Tải bản đầy đủ (.pdf) (208 trang)

Hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp tiếng việt đối chiếu với tiếng anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (19.04 MB, 208 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------------------

PHẠM HỒNG VÂN

HIỆN TƯỢNG NGẮT LỜI
TRONG GIAO TIẾP TIẾNG VIỆT
(ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG ANH)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------------------

PHẠM HỒNG VÂN

HIỆN TƯỢNG NGẮT LỜI TRONG GIAO TIẾP
TIẾNG VIỆT (ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG ANH)

CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ: 62 22 02 40


LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS NGUYỄN VĂN KHANG

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN

Đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Những tư liệu và số liệu trong luận
án là trung thực do tôi thực hiện. Đề tài nghiên cứu và các kết luận chưa được ai
công bố.

Tác giả luận án

Phạm Hồng Vân


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục………………………………………………………………………….

1

Danh mục các bảng……………………………………………………..….……

4


MỞ ĐẦU………………………………………………………………………..

6

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI …………………………………………………... 6
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ………………………….. 7
3. PHƯƠNG PHÁP VÀ THỦ PHÁP NGHIÊN CỨU……………………… 8
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU………………..

9

5. Ý NGHĨA LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN………………..

11

6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN……………………………………………

12

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
CỦA LUẬN ÁN ……..………………………………………………………...

13

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ………..…………………………

13

1.1.1. Tình hình nghiên cứu về hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp

trên thế giới …………………………………………………………….. 13
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp
tại Việt Nam …………………………………………………………….

19

1.2. Cơ sở lí luận của luận án …………..……...…………………….…

22

1.2.1. Một số vấn đề về lí thuyết hội thoại…………………………..……

22

1.2.2. Hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp hội thoại…………….……

27

1.2.3. Một số vấn đề về ngôn ngữ học đối chiếu……………..………

45

1.2.4. Sự phân tầng xã hội trong giao tiếp ngôn ngữ……………..…

47

1.3. Cách tiếp cận của luận án……………....………………………….

51


1.3.1. Khái niệm “ngắt lời” ……………..……………………………. 51
1.3.2. Tiêu chí nhận diện hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp……….

51

1.3.3. Cách thức phân loại ngắt lời trong giao tiếp………………......

53

1


1.4. Tiểu kết chương 1 ……..…………………………………………...

54

Chương 2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHUNG VỀ HIỆN TƯỢNG NGẮT LỜI
TRONG GIAO TIẾP TIẾNG VIỆT (ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG ANH)……. 55
2.1. Đặt vấn đề ..………..………………………………………………...

55

2.2. Các loại ngắt lời và mức độ xuất hiện trong các đoạn thoại bằng
tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Anh)…..…………………………….…...

55

2.2.1. Ngắt lời thành cơng và các tiểu nhóm trong các đoạn thoại
bằng tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Anh)…………….………………


56

2.2.2. Ngắt lời khơng thành cơng và các tiểu nhóm trong các đoạn
thoại bằng tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Anh)………………………

59

2.2.3. Mức độ xuất hiện của các tiểu nhóm ngắt lời trong các đoạn
thoại bằng tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Anh)………………………

61

2.3. Chức năng của các loại ngắt lời trong các đoạn thoại bằng
tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Anh).……………………………..………

64

2.4. Đặc điểm hiện tượng ngắt lời xét trên bình diện cấu trúc và chức
năng trong các đoạn thoại bằng tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Anh) …

81

2.4.1. Đặc điểm hiện tượng ngắt lời xét trên bình diện cấu trúc
trong các đoạn thoại bằng tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Anh).…

81

2.4.2. Đặc điểm hiện tượng ngắt lời xét trên bình diện chức năng
trong các đoạn thoại bằng tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Anh).…


86

2.5. Tiểu kết chương 2 ………….………………………………………..

95

Chương 3. NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP: HIỆN TƯỢNG NGẮT LỜI
TRONG GIAO TIẾP TIẾNG VIỆT TỪ GÓC ĐỘ GIỚI (ĐỐI CHIẾU VỚI
TIẾNG ANH) …………………………………………………………………….

97

3.1. Đặt vấn đề ……………………….…………………………………...

97

3.2. Đặc điểm hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp tiếng Việt từ góc độ
giới (đối chiếu với tiếng Anh) ……………………………………………..

99

3.2.1. Mức độ sử dụng ngắt lời trong các đoạn thoại bằng tiếng Việt
từ góc độ giới (đối chiếu với tiếng Anh)…………………………….

2

99


3.2.2. Chức năng của các loại ngắt lời trong các đoạn thoại bằng

tiếng Việt từ góc độ giới (đối chiếu với tiếng Anh)……………...……

112

3.2.3 Đặc điểm về cách thức ngắt lời trong giao tiếp tiếng Việt từ
góc độ giới (đối chiếu với tiếng Anh)………………………………...

126

3.3. Tiểu kết chương 3……………………………………………………

145

KẾT LUẬN …………………………………………………………………….

148

DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN………………………………………………………………...

151

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………..

152

3


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Phân loại ngắt lời trong các đoạn thoại bằng tiếng Việt
và tiếng Anh……………………………………………………

56

Bảng 2.2. Số lượng các loại ngắt lời trong các đoạn thoại bằng
tiếng Việt……………………………………………………….

61

Bảng 2.3. Số lượng các loại ngắt lời trong các đoạn thoại bằng
tiếng Anh……………………………………………………….

62

Bảng 2.4. Số lượng các loại ngắt lời theo chức năng trong các
đoạn thoại bằng tiếng Việt……………….……………………

76

Bảng 2.5. Số lượng các loại ngắt lời theo chức năng trong các
đoạn thoại bằng tiếng Anh……………….…………………….

77

Bảng 2.6. Các phát ngôn thể hiện chức năng ngắt lời trong các
đoạn thoại bằng tiếng Việt và tiếng Anh…………………..

86


Bảng 3.1. Số lượng các loại ngắt lời trong các đoạn thoại cùng giới
và khác giới bằng tiếng Việt……………………………….

99

Bảng 3.2. Số lượng ngắt lời cạnh tranh trong các đoạn thoại
cùng giới và khác giới bằng tiếng Việt ……………………..

101

Bảng 3.3. Số lượng ngắt lời cộng tác trong các đoạn thoại cùng giới
và khác giới bằng tiếng Việt ………………………………..

103

Bảng 3.4. Số lượng ngắt lời không thành công trong các đoạn thoại
cùng giới và khác giới bằng tiếng Việt …………………

104

Bảng 3.5. Số lượng ngắt lời theo chức năng trong các đoạn thoại
cùng giới và khác giới bằng tiếng Anh …………………….

106

Bảng 3.6. Số lượng ngắt lời cạnh tranh trong các đoạn thoại cùng giới
và khác giới bằng tiếng Anh…………………………………

107


Bảng 3.7. Số lượng ngắt lời cộng tác trong các đoạn thoại cùng giới
và khác giới bằng tiếng Anh………………………………….

4

108


Bảng 3.8. Số lượng ngắt lời không thành công trong các đoạn thoại
cùng giới và khác giới bằng tiếng Anh………………………

109

Bảng 3.9. Các hành vi ngôn ngữ được thực hiện qua ngắt lời trong các
đoạn thoại cùng giới và khác giới bằng tiếng Việt …………

119

Bảng 3.10. Các hành vi ngôn ngữ được thực hiện qua ngắt lời trong
các đoạn thoại cùng giới và khác giới bằng tiếng Anh……

122

Bảng 3.11. Mức độ sử dụng ngắt lời thông qua các câu phân loại
theo mục đích nói trong các đoạn thoại cùng giới và khác giới
bằng tiếng Việt ………………………………………………

127

Bảng 3.12. Mức độ sử dụng ngắt lời thơng qua các câu phân loại

theo mục đích nói trong các đoạn thoại cùng giới và khác giới
bằng tiếng Anh …………………………………………….

131

Bảng 3.13. Số lượng các cặp thoại chứa các phát ngôn ngắt lời
trong các đoạn thoại cùng giới và khác giới bằng tiếng Việt…

136

Bảng 3.14. Số lượng các cặp thoại chứa các phát ngôn ngắt lời trong
các đoạn thoại cùng giới và khác giới bằng tiếng Anh………..

137

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1……………………………………………………………….. 63
Biểu đồ 2.2……………………………………………………………….. 80
Biểu đồ 3.1……………………………………………………………….. 110
Biểu đồ 3.2……………………………………………………………………….. 111
Biểu đồ 3.3……………………………………………………………….. 121
Biểu đồ 3.4……………………………………………………………….. 126

5


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Ngắt lời là một hiện tượng phổ biến trong giao tiếp. Tuy nhiên ở mỗi
cộng đồng khác nhau, hiện tượng ngắt lời lại được nhìn nhận theo những cách

khác nhau. Sở dĩ có hiện tượng này là do mỗi cộng đồng có những quan niệm
khác nhau về ngắt lời, có thể với cộng đồng này ngắt lời là một hiện tượng hồn
tồn bình thường trong giao tiếp nhưng ở một cộng đồng khác ngắt lời có thể
gây ra hiểu sai hay xúc phạm đối với các chủ thể tham gia giao tiếp. Ngắt lời
không chỉ chịu ảnh hưởng bởi các quan niệm ở những cộng đồng khác nhau mà
nó cịn phụ thuộc vào tính cách, địa vị, quyền lực… của chủ thể tham gia giao
tiếp. Ngắt lời gắn với những nét đặc trưng văn hóa của mỗi dân tộc.
1.2. Trong bối cảnh tồn cầu hóa ngày nay, nhu cầu cũng như thực tế sử
dụng ngôn ngữ nhằm giao lưu, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau giữa các
nền văn hóa trên thế giới đang gia tăng mạnh mẽ. Điều này cũng làm tăng nhu
cầu sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp liên văn hóa. Giao tiếp liên văn hóa chính
là sự giao tiếp giữa các nhóm người đến từ những nền văn hóa khác nhau, có
những phương thức sống cũng như thế giới quan khác nhau. Trong giao tiếp liên
văn hóa, ngắt lời có thể trở thành một rào cản cho sự thành cơng của các chủ thể
tham gia giao tiếp vì ngắt lời luôn gắn liền với những nét đặc trưng của từng
ngôn ngữ và cộng đồng giao tiếp cụ thể. Mỗi ngôn ngữ, cộng đồng sử dụng ngắt
lời với những chức năng đa dạng và tần suất sử dụng ngắt lời trong giao tiếp
cũng khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp tiếng
Việt trong sự liên hệ với tiếng Anh là thực sự cần thiết để giúp người sử dụng
tiếng Anh trước hết có một cái nhìn đúng đắn về hiện tượng ngắt lời trong giao
tiếp tiếng Việt, tìm hiểu những nét tương đồng và khác biệt trong việc sử dụng
ngắt lời ở môi trường giao tiếp liên văn hóa, qua đó, tránh được những trở ngại
cũng như những xung đột về văn hóa khi giao tiếp.

6


1.3. Ngắt lời trong giao tiếp là một hiện tượng đã và đang thu hút sự quan
tâm nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học. Hiện nay, trên thế giới, hiện tượng
ngắt lời đã được nghiên cứu khá sâu và đa dạng; trong khi hiện tượng này vẫn

chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam. Theo những nguồn tư liệu mà chúng
tơi tiếp cận được, hiện chưa có một cơng trình nào tiến hành khảo sát một cách
đầy đủ và có hệ thống về hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp tiếng Việt.
Vì những lý do nêu trên, chúng tơi chọn “Hiện tượng ngắt lời trong
giao tiếp tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Anh)” làm đề tài luận án.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp tiếng Việt có đối chiếu với
tiếng Anh nhằm góp phần nghiên cứu lý luận về giao tiếp ngơn ngữ nói chung,
giao tiếp ngơn ngữ liên văn hóa nói riêng; chỉ ra các đặc điểm ngôn ngữ về hiện
tượng ngắt lời trong tiếng Việt và tiếng Anh; lý giải những nhân tố ngôn ngữ xã
hội tác động đến hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp giữa các nhóm người trong
những cộng đồng giao tiếp khác nhau.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích này, luận án đặt ra các nhiệm vụ như sau:
1) Xác lập khung lí thuyết làm cơ sở nghiên cứu hiện tượng ngắt lời
trong giao tiếp tiếng Việt.
2) Khảo sát, chỉ ra các cách thức, mức độ sử dụng và chức năng của hiện
tượng ngắt lời trong giao tiếp tiếng Việt; đồng thời đối chiếu với hiện tượng
ngắt lời trong tiếng Anh nhằm làm nổi bật đối tượng nghiên cứu, chỉ ra sự tương
đồng và khác biệt về hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp tiếng Việt và tiếng Anh.
3) Tiến hành khảo sát trường hợp: tác động của nhân tố giới đến hiện
tượng ngắt lời trong giao tiếp tiếng Việt và tiếng Anh.

7


3. PHƯƠNG PHÁP VÀ THỦ PHÁP NGHIÊN CỨU
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi đã áp dụng tổng hợp
các phương pháp và thủ pháp nghiên cứu sau:

3.1. Phương pháp phân tích diễn ngơn
Với tư cách là một quá trình giao tiếp hay sự kiện giao tiếp, diễn ngơn
bao gồm các yếu tố ngồi ngơn ngữ như ngữ cảnh tình huống, yếu tố dụng học
và tác động của các chiến lược giao tiếp của người sử dụng ngôn ngữ. Ý thức
được sự chi phối của các nhân tố này, đặc biệt là nhân tố ngữ cảnh tình huống,
chúng tơi ln xem xét, xác định, phân tích và mơ tả hiện tượng ngắt lời trong
giao tiếp tiếng Việt một cách toàn diện, trong các cảnh huống cụ thể.
3.2. Phương pháp của ngôn ngữ học đối chiếu
Sử dụng những kết quả thu được qua q trình phân tích và miêu tả ngữ
liệu, chúng tôi tiến hành đối chiếu hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp tiếng Việt
và tiếng Anh nhằm làm nổi bật đối tượng nghiên cứu và tìm ra những nét tương
đồng cũng như những điểm khác biệt.
3.3. Phương pháp và thủ pháp của ngôn ngữ học xã hội
Các phương pháp và thủ pháp điều tra, khảo sát của ngôn ngữ học xã hội
mà chúng tôi sử dụng trong luận án gồm có:
- Khảo sát trường hợp: Đối tượng khảo sát của chúng tôi trong luận án là
việc sử dụng ngắt lời trong giao tiếp bằng tiếng Việt của nam giới và nữ giới
trong các chương trình đàm thoại và trị chơi trên truyền hình.
- Quan sát: Trong các chương trình đàm thoại và trị chơi trên truyền
hình, hiện tượng ngắt lời xuất hiện khá nhiều nên chúng tôi quan sát và ghi lại,
điều này giúp chúng tôi trả lời câu hỏi liệu có sự khác biệt giữa nam giới và nữ
giới trong việc sử dụng ngắt lời trong giao tiếp tiếng Việt.

8


3.4. Các phương pháp và thủ pháp khác
Ngoài các phương pháp và thủ pháp nên trên, thủ pháp diễn dịch cũng
được sử dụng để xây dựng nền tảng lập luận cho đối tượng nghiên cứu dựa trên
sự kế thừa những quan điểm đã được ứng dụng rộng rãi, những kết luận của các

nhà nghiên cứu trong và ngoài nước trên bình diện ngơn ngữ học như hành vi
ngơn ngữ, ngữ dụng học, chiến lược lịch sự. Trên cơ sở nền tảng lập luận này,
chúng tôi đưa ra những suy luận, đánh giá mới. Sau đó, để chứng minh cho các
suy luận thu được từ thủ pháp diễn dịch, chúng tôi dùng thủ pháp thống kê phân
loại và quy nạp để thực hiện các thao tác thu thập, thống kê, phân loại và phân
tích ngữ liệu.
Phương pháp miêu tả thơng qua các hình thức bảng biểu, biểu đồ được sử
dụng để làm nổi bật những đặc trưng cơ bản của đối tượng nghiên cứu.
Việc sử dụng linh hoạt các phương pháp và thủ pháp trên trong quá trình
thực hiện đề tài là hết sức cần thiết. Việc phối hợp, hỗ trợ giữa các phương
pháp, thủ pháp trong việc thu thập số liệu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kết quả của
đề tài.
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu, khảo sát của luận án là hiện tượng ngắt lời được
biểu hiện bằng ngôn từ (bằng lời). Với các biểu hiện bằng cử chỉ (phi lời) như
xua tay, mỉm cười, ra dấu hiệu, nháy mắt,... chúng tôi xin không đề cập đến
trong luận án này.
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu của đề tài là hiện tượng ngắt lời xuất hiện
trong giao tiếp giữa những người thuộc những nhóm xã hội giống và khác nhau.
4.2. Tư liệu nghiên cứu
Tư liệu mà chúng tôi thu thập chủ yếu theo hai nguồn là giao tiếp nói và
giao tiếp viết.

9


- Đối với tư liệu từ giao tiếp nói, có thể thấy rõ ở đây là nguồn dữ liệu lý
tưởng nhất để nghiên cứu giao tiếp là qua các cuộc thoại ghi âm thực tế. Tuy
nhiên, việc ghi âm các cuộc thoại đặt ra nhiều trở ngại khó có thể khắc phục

trong quá trình thực hiện đề tài. Vì lý do này, tư liệu từ các đoạn thoại của các vị
giám khảo cũng như người chơi trong một số chương trình đàm thoại và chương
trình trị chơi phát sóng trên các kênh của đài truyền hình Việt Nam sẽ được
chúng tôi sử dụng làm chất liệu nghiên cứu. Cụ thể, chúng tôi đã thu thập 121
ngắt lời trong các đoạn thoại bằng tiếng Việt và 117 ngắt lời trong các đoạn
thoại bằng tiếng Anh. Đây là các đoạn song thoại, giữa hai chủ thể giao tiếp
cùng giới hoặc khác giới, cùng vai giao tiếp (đều là giám khảo) hoặc khác vai
giao tiếp (giữa người dẫn chương trình và khách mời, giữa giám khảo và thí
sinh).
- Đối với tư liệu từ giao tiếp viết, luận án tiến hành thu thập tư liệu từ các
tác phẩm văn học và một số truyện đã ấn hành. Chúng tôi cũng nhận thức được
rằng nguồn ngữ liệu này còn mang phong cách cá nhân của tác giả trong lời
thoại và có chút ít ‘phi thực tế’ do các đoạn thoại thuộc thể loại này ít nhiều bị
hư cấu. Tuy nhiên, về cơ bản, các đoạn thoại được xây dựng trên những mơ
hình giao tiếp đời thường, thuộc dạng văn nói và tương đối gần với hội thoại
thực tế nên vẫn có thể phản ánh ngơn ngữ giao tiếp thực tế ở một mức độ nhất
định. Cụ thể, chúng tôi cũng đã thu thập được 294 ngắt lời trong các tác phẩm
văn học và một số truyện ngắn hiện đại bằng tiếng Việt và 292 ngắt lời trong
các tác phẩm văn học và một số truyện ngắn hiện đại bằng tiếng Anh. Số lượng
các ngắt lời trên xuất hiện trong các đoạn song thoại diễn ra trong những tình
huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống. Để thể hiện rõ hiện tượng ngắt lời
trong các đoạn thoại từ các tư liệu viết, chúng tôi không chỉ trích dẫn lại lời
thoại của nhân vật mà cịn ghi lại lời dẫn thoại của tác giả.
- Nguồn tư liệu của luận án là các cuộc giao tiếp hiện nay. Nếu trong luận
án có sử dụng các tư liệu giao tiếp thời trước đó (trong một số tác phẩm văn học

10


giai đoạn 1930-1945) chỉ là nhằm mục đích tăng tính đa dạng cho chất liệu

nghiên cứu.
Ngồi ra chúng tơi cũng sử dụng nguồn tư liệu trong các cơng trình nghiên
cứu về ngơn ngữ có liên quan của các tác giả khác.
5. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN
5.1. Ý nghĩa lý luận
Giải quyết được những nhiệm vụ nghiên cứu do đề tài của luận án yêu
cầu, chúng tơi hi vọng có thêm cơ sở để giúp đưa ra những cách giải quyết
xác đáng về hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp trên cả hai bình diện: lý
thuyết và thực tiễn.
Về mặt lý thuyết, luận án góp phần vào việc định hình khung lý thuyết
cho việc phân tích, đối chiếu và khảo sát thực tiễn hiện tượng ngắt lời trong
giao tiếp tiếng Việt từ góc độ dụng học.
Nghiên cứu hiện tượng ngắt lời từ góc độ dụng học góp phần làm rõ
tính đa dạng của hiện tượng ngắt lời trong thực tế giao tiếp.
Việc đối chiếu, liên hệ hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp tiếng Việt và
tiếng Anh nhằm làm nổi bật mối quan hệ giữa hình thức với nội dung của các
sự kiện và hiện tượng ngơn ngữ trong giao tiếp. Từ đó nâng cao năng lực,
hiệu quả giao tiếp của các chủ thể khi tham gia giao tiếp, đặc biệt là giao tiếp
ngôn ngữ liên văn hóa.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả thu được của luận án giúp làm sáng tỏ bản chất cũng
như chức năng của ngắt lời trong giao tiếp. Qua đó, giúp người tham gia giao
tiếp có được sự nhận thức đúng đắn và sử dụng ngắt lời một cách hiệu quả
tạo nên thành cơng trong giao tiếp. Bên cạnh đó, luận án góp phần vào
nghiên cứu giao tiếp tiếng Việt dưới tác động của nhân tố giới. Thông qua
hiện tượng ngắt lời có thể thấy được những biến đổi về lối ứng xử văn hóa -

11



ngôn ngữ của người Việt cũng như những thay đổi trong cách nhìn nhận về giới
của người Việt.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Tư liệu trích dẫn, nội
dung chính của luận án được cấu trúc thành ba chương như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận của luận án
Chương 2. Những đặc điểm chung về hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp
tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Anh)
Chương 3. Nghiên cứu trường hợp: Hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp tiếng
Việt từ góc độ giới (đối chiếu với tiếng Anh)

12


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp trên thế giới
Ngắt lời là một hiện tượng thường xuất hiện trong các cuộc thoại và có
đóng góp không nhỏ tới thành công của các cuộc giao tiếp. Khơng những vậy,
ngắt lời nếu khơng được tìm hiểu một cách thấu đáo và sử dụng một cách hợp lý
có thể gây ảnh hưởng lớn tới mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia giao tiếp.
Từ lâu, ngắt lời đã được các nhà ngôn ngữ học trên thế giới chú ý, để tâm
nghiên cứu và đưa ra một số kết quả nhất định. Tìm hiểu các cơng trình nghiên
cứu, chúng tôi nhận thấy ngắt lời được các nhà ngôn ngữ nghiên cứu trong lĩnh
vực dụng học và ngôn ngữ học ứng dụng ở các góc độ khác nhau, ví dụ như
hành vi ngôn ngữ, lý thuyết lịch sự, dụng học tương tác, v.v. Ngắt lời cũng được
xem xét trong các khung cảnh giao tiếp khác nhau và ở các cấp độ phân tích
ngơn ngữ đa dạng từ ngơn điệu đến hình thái học, cú pháp và ngữ nghĩa học.

Dưới đây chúng tơi điểm theo cách hệ thống hóa các hướng nghiên cứu cơ bản
về ngắt lời trên thế giới.
1.1.1.1. Nghiên cứu hiện tượng ngắt lời theo hướng ngôn ngữ học xã hội
Theo hướng ngôn ngữ học xã hội, các nhà ngôn ngữ đã tập trung nghiên
cứu hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp dưới sự tác động của hai nhân tố chính là
giới và quyền lực.
Thứ nhất là hướng nghiên cứu về hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp từ
góc độ giới.
Vấn đề được các nhà ngơn ngữ học quan tâm ở đây là liệu có sự khác biệt về
giới khi sử dụng ngắt lời trong giao tiếp và nếu như có sự khác biệt thì yếu tố
nào ảnh hưởng đến sự khác biệt này. Có hai khuynh hướng đối lập nhau giữa
các nhà ngôn ngữ học khi bàn về vai trò của giới đối với ngắt lời trong giao tiếp.

13


Khuynh hướng thứ nhất phủ nhận vai trò của nhân tố giới đối với ngắt lời
trong giao tiếp. Theo khuynh hướng này, nhiều tác giả đã khẳng định khơng có
sự khác biệt nào giữa nam giới và nữ giới khi họ thực hiện ngắt lời trong giao
tiếp. Ví dụ: “Gender, language, and influence” (Giới, ngôn ngữ và sự ảnh
hưởng) của Carli (1990) [63]; “The effects of sex of subject and sex of partner
on interruptions” (Những ảnh hưởng của giới trong chủ đề và vai giao tiếp với
ngắt lời) của Dindia (1987) [70]; “Gender, legitimate authority, and leadersubordinate conversations” (Giới, thẩm quyền hợp pháp và các cuộc thoại phụ
thuộc vào người dẫn) của Johnson (1994) [92].
Khuynh hướng thứ hai khẳng định vai trò của nhân tố giới đối với ngắt
lời trong giao tiếp. Để trả lời cho câu hỏi thường được đặt ra trong các nghiên
cứu về giới là trong hai giới nam và nữ, giới nào thường ngắt lời nhiều hơn và
mục đích ngắt lời của mỗi giới có tương đồng với nhau hay không? Các tác giả
đã tập trung vào nghiên cứu về cách tiếp cận, môi trường giao tiếp, quan hệ giữa
các vai giao tiếp và chủ đề giao tiếp như là những nhân tố tạo nên sự khác biệt

này. Trong cơng trình nghiên cứu “Sex roles, interruptions and silences in
conversation” (Vai trò của giới, ngắt lời và im lặng trong hội thoại) của
Zimmerman D. và West C. (1975) [136], các tác giả đã sử dụng phương pháp
trò chuyện theo lối tán gẫu tại khuôn viên Santa Barbara của Đại học California
năm 1975 và đã cho ghi âm 31 đoạn thoại giữa hai chủ thể (10 đoạn thoại giữa
hai chủ thể là nam, 10 đoạn thoại giữa hai chủ thể là nữ và 11 đoạn thoại giữa
hai chủ thể khác giới), đối tượng được ghi âm là những người da trắng, thuộc
tầng lớp trung lưu và đều trong độ tuổi từ 20 đến 35, mối quan hệ giữa các chủ
thể cũng khá đa dạng từ mức độ thân thiết bạn bè đến mức độ xã giao giữa y tá
và bệnh nhân. Các đoạn thoại được ghi âm tại những địa điểm khá phù hợp cho
những cuộc nói chuyện gẫu như quán cà phê, hiệu thuốc, trong khuôn viên một
trường đại học. Các chủ đề cũng được lựa chọn một cách ngẫu nhiên như các
cuộc tranh cãi giữa những người yêu nhau, giữa những người bạn hay chỉ đơn
thuần là một cuộc giao tiếp xã giao giữa các chủ thể lần đầu gặp mặt. Từ kết quả

14


phân tích các đoạn thoại, Zimmerman D. và West C. (1975) [136] đã thấy rằng:
trong các cuộc trò chuyện này, nam giới thường có vẻ thích ngắt lời người khác
hơn là nữ giới. Họ cho hay trong 11 cuộc trò chuyện giữa nam và nữ, nam giới
sử dụng 46 hình thức ngắt lời trong khi ở nữ giới là 2. Từ mơ hình nghiên cứu
tương đối nhỏ này, Zimmerman D. và West C. đã kết luận rằng “mức độ ngắt lời
của nam giới là nhiều hơn nữ giới vì khi đó họ đang thống trị hoặc cố gắng tỏ
ra thống trị và họ cho rằng mình là người có uy quyền hơn. Nam giới đặt cho
mình quyền lựa chọn các chủ đề cũng như tự thực hiện các chủ đề đó mà khơng
cần nghĩ tới các hệ quả có thể xảy ra. Bên cạnh đó, nam giới cũng từ chối địa vị
bình đẳng với nữ giới khi thực hiện các vai giao tiếp với mong muốn thực hiện
đầy đủ các lượt thoại của mình” ([136], tr.125). Cơng trình nghiên cứu của
Zimmerman D. và West C. đã nhận được nhiều sự ủng hộ và được phản ánh

trong các nghiên cứu như: “Sex role differences in the relational control
dimension of dyadic interaction” (Sự khác biệt về giới từ khía cạnh kiểm sốt
trong tương tác đôi) của Bohn & Stutman (1983) [56]; “Sex differences in
student dominance behavior in female and male professors’ classrooms” (Sự
khác biệt giới trong hành vi kiểm soát sinh viên của các giảng viên nam và nữ
tại các lớp học) của Brooks (1982) [57], hay “Cultural differences, not
deficiencies: An analysis of managerial women’s language” (Khác biệt văn hóa,
khơng phải khơng có năng lực: Nghiên cứu trường hợp ngơn ngữ của các nữ
giám đốc) của Case (1988) [64], v.v.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu trong các bài viết như “A new look at
interruptions” (Một cách nhìn mới về ngắt lời) của Kennedy & Camden (1983)
[94] và “Sex differences in interruptions. An experimental reevaluation”
(Những khác biệt về giới trong ngắt lời. Sự tái đánh giá thực nghiệm) của
Nohara (1992) [108] lại cho thấy rằng nữ giới ngắt lời nhiều hơn nam giới.
Cũng liên quan đến sự ảnh hưởng của nhân tố giới tới ngắt lời, Leaper C.
(1994) [97] trong cơng trình “Exploring the consequences of gender
segregation on social relationships” (Tìm hiểu những hậu quả của sự phân biệt

15


giới tới các mối quan hệ xã hội) đã thực hiện nghiên cứu 43 trường hợp trong
các bối cảnh giao tiếp tự nhiên và tại phịng thí nghiệm nhằm trả lời cho câu hỏi
đang gây tranh cãi hiện nay là liệu rằng trong hai giới nam và nữ, ai là người
ngắt lời bạn thoại của mình nhiều hơn? Tác giả đã phát hiện ra nhân tố tác động
đến hiện tượng ngắt lời giữa nam và nữ là sự thân sơ giữa các chủ thể giao tiếp.
Với 6 cặp thoại được thực hiện giữa các chủ thể giao tiếp có mức độ quen thân
khá lớn và 11 cặp thoại trong đó các chủ thể giao tiếp là những người xa lạ với
nhau, kết quả cho thấy những người khơng có mối quan hệ quen thân sẽ phụ
thuộc nhiều hơn các yếu tố chi phối hành vi ứng xử của họ. Ngược lại, những

người có mối quan hệ quen thân như bạn thân, họ hàng sẽ phụ thuộc nhiều hơn
vào tính cách của mỗi cá nhân (Drass, 1986 [71]; Wood & Karten, 1986 [133]).
Reznik D. (2008) [112] trong cơng trình nghiên cứu “Gender in Interruptive
Turns at Talk-In-Interaction” (Yếu tố giới ở các lượt ngắt lời trong giao tiếp
tương tác) đã tiến hành ghi âm một cuộc trò chuyện giữa hai người bạn khác
giới. Dữ liệu phân tích từ cuộc hội thoại này cho thấy ngắt lời là một hiện tượng
trong giao tiếp do các chủ thể giao tiếp thực hiện nhằm xây dựng các mối quan
hệ cũng như để xây dựng phong cách cộng tác trong hội thoại. Tuy nhiên, điều
này không thể mang ra áp dụng cho mọi tình huống và cũng khơng thể trở thành
các đặc tính của hội thoại. Hơn thế nữa, kết quả nghiên cứu cũng ngầm chỉ về
vai trị của giới. Ở đây, tác giả khơng cho rằng nam giới là nhân tố tạo nên
quyền lực trong giao tiếp hội thoại mà nhấn mạnh tới các quyền của nữ giới. Từ
đó, tác giả đã đề xuất rằng nghiên cứu ngắt lời nên dựa trên các bối cảnh giao
tiếp cụ thể chứ không nên xuất phát từ những đặc tính của từng cá nhân. Một
kết quả khá bất ngờ được tác giả chỉ ra ở đây là sự kết hợp giữa hai yếu tố giới
và quyền lực. Trong hội thoại, quyền lực khơng hồn tồn thuộc về một cá nhân
này hay cá nhân khác. Thay vào đó, quyền lực tồn tại và được các chủ thể giao
tiếp sử dụng nhằm đạt được mục đích hội thoại, để làm chủ cuộc thoại hay
chuyển hướng chủ đề cuộc thoại. Cùng cho rằng bối cảnh giao tiếp có ảnh
hưởng trực tiếp đến thành công của hội thoại, Leaper C. (1994) [97] cũng đã

16


tiến hành ghi âm các cuộc hội thoại trong các phịng thí nghiệm, trong văn
phịng và cả trong bối cảnh giao tiếp tự nhiên. Tác giả đã đi đến kết luận như
sau: Sự khác biệt về giới khi sử dụng ngắt lời thể hiện rõ trong bối cảnh giao
tiếp tự nhiên hơn là tại các phòng nghiên cứu. Tác giả diễn giải rằng yếu tố tạo
nên sự khác biệt ở đây là do ngắt lời có thể được coi là một cách hành xử thơ
bạo trong giao tiếp, có lẽ vì lý do này mà mọi người thường cảm thấy có sự gị

bó khi ngắt lời trong các cuộc thoại tiến hành trong các phòng nghiên cứu hơn
là trong bối cảnh giao tiếp tự nhiên. Tuy nhiên, do chỉ có ba trong số 17 trường
hợp nghiên cứu được tiến hành trong bối cảnh tự nhiên nên bản thân tác giả
cũng chưa hoàn toàn chắc chắn với các kết luận của mình. Mặc dù vậy, tác giả
cũng đã khẳng định rằng sự khác biệt trong ứng xử có liên quan tới nhân tố giới
chịu ảnh hưởng bởi nhân tố cảnh huống hơn là sự khác nhau rõ ràng giữa nam
và nữ.
Thứ hai là hướng nghiên cứu về hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp từ góc độ
quyền lực, giữa những người tham gia giao tiếp không cùng vai giao tiếp.
Một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn tới sự thành cơng của các cuộc
giao tiếp chính là vị thế. Khơng cùng vị thế sẽ dẫn đến sự mất cân xứng giữa
các vai giao tiếp. Điều này có thể thấy rõ trong các cuộc thoại mà ở đó một vai
giao tiếp có những quyền và lợi thế nhất định để làm chủ cuộc thoại cũng như
ngắt lời vai giao tiếp còn lại như trong các cuộc thẩm vấn, các vụ xét xử tại tịa
án. Momeni N. (2011) [103], trong cơng trình “Police Genre: Interruption and
its Classification as a Sign of Asymmetry in Police Interview/ Interrogation”
(Chủ đề cảnh sát: Ngắt lời và sự phân loại ngắt lời như một dấu hiệu của sự
không tương xứng trong các cuộc thẩm tra của cảnh sát), đã tiến hành nghiên
cứu hiện tượng ngắt lời trong các cuộc thẩm vấn giữa các nhân viên cảnh sát và
các bị cáo. Phân tích dữ liệu từ các cuộc thẩm vấn, tác giả nhận định rằng bối
cảnh giao tiếp của các cuộc thẩm vấn thể hiện rõ mối quan hệ khơng cân xứng
trong đó nhân viên cảnh sát là người giành được các lượt nói nhiều hơn thơng
qua việc liên tục ngắt lời bị cáo.

17


1.1.1.2. Nghiên cứu hiện tượng ngắt lời theo hướng giao tiếp liên văn hóa
Một hướng tiếp cận khác về hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp được các
nhà ngôn ngữ học chú ý đến là hướng nghiên cứu giao tiếp liên văn hóa, giữa

những người tham gia giao tiếp đến từ những nền văn hóa khác nhau. Các
nghiên cứu theo hướng này cũng đã cho thấy có sự khác biệt về mục đích thực
hiện ngắt lời giữa các chủ thể giao tiếp. Chẳng hạn, luận án tiến sĩ “A crosscultural approach to the analysis of conversation and its implications for
language pedagogy” (Phân tích hội thoại theo đường hướng giao văn hóa và
hàm ý cho giảng dạy ngơn ngữ) của Murata K. (1991) [104] đã dành một phần
khảo sát các loại ngắt lời và sự ảnh hưởng của phong cách hội thoại tới việc sử
dụng các loại ngắt lời. Theo tác giả, đặc tính ưa hợp tác trong phong cách hội
thoại của người Nhật đã khiến cho họ thiên về việc sử dụng các ngắt lời có tính
cộng tác trong giao tiếp. Cùng chung hướng nghiên cứu này, Han L. (2001) [82]
trong cơng trình “Cooperative and Intrusive interruptions in inter and
intracultural dyadic discourse” (Ngắt lời cộng tác và xâm phạm trong các diễn
ngơn đơi nội và giao văn hóa) đã tiến hành một cuộc thí nghiệm với 40 người
Canada và 40 người Trung Quốc. Những người tham gia cuộc thí nghiệm sẽ tạo
thành các cặp thoại như sau: người nói Canađa - người nghe Canađa; người nói
Trung Quốc – người nghe Trung Quốc, người nói Canađa - người nghe Trung
Quốc; Người nói Trung Quốc - người nghe Canađa. Kết quả nghiên cứu cho
thấy hiện tượng ngắt lời xuất hiện trong tất cả các cặp thoại. Tuy nhiên, chức
năng của từng loại ngắt lời được sử dụng tùy theo từng cặp thoại. Trong cặp
thoại giữa người nói Trung Quốc - người nghe Trung Quốc, các ngắt lời mang
tính cộng tác xuất hiện nhiều hơn ngắt lời mang tính xâm phạm. Người Canađa
có xu hướng sử dụng các ngắt lời có tính xâm phạm nhiều hơn. Tác giả cũng
cho thấy ngắt lời không được thực hiện thành cơng nhiều hơn trong các nhóm
có các vai giao tiếp khơng chung nền văn hóa (cụ thể ở đây là giữa các cặp
người nói Canađa – người nghe Trung Quốc và người nói Trung Quốc – người
nghe Canađa) hơn là giữa các nhóm có chung nền văn hóa (giữa các cặp người

18


nói Trung Quốc – người nghe Trung Quốc và người nói Canađa – người nghe

Canađa). Giữa các nhóm khơng chung nền văn hóa, các ngắt lời có tính xâm
phạm xuất hiện nhiều hơn (Từ dữ liệu nghiên cứu trong [82], tác giả đã chỉ ra
người Canađa có xu hướng sử dụng các ngắt lời mang tính xâm phạm nhiều hơn
người Trung Quốc). Nghiên cứu này ủng hộ cho giả thuyết rằng ngắt lời trong
hội thoại là một hiện tượng có trong mọi nền văn hóa nhưng phong cách ngắt
lời thì lại mang đặc trưng của từng nền văn hóa (Watzlawick, Bavelas, &
Jackson, 1967 [130]; Murata, 1994 [105]; Guillot, 2005 [81]).
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp tại Việt Nam
Tại Việt Nam, chúng tôi chưa thực sự tìm thấy một cơng trình nghiên cứu
riêng nào về hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp. Thay vào đó, trong rất nhiều
các nghiên cứu về giao tiếp, ngắt lời chỉ được xem như một nhân tố trong rất
nhiều các nhân tố khác ảnh hưởng đến thành công trong giao tiếp.
Liên quan đến khái niệm ngắt lời, đa số các nhà nghiên cứu đều cùng
đồng tình với quan điểm rằng ngắt lời là một hiện tượng phổ biến nhưng khơng
có những đóng góp tích cực cho thành cơng trong giao tiếp. Cụ thể, khi bàn về
giao tiếp hội thoại, tác giả Đinh Văn Đức (2012) [14] cho rằng, “khi giao tiếp cả
người nói và người nghe cần phải tế nhị trong hành động ngơn từ, nói năng
phải lời, tơn trọng thể diện của đối tác, người nói cần phải khiêm nhường uyển
chuyển, giữ thể diện cho mình và tránh xâm phạm lãnh địa, lợi ích của người
khác. Do đó, trong nói năng cần phải tránh ngắt lời, nói thay, nói leo, giành
phần của người khác” ([14]; tr. 518). Bàn về tính chất, đặc điểm của ngắt lời,
theo tác giả Nguyễn Đức Dân (2000) [8], ngắt lời hay lối nói “xen ngang” là
hiện tượng khơng bình thường, là khơng lịch sự (trừ phi tranh luận hoặc cãi
nhau). Tác giả cũng cho rằng: “ngắt lời liên quan tới văn hóa, tập tục và những
quy ước của từng dân tộc, từng xã hội. Chúng thường phản ánh những quan hệ
tôn ti, những cương vị nào đó. Chủ tọa có quyền ngắt lời một thành viên trong
cuộc họp. Cha mẹ có quyền ngắt lời con cái. Thủ trưởng có thể dừng lời một
nhân viên. Nhưng khơng có chuyện ngược lại” ([8]; tr. 88). Cùng quan điểm

19



này, tác giả Nguyễn Văn Khang (2012) [26] khi bàn về lời nói có tính xã hội đã
cho rằng: “các quy tắc nói năng trong cộng đồng xã hội cịn biểu hiện ở sự luân
lưu trong giao tiếp và cách nói xen vào, chêm vào khi giao tiếp. Chẳng hạn,
trong khi ở xã hội Việt Nam cũng như khơng ít xã hội khác ‘rất kị’ cách cướp lời
không lịch sự trong giao tiếp mà khơng có xin lỗi trước, nói xen vào hay ngắt
lời người khác thì tại một bản Antique của Ấn Độ lại coi đây là một nét đẹp,
đáng khích lệ trong giao tiếp” ([26]; tr. 344).
Trong các nghiên cứu về ảnh hưởng của yếu tố quyền lực đến phong cách
giao tiếp, phải kể đến ở đây luận văn của Phạm Thị Thu Trang (2008) [44],
“Biểu hiện của quan hệ quyền thế trong các diễn ngôn hội thoại”. Trong luận
văn của mình, tác giả đã đi đến kết luận là trên phương diện cách thức tổ chức
hội thoại, ngắt lời thể hiện qua các hiện tượng tranh lời, cướp lời, lời chêm xen
thường xuất hiện khi người nói ở vị thế cao muốn khẳng định vị thế của mình.
Xét về sự tn thủ hay khơng tn thủ các nguyên lý hội thoại thì nhân vật A (ở
vị thế cao hơn) đều có khả năng tuân thủ hay vi phạm phương châm lượng trong
nguyên lý cộng tác; song chỉ có nhân vật A là chủ động thực hiện các hành vi
làm phương hại đến thể diện của người đối thoại. Ngồi ra, cả hai nhân vật cùng
tùy mục đích giao tiếp mà thực hiện các chiến lược lịch sự bao gồm cả lịch sự
dương tính và lịch sự âm tính.
Xét về cấu trúc cũng như chức năng của ngắt lời, trong luận án tiến sĩ “Cấu
trúc liên kết của cặp thoại (trên ngữ liệu tiếng Việt)”, tác giả Phạm Văn Thấu
(2000) [38] đã đề cập tới cặp chêm xen. Theo tác giả, cặp chêm xen là dạng đặc
biệt về chức năng và cấu trúc, được hình thành từ các hành vi chêm xen khơng
có liên quan đến nội dung chủ đề chính của cặp thoại. Gọi là chêm xen vì nó
khơng cùng cấp độ với những hành vi khác trong lượt lời, không làm đặc điểm
căn bản của lượt lời và của tham thoại bị phá vỡ, do vậy khơng ảnh hưởng tới
sự tiếp tục bình thường của hội thoại. Chúng chủ yếu có chức năng liên nhân, ví
dụ: các hành vi nghi thức, chống nhiễu, đưa đẩy, sửa chữa, củng cố… Do tính

chất “chêm xen” mà chúng có vị trí khá tự do, nhưng thường gặp hơn cả là ở

20


giữa các lượt lời. Hành vi chêm xen còn như một công cụ chiến thuật hội thoại:
để dẫn nhập hoặc chuyển hướng đề tài.
Ngắt lời cũng được chú ý đến như một hiện tượng không chỉ xuất hiện
trong các cuộc thoại mà còn trong các lời thoại dẫn. Trong luận án của tiến sĩ
Mai Thị Hảo Yến (2001) [49] “Hội thoại trong truyện ngắn Nam Cao (các hình
thức thoại dẫn)”, tác giả đã có những kết luận về hiện tượng tranh cướp lời
trong hội thoại thực tế đã được từ vựng hóa trong lời dẫn. Tác giả đã dẫn ra các
ví dụ như sau:
- Hiện tượng tranh cướp lời trong hội thoại thực tế được tái hiện trong lời
dẫn. VD: * Nó chưa kịp trả lời thì bà phó đã mắng át: Mặc nó! Nó khơng ăn
nữa! Bà ăn bằng nào cho đủ thì cứ ăn!
- Hiện tượng khơng cho phép nói của hội thoại thực tế cũng được dẫn trong
lời dẫn. VD: * Bà toan cãi nhưng ông ra hiệu khơng được nói và nói lấp đi:
Mình là vợ, anh Hiệp đây là bạn. Cịn tơi thì…
Nghiên cứu về tính lịch sự trong giao tiếp, tác giả Vũ Tiến Dũng (2003)
[9] trong luận án tiến sĩ “Lịch sự trong tiếng Việt và giới tính (qua một số hành
động nói)” đã có một vài kết luận như sau: tính lịch sự trong giao tiếp là kết quả
của việc sử dụng các phương thức xác định nhằm điều hòa và gia tăng những
giá trị nhân văn của những người tham gia giao tiếp, nhất là trong đối thoại.
Lịch sự có tác dụng tăng cường hiệu quả của các hành động nói. Lịch sự có tính
phổ qt đối với nhiều dân tộc nhưng cách thể hiện thì lại mang đậm màu sắc
dân tộc và khu vực địa lý. Theo các nhà nghiên cứu Âu- Mỹ, lịch sự chủ yếu
gắn với các chiến lược mà con người thực hiện trong tương tác xã hội. Chính vì
vậy, các nhà nghiên cứu thường áp dụng lý thuyết lịch sự chiến lược. Trong khi
đó, một số nhà nghiên cứu khác căn cứ vào các cứ liệu của một số nền văn hóa

phương Đơng như Gu, Matsumoto… lại cho rằng lịch sự gắn với chuẩn mực
ứng xử, chịu áp lực mạnh mẽ của chuẩn mực cộng đồng nên lý thuyết mà họ áp
dụng ở đây là lý thuyết lịch sự chuẩn mực. Quan điểm cơ bản của lịch sự chuẩn
mực là lịch sự chịu áp lực mạnh của các giá trị xã hội như tuổi tác, vị thế, giới

21


tính, uy tín cá nhân, gia đình, dịng tộc. Trong luận án, tác giả cũng đã tìm hiểu
mối quan hệ giữa lịch sự và giới tính và đã có kết luận như sau: xét trong mối
quan hệ với lịch sự thì sự tương tác bằng ngơn ngữ của nam giới và nữ giới
cũng có phần khác nhau. Nữ giới trong giao tiếp thường biểu hiện tính mềm
mỏng, nhẹ nhàng, thường nhấn mạnh tôn ti, thứ bậc hơn nam giới trong tương
tác xã hội.
Từ các nghiên cứu đã dẫn ở trên, có thể nhận xét là, ngắt lời có thể được
xem như một hiện tượng ngơn ngữ có tính đe dọa thể diện cao, có khả năng phá
vỡ thành cơng của các chủ thể khi tham gia giao tiếp. Những nhân tố có ảnh
hưởng trực tiếp tới việc sử dụng ngắt lời trong giao tiếp là nhân tố giới, nhân tố
quyền lực… ngồi ra cũng phải nhấn mạnh vai trị của ngữ cảnh giao tiếp như
một trong những nhân tố chính quyết định khả năng ngắt lời thành công hay
không thành công giữa các chủ thể giao tiếp. Tuy nhiên, các kết luận mà các tác
giả đưa ra về ngắt lời chỉ là những phần rất nhỏ trong các cơng trình nghiên cứu
của họ. Thực sự, chúng tơi chưa tìm thấy một cơng trình hồn chỉnh nào tiến
hành các nghiên cứu riêng về ngắt lời. Điều này đã thôi thúc chúng tôi tiến hành
nghiên cứu với mong muốn xây dựng một cơng trình nghiên cứu tương đối hồn
chỉnh về hiện tượng ngắt lời trong giao tiếp tiếng Việt.
1.2. Cơ sở lí luận của luận án
1.2.1. Một số vấn đề về lí thuyết hội thoại
1.2.1.1. Khái niệm “hội thoại”
Tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn “Đại cương ngôn ngữ học” (2012) [5]

đã đề cập đến khái niệm hội thoại như sau:
Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngơn ngữ, nó
cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngơn ngữ khác. Hội thoại có thể
được phân loại dựa trên các tiêu chí sau:
Tiêu chí thứ nhất là thoại trường (không gian, thời gian) nơi diễn ra cuộc
hội thoại. Thoại trường hội thoại có thể là cơng cộng như hội nghị, hội thảo,

22


×