Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

mua xuan chin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.83 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

“Mùa xuân chín ” được rút ra từ trong thơ điên
của Hàn Mặc Tử (đề mục Hương Thơm). Trong Thi nhân Việt Nam , Hồi Thanh có
nhận xét bao quát về mảng Hương Thơm này như sau: “Ta bắt đầu bước vào một nơi
ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và cả người yêu đều như muốn biến ra hương khói”.
Nhưng đã xem Mùa Xn Chín ta thấy chẳng những thơ khơng điên, lịng thi nhân
thanh tao, cõi hồn siêu thốt, tựa thể ơng đang ngồi thụ cảnh thiên thai của bậc khách
tiên sa. Mạch thơ cũng tách bạch ra khỏi hẳn cõi sao trăng, ảo tình sương khói ấy:


Trong làn nắng ửng khói mơ tan


Đơi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Đây hẳn là những mái nhà đã được lợp bằng rạ vẫn cịn mới ở thơn q, bởi những
sắc màu của rơm rạ còn ánh lên lấm tấm vàng, dưới làn nắng sớm ban mai. Cảnh thơ
như bức gấm thêu, đây đó vấn vương vài làn sương mỏng. Tốt lên tấm tình của thi
nhân với nơi thôn dã rất thân thiết. Đến hai câu sau đó:


Sột soạt gió trêu tà áo biếc,


Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang
“…tà áo biếc” ở đây để chỉ cái dáng xanh mềm mại của giàn thiên lý, khi gió
thổi qua giàn mới phát ra tiếng kêu “sột soạt”. Nếu gió thổi ngồi trời: nhẹ thì hiu
hiu, vi vút… gió to sẽ rít lên ào… ào…
Nhưng cũng chưa hẳn là khi gió thổi qua giàn thiên lý có tiếng kêu “sột soạt” như
thế? vì giống lý lá nhỏ, âm điệu chỉ reo… reo… thôi. Hai tiếng “sột soạt” như tiếng
của những tấm áo cánh mỏng, mặc hơi căng cọ mài lên da thịt của các nàng thôn nữ
mà phát ra vậy. Cảm giác ấy đã dấy lên trong tâm thức của thi nhân để vận vào tả
cảnh giàn cây. Chất thơ hơi da thịt này cũng thường có trong Hàn Mặc Tử (HMT)!
Các hình tượng thơ miêu tả, nhưng lại đầy cảm giác tình ái. Nào thì “gió trêu”; âm
thanh “sột soạt”; còn giàn thiên lý lại được ví như “tà áo biếc”… Thành thử, thơ tả


thực mà rất sống động.



Tất cả những hình ảnh: nắng ửng, khói mơ, mái nhà tranh lấm tấm vàng, thiên lý
và gió… hịa hợp, được khốc lên chiếc áo tân thanh mùa xuân mà tạo thành “bóng


xuân sang”. Sang đoạn thơ thứ hai:


Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

một câu thơ của cụ Nguyễn Du: Cỏ non xanh rợn chân trời /- “xanh rợn” là cỏ mới
chỉ mọc nhú, lún phún. Nhưng cả một miền cỏ dầy, phẳng, non mướt và xa hút tạo
nên một độ sắc gai người, tựa thể sờ vào có thể đứt tay. Cịn “sóng cỏ xanh tươi”
trong câu thơ HMT : thì màu xanh đã lả lướt để “gợn tới trời ” chứ không ” rợn” như
trong thơ cụ Nguyễn Du. Vậy là, tuy cũng tả về miền cỏ hút đến chân trời… nhưng
miền cỏ trong thơ HMT vẫn mang sắc thái riêng.


Bao cô thôn nữ hát trên đồi;


- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy:


Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…


Một mảng đời sống dân gian đã tràn vào trong bức tranh cảnh mùa xuân của Ông:
rằng, ngày mai trong đám xuân xanh ấy… có kẻ lấy chồng, theo chồng – sẽ khơng
cịn sự vơ tư, nhàn nhã mà đi dạo mùa xuân như thế nữa! Ý nói: “bỏ cuộc
chơi”/-Nhưng câu thơ chưa hẳn đã phải là nuối tiếc cho cô thôn nữ kia, mà chính trong lịng
thi nhân đang nuối cảm? Bộc lộ một tâm trạng bâng khuâng, hiu hắt, có phần xa xót.
Bệnh tật đã khơng cho Ơng được hưởng cái hạnh phúc đời thường ấy! Cảnh đời
thanh thái của mùa xuân ấy… như thể đã cách xa hàng thế giới. Cái ước muốn nho
nhỏ: có một tổ ấm gia đình, vợ chồng hạnh phúc… với Ơng, cũng khơng bao giờ có.
Tâm khảm thi nhân dồn vào tình thơ đằm thắm, thiết tha. Đến đoạn thơ ba:


Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi


Thơ nghe như lời đồng dao chốn dân gian:


Hổn hển như lời của nước mây…


Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,


Nghe ra ý vị và thơ ngây…


Trước cảnh xuân đẹp chứa chan, khơng phải là nước mây “hổn hển” đâu, chính là


lịng thi nhân đang hổn hển!…


Đến đây tơi xin nói ít lời về thi pháp tượng trưng trong thơ hiện đại Pháp, mà
HMT đã ảnh hưởng khá sâu sắc. Thơ tượng trưng của nền thơ hiện đại Pháp nửa sau
thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, ( dựa theo tuyển dịch và giới thiệu của Đơng Hồi,
NXB Văn học 1992 ) là thứ thơ diễn tả theo phép loại suy -Tức là quan hệ tương
đồng giữa hai sự vật, nhìn nhận mọi sự vật bằng biểu tượng. Nhưng trường phái thơ
tượng trưng Pháp được hình thành và phát triển theo khuynh hướng của hai thuyết
tương ứng: tương ứng cảm quan và tương ứng trí năng!
Về thuyết “Tương ứng cảm quan” do Charles Baudelaire ( 1821-1867) khởi
xướng. Ông là tác giả của tập “Những bông hoa ác” nổi tiếng. Ông đã được các nhà
thơ sừng sỏ nhất trong văn học hiện đại Pháp coi là bậc thầy mở đường, nhà tiên khu
của trường phái thơ tượng trưng! Baudelaire đã từng định nghĩa trong “Tương ứng”,
một trong sáu bài thơ danh giá nhất của ông như sau:
Thiên nhiên là một ngôi đền mà trong đó những cột sinh
linh


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

linh. Cho nên thỉnh thoảng ngôn ngữ mơ hồ…


Thuyết “Tương ứng trí năng” – Người tiêu biểu là Stéphane Mallarmé
(1842-1898), cũng là một nhà thơ Pháp đứng đầu trường phái tượng trưng đã chủ xướng.
Quan điểm cơ bản về thuyết “Tương ứng trí năng” của Mallarmé là: Biểu tượng được
tượng trưng phải rành mạch, rõ ràng, bằng một sự áp đặt hợp lý của lý trí, chứ khơng
theo khuynh hướng cảm quan như Baudelaire.


<i>Đài tưởng niệm Hàn Mặc Tử ở Gành Ráng - Qui Nhơn</i>


Nhớ tới lời của cố Chế Lan Viên đã viết tựa trong Tuyển thơ Hàn Mặc Tử xuất
bản 1988 rằng: “Tử trong thời gian chúng tôi gần, chỉ thấy Anh nói về
Baudelaire…”! Bởi vì những yếu tố thơ tượng trưng được HMT sử dụng rất nhiều, đã
nhuần nhuyễn trong thi pháp thơ Ông, nhưng hầu hết đều theo khuynh hướng “Tương


ứng cảm quan” của Baudelaire.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

bộc lộ thay cho tâm trạng, tình cảm con người, hay một hiện thực đời sống. Ngay đến
tên đề của bài thơ: Mùa xuân chín, cũng mang tính tượng trưng đó rồi. Trong nhiều
bài thơ khác của Hàn Mặc Tử ta cũng hay gặp những yếu tố của loại thơ tượng trưng


này. Thí dụ:


Trăng nằm sóng sỗi trên cành liễu


Đợi gió đơng về để lả lơi…


Hay là:


Ơ kìa bóng nguyệt trần truồng tắm,
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.
Đặc biệt với các giác quan cảm thụ rất nhậy bén của thi nhân: Ngơn ngữ chứa đầy


hồn, cảnh trí thiên nhiên rất sống động. Ở trong câu ba của đoạn thơ thứ ba, ta cịn
thấy một cụm hình ảnh: Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc /- Tiếng “trúc” ở đây, với hình


ảnh “lá trúc” trong bài Đây Thôn Vĩ Dạ:


Lá trúc che ngang mặt chữ điền.


Đều thuộc loại ngôn từ mỹ học, để làm biểu tượng về làng quê! Tôi xin phân tích


tiếp đoạn thơ cuối:


Khách xa gặp lúc mùa xuân chín


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×