượng là người không có
năng lực hành vi dân sự hoặc người mất năng lực hành vi dân sự.
5. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ yêu cầu người tiêu dùng
thanh tốn hàng hóa, dịch vụ đã cung cấp mà khơng có thỏa thuận trước với
người tiêu dùng.
6. Người tiêu dùng, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lợi dụng việc bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.
7. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ lợi dụng hồn cảnh khó
khăn của người tiêu dùng hoặc lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để cung cấp hàng
hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng.
8. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ khơng bảo đảm chất
lượng gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng.”
6


3. Tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh:
Hơn 14.000 phản ánh của người tiêu dùng đến Bộ Công Thương trong năm
2020 phần nào cho thấy, quyền lợi của NTD vẫn bị xâm phạm nghiêm trọng.
Đáng chú ý, vi phạm diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực kinh doanh, nhất là lĩnh vực
bất động sản, bảo hiểm.
Theo Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng - Bộ Công Thương, thời
gian qua, công tác bảo vệ quyền lợi NTD được đẩy mạnh theo hướng xã hội

hóa, tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn cịn nhiều hạn chế.
Năm 2020, Cục CT & BVNTD đã tiếp nhận hơn 14.000 phản ánh, khiếu nại,
yêu cầu tư vấn từ người tiêu dùng. Trong đó, chủ yếu tăng mạnh thông qua
Tổng đài tư vấn và hỗ trợ người tiêu dùng 1800.6838. Nếu như năm 2011, Tổng
đài này chỉ nhận được 26 cuộc gọi phản ánh, khiếu nại, năm 2019 có 9.295 cuộc
gọi, thì đến năm 2020 tăng lên tới 11.211 cuộc gọi.
Các phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ được quy định tại Điều 30 như sau:
“Điều 30. Phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
1. Tranh chấp phát sinh giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ được giải quyết thơng qua:
a) Thương lượng;
b) Hịa giải;
c) Trọng tài;
d) Tòa án.
7


2. Khơng được thương lượng, hịa giải trong trường hợp tranh chấp gây thiệt
hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của nhiều người tiêu dùng, lợi ích cơng
cộng.”
II. PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG
TÀI VÀ TÒA ÁN
1. Phương thức giải quyết bằng tòa án:
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh
quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ
và bản án hay quyết định của tòa án về vụ tranh chấp nếu khơng có sự tự
nguyện tn thủ sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà
nước…

 Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại tại tòa án là một phương
thức mang ý chí quyền lực nhà nước. Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước để
giải quyết tranh chấp trên cơ sở các quy định của pháp luật. Quyết định của tịa
án có hiệu lực khiến các bên bắt buộc phải thực thi; và có thể kèm theo các biện
pháp cưỡng chế thi hành. Bản chất đó được thể hiện thơng qua các đặc điểm
sau:
 Tịa án nhân dân cho Nhà nước, thực thi và áp dụng pháp luật, xử lý mọi
trường hợp vi phạm theo luật định. Vì vậy, Tịa án có tính cưỡng chế cao.
 Việc giải quyết tranh chấp của tòa án phải tn thủ nghiêm ngặt các quy
định mang tính hình thức cũng như các quy định về thẩm quyền, thủ tục, các
nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại của pháp luật tố tụng nhất là các
quy định của bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

8


 Tịa án giải quyết tranh chấp khơng áp dụng hình thức xử kín như hịa
giải, trọng tài,…mà theo ngun tắc xét xử công khai.
 Việc giải quyết tranh chấp tại tịa án có thể thực hiện qua hai cấp xét xử:
sơ thẩm và phúc thẩm, bản án có hiệu lực pháp luật cịn có thể được xét lại theo
thủ tục: giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
 Tòa án giải quyết theo nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Ở nước ta, khơng có Tồ án chuyên trách về bảo vệ người tiêu dùng. Các vụ
kiện đòi bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng
được xếp vào loại vụ kiện dân sự và có thể được giải quyết theo pháp luật hợp
đồng hoặc pháp luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà Bộ luật dân sự và
các văn bản có liên quan đã quy định. Tồ án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc nếu
có đơn khởi kiện của người tiêu dùng. Trình tự, thủ tục khởi kiện bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng được áp dụng theo trình tự chung mà Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015 đã quy định. Cụ thể:

a, Quyền khởi kiện:
Người tiêu dùng có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm thì có quyền tiến
hành khởi kiện người có hành vi xâm phạm ra trước Tồ án để địi bồi thường.
Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng có quyền khởi kiện nếu được người
tiêu dùng ủy quyền bằng văn bản. Tinh thần này đã được quy định tại Điều 4 và
Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Trong quá trình giải quyết vụ kiện, người tiêu dùng và doanh nghiệp bị kiện
bình đẳng với nhau trước Tịa án (Điều 8 BLTTDS) có quyền thoả thuận, hồ
giải với nhau về việc giải quyết vụ kiện (Điều 5 và Điều 10 Bộ luật Tố tụng dân
sự).
9


Cả hai bên đương sự, khi khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ kiện,
người tiêu dùng, người bị kiện phải cung cấp chứng cứ chứng minh cho các u
cầu của mình. Tồ án chỉ xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp
Bộ luật tố tụng dân sự có quy định (Điều 6, Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự).
b. Thẩm quyền giải quyết vụ việc:
Vụ kiện về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bất kể là vụ kiện theo quy định
của pháp luật về hợp đồng hay theo quy định của pháp luật bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng, nhìn chung đều thuộc thẩm quyền giải quyết tại Toà án nhân
dân cấp huyện (thường là nơi cá nhân, doanh nghiệp bị kiện có trụ sở hoặc nơi
cư trú theo Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).
c. Thủ tục khởi kiện:
Người tiêu dùng muốn tiến hành khởi kiện đối tượng đã gây thiệt hại cho
mình thì phải làm đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân
sự 2015. Kèm theo đơn khởi kiện, người khởi kiện phải gửi cho Toà án các tài
liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp.
Chẳng hạn, người tiêu dùng phải nộp các loại chứng cứ chứng minh mình đã

mua hàng của doanh nghiệp bị kiện, các loại chứng cứ chứng minh mình bị
thiệt hại, các loại chứng cứ chứng minh doanh nghiệp bị kiện đã có hành vi vi
phạm pháp luật bảo vệ người tiêu dùng.
Người khởi kiện có thể gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đến
Tồ án có thẩm quyền giải quyết vụ án bằng cách nộp trực tiếp tại Toà án hoặc
gửi qua đường bưu điện. Ngày khởi kiện được tính từ ngày đương sự nộp đơn
tại Tồ án hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi.

10


Toà án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Toà án hoặc
gửi qua bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn. Trong thời hạn năm ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Tồ án phải xem xét và có một trong
các quyết định sau đây:
 Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của
mình;
 Chuyển đơn khởi kiện cho Tồ án có thẩm quyền và báo cho người khởi
kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án khác;
 Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu việc đó khơng thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tồ án.
Trường hợp Tồ án thụ lý vụ kiện, các thủ tục sau đó sẽ được thực hiện theo
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
d. Nộp tạm ứng án phí và chi phí tố tụng khác
Người tiêu dùng khi tiến hành khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí theo
mức quy định của Nhà nước (Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Người tiêu dùng khi yêu cầu Toà án trưng cầu giám định thì phải nộp tiền
tạm ứng chi phí giám định (Điều 160 Bộ luật tố tụng dân sự).
e. Vấn đề áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Người tiêu dùng có thể u cầu Tồ án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm

thời, trong đó có thể buộc bên bị kiện thu hồi sản phẩm nếu việc tiếp tục cho
lưu thơng hàng hố đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng, nhất là các loại thiệt
hại không thể khắc phục được (Khoản 1 và 2 Điều 111, Khoản 12 Điều 114 và
Điều 127 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).
11


2. Phương thức giải quyết bằng trọng tài:
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả
thuận và được tiến hành theo quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010. Bất
kỳ một phương thức giải quyết nào cũng có những nguyên tắc nhất định, trọng
tài thương mại không phải là một ngoại lệ. Theo Điều 4 Luật trọng tài thương
mại năm 2010 có quy định cụ thể:
“Điều 4. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
1. Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó
khơng vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.
2. Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của
pháp luật.
3. Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng
tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình.
4. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
5. Phán quyết trọng tài là chung thẩm.”
Nguyên tắc thứ nhất thể hiện sự tôn trọng của trọng tài viên đối với các bên
tranh chấp về phạm vi thỏa thuận trọng tài và quyền, nghĩa vụ của các bên. Với
việc đề cao thỏa thuận của các bên là mục tiêu hàng đầu trong giải quyết tranh
chấp thương mại nhằm tìm ra phương hướng giải quyết tốt nhất mà vẫn đảm
bảo lợi ích của các bên không bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, sự thỏa thuận của các
bên phải không vị phạm điều cấm hay trái đạo đức xã hội thì mới được chấp

nhận.

12


Thứ hai, trọng tài viên trong việc giải quyết tranh chấp thương mại đóng vai
trị như thẩm phán để đưa ra quyết định khách quan, vơ tư. Vì vậy, trọng tài viên
phải có vai trị độc lập với các bên tranh chấp, khơng được là người có quyền,
lợi ích liên quan đến bất kỳ bên tranh chấp nào. Điều này đảm bảo được sự
công bằng khi giải quyết tranh chấp, để đưa ra một quyết định ổn thỏa nhất.
Thứ ba là về sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp. Các
bên có quyền và nghĩa vụ như nhau, khơng hề có tính chất thiên vị bất kỳ bên
nào giống như hình thức giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Điều này cho thấy
việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài thương mại cũng
vẫn đảm bảo sự cơng bằng như tại Tịa án.
Thứ tư, việc giải quyết tranh chấp không công khai. Đây là điểm đặc biệt
của hình thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài thương
mại. Nếu giải quyết tại Tịa án thì phiên tịa giải quyết vụ việc này sẽ là công
khai, bất kỳ ai cũng có thể tới tham dự được. Điều này ảnh hưởng khơng nhỏ
đến uy tín thậm chí là đời sống riêng tư của các bên tranh chấp. Chưa kể đến
việc những chứng cứ thu thập được để mang ra xét xử có thể là bí mật kinh
doanh của các bên liên quan trực tiếp đến lợi ích của các bên. Vì vậy việc giải
quyết tranh chấp thương mại không công khai là điều cần thiết cho lợi ích của
các bên tham gia tranh chấp.
Cuối cùng là nguyên tắc đặc trưng nhất của phương thức giải quyết bằng
trọng tài thương mại. Đó là phán quyết của trọng tài viên là chung thẩm. Nghĩa
là phán quyết không thể bị kháng cáo để xét xử lại bởi bất kỳ một trọng tài hay
một Tòa án nào khác. Điều có thể làm chỉ là thực hiện theo phán quyết đó hoặc
khơng đồng ý thì một bên u cầu Tịa án hủy phán quyết đó mà thôi. Nguyên
tắc này khiến cho việc giải quyết tranh chấp nhanh gọn hơn thay vì việc ra một

quyết định rồi một bên khơng vừa ý thì lại kháng cáo để xử lại, điều này rất tốn
13


thời gian và công sức. Đồng thời, nguyên tắc này cũng áp đặt lên các bên tranh
chấp việc buộc phải chấp nhận phán quyết của Trọng tài viên.
Các nguyên tắc trên khiến cho việc giải quyết tranh chấp thương mại nhanh
gọn, tiết kiệm thời gian công sức của các bên mà vẫn đảm bảo được lợi ích của
các bên khơng kém gì giải quyết tranh chấp tại Tịa án.
Những tranh chấp thương mại có thể giải quyết thơng qua trọng tài
Theo Điều 2 Luật TTTM, thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của trọng tài
gồm: Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; Tranh chấp
phát sinh giữa các bên, trong đó có ít nhất một bên có hoạt động thương mại;
Tranh chấp giữa các bên mà pháp luật được giải quyết bằng trọng tài.
Điều kiện để giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có thể được các bên thỏa thuận trước
hoặc sau khi xảy ra tranh chấp tùy từng trường hợp. Thỏa thuận trọng tài được
thể hiện ở dạng một điều khoản của hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận
riêng, nhưng bắt buộc thỏa thuận phải được lập thành văn bản. Các hình thức
thỏa thuận dưới đây cũng được xem là xác lập dưới dạng văn bản:
 Thỏa thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax,
telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
 Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin giữa các bên.
 Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền
ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên.
 Trong giao dịch của các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện
thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng cứ, điều lệ công ty và những tài liệu
tương tự khác.
14



 Qua trao đổi về đơn khởi kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự
tồn tại của thỏa thuận của một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.
Tuy nhiên đối với các trường hợp dưới đây, thỏa thuận trọng tài sẽ bị vô
hiệu:
 Thỏa thuận trọng tài được xác lập để giải quyết tranh chấp không thuộc
lĩnh vực quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài Thương mại 2010.
 Người xác lập thỏa thuận trọng tài khơng có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật. Người xác lập không phải là người đại diện theo pháp luật hoặc
không phải là người được ủy quyền hợp pháp hoặc là người được ủy quyền hợp
pháp nhưng vượt quá phạm vi được ủy quyền.
 Người xác lập thỏa thuận trọng tài khơng có năng lực hành vi dân sự theo
quy định của pháp luật dân sự.
 Hình thức của thỏa thuận không phù hợp với các quy định được nêu ở
trên.
 Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập
thỏa thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vơ hiệu.
 Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
Quy trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
Khi có đủ các điều kiện để giải quyết tranh chấp bằng TTTM như có thỏa
thuận trọng tài có hiệu lực... thì các bên thực hiện các bước theo trình tự tố tụng
trọng tài.
Bước 1: Nộp đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo.
15


Bước 2: Bị đơn nộp bản tự bảo vệ, Điều 35 Luật TTTM 2010).
Bước 3: Thành lập Hội đồng trọng tài.
Bước 4: Hòa giải (theo Điều 58 Luật TTTM 2010).
Bước 5: Tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp (Điều 55 Luật TTTM

2010).
Bước 6: Hội đồng trọng tài ra phán quyết.
Các hình thức trọng tài thương mại
Hiện nay, trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức cơ bản là trọng tài
vụ việc và trọng tài thường trực.
Thứ nhất, trọng tài vụ việc
Đây là hình thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải
quyết vụ việc và sẽ khơng cịn tồn tại khi vụ việc đã được giải quyết xong. Đặc
trưng cơ bản của trọng tài vụ việc bao gồm:
 Được thành lập khi các tranh chấp phát sinh và tự chấm dứt hoạt động
khi giải quyết xong tranh chấp.
 Khơng có trụ sở thường trực, khơng có bộ máy điều hành, khơng có danh
sách trọng tài viên. Trọng tài viên được các bên có tranh chấp chỉ định có thể là
người có tên trong hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của bất kỳ một trung tâm
trọng tài nào.
 Quy tắc tố tụng để giải quyết tranh chấp có thể do các bên thỏa thuận xây
dựng hoặc lựa chọn từ bất kỳ một quy tắc tố tụng nào của các trung tâm trọng
tài khác.
16


Thứ hai, trọng tài thường trực
Đây là hình thức trọng tài được tổ chức khá chặt chẽ, có bộ máy, trụ sở làm
việc thường xuyên, thường có danh sách các trọng tài viên hoạt động theo điều
lệ và quy tắc tố tụng riêng. Đa số các tổ chức trọng tài lớn, có uy tín trên thế
giới đều được thành lập theo mơ hình này dưới những tên gọi như trung tâm
trọng tài, ủy ban trọng tài, viện trọng tài,… nhưng chủ yếu và phổ biến được tổ
chức dưới dạng các trung tâm trọng tài.
3. Đánh giá phương thức giải quyết tranh châp bằng tòa án và trọng
tài:

a, Phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án:
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh
quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ
và bản án hay quyết định của tịa án về vụ tranh chấp nếu khơng có sự tự
nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà
nước…
Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại tại tòa án là một phương thức
mang ý chí quyền lực nhà nước. Tịa án nhân danh quyền lực nhà nước để giải
quyết tranh chấp trên cơ sở các quy định của pháp luật. Quyết định của tịa án
có hiệu lực khiến các bên bắt buộc phải thực thi; và có thể kèm theo các biện
pháp cưỡng chế thi hành. Bản chất đó được thể hiện thơng qua các đặc điểm
sau:
+ Tịa án nhân dân cho Nhà nước, thực thi và áp dụng pháp luật, xử lý mọi
trường hợp vi phạm theo luật định. Vì vậy, Tịa án có tính cưỡng chế cao.

17


+ Việc giải quyết tranh chấp của tòa án phải tn thủ nghiêm ngặt các quy
định mang tính hình thức cũng như các quy định về thẩm quyền, thủ tục, các
nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại của pháp luật tố tụng nhất là các
quy định của bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
+ Tòa án giải quyết tranh chấp khơng áp dụng hình thức xử kín như hịa giải,
trọng tài,…mà theo ngun tắc xét xử cơng khai.
+ Việc giải quyết tranh chấp tại tịa án có thể thực hiện qua hai cấp xét xử:
sơ thẩm và phúc thẩm, bản án có hiệu lực pháp luật cịn có thể được xét lại theo
thủ tục: giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
+ Tòa án giải quyết theo nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Ưu điểm giải quyết bằng Tòa án
+ Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước nên phán quyết của tòa án có tính

cưỡng chế cao. Trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ; và đảm bảo hiệu lực thi hành
của phán quyết tại Tịa. Nếu các bên khơng chấp hành sẽ bị cưỡng chế bởi cơ
quan thi hành án. Các bên được bảo toàn quyền lợi và nghĩa vụ của mình bắt
buộc phải thực hiện theo phán quyết của Tịa.
+ Ngun tắc xét xử cơng khai có tính răn đe đối với những thương nhân
kinh doanh vi phạm pháp luật. Đây cũng là một lợi thế; vì khi có những vụ xét
xử công khai sẽ nhận ra những doanh nghiệp mang tính lừa lọc; hay vi phạm để
tránh những trường hợp khác xảy ra.
+ Các tòa án, đại diện cho chủ quyền quốc gia; có điều kiện tốt hơn các
trọng tài viên trong việc tiến hành điều tra; có quyền cưỡng chế, triệu tập bên
thứ ba đến tòa.

18


+ Các bên không phải trả thù lao cho thẩm phán, ngồi ra chi phí hành chính
rất hợp lý.
Hạn chế giải quyết bằng Tòa án
+ Thủ tục tố tụng tại tòa án thiếu linh hoạt do đã được pháp luật quy định
trước đó;
+ Phán quyết của tịa án thường bị kháng cáo. Q trình tố tụng có thể bị trì
hỗn và kéo dài; có thể phải qua nhiều cấp xét xử; ảnh hưởng đến quá trình sản
xuất, kinh doanh.
+ Nguyên tắc xét xử cơng khai của tịa án tuy là nguyên tắc được xem là tiến
bộ; mang tính răn đe nhưng đôi khi lại là cản trở đối với doanh nhân khi những
bí mật kinh doanh bị tiết lộ; và uy tín trên thương trường bị giảm sút.
Đối với các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngồi thì:
+ Phán quyết của tịa án thường khó đạt được sự cơng nhận quốc tế. Phán
quyết của tịa án được cơng nhận tại một nước khác thường thông qua hiệp định
song phương hoặc theo nguyên tắc rất nghiêm ngặt.

+ Mặc dù thẩm phán quốc gia có thể khách quan; họ vẫn phải buộc sử dụng
ngôn ngữ và áp dụng quy tắc tố tụng của quốc gia họ và thường cùng quốc tịch
với một bên.
b, Phương thức trọng tài:
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết các vấn đề liên quan đến
thương mại, bảo vệ người tiêu dùng bằng việc hai bên liên quan thống nhất một
bên thứ 3 đứng ra xử lý. Bên thứ 3 đó gọi là trọng tài thương mại. Khi giải
quyết tranh chấp bằng hình thức này, các bên liên quan phải tuân thủ quyết định
của trọng tài thương mại.
19


Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tài phán phi
chính phủ do các đương sự thỏa thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp thương
mại mang các đặc điểm cơ bản sau:
+Thứ nhất, Trọng tài chỉ giải quyết tranh chấp thương mại khi có yêu cầu
của các bên tranh chấp và tranh chấp đó phải thuộc thẩm quyền giải quyết của
trọng tài.
+Thứ hai, chủ thể giải quyết tranh chấp thương mại là các Trọng tài viên
thực hiện thông qua Hội đồng trọng tài gồm một Trọng tài viên độc lập hoặc hội
đồng gồm nhiều Trọng tài viên. Trọng tài là một tổ chức phi chính phủ, không
nằm trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước. Bản thân các Trọng tài viên cũng
không phải là cán bộ, công chức, viện chức.
+Thứ ba, giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài thương mại đảm
bảo sự kết hợp hai yếu tố: thỏa thuận và phán quyết. Phán quyết của trọng tài
bằng quyết định nhân danh và vì lợi ích của các bên tranh chấp (khơng mang
tính quyền lực nhà nước).
+Thứ tư, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp đảm bảo tính bí mật.
Ưu điểm Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại:
 Được chủ động về mặt thời gian, địa điểm, ngôn ngữ, luật áp dụng và các

quy tắc tố tụng trọng tài
 Linh hoạt hơn bởi được xây dựng trên nguyên tắc tự do thỏa thuận giữa
các bên
 Tiết kiệm thời gian, giảm thiểu thiệt hại có khả năng phát sinh trong quá
trình xảy ra mẫu thuẫn, đặc biệt đối với thương mại hàng hóa

20


 Có thể kết hợp thêm các phương thức hịa giải, trung gian hay thỏa thuận
vào bất cứ thời điểm nào trong quá trình diễn ra xử lý tranh chấp
 Trọng tài có tiếng nói chung thẩm, các bên khơng thể kháng cáo, kháng
nghị, mang tính chun mơn cao
Nhược điểm Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
 Có chi phí khá cao
 Phụ thuộc khá nhiều vào sự thiện chí của các bên
 Các vấn đề liên quan đến công tác điều tra, xác minh thu thập chứng cứ
gặp rất nhiều khó khăn
 Sự phán quyết của trọng tài dựa trên các chứng cứ và tài liệu do các bên
cung cấp nên đôi khi chưa thực sự khách quan
C. KẾT LUẬN
Về mặt lý thuyết, khách hàng được coi là “thượng đế”, nhưng các “thượng
đế” ở Việt Nam lại ở thế yếu, dù rằng hiện nay, các “thượng đế” có vị thế khá
hơn do sự đa dạng, phong phú của hàng hóa, dịch vụ. Song, do thiếu một sự
quản lý chặt chẽ, kiểm soát thường xuyên, khoa học của nhà nước, nên sản
phẩm kém chất lượng, độc hại vẫn được lưu hành tràn lan trên thị trường; người
tiêu dùng khơng được cảnh báo kịp thời, khơng có điều kiện để nhận biết được
sản phẩm tốt với sản phẩm xấu, sản phẩm an tồn với sản phẩm độc hại… Vì
vậy, người tiêu dùng Việt Nam rất dễ bị tổn thương nhưng chưa được quan tâm
bảo vệ đúng mức. Ngay cả khi họ biết được lợi ích của mình bị xâm phạm cũng

khơng biết “kêu ai” có hiệu quả. Nhìn vào hệ thống các quy định của pháp luật
về bảo vệ người tiêu dùng và chế tài được quy định trong các văn bản pháp luật
thì thấy đã có đủ, nhưng cịn nặng về hình thức và khơ cứng với nhiều quy định
21


chung chung có tính ngun tắc, nên người tiêu dùng khó mà sử dụng nó như
một cơng cụ pháp lý để bảo vệ mình. Vì vậy, khơng chỉ cần có nhiều biện pháp
hợp lý, linh hoạt với điều kiện, thủ tục yêu cầu khởi kiện đơn giản; Song song
với các biện pháp tư pháp, cần hoàn thiện hơn nữa thủ tục giải quyết bằng trọng
tài nhằm giảm áp lực cho hệ thống tư pháp, giúp cho người tiêu dùng có thêm
lựa chọn phù hợp với điều kiện hiện có hơn trong việc bảo vệ quyền lợi của bản
thân trong các tranh chấp với các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
vốn ở “cửa trên” so với họ.

22


Danh mục tài liệu tham khảo:
1, Luật Bảo vệ người tiêu dùng 2010.
2, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
3, Giáo trình Luật Bảo vệ người tiêu dùng – Đại học Luật Hà Nội – NXB
CAND.
4, Trọng tài được áp dụng để giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và
thương nhân như thế nào ?
/>5, Giải quyết tranh chấp thương mại ở đâu ?
/>
23




×