Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

niên luận Thực trạng pháp luật về đảm bảo quyền được thông tin của người nộp thuế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.54 KB, 9 trang )

Mở đầu
Thuế là một trong những nguồn thu quan trọng của mỗi quốc gia, đảm
bảo cho sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nộp thuế là nghĩa
vụ của công dân, nhưng Luật thuế chỉ có thể đi vào cuộc sống khi khoản
thuế phải nộp không trở thành gánh nặng cho người nộp thuế. Quan hệ
pháp luật giữa nhà nước (cụ thể là cơ quan hoạt động trong lĩnh vực
thuế) và người nộp thuế là một trong những quan hệ pháp luật mang tính
đặc trưng luôn được nhà nước quan tâm, chú trọng điều chỉnh một cách
cụ thể, chặt chẽ bởi hệ thống pháp lý của mình nhằm đảm bảo cho hoạt
động quản lý thuế được hiệu quả, thông suốt, bên cạnh đó, để khuyến
khích và nâng cao thái độ, trách nhiệm của người nộp thuế đối với nghĩa
vụ nộp thuế, Pháp luật về thuế của Việt Nam đã có những quy định trong
việc bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế khi tham gia vào quan hệ pháp
luật đặc biệt này, một trong nội dung đó chính là quyền được thông tin
của người nộp thuế. Quyền được thông tin là một trong những quyền cơ
bản của người nộp thuế được Pháp luật coi trọng. Bởi lẽ, một khi nắm rõ
được những thông tin liên quan đến chính sách, cơ chế, nội dung, quy định
của Pháp luật một cách rõ ràng, chính xác và mang tính cập nhật thì
người nộp thuế mới có thể thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình,
qua đó nâng cao thái độ trách nhiệm của mình đối với nghĩa vụ nộp thuế,
hạn chế những hành vi lệch lạc, vi phạm pháp luật như trốn thuế, lách
luật, chây ì nộp thuế, khai man, khai khống, …đồng thời hoạt động quản lý
thuế của cơ quan nhà nước được diễn ra hiệu quả, nguồn thu cho ngân
sách nhà nước được đảm bảo. Tuy nhiên, mặc dù đã nhận thức được tầm
quan trọng trong việc đảm bảo quyền được thông tin của người nộp thuế,
Nhà nước cũng đã ban hành những quy định Pháp lý để đảm bảo quyền cơ
bản này cho người nộp thuế yên tâm thực hiện tốt nghĩa vụ của mình,
nhưng thực tiễn áp dụng dụng những quy định này của Pháp luật còn bộc
lộ nhiều hạn chế, người nộp thuế còn gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận
những thông tin cần thiết, hoặc mơ hồ giữa hàng loạt thông tin liên quan
đến cơ chế, thủ tục, chính sách…đồng thời sự hỗ trợ từ các cơ quan quản


lý còn hạn chế, mang tính hình thức, chưa chú trọng hiệu quả trong việc
cung cấp thông tin cần thiết cho người nộp thuế. Vậy liên quan Pháp luật
về đảm bảo quyền được thông tin của người nộp thuế, nhà nước đã có
những quy định pháp lý như thế nào? Thực tiễn áp dụng của những quy
định đó ra sao? Những kiến nghị, những đề xuất, những giải pháp nào để
khắc phục những bất cập và hạn chế nhằm hoàn thiện chính sách của Nhà
nước cũng như quy định của Pháp luật về đảm bảo quyền được thông tin
của người nộp Thuế? Tất cả những câu hỏi đó sẽ được làm rõ qua bài tìm
hiểu “ Thực trạng Pháp luật về đảm bảo quyền được thông tin của
người nộp Thuế.”
Nội dung
1. Quy định của pháp luật.
Người nộp thuế là chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thuế, một chủ thể
đóng vai trò chủ đạo trong quan hệ pháp luật thuế. Đây là chủ thể có mối
quan hệ chặt chẽ, mật thiết và trực tiếp sáng tạo quản lí các lợi ích vật
chất. Cũng như các chủ thể tham gia vào quan hệ tham gia vào quan hệ
pháp luật khác, để trở thành người nộp thuế trong quan hệ pháp luật thuế
đòi hỏi các tổ chức cá nhân phải có năng lực chủ thể và năng lực hành vi
với tư cách là chủ thể trong quan hệ pháp luật trên. Người nộp thuế có
đầy đủ các quyền và nghĩa vụ để tham gia quan hệ pháp luật thuế, các
quyền và nghĩa vụ này cũng chính là một phần nội dung của quan hệ pháp
luật thuế. Tuy nhiên do bản chất của quan hệ pháp luật thuế là quan hệ
pháp luật tài chính có sự tham gia của nhà nước nên không có sự bình
đẳng giữa các chủ thể trong đó. Theo quy định tại điều 6 Luật quản lý
thuế 2006, quyền của người nộp thuế bao gồm:
1. Được hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế; cung cấp thông tin, tài liệu để
thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi về thuế.
2. Yêu cầu cơ quan quản lý thuế giải thích về việc tính thuế, ấn định thuế;
yêu cầu cơ quan, tổ chức giám định số lượng, chất lượng, chủng loại hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu.

3. Được giữ bí mật thông tin theo quy định của pháp luật.
4. Hưởng các ưu đãi về thuế, hoàn thuế theo quy định của pháp luật về
thuế.
5. Ký hợp đồng với tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế.
6. Nhận văn bản kết luận kiểm tra thuế, thanh tra thuế của cơ quan quản
lý thuế; yêu cầu giải thích nội dung kết luận kiểm tra thuế, thanh tra thuế;
bảo lưu ý kiến trong biên bản kiểm tra thuế, thanh tra thuế.
7. Được bồi thường thiệt hại do cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý
thuế gây ra theo quy định của pháp luật.
8. Yêu cầu cơ quan quản lý thuế xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
của mình.
9. Khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên
quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
10. Tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của công chức quản lý thuế và tổ
chức, cá nhân khác.
Quyền của người nộp thuế trong quan hệ pháp luật thuế mang những đặc
điểm chung của quyền chủ thể trong quan hệ pháp luật đó là: khả năng xử
sự theo cách thức nhất định mà pháp luật cho phép; khả năng yêu cầu các
chủ
thể khác chấm dứt hoạt động cản trở việc thực hiện quyền nghĩa vụ của
mình và yêu cầu họ tôn trọng các nghĩa vụ tương ứng phát sinh từ quyền
và nghĩa vụ này; khả năng yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
bảo vệ lợi ích của mình.
Quyền của người nộp thuế trong quan hệ pháp luật thuế cũng có những
đặc trưng riêng đó là:
-Chỉ phát sinh khi tham gia quan hệ pháp luật thuế tức là khi tham gia
vào quan hệ pháp luật thuế, người nộp thuế chỉ có những quyền mà pháp
luật thuế giao cho. Tổ chức cá nhân là người nộp thuế nhưng khi họ
không tham gia vào quan hệ pháp luật thuế thì họ không có những quyền
mà pháp luật quy định.

-Quyền của người nộp thuế thường gắn liền với việc thực thi của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền mà ở đây là cơ quan thu và quản lí thuế. Do
trong quan hệ pháp luật thuế có 2 chủ thể cơ bản là người nộp thuế và cơ
quan thu, quản lí thuế do vậy quyền của chủ thể này sẽ tương ứng với
nghĩa vụ của chủ thể kia.
Như đã đề cập ở phần mở đầu, trọng tâm nội dung trong bài tìm hiểu
này chính là Quyền được thông tin của người nộp thuế. Về bản chất quyền
này được hiểu là: được hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế; cung cấp
thông tin, tài liệu để thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi về thuế . Đây là quyền
xuất hiện đầu tiên trước khi người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
của mình. Quyền này được ghi nhận tại khoản 1 điều 6 Luật quản lý thuế
2006, nội dung của quyền này là người nộp thuế được biết mình tham gia
vào quan hệ pháp luật thuế mình có những quyền và nghĩa vụ gì bằng việc
được hướng dẫn, được cung cấp thông tin tài liệu về thuế từ các cơ quan
quản lý Thuế. Cơ sở của quyền này là mọi công dân có quyền được thông
tin, được biết về pháp luật, biết về quyền và nghĩa vụ của mình khi tham
gia các quan hệ xã hội, quan hệ pháp luật. Đây là một cách mà Nhà nước
giúp người dân được tiếp cận với các khái niệm về thuế được đầy đủ và rõ
ràng hơn, qua đó nắm bắt một cách đầy đủ, linh hoạt các cơ chế, chính
sách, quy định của nhà nước để thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế của mình.
2 Thực trạng Pháp luật về đảm bảo quyền được thông tin cho người
nộp thuế hiện nay.
Với sự quan tâm của Nhà nước, sự nỗ lực của các cơ quan quản lý thuế,
pháp luật về bảo đảm quyền được thông tin cho người nộp thuế đã có
những hiệu quả bước đầu trong việc cung cấp thông tin cho người dân
một cách đầy đủ, kịp thời về các quyền và nghĩa vụ của mình, hướng dẫn
thực hiện việc nộp thuế; cung cấp thông tin, tài liệu để thực hiện nghĩa vụ,
quyền lợi
về thuế, giúp người dân yên tâm thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, dần thay đổi
nhận thức, tư duy của người dân, qua đó nâng cao tinh thần trách nhiệm

của người dân về nghĩa vụ thuế, từng bước đưa Pháp luật về thuế phổ
biến và sâu rộng vào đời sống xã hội.
Mặc dù đã gặt hái được những hiệu quả bước đầu, nhưng thực tiễn áp
dụng quy định quyền được thông tin cho người nộp thuế vẫn còn phát
sinh khá nhiều vấn đề bất cập và hạn chế:
-Nội dung quản lý thuế được quy định rải rác ở nhiều văn bản quy phạm
pháp luật về thuế nên đã gây khó khăn cho cả người nộp thuế trong việc
tiếp cận thông tin trong việc tuân thủ các quy định về quản lý thuế.
Có thể thấy ở nước ta hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật về thuế rất
nhiều từ Luật đến các văn bản dưới luật… mỗi văn bản lại có những quy
định về quản lý thuế của nhiều lĩnh vực khác nhau từ thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế nhà ở, thuế sử dụng đất…quy định thì
nhiều nhưng lại không thống nhất ở một văn bản cụ thể nào cả do đó
khiến cho người dân cảm thấy khó khăn khi tìm hiểu pháp luật về Thuế.
Chính vì nguyên nhân này, mà người nộp thuế bị hạn chế rất nhiều trong
việc tiếp cận thông tin để thực hiện nghĩa vụ của mình một cách tốt nhất.
-Sự hiểu biết thông tin của phần lớn người dân về các nghĩa vụ thuế còn
khá mơ hồ, các chính sách của nhà nước còn chưa phổ biến rộng rãi trong
toàn dân.
Theo kết quả của cuộc điều tra tại các huyện thuộc tỉnh Bắc Giang do
Trung tâm Hỗ trợ giáo dục và Nâng cao năng lực cho phụ nữ và Nhóm
Hợp tác Thúc đẩy quản trị và Cải cách hành chính công thực hiện vào đầu
năm 2013, chỉ có 65% người được hỏi trả lời có biết về ngân sách. Trong
đó, hiểu biết của người dân về các loại thuế chiếm 62,7%; về các loại phí
và lệ phí chiếm 54,7%; về các hoạt động kinh doanh của Nhà nước chiếm
46,6%. Hầu hết người dân chỉ quan tâm đến các khoản đóng góp để xây
dựng các công trình phúc lợi ở cộng đồng do họ trực tiếp quản lý. Người
dân chủ yếu được thông báo qua các hình thức họp thôn, nghe trên loa
phát thanh và một số ít thì tiếp xúc với cử tri.Theo ông Đăng Văn Thanh,
người dân và các cơ quan dân cử luôn có nhu cầu được thông tin và tham

gia thực chất vào quá trình ngân sách. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay là
ngân sách được công khai nhưng hình thức, cách thực hiện không hiệu
quả và các cơ quan dân cử chưa phát huy và làm tròn trách nhiệm của
mình.
-Về phía doanh nghiệp cũng gặp phải không ít vướng mắc do không được
biết rõ các thông tin về thuế.
Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần nhựa Bình Minh nêu vấn đề trong
hội nghị giữa các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh với
cán bộ nhân viên ngành Thuế (diễn ra từ 11-11 đến 13-11-2013) : trước
đây Công ty được hưởng ưu đãi chính sách thuế về cổ phần hóa và niêm
yết lần đầu. Do không hiểu đúng nên khi kê khai, Công ty tính gộp chung
cả hai ưu đãi một lúc trong khi ngành thuế lại tính theo chế độ hưởng nối
tiếp. Từ đó, Công ty bị quy vào hành vi gian lận thuế, bị truy thu thuế và
phạt nộp chậm và truy thu lên tới 117 tỷ đồng, ảnh hưởng rất nhiều đến
cổ phiếu, tâm lý cổ đông và công nhân công ty.
Một trường hợp khác: ông Đỗ Hướng Dương, Phó tổng Giám đốc Công
ty cổ phần dịch vụ Phú Nhuận - Maseco cho biết, hiện rất nhiều doanh
nghiệp bị truy thu và bị phạt oan do hiểu sai về thuế ưu đãi doanh nghiệp,
vì vậy không thể gọi là hành vi gian lận thuế. Ngoài ra, mức phạt nộp
chậm hiện quá cao, ngang bằng số tiền truy thu nên đã đẩy doanh nghiệp
vào thế khó khăn về tài chính.
Như vậy, có thể thấy để xảy ra tình trạng trên, một phần là do chính sách
thuế không được nhất quán, rõ ràng, minh bạch để doanh nghiệp thực
hiện đúng vì bản thân doanh nghiệp không phải lúc nào cũng tiếp cận
được hết tất cả các thông tư hướng dẫn của Nhà nước.
-Nghĩa vụ, trách nhiệm pháp luật và quyền lợi của đối tượng nộp thuế, cơ
quan thuế và tổ chức cá nhân có liên quan đến công tác thuế chưa được quy
định đầy đủ và thiếu nhất quán giữa những sắc thuế. Do đó chưa có đủ cơ sở
pháp lý để tổ chức quản lý Thuế hiệu quả.
Hiện tại, chưa có quy định nào quy định rõ trách nhiệm của các cấp chính

quyền địa phương, các cơ quan chức năng, các đơn vị có liên quan đến công
tác thu, nộp thuế. Chính vì vậy dẫn đến việc quy định về thủ tục, cơ chế cũng
như thẩm quyền còn chồng chéo, thiếu nhất quán…khiến người dân không
thể nắm rõ được các quy định, thủ tục cũng như thẩm quyền giải quyết của
các cơ quan chức năng
-Một số quy định còn rườm rà, phức tạp, chưa rõ ràng, minh bạch, gây
khó khăn, tốn kém chi phí cho người nộp thuế và cơ quan thuế, dễ phát sinh
tiêu cực trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế.
Theo một nghiên cứu cá nhân về Thuế thu nhập doanh nghiệp do Thạc
sĩ Ngô Thị Cẩm Lệ (chuyên ngành Luật kinh tế, Đại học Luật Hà Nội) thực
hiện trên địa bàn Thành phố Hà Nội năm 2012: nội dung các quy định của
Luật thuế TNDN hiện hành còn phức tạp, nhiều nội dung giữa các văn bản
có sự mâu thuẫn, chồng chéo nhau. Thủ tục hành chính trong công tác
thu- nộp thuế còn rườm rà, gây khó khăn cho các doanh nghiệp nộp thuế.
Năm 2012, xếp hạng về công khai ngân sách (OBI 2012) của Việt Nam
ghi được 19/100 điểm, với điểm trung bình của các nước là 43 và còn xếp
sau nhiều nước trong khu vực như Indonesia: 62 điểm; Philippines: 50
điểm; Malysia: 39 điểm, Thái Lan và Đông Timo được 26 điểm. Hay nói
cách khác, cách thực việc công khai và minh bạch ngân sách ở Việt Nam
chưa được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
-Công tác tuyên truyền, hướng dẫn giải thích các chính sách thuế chưa
được chú trọng để nâng cao tính tuân thủ tự nguyện, nâng cao hiểu biết
pháp luật về thuế cho người nộp thuế.
Thực tiễn cho thấy, hầu hết các thông tin về cơ chế chính sách cũng như
quy định của pháp luật còn chưa đến được với người dân một cách đầy
đủ. Người dân chủ yếu được thông báo qua các hình thức họp thôn, nghe
trên loa phát thanh và một số ít thì tiếp xúc với cử tri, do đó những thông
tin nắm được còn khá mơ hồ, đây rõ ràng là trách nhiệm không nhỏ thuộc
về công tác tuyên truyền của cơ quan chức năng hoạt động trong lĩnh vực
Thuế.

- Trình độ hiểu biết và thực thi chính sách thuế của một bộ phận quản lý
thuế còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý hiện đại và yêu cầu
cải cách hành chính trong quản lý thu thuế. Thái độ và phong cách ứng xử
của một số cán bộ thuế chưa thật sự khách quan, tận tụy
Trong tuần lễ “Lắng nghe ý kiến người nộp thuế”(từ ngày11/11 đến
13/11/2013) do Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức đã thu hút
đông đảo người dân tham gia, phần lớn người dân đều phản ánh tình
trạng đi đóng thuế mà như đi xin vẫn khá phổ biến. Chỉ một khoản thuế
đơn giản như cho thuê nhà, nhưng cũng phải đi lại rất nhiều lần. Rồi lại
phải chính chủ nộp thuế “Đi nộp tiền thuế sao cần phải chính chủ? Có
phải cán bộ thuế cố tình làm khó dễ? Hiện nay có rất nhiều phương thức
giao tiếp ứng dụng công nghệ thông tin như mail, chat Vậy khi nào
người dân được hướng dẫn khai thuế qua email, chat nộp tờ khai, nhận
kết quả qua email và nộp thuế qua tài khoản ngân hàng. Tại sao các ngân
hàng người ta có thể ứng dụng Công nghệ thông tin để người dân có thể
ngồi tại nhà để giao dịch tiền đi khắp nơi, mà ngành Thuế lại không làm
được?” theo lời của nhiều người dân bức xúc. Ngoài ra, nhiều ý kiến cho
rằng, tại các chi cục thuế ở một số quận, huyện, nhân viên thuế rất khó
chịu và giải thích không rõ ràng khi người dân nhờ hướng dẫn về các thủ
tục thuế.
3. Giải pháp khắc phục những hạn chế và phương hướng hoàn thiện
chính sách của Pháp luật về Thuế trong việc đảm bảo quyền được
thông tin cho người nộp thuế:
Để đảm bảo quyền được thông tin của người nộp thuế nhằm tạo điều kiện
thuận lợi nhất trong việc thực thi chính sách thuế cũng như thủ tục hành
chính thuế. Nhóm xin đưa ra một số giải pháp như sau:
- Cần ghi nhận những phản ánh khó khăn của người nộp thuế bằng kế hoạch
tổ chức tuần lễ” lắng nge ý kiến của người nộp thuế”
- Hướng dẫn hỗ trợ kịp thời giải đáp những vướng mắc về chính sách thuế
mới cho người nộp thuế

- Tạo điều kiện để người phản ánh những tâm tư nguyện vọng;giải đáp
những tiếp thu những ý kiến của người nộp thuế
- Tạo điều kiện để tăng hơn nữa mối quan hệ giữa cơ quan thuế và người
nộp thuế,làm sao để cơ quan thuế đồng hành cùng với người nộp thuế một
cách chặt chẽ
- Tạo điều kiện cho người nộp thuế có thể tiếp cận những chính sách thuế
một cách nhanh nhất,hiệu quả nhất
- Tổ chức đối thoại lắng nghe và trả lời ý kiến phản ánh của người nộp thuế
trên các địa phương khắp cả nước
Kết luận:
Một nền tài chính quốc gia vững mạnh đều dựa chủ yếu vào nguồn thu
nội bộ trong nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường hiện nay, xuất phát từ yêu cầu thực hiện các hoạt động phát triển
kinh tế xã hội, đòi hỏi nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện Pháp
luật về Thuế để tập trung nguồn Tài chính vào ngân sách Nhà nước từ đó
mới đáp ứng nhu cầu thu chi ngày càng tăng. Pháp luật về Thuế chính là
công cụ đắc lực hỗ trợ Nhà nước quản lý thuế một cách hiệu quả. Để Pháp
luật về Thuế được đi vào sâu vào tiềm thức người dân, phổ biến rộng rãi
trong đời sống xã hội, những quy định của pháp luật cần được hoàn thiện
hơn, trong số đó chính là hoàn thiện về những quy định pháp luật về đảm
bảo quyền được thông tin của người nộp Thuế. Đây được xem như là yêu
cầu quan trọng, hàng đầu và xuyên suốt trong việc phổ biến quy định về
Pháp luật thuế đến với người dân. Tuy nhiên thực tế hiện nay vẫn còn
nhiều tồn đọng, bất cập và hạn chế từ ngay chính bản thân quy định của
pháp luật và thực tiễn áp dụng quy định ấy. Những bất cập này đã dẫn
đến những khó khăn trong hoạt động của cơ quan quản lý thuế, tạo nên
tâm lý nặng nề đối với người nộp thuế khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
của mình. Từ những nội dung trên, ta có thể thấy quyền được thông tin
của người nộp thuế cần được quy định một các cụ thể hơn, rõ ràng hơn,
công khai, minh bạch và nhất quán. Có cơ chế hỗ trợ, cung cấp thông tin

đầy đủ chính xác từ phía cơ quan chức năng ngành thuế để hỗ trợ, hướng
dẫn thực hiện việc nộp thuế; cung cấp thông tin, tài liệu để người nộp
thực hiện đúng nghĩa vụ, và đảm bảo được quyền của mình lợi về thuế.
Một khi quyền được thông tin của người dân được đảm bảo, thì nhận thức
và trách nhiệm của người dân mới được nâng cao qua đó thực hiện tốt
nghĩa vụ của mình để hỗ trợ Nhà nước thực hiện tốt công tác quản lý
thuế, và cùng chung tay thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Tài liệu tham khảo
- CHXHCN Việt Nam, Luật quản lý Thuế 2006
- Lê Thị Thảo-Viên Thế Giang-Nguyễn Thị Triển, Tài liệu học tập Luật
Tài chính. NXB Đại Học Huế 2013.
- Ngô Thị Cẩm Lệ, Pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp và thực
tiễn trên địa bàn Hà Nội. NXB Khoa Luật 2012
- Một số thông tin và tư liệu từ Internet.

×