LỜI NÓI ĐẦU
Thanh toán là cầu nối giữa sản xuất- phân phối, lưu thông và tiêu dùng, đồng
thời là khâu mở đầu và khâu kết thúc của quá trình tái sản xuất xã hội. Tổ chức tốt
công tác thanh toán nói chung và thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng sẽ tạo
điều kiện cho quá trình sản xuất, kinh doanh được tiến hành trôi chảy, nhịp nhàng;
ngược lại việc thanh toán bị trục trặc, ách tắc thì quá trình sản xuất, kinh doanh bị trì
trệ, nền sản xuất xã hội không phát triển.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế tiền tệ
nói riêng đặt ra ngày càng nhiều các yêu cầu đối với hệ thống ngân hàng thương
mại, đặc biệt là trong các nghiệp vụ thanh toán để đem lại ngày càng nhiều lợi ích
cho khách hàng, tạo nhiều thụân lợi cho chính ngân hàng, đồng thời đẩy nhanh nhịp
độ phát triển kinh tế và tốc độ chu chuyển tiền tệ. Mặt khác, sự phát triển của khoa
học kỹ thuật và nhất là các tiến bộ của công nghệ tin học được ứng dụng vào hoạt
động ngân hàng trở thành công nghệ tin học ngân hàng đã mở rộng hoạt động ngân
hàng lên những bước đáng kể.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy, nền kinh tế xã hội càng phát triển, tỷ lệ
thanh toán bằng tiền mặt càng giảm và tỷ lệ các công cụ thanh toán không dùng tiền
mặt càng tăng. Đỉnh cao của sự phát triển các công cụ thanh toán không dùng tiền
mặt là sự ra đời của tiền điện tử - thẻ. Trong bối cảnh nền kinh tế tài chính Việt
Nam hiện nay, thẻ - công cụ chính của hoạt động ngân hàng bán lẻ đóng một vai trò
hết sức quan trọng đối với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam, có tác
động lớn đến chính sách tiền tệ cũng như đến hiệu quả kinh doanh của mỗi ngân
hàng. Đối với các ngân hàng thương mại (NHTM), nghiệp vụ kinh doanh thẻ mang
lại một định hướng mới cho hoạt động kinh doanh ngân hàng, theo hướng mở rộng
mảng kinh doanh dịch vụ vừa tăng thu nhập, mở rộng quy mô vừa giảm rủ ro từ
hoạt động tín dụng truyền thống.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động kinh doanh thẻ trong hoạt động
kinh doanh của một ngân hàng hiện đại, chiếm một tỷ lệ tương đối lớn trong tổng
doanh thu và lợi nhuận, Ngân hàng TMCP á Châu (ACB) là ngân hàng thứ hai sau
Ngân hàng Ngoại Thương (VCB) đi đầu trong việc triển khai hoạt động kinh doanh
thẻ. Triển khai nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ, Ngân hàng á Châu có cơ sở
Trang 1
thuận lợi để tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, góp phần xây dựng một môi
trường tiêu dùng văn minh, tạo điều kiện cho sự hoà nhập của Việt Nam vào cộng
đồng quốc tế.
Sau một thời gian tìm hiểu về thực trạng dịch vụ thẻ tại Việt Nam cũng như nhận
thấy được tính cấp thiết của vấn đề này, em đã mạnh dạn chọn đề tài: "Giải pháp
nhằm hoàn thiện và nâng cao hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại NHTMCP
Á Châu” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Do hiểu biết còn hạn chế, thời gian
nghiên cứu có hạn, mặc dù đã cố gắng hoàn thiện nhưng chắc chắn chuyên đề của
em còn nhiều thiếu sót, mong các thầy cô châm chước. Sự chỉ bảo và góp ý của các
thầy cô là nguồn động viên rất lớn đối với em, nó sẽ giúp em hoàn thành tốt hơn
chuyên đề này. Một lần nữa, em xin được chân thành cảm ơn!
Trang 2
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẺ NGÂN HÀNG
I/ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẺ
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của thẻ thanh toán.
Nhân loại đã trải qua nhiều thời kì phát triển và mỗi một giai đoạn lịch sử lại
có một hình thái tiền tệ tương ứng. Trước đây khi xã hội chưa phát triển người ta
dùng những hình thức tiền tệ giản đơn như vỏ sò, vỏ hến hay những vật giá trị khác
làm vật trao đổi, tiếp đến là việc sử dụng vàng, bạc và tiền giấy làm phương tiện lưu
thông và cất trữ. Ngày nay hình thái tiền tệ ngày càng đa dạng về hình thức và
chủng loại. Thẻ-tiền điện tử được coi là phương tiện thanh toán hiện đại nhất thế
giới hiện nay, ra đời và phát triển gắn liền với việc ứng dụng công nghệ tin học
trong ngân hàng.
Là một lĩnh vực kinh doanh tương đối mới mẻ nhưng thẻ cũng có lịch sử hình
thành và phát triển trong suốt mấy thập kỷ qua. Quan hệ giữa khách hàng và cơ sở
cung ứng hàng hoá dịch vụ là tâm điểm của kinh doanh thẻ.
Vào đầu những năm 40, một số cơ sở tư nhân lớn mở rộng dịch vụ bán chịu
cho khách hàng và cho phép họ trả tiền hàng hóa dịch vụ vào tài khoản của mình.
Nhiều cơ sở cung ứng hàng hoá dịch vụ cũng muốn thực hiện dịch vụ này nhưng họ
nhận thấy không đủ khả năng. Điều đó tạo cơ hội cho các tổ chức tài chính và ngân
hàng vào cuộc.
Hình thức sơ khai của thẻ là Charg-it, một hệ thống mua bán chịu do John
Biggins sáng lập ra năm 1946. Hệ thống này cho phép khách hàng trả tiền cho các
giao dịch mua bán lẻ tại địa phương. Các cơ sở chấp nhận thẻ nộp biên lai bán hàng
vào nhà băng của Biggins, nhà băng sẽ trả tiền cho họ và thu lại từ khách hàng đã sử
dụng Charg-it.
Hệ thống mua bán chịu này cũng mở đường cho thẻ tín dụng ra đời do Ngân
hàng Franklin National Bank ở Long Island NewYork phát hành lần đầu tiên năm
1951. Tại đây các khách hàng đệ đơn xin vay và được thẩm định khả năng thanh
toán. Các khách hàng có đủ tiêu chuẩn sẽ được duyệt cấp thẻ. Thẻ này dùng cho các
thương vụ bán lẻ hàng hoá và dịch vụ. Khi thanh toán, cơ sở cung ứng hàng hoá
dịch vụ sẽ ghi các thông tin về khách hàng trên thẻ vào hoá đơn bán hàng. Sau đó
Trang 3
nhà phát hành thẻ thanh toán lại cho cơ sở cung ứng hàng hoá dịch vụ có chiết khấu
một tỷ lệ nhất định để bù đắp những chi phí của khoản vay.
Trong những năm sau đó ngày càng có nhiều các tổ chức tham gia vào thị
trường thẻ ngân hàng. Vào năm 1959, một số ngân hàng phát hành thẻ tín dụng đã
cung ứng thêm một dịch vụ mới đó là thẻ tín dụng tuần hòan. Với dịch vụ này, các
chủ thẻ có thể duy trì số dư có trên tài khoản vay bằng một hạn mức tín dụng nếu họ
hoàn thành việc thanh toán hàng tháng. Khi đó số tiền thanh toán hàng tháng của
chủ thẻ sẽ được cộng thêm một khoản phí tính từ những khoản vay của chủ thẻ.
Vào năm 1960, Bank of America giới thiệu sản phẩm thẻ đầu tiên của mình –
BANKAMERICARD. Thẻ BANKAMERICARD phát triển rộng khắp vào những
năm tiếp theo và đạt được rất nhiều thành công. Những thành công của
BANKAMERCARD đã thúc đẩy các nhà phát hành thẻ khác trên khắp nước Mỹ bắt
đầu tìm kiếm phương thức cạnh tranh với loại thẻ này.
Năm 1966, 14 ngân hàng hàng đầu của Mỹ liên kết với nhau thành tổ chức
Interbank- một tổ chức mới với chức năng là đầu mối trao đổi các thông tin về giao
dịch thẻ.
Năm 1967, 4 ngân hàng bang California đổi tên của họ từ California Bankcard
Association thành Western State Bankcard Association (WSBA). WSBA mở rộng
mạng lưới thành viên với các tổ chức tài chính khác ở phía tây nước Mỹ. Sản phẩm
thẻ của tổ chức WSBA là MASTERCHARGE. Tổ chức WSBA cũng cấp phép cho
tổ chức Interbank sử dụng tên và thương hiệu của MASTERCHARGE.
Năm 1977, tổ chức thẻ BANKAMERICARD đổi tên thành VISA International
Năm 1979, MASTERCHARGE đổi tên thành MASTERCARD.
Sau đó, ngày càng có nhiều các tổ chức tài chính của các nước tham gia vào
chương trình thẻ ngân hàng.
Ngoài các sản phẩm thẻ ở trên ra còn một số các sản phẩm thẻ khác được hình
thành như American Express (1958), Dinner Club (1950), JCB (1961).
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền văn minh nhân loại và kỹ thuật
máy tính phát triển như vũ bão, thẻ thanh toán ngày càng thu hút sự chú ý và nghiên
cứu ứng dụng của nhiều nước kể cả những nước đang phát triển
1.2. Nội dung cơ bản về thẻ.
Trang 4
1.2.1 Khái niệm thẻ thanh toán:
Cơ sở lý luận tiền tệ hiện nay chưa có một định nghĩa chính xác về thẻ nhưng
ta có thể hiểu một cách đơn giản sau: “Thẻ là công cụ thanh toán do ngân hàng phát
hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hoặc rút
tiền mặt trong phạm vi số dư của mình ở tài khoản tiền gửi hoặc hạn mức tín dụng
được cấp theo hợp đồng đã ký kết giữa ngân hàng phát hành thẻ và chủ thẻ. Hoá
đơn thanh toán thẻ chính là giấy nhận nợ của chủ thẻ đối với cơ sở chấp nhận thẻ.
Cơ sở chấp nhận thẻ và đơn vị cung ứng dịch vụ rút tiền mặt đòi tiền chủ thẻ thông
qua ngân hàng thanh toán thẻ và ngân hàng phát hành thẻ.”
1.2.2. Đặc điểm cấu tạo thẻ.
Thẻ dù do bất cứ tổ chức nào phát hành đều được làm bằng plastic, có 3 lớp ép
sát, lõi thẻ được làm bằng nhựa trắng cứng nằm giữa hai lớp tráng mỏng. Thẻ có
kích thước chung theo tiêu chuẩn quốc tế là 5.50 cm x8.50 cm. Trên thẻ phải có đủ
các thông tin sau:
Trang 5
Mặt trước của thẻ phải ghi:
- Loại thẻ (Tên và biểu tượng của ngân hàng phát hành thẻ)
- Số thẻ được in nổi.
- Tên người sử dụng được in nổi.
- Ngày bắt đầu có hiệu lực và ngày hết hiệu lực.
- Biểu tượng của tổ chức thẻ.
- Các đặc tính để tăng tính an toàn của thẻ, đề phòng giả mạo.
Mặt sau của thẻ có băng từ ghi lại những thông tin sau:
- Số thẻ
- Tên chủ thẻ
- Thời hạn hiêu lực
- Bảng lí lịch ngân hàng
- Mã số bí mật
- Ngày giao dịch cuối cùng
- Mức rút tối đa và số dư
Ngoài ra thẻ còn có thể có thêm một số yếu tố khác theo quy định của các tổ
chức thẻ quốc tế hoặc hiệp hội phát hành thẻ...Các ngân hàng khi phát hành thẻ
thường sử dụng những thiết bị mang tính công nghệ cao để đảm bảo tính an toàn
cho thẻ.
1.2.3. Phân loại thẻ.
Nếu đứng trên nhiều góc độ khác nhau để phân chia các loại thẻ thì ta thấy thẻ
thanh toán rất đa dạng. Người ta có thể nhìn nhận nó từ nhiều góc độ người phát
hành, công nghệ sản xuất hay theo phương thức hoàn trả:
a/ Theo đặc tính kỹ thuật
- Thẻ băng từ (Magnetic Stripe) được sản xuất trên kỹ thuật từ tính với một
băng từ chứa hai rãng thông tin ở mặt sau của thẻ. Loại này đựoc sử dụng phổ biến
trong vòng hơn 20 năm nay.
- Thẻ thông minh (Smart Card): Đây là thế hệ mới nhất của thẻ thanh toán, thẻ
thông minh dựa trên kỹ thuật vi sử lý tin học nhờ gắn vào thẻ một “chíp” điện tử có
cấu trúc giống như một máy tính hoàn hảo. Thẻ thông minh có nhiều nhóm với dung
lượng nhớ của “chíp” điện tử là khác nhau.
Trang 6
b/ Theo tiêu thức chủ thể phát hành:
- Thẻ do ngân hàng phát hành (Bank Card): Là loại thẻ giúp cho khách hàng sử
dụng linh động tài khoản của mình tại ngân hàng, hoặc sử dụng một số tiền do ngân
hàng cấp tín dụng
- Thẻ do tổ chức phi ngân hàng phát hành: Là loại thẻ du lịch hoặc giải trí do
các tập đoàn kinh doanh lớn phát hành như: Dinner Cub, Amex...Đó cũng có thể là
thẻ được phát hành bởi các công ty xăng dầu (Oil Company Card), các cửa hiệu
lớn...
c/ Theo tính chất thanh toán thẻ:
- Thẻ tín dụng (Credit Card): Đây là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất, theo
đó người chủ thẻ được sử dụng một hạn mức tín dụng quy định không trả lãi (nếu
chủ thẻ hoàn trả số tiền sử dụng đúng thời hạn) để mua hàng hoá, dịch vụ tại những
cơ sở, cửa hàng kinh doanh, khách sạn chấp nhận loại thẻ này
- Thẻ ghi nợ (Debit Card): Đây là loại thẻ có liên quan trực tiếp với tài khoản
tiền gửi của chủ thẻ. Loại thẻ này khi mua hàng hoá dịch vụ, giải trí những giao dịch
sẽ dược khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ và đồng thời ghi có ngay
(chuyển ngân ngay) vào tài khoản của cửa hàng, khách sạn đó. Thẻ ghi nợ có hai
loại cơ bản sau:
+ Thẻ on-line là thẻ ghi nợ mà giá trị những giao dịch đựơc khấu trừ ngay lập
tức vào tài khoản của chủ thẻ.
+ Thẻ off- line là thẻ ghi nợ mà giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ vào
tài khoản của chủ thẻ sau đó vài ngày
- Thẻ rút tiền mặt (Cash Card): là loại thẻ được dùng để rút tiền mặt tại các
máy rút tiền tự động (ATM) hoặc ở ngân hàng.
d/ Theo hạn mức tín dụng:
- Thẻ vàng: Là loại thẻ được phát cho những đối tượng có uy tín, khả năng tài
chính lành mạnh, nhu cầu chi tiêu lớn. Loại thẻ này có những điểm khác nhau tuỳ
thuộc vào tập quán, trình độ phát triển của mỗi vùng nhưng chung nhất vẫn là thẻ có
hạn mức tín dụng cao hơn thẻ thường.
Trang 7
- Thẻ thường: Đây là loại thẻ căn bản nhất, phổ biến đại chúng nhất, đuợc hơn
142 triệu người trên thế giới sử dụng mỗi ngày. Hạn mức tối thiểu tuỳ theo ngân
hàng phát hành quy định.
e/ Theo phạm vi sử dụng:
- Thẻ nội địa: Là loại thẻ được giới hạn sử dụng trong phạm vi một quốc gia,
do vậy đồng tiền được sử dụng trong giao dịch mua bán hàng hoá hay rút tiền mặt
phải là đồng bản tệ của quốc gia đó. Loại thẻ này cũng có công dụng như những loại
thẻ trên nhưng hoạt động của nó đơn giản hơn bởi nó chỉ do một tổ chức hay do một
ngân hàng điều hành từ việc tổ chức phát hành đến xử lý trung gian, thanh toán và
việc sử dụng thẻ bị giới hạn trong phạm vi một quốc gia .
- Thẻ quốc tế : Là loại thẻ thanh toán không chỉ dùng tại quốc gia nó được phát
hành mà còn được dùng trên phạm vi quốc tế. Nó được hỗ trợ và quản lí trên toàn
thế giới bởi các tổ chức tài chính lớn như Master Card, Visa... hoặc các công ty điều
hành như Amex, JCB, Dinner Club... hoạt động trong một hệ thống nhất, đồng bộ.
1.3. Vai trò và lợi ích của thẻ.
1.3.1. Vai trò của thẻ.
a/ Đối với nền kinh tế: Thanh toán bằng thẻ giúp loại bỏ một khối lượng tiền
mặt rất lớn lẽ ra phải lưu chuyển trực tiếp trong lưu thông để thanh toán các khoản
mua hàng, trả tiền dịch vụ trong cơ chế thị trường đang ngày càng sôi động, phát
triển ở tất cả các nước, loại hình thanh toán này cũng không đòi hỏi nhiều thủ tục
giấy tờ. Do đó sẽ tiết kiệm được một khối lượng đáng kể về chi phí in ấn, chi phí
bảo quản, vận chuyển...Với hình thức thanh toán hiện đại, nhanh chóng, an toàn,
hiệu quả này sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển, giúp nhà nước quản lí nền kinh tế cả
về vi mô và vĩ mô. Việc áp dụng công nghệ hiện đại của việc phát hành và thanh
toán thẻ quốc tế sẽ tạo điều kiện cho việc hội nhập nền kinh tế Việt Nam với nền
kinh tế thế giới.
b/ Đối với toàn xã hội: Thẻ là một trong những công cụ hữu hiệu góp phần
thực hiện biện pháp “kích cầu” của nhà nước. Thêm vào đó, chấp nhận thanh toán
thẻ đã góp phần tạo môi truờng thu hút khách du lịch và các nhà đầu tư, cải thiện
môi trường văn minh thương mại và văn minh thanh toán, nâng cao hiểu biết của
dân cư về các ứng dụng công nghệ tin học trong phục vụ đời sống. Hơn nữa thanh
Trang 8
toán thẻ tạo điều kiện cho sự hoà nhập của quốc gia đó vào cộng đồng quốc tế và
nâng cao hệ số an toàn xã hội trong lĩnh vực tiền tệ.
1.3.2. Lợi ích của thẻ.
a/ Đối với chủ thẻ:
Tiện lợi: Chủ thẻ có thể sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, để
rút tiền mặt hoặc tiếp nhận một số dịch vụ ngân hàng taị các cơ sở chấp nhận thanh
toán thẻ, máy ATM, các ngân hàng thanh toán thẻ trong và ngoài nước. Khi dùng
thẻ thanh toán, chủ thẻ có thể chi tiêu trước, trả tiền sau (đối với thẻ tín dụng), hoặc
có thể thực hiện dịch vụ mua bán hàng hoá tại nhà...
An toàn: Các loại thẻ thanh toán làm bằng công nghệ cao, chủ thẻ được cung
cấp mã số cá nhân nên đảm bảo bí mật tuyệt đối, các khoản tiền được chuyển trực
tiếp vào tài khoản cho nên tránh mất mát hoặc trộm cắp.
Linh hoạt: Khi sử dụng thẻ tín dụng có thể giúp khách hàng điều chỉnh các
khoản chi tiêu một cách hợp lí trong một khoảng thời gian nhất định với hạn mức tín
dụng, tạo nhiều điều kiện thuận lợi trong tiêu dùng, sinh hoạt cũng như sản xuất.
b/ Đối với cơ sở chấp nhận thẻ: Cung ứng dịch vụ có chấp nhận thanh toán thẻ
sẽ giúp bán được nhiều hàng hơn, do đó tăng doanh số, giảm chi phí bán hàng, tăng
lợi nhuận. Đồng thời chấp nhận thanh toán bằng thẻ góp phần làm cho nơi bán hàng
trở nên văn minh, hiện đại, tạo cảm giác thoải mái cho khách hàng khi đến giao
dịch, thu hút được nhiều khách hàng đến với cửa hàng. Các khoản tiền bán hàng
được chuyển trực tiếp vào tài khoản ngân hàng do đó an toàn và thuận tiện hơn
trong quản lí tài chính kế toán.
c/ Đối với ngân hàng:
- Ngân hàng phát hành thẻ (NHPHT): Thực hiện tham gia thanh toán thẻ, ngân
hàng có thể đa dạng hoá các dịch vụ của mình, thu hút được những khách hàng mới
làm quen với dịch vụ thẻ và các dịch vụ khác do ngân hàng cung cấp, vừa giữ được
những khách hàng cũ. Mặt khác thông qua hoạt động phát hành, thanh toán thẻ ngân
hàng có thể thu hút một nguồn vốn lớn để bổ sung vào nguồn vốn ngắn hạn từ hoạt
động thu phí và lãi do việc phát hành thẻ mang lại. Cũng thông qua đó, uy tín và
danh tiếng của ngân hàng được nâng lên nhờ việc cung cấp các dịch vụ đầy đủ (full
service).
Trang 9
- Ngân hàng thanh toán thẻ (NHTTT): Ngân hàng thu hút được nhiêù khách
hàng đến với ngân hàng mình, sử dụng các sản phẩm do ngân hàng cung cấp. Từ đó
làm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận thông qua hoạt động thu phí chiết khấu đại lí từ
hoạt động thanh toán đại lí. Qua đó cũng làm tăng uy tín của ngân hàng trong nền
kinh tế.
1.4. Hoạt động kinh doanh thẻ tại các ngân hàng thương mại.
1.4.1. Cơ chế phát hành thẻ:
a/ Hình thức phát hành thẻ:
Thẻ ngân hàng ra đời gắn với nó là hai hình thức phát hành thẻ đã được áp dụng:
Phát hành đơn lẻ: Đậy là hình thức phát hành đầu tiên khi thẻ ra đời. Việc
phát hành thanh toán và các điểm tiếp nhận thẻ thuộc về một ngân hàng. Tiện ích
thanh toán của thẻ phụ thuộc vào phạm vi của những điểm tiếp nhận thẻ có kí hợp
đồng với ngân hàng phát hành. Đối với ngân hàng chi phí cho việc phát hành thẻ và
phát triển mạng lưới chấp nhận thẻ là rất lớn. Như vậy sẽ làm giảm lợi nhuận và lợi
ích của việc kinh doanh thẻ cho ngân hàng. Chính vì những nhược điểm này mà hệ
thống thanh toán liên ngân hàng đã được thành lập.
Phát hành tập thể: Hai tổ chức thanh toán thẻ quốc tế MASTERCARD và
VISACARD được thành lập cuối những năm 1970 đã đặt ra một mốc quan trọng
cho sự phát triển lớn mạnh của thẻ với cơ cấu tổ chức nhiều ngân hàng thanh toán
và phát hành rộng khắp thế giới, phạm vi thanh toán thẻ không có giới hạn. Các
ngân hàng thành viên (gồm hai loại: thành viên chính thức và thành viên trực thuộc)
được uỷ quyền phát hành và thanh toán thẻ có biểu tượng chung của tổ chức. Với ưu
điểm chi phí phát hành thẻ thấp, khả năng lưu hành rộng rãi, đem lại nhiều tiện ích
cho khách hàng và cho các bên tham gia thanh toán thẻ. Ngày nay, phát hành thẻ tập
thể là hình thức phát hành phổ biến nhất thế giới.
1.4.2. Cơ sở pháp lý và nguyên tắc phát hành thẻ:
Thẻ được phát hành dựa trên cơ sở pháp lý của nhà nước sở tại và theo quy
định của các tổ chức thẻ quốc tế. Ngoài ra, còn được phát hành theo nguyên tắc mà
ban giám đốc ngân hàng phát hành (Giám đốc- Tổng giám đốc) quy định.
Trang 10
Là một hình thức cấp tín dụng ( nếu là thẻ tín dụng) nên thẻ phải được phát
hành trên cơ sở có đảm bảo : khách hàng cần phải đáp ứng các yêu cầu về tín chấp
và thế chấp. Nguồn vốn cho vay phải là nguồn vốn ngắn hạn.
Trong trường hợp thanh toán quốc tế, hạn mức thanh toán ngoại tệ vẫn phải
tuân thủ theo chính sách ngoại hối và quản lý ngoại hối của Ngân hàng Trung ương
mỗi nước về mức thanh toán, điều khoản thanh toán, mức được phép thanh toán tiền
hàng hoá, dịch vụ ở nước ngoài.
Các quy định về đồng tiền phát hành, đồng tiền thanh toán, phải tuân thủ theo
các điều kiện mà các Ngân hàng Trung ương quy định
Sau khi phát hành, thẻ được gửi đến chủ thẻ, chi nhánh phát hành không được
làm lộ mã số cá nhân (PIN- Personal Identification number) của chủ thẻ. Mọi rủi ro
phát sinh trong khi chủ thẻ chưa nhận được thẻ đều do ngân hàng phát hành chịu
trách nhiệm..
Việc in ấn, nạp thông tin vào thẻ được thực hiện đầy đủ theo đúng quy định về
thẩm định và các thông tin thẻ cần thiết.
1.4.3. Thủ tục phát hành thẻ.
Việc phát hành thẻ cơ bản tuân theo quy trình sau:
Bước 1: Khách hàng gửi đơn, hồ sơ cần thiết yêu cầu được sử dụng thẻ đến
ngân hàng và phải đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng về độ tuổi, thu nhập..
Đồng thời, khách hàng phải cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết như họ tên, địa
chỉ, cơ quan công tác, số chứng minh thư...cho ngân hàng.
Bước 2: Ngân hàng căn cứ vào hồ sơ yêu cầu phát hành thẻ của khách hàng,
bộ phận thẩm định sẽ tiến hành thẩm tra hồ sơ và ra quyết định chấp nhận hoặc từ
chối phát hành. Với những hồ sơ được chấp nhận, chi nhánh phát hành thẻ tiến hành
gửi hồ sơ, hợp đồng ký kết tới trung tâm thẻ, đồng thời xác định hạn mức cho khách
hàng.
Bước 3: Trung tâm thẻ sẽ tiến hành mở tài khoản thẻ cho khách hàng cập nhật
hồ sơ và tiến hành in thẻ. Sau khi xác định số PIN, thẻ được giao lại cho bộ phận
phát hành. Quy trình phát hành thẻ, đặc biệt là số PIN phải được đảm bảo giữ bí
mật.
Trang 11
Sơ đồ: thủ tục phát hành thẻ.
- Chủ thẻ ký nhận và ký vào mặt sau - Gửi thẻ và mã cá nhân
- Gửi thẻ và mã số cá nhân cho chủ thẻ - Thẻ và mã cá nhân phải gửi riêng
1.4.4. Quy trình phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ.
Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ ở mỗi một quốc gia và mỗi một ngân
hàng là khác nhau về thủ tục và các điều kiện, do còn nhiều yếu tố ràng buộc về luật
pháp, chính trị, trình độ phát triển dân trí hay điều kiện kinh tế -xã hội. Song về tổng
thể nó gồm những nội dung cơ bản sau:
Trang 12
- Điền vào form yêu
cầu sử dụng thẻ
- Ký hợp đồng sử dụng
thẻ
- Kèm theo các giấy
tờ khác do ngân
hàng phát hành
Chủ thẻ
- Nhận hồ sơ khách hàng
- Thẩm định hồ sơ,
- Mở hồ sơ chủ thẻ, tài
khoản chủ thẻ, số thẻ và
lưu vào file máy tính.
- Lưu hồ sơ gốc
- Gửi hồ sơ phát hành về
trung tâm.
- Truyền file chủ thẻ đến
trung tâm
- Nhận yêu cầu phát
hành thẻ của chi nhánh.
- Nhận file, hồ sơ và tạo
hồ sơ của chủ thẻ.
- In thẻ và mã hoá
thông tin thẻ
Trung tâm thẻ
Chủ thẻ
(card holder)
Ngân hàng phát hành
(card isue)
Đơn vị chấp nhận
thẻ hoặc ngân hàng
đại lý
Ngân hàng thanh
toán(Acquirer)
Tổ chức thẻ quốc tế
Phát hành thẻ
Yêu cầu phát hành
(2)
(1)
(7)
(6)
(8)
Qui trình khiếu nại và xử lý tranh chấp
Sử
dụng
thẻ
thanh
toán
tiền
hàng
hoá
dịch
vụ
Cung
cấp
hàng
hoá
dịch
vụ, ứng
rút
tiền
mặt
(3)
(5)
(4) (6) (7) (8)
(7)
(8)
(4) (6)
Qui trình cấp phép
Qui trình đòi tiền
(4)
(6)
Qui trình thanh toán
Khi một khách hàng có nhu cầu sử dụng thẻ (1), Ngân hàng phát hành yêu
cầu khách hàng cung cấp các hồ sơ cần thiết theo quy định để có thể phát hành thẻ
cho khách hàng, các giấy tờ tuỳ theo quy định của từng ngân hàng, của từng quốc
gia nhưng về cơ bản là chứng minh nhân dân khách hàng, khả năng thanh toán của
khách hàng và các tổ chức cá nhân có quan hệ.
Sau khi thẩm định hồ sơ, nếu khách hàng đủ điều kiện làm thẻ, ngân hàng sẽ
phát hành thẻ cho khách hàng (2), hướng dẫn cách sử dụng và bảo quản thẻ. Chủ thẻ
khi sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hay rút tiền mặt tại các đơn vị
chấp nhận thẻ (3), đại lý sẽ phải kiểm tra khả năng thanh toán của thẻ bằng cách xin
chuẩn chi của ngân hàng thanh toán. Nếu thẻ không vấn đề gì, ngân hàng cấp phép
chuẩn chi (4) và báo cho đơn vị chấp nhận thẻ biết. Đơn vị chấp nhận thẻ khi đó sẽ
yêu cầu chủ thẻ ký tên lên hoá đơn (đảm bảo chữ ký trên hoá đơn phải giống chữ ký
Trang 13
trên thẻ) và cung cấp hàng hoá, dịch vụ hay ứng rút tiền mặt cho khách hàng (5).
Đơn vị chấp nhận thẻ nhận tiền thanh toán từ ngân hàng thanh toán (6) sau khi nộp
lại hoá đơn cho ngân hàng (nếu là máy cà thẻ), hoặc sau khi tổng kết trên thiết bị
đọc thẻ điện tử và bị trừ đi một khoản chiết khấu đại lý.
Ngân hàng thanh toán sẽ thực hiện đòi tiền từ ngân hàng phát hành (7) thông
qua tổ chức thẻ quốc tế (trường hợp ngân hàng phát hành và ngân hàng thanh toán
không cùng một hệ thống), nhiệm vụ của các tổ chức thẻ quốc tế là ghi nợ vào tài
khoản của ngân hàng phát hành và ghi có cho ngân hàng thanh toán.
Định kỳ hàng tháng vào ngày lập bảng thông báo giao dịch, ngân hàng phát
hành nhận được file dữ liệu sao kê chi tiết về hoạt động của chủ thẻ trong kỳ, sau đó
ngân hàng lập bảng thông báo giao dịch gửi cho chủ thẻ yêu cầu thanh toán.
Trong quá trình sử dụng, phát hành và thanh toán thẻ, ngân hàng phát hành,
ngân hàng thanh toán và tổ chức thẻ quốc tế có trách nhiệm giải quyết tất cả các
khiếu nại, tra soát, đòi bồi hoàn và sử lý các tranh chấp khác.
1.4.5. Thu nhập và chi phí trong kinh doanh thẻ:
a/ Thu nhập trong kinh doanh thẻ.
Với tính chất là một dịch vụ, thẻ đã mang lại cho ngân hàng nhiều nguồn thu
khác nhau. Trước hết, phải kể đến là các khoản phí thường niên mà chủ thẻ phải nộp
theo hợp đồng sử dụng thẻ. Khoản phí này thực tế không nhiều và chỉ đóng góp chút
ít vào những khoản thu nhập của ngân hàng.Tuy vậy, có thể nói rằng ngân hàng luôn
luôn có lợi khi thực hiện giao dịch thẻ.
Khoản thu nhập thứ hai tương đối ổn định mà ngân hàng thu được đó là thu từ
các đơn vị chấp nhận thẻ. Đối với các cơ sở chấp nhận thẻ thì khoản phí này được
coi là phí cho mỗi đồng doanh thu có được từ việc chấp nhận thanh toán thẻ. Đây
được coi như khoản chiết khấu thương mại. Ngoài ra, khách hàng cũng phải trả một
khoản lãi nếu như không thanh toán đầy đủ theo sao kê. Khoản phí chậm trả mà
ngân hàng áp dụng đối với các chủ thẻ ứng với mỗi sao kê, ngân hàng buộc chủ thẻ
phải thanh toán một khoản tối thiểu, phần còn lại sẽ áp dụng mức phí chậm trả mà
thực chất là lãi quá hạn.
Khoản thu lớn nhất mà ngân hàng thu được là từ khoản phí do thực hiện thanh
toán cho các tổ chức tín dụng khác hoặc cho các tổ chức phát hành thẻ. Khoản
Trang 14
phí này được gọi là phí đại lí thanh toán. Ngoài ra còn có các loại phí gia hạn mức
tín dụng, phí tra soát, phí cấp lại thẻ bị mất cắp, thất lạc...
Tất cả các khoản thu này mang lại một tỷ lệ sinh lời khá cao, lên tới 20% mỗi
năm cho ngân hàng, tạo sức hấp dẫn cho những người kinh doanh thẻ. Tỷ lệ sinh lời
trên kinh doanh thẻ vượt lên trên tất cả các loại hình kinh doanh khác với 1% tăng
trưởng về quy mô thị trường và gắn liền với nó là sự tăng trưởng mạnh mẽ về lợi
nhuận kinh doanh .
b/ Chi phí trong kinh doanh thẻ.
Bên cạnh những khoản thu từ hoạt động phát hành và thanh toán thẻ, kinh
doanh thẻ cũng phải bỏ ra nhiều loại chi phí, bao gồm:
- Chi phí trong trang bị máy móc thiết bị cho các cơ sở chấp nhận thẻ. Đây là
khoản chi phí liên quan đến tài sản cố định của ngân hàng. Với sự phát triển ngày
càng cao của khoa học kỹ thuật, chi phí này chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng chi
phí kinh doanh thẻ bởi tốc độ hao mòn của máy móc thiết bị. Đây là một khó khăn
tương đối lớn cho việc phát triển thị trường thẻ bởi phần lớn thiết bị đều phải nhập
từ nước ngoài có trình độ khoa học kỹ thuật cao.
- Chi phí in ấn và mã hoá thông tin, quản lý hồ sơ khách hàng: khoản chi này
tương đối ổn định và chiếm một tỷ trọng nhỏ.
- Lệ phí tham gia tổ chức thẻ quốc tế: khoản này được cố định hàng năm và
được tổ chức thẻ quốc tế quy định.
- Các tổn thất do các rủi ro phát sinh
- Tiền lương công nhân viên tham gia hoạt động kinh doanh thẻ: khoản này
tương đối ổn định, có thể tăng theo mức tăng của doanh số kinh doanh thẻ nhưng
mức tăng của nó sẽ chậm hơn mức tăng trưởng của doanh số thanh toán. Chính vì
vậy mà tỷ trọng lương và các khoản phúc lợi xã hội sẽ giảm tương đối so với tỷ
trọng chi phí kinh doanh thẻ.
- Các chi phí khác bao gồm: Chi phí bảo hiểm liên quan đến tài sản cố định,
các khoản trả lãi cho các số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng và
các chi phí liên quan khác, chi phí cho việc quảng cáo, Marketing sản phẩm thẻ...
Trang 15
Ngoài ra, nếu ngân hàng không phát hành đủ số thẻ ký kết hàng năm với tổ
chức thẻ quốc tế thì ngân hàng còn phải chịu phạt một khoản tiền tương ứng với số
phát hành theo hợp đồng.
Có thể nói chi phí cho hoạt động kinh doanh thẻ là rất lớn, chính vì vậy, quản
lý các chi phí là một công việc không thể thiếu trong kinh doanh thẻ.
1.4.6. Rủi ro trong kinh doanh thẻ.
Kinh doanh là một ngành chứa đựng rất nhiều rủi ro, kinh doanh thẻ cũng
không nằm ngoài quy luật đó. Rủi ro và nguy cơ rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào
trong toàn bộ quá trình phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ. Khi rủi ro xảy ra nó
không chỉ gây tổn thất cho các chủ thể tham gia hoạt động thẻ mà còn gây hậu quả
lâu dài đối với xã hội, gây mất lòng tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng.
Có các loại rủi ro cơ bản sau:
1.4.6.1. Rủi ro trong khâu phát hành:
a/ Đơn xin phát hành với những thông tin giả (Fraudulment Application).
Ngân hàng có thể phát hành thẻ cho khách hàng với những thông tin giả mạo
do không thẩm định kỹ các thông tin của khách hàng trên hồ sơ xin phát hành thẻ.
Tuy thế có thể khẳng định rằng tỷ lệ phát sinh loại rủi ro này là rất thấp, bởi vì trong
thực tế, khác với nhiều loại hình kinh doanh khác hợp đồng thẻ dễ kiểm chứng và
có đảm bảo cao (có thế chấp và có số dư tiền gửi tại ngân hàng và có theo dõi dòng
thu nhập của chủ thẻ). Trường hợp rủi ro này có thể dẫn đến các rủi ro về tín dụng
cho NHPH khi chủ thẻ sử dụng thẻ mà không có khả năng thanh toán các khoản chi
tiêu của họ, hoặc có những hành vi lừa đảo.
b/ Thẻ giả (Counterfeit Card).
Thẻ do các tổ chức tội phạm hoặc cá nhân làm giả căn cứ vào các thông tin có
được từ các chứng từ giao dịch thẻ hoặc thẻ mất cắp, thất lạc. Theo quy định của tổ
chức thẻ quốc tế, NHPH chịu hoàn toàn trách nhiệm với mọi giao dịch thẻ giả có mã
số (PIN) của NHPHT. Đây là loại rủi ro đặc biệt nguy hiểm và khó quản lý vì nằm
ngoài sự tiên liệu của NHPH.
c/ Chủ thẻ không nhận được thẻ do NHPH gửi (Never Received Issue).
Rủi ro này phát sinh khi ngân hàng phát hành gửi thẻ cho chủ thẻ qua đường
bưu điện nhưng thẻ bị đánh cắp trên đường gửi. Thẻ bị sử dụng trong khi chủ thẻ
Trang 16
không hay biết gì về việc thẻ đã được gửi cho mình. Nếu không có biện pháp quản
lý đảm bảo, NHPH phải chịu mọi rủi ro đối với giao dịch được thực hiện trong
trường hợp này.
d/ Tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng (Account take over).
Rủi ro này phát sinh tại thời điểm ngân hàng gia hạn hoặc phát hành thẻ. Ngân
hàng phát hành nhận được thông báo về thay đổi địa chỉ của chủ thẻ và được yêu
cầu gửi thẻ về địa chỉ mới. Do không kiểm tra tính xác thực của thông báo nên ngân
hàng phát hành thẻ đã gửi thẻ đến địa chỉ thao yêu cầu nhưng thực ra đây không
phải là yêu cầu của chủ thẻ đích thực. Tài khoản của chủ thẻ bị người khác lợi dụng.
điều này chỉ được phát hiện khi ngân hàng nhận được sự liên hệ của chủ thẻ về việc
không nhận được thẻ hoặc khi ngân hàng yêu cầu thanh toán sao kê cho chủ thẻ.
Trường hợp này dễ dẫn đến rủi ro cho cả ngân hàng và chủ thẻ.
1.4.6.2. Rủi ro trong khâu thanh toán:
Đây là khâu phát sinh rủi ro chính trong kinh doanh thẻ. Hàng loạt thiệt hại
của ngân hàng và các tổ chức thẻ quốc tế gần đây đều xảy ra trong khâu phát hành
và thanh toán thẻ.
a/ Thẻ mất cắp thất lạc (Lost-Stolen Card).
Chủ thẻ bị mất cắp hoặc bị thất lạc thẻ và thẻ được người khác sử dụng trước
khi chủ thẻ kịp thông báo cho ngân hàng phát hành biết để có biện pháp hạn chế sử
dụng hoặc thu hồi thẻ. Các tổ chức tội phạm có thể in nổi mã hoá lại thẻ để thực
hiện các giao dịch về thẻ giả mạo. Trường hợp này dễ dẫn đến rủi ro cho chủ thẻ
hoặc cho ngân hàng phát hành thẻ.
b/ Tạo băng từ giả (Skimming).
Đây là loại giả mạo giao dịch thẻ sử dụng công nghệ kỹ thuật cao trên cơ sở
thu thập thông tin trên băng từ của chủ thẻ thanh toán tại các cơ sở chấp nhận thẻ.
Các tổ chức tội phạm làm thẻ giả sử dụng các phần mềm riêng rẽ để mã hoá và tạo
các băng từ trên thẻ giả, sau đó sẽ thực hiện các giao dịch giả mạo. Trong trường
hợp này dẫn đến các rủi ro cho ngân hàng thanh toán, ngân hàng phát hành và chủ
thẻ. Loại giả mạo này đang có xu hướng gia tăng ở các nước có hoạt dộng kinh
doanh thẻ phát triển.
c/ Rủi ro về đạo đức.
Trang 17
Rủi ro này phát sinh khi nhân viên các cơ sở chấp nhận thẻ đã cố tình in ra
nhiều bộ hoá đơn thanh toán thẻ, nhưng chỉ giao một bộ hoá đơn cho chủ thẻ ký
thanh toán. Sau đó bộ hoá đơn in dư sẽ bị giả mạo chữ ký của khách hàng để yêu
cầu ngân hàng thanh toán chi trả. Thiệt hại xảy ra có thể làm ảnh hưởng đến ngân
hàng thanh toán và ngân hàng phát hành.
Ngoài các rủi ro chính trên, còn một số nguy cơ rủi ro khác có thể xuất hiện
nếu ngân hàng thành viên không chú trọng đúng mức tới việc quản lí hệ thống xử lí
dữ liệu và quản trị hệ thống kỹ thuật.
Cho đến nay để phòng ngừa và quản lí rủi ro, góp phần hạn chế tổn thất cho
các ngân hàng thành viên, các tổ chức thẻ quốc tế đã xây dựng nên một hệ thống các
quy tắc tiêu chuẩn về quản lí rủi ro và bảo mật cho các thành viên tuân thủ, một hệ
thống mạng trực tuyến (on-line) giữa các tổ chức thẻ quốc tế với các thành viên đã
được xây dựng để xử lí, trao đổi thông tin quản lí rủi ro toàn cầu. Bên cạnh đó, các
tổ chức thẻ quốc tế đã tổ chức các chương trình dịch vụ hỗ trợ, các chương trình tập
huấn đào tạo nghiệp vụ...nhằm nâng cao trình độ cũng như trợ giúp kỹ thuật và
nghiệp vụ cho các ngân hàng thành viên nhằm phòng ngừa và quản lý rủi ro. Nhưng
vấn đề thiết yếu là bản thân các ngân hàng thành viên phải có sự quan tâm đặc biệt
đến vấn đề này của ngân hàng mình.
Tóm lại hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng chứa đựng rất nhiều rủi ro, do đó
để nâng cao chất lượng trong kinh doanh thẻ, giảm mất mát và tối đa hoá thu nhập,
ngân hàng cần đặc biệt chú trọng vào công tác phòng chống rủi ro
Trang 18
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH VÀ THANH
TOÁN THẺ TẠI NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU
I/ MỘT VÀI NÉT CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU.
1.1. Khái quát về ngân hàng TMCP á Châu
Ngân hàng TMCP á Châu (Asia Commercial Bank- ACB) được thành lập ngày
13/5/1993 và bắt đầu hoạt động kinh doanh từ ngày 4/6/1993 theo giấy phép hoạt
động số 0032/ NH-GP ngày 24/4/1993 của thống đốc NHNN. ACB là một trong
những ngân hàng TMCP được thành lập mới sau khi hai Pháp lệnh Ngân hàng Việt
Nam ra đời. Tuy ra đời và hoạt động trong điều kiện hệ thống tài chính tiền tệ trong
nước gặp nhiều khó khăn, niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng
trong nước giảm sút nhưng kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP á
Châu trong thời gian qua đã khẳng định bước đi vững chắc của Ngân hàng. Những
kết quả đó đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc của Ngân hàng trong nỗ lực vươn
lên từ một ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ bé, thiếu và yếu kinh nghiệm trở
thành một ngân hàng vững mạnh có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.
Hiện nay Ngân hàng TMCP á Châu được đánh giá là một trong những ngân hàng
thương mại cồ phần phát triển vững mạnh nhất Việt Nam. Trong 3 năm 1997, 1998,
1999, Ngân hàng TMCP á Châu liên tục được bình chọn là ngân hàng hoạt động có
hiệu quả nhất tại Việt Nam, và là một trong 10 ngân hàng hoạt động xuất sắc nhất
Đông Nam á (theo các tạp chí có uy tín trên thế giới như Euromoney (Anh),
Globalfinance (Hoa Kỳ) bình chọn).
Vốn điều lệ tại thời điểm thành lập ngân hàng là 20 tỷ VNĐ, thuộc sở hữu của
27 cổ đông. Đến nay sau nhiều lần tăng vốn, 70 tỷ vào năm 1994, 341.428 tỷ VNĐ
vào năm 1998, 353.711 tỷ VNĐ vào năm 2000, và tới năm 2001 vốn điều lệ của
ngân hàng đã lên đến 7399 tỷ VNĐ, tăng 15% so với năm 2000, tăng gấp 5 lần so
với năm 1997. Qua đây có thể thấy được hoạt động kinh doanh của ngân hàng
TMCP á Châu là rất hiệu quả. Tổng số vốn tự có của ngân hàng là 403.311 tỷ VNĐ
là vốn góp của 533 cổ đông, trong đó:
- Cổ đông nước ngoài chiếm 25,46% bao gồm:
+ Connaught Investors Ltd
Trang 19
+ LG Merchant Banking Corporation.
+ VietNam Fund Ltd
+ Dragon Capital Ltd.
- Cổ đông trong nước là pháp nhân chiếm 17.97%
- Cổ đông trong nước là thể nhân chiếm 56.57%
Như vậy, hiện nay ACB có vốn điều lệ cao nhất trong hệ thống ngân hàng
TMCP tại Việt Nam
1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP á Châu:
Trong tiến trình hội nhập cùng khu vực và quốc tế, Ngân hàng TMCP á Châu
đã không ngừng phấn đấu phát triển an toàn và hiệu quả, trở thành một trong những
thành viên chủ chốt trên thị trường tài chính, tiền tệ Việt Nam, góp phần to lớn trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cho mọi thành phần
kinh tế và giữ vững niềm tin cho đông đảo bạn hàng trong nước và quốc tế
Sau gần 10 năm thành lập, hoạt động và phát triển, ACB đã có một chỗ đứng
vững chắc trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng và các tổ chức
kinh tế. Nắm bắt được những thời cơ, thuận lợi do môi trường kinh tế của đất nước
đang khởi sắc đưa lại, ACB đã thu được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ.
Tăng trưởng nguồn vốn
Trong những năm vừa qua, nguồn vốn của ACB liên tục tăng trưởng với tốc
độ khá cao. Tính đến thời điểm hiện tại thì ACB có quy mô vốn hoạt động lớn nhất
trong hệ thống các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam. Tổng vốn hoạt
động đến 31/12/2001 là 7399 tỷ đồng và tiếp tục tăng đến 30/06/2002 đã là hơn
8517 tỷ, tăng 14,3% so với đầu năm. Tổng vốn huy động đến 6 tháng đầu năm 2002
đạt số dư là 7668 tỷ, tăng 1000 tỷ so với đầu năm, tương đương mức tăng là 15%,
VHĐ các loại tiền gửi đều tăng. Nguồn vốn huy động tăng trưởng ổn định qua các
năm do ACB có nhiều sản phẩm tiền gửi đáp ứng được nhu cầu của khách hàng,
nhất là khách hàng cá nhân; chất lượng dịch vụ được nâng cao và chính sách lãi
suất, phí dịch vụ hợp lý, phù hợp với thị trường, vừa duy trì được khách hàng hiện
hữu vừa làm tăng nhiều khách hàng mới.
Trang 20
Chất lượng tín dụng tăng trưởng cao và an toàn
Trong 5 năm qua (1997-2001), hoạt động tín dụng của ACB luôn đạt mức tăng
trưởng cao. Tính đến ngày 31/12/2001, dư nợ cho vay đạt 2794 tỷ đồng, tăng 25%
so với năm 2000 (hơn gấp 3 lần so với mức tăng 7,6% của toàn hệ thống ngân hàng
Việt Nam), đến 30/06/2002, dư nợ cho vay đã đạt 3168 tỷ đồng, trong đó cho vay
nền kinh tế đạt 3040 tỷ, tăng 330 tỷ so với đầu năm, tương ứng với tỷ lệ tăng là
12%. Có được điều này là do ACB đáp ứng nhu cầu đa dạng của mọi ngành nghề,
mọi thành phần kinh tế, cung cấp nhiều sản phẩm tín dụng như cho vay bổ sung vốn
kinh doanh, tài trợ và đồng tài trợ các dự án đầu tư, tài trợ xuất nhập khẩu, cho vay
sinh hoạt tiêu dùng, cho vay xây dựng sửa chữa nhà, cho vay mua nhà với thời hạn
cho vay phù hợp với nhu cầu. Thêm vào đó chính sách lãi suất tín dụng hợp lí, thời
gian xét duyệt hồ sơ vay và giải ngân nhanh chóng đã thu hút đông đảo khách hàng
đến vay vốn tại ACB. Trong những năm tiếp theo, ACB cố gắng giữ vững tốc độ
tăng trưởng tín dụng ổn định, vừa hướng đến khách hàng cá nhân vừa hướng đến
khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển thêm sản phẩm cho vay mới, tiếp
tục đồng tài trợ cho các dự án lớn.
Tuy tốc độ tăng trưởng tín dụng cao nhưng tính an toàn và hiệu quả của hoạt
động tín dụng luôn được đảm bảo, cụ thể là trong 5 năm qua (1997-2001), tỷ lệ nợ
quá hạn trên tổng dư nợ luôn ở mức dưới 5% và có xu hướng giảm dần. Đến cuối
năm 2001 tỷ lệ này chỉ còn 0,66% trên tổng dư nợ, tương đương số dư nợ quá hạn là
18,466 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ quá hạn thấp góp phần làm cho tình hình tài chính của
ACB luôn lành mạnh. ACB có cơ chế xét cấp tín dụng chặt chẽ, phán quyết cho vay
dựa trên sự thống nhất phê chuẩn của Hội đồng tín dụng hoặc Ban tín dụng. Giữa
các khâu thẩm định, đánh giá, xét duyệt trong quy trình tín dụng có sự độc lập và
khách quan. Công tác đánh giá tín dụng thường xuyên được thực hiện nhằm giám
sát, dự báo rủi ro tín dụng để có các biện pháp ngăn ngừa hoặc xử lý kịp thời
Thanh toán quốc tế.
Năm 2001, doanh số thanh toán quốc tế đạt 364 triệu USD, thu phí dịch vụ đạt
23,2 tỷ đồng, trong đó doanh số thanh toán quốc tế mậu dịch là 215 triệu USD với
phí dịch vụ là 9,6 tỷ đồng (chiếm 41,3% tổng số phí dịch vụ thanh toán quốc tế) và
Trang 21
doanh số thanh toán phi mậu dịch là 148 triệu USD với phí dịch vụ là 13,6 tỷ đồng
(chiếm 59% tổng số phí dịch vụ thanh toán quốc tế).
Riêng với chi nhánh Hà Nội, trong năm 2002 chi nhánh đã mở 97 L/C nhập
khẩu trả ngay trị giá 9.487.458,56 USD tăng 1% về mặt giá trị và 33% về mặt số
lượng L/C đã phát hành. Số lượng L/C đã thanh toán là 90 tương đương giá trị
8.126.336,78 USD bằng 96% L/C đã phát hành trong năm 2002. Doanh số thanh
toán quốc tế (bao gồm cả thanh toán nhờ thu và điện chuyển tiền) tăng 4.128.847,26
USD.
Dịch vụ địa ốc và công ty chứng khoán ACB.
Trung tâm địa ốc ACB đã đi vào hoạt động được 5 năm kể từ tháng 2/1997.
Trong tyhời gian đầu, chỉ có dịch vụ thanh toán tiền mua bán nhà qua ngân hàng,
đến nay trung tâm đã phát triển các dịch vụ trọn gói liên quan đến nhà đất từ khâu
quảng cáo giao bán nhà đất, trung gian thanh toán đến hướng dẫn thủ tục pháp lý.
Tháng 12/2001, Trung tâm được chuyển thành Siêu thị địa ốc ACB, đã mở rộng
mạng lưới giao dịch lên tới bảy điểm. Qua 5 năm hoạt động, siêu thị đã thực hiện
thanh toán cho hơn 4000 giao dịch bất động sản với tổng trị giá trên 455.000 lượng
vàng, tạo điều kiện cho khách hàng vay mua nhà đất với doanh số cho vay trên 275
tỷ đồng, góp phần tăng trưởng dư nợ cho vay và gia tăng tỷ trọng thu nhập từ thu
phí dịch vụ.
Công ty chứng khoán ACB (ACBS) khai trương hoạt động từ tháng 7/2000.
Tính đến cuối năm 2001 với hơn 1730 tài khoản giao dịch của khách hàng, ACBS
chiếm hơn 30% thi phần khách hàng giao dịch chứng khoán. ACBS được đánh giá
là công ty hàng đầu trong số 9 công ty chứng khoán đang hoạt động tại Việt Nam.
Với 145 phiên giao dịch trong năm, ACBS đã thực hiện môi giới chứng khoán với
doanh số 278 tỷ đồng và thu phí hoa hồng môi giới là 1,39 tỷ đồng
Phát triển công nghệ.
Công nghệ luôn là một lĩnh vực được ACB quan tâm đặc biệt. Từ tháng
10/2001, ACB đã chính thức đưa hệ quản trị nghiệp vụ ngân hàng TCBS (The
Complete Banking Solution) vào sử dụng. TCBS là hệ quản trị được xây dựng trên
nguyên tắc khách-chủ (Client-Server) với cơ sở dữ liệu tập trung và xử lý giao dịch
theo thời gian thực. ACB đã thiết lập hạ tầng thông tin là mạng diện rộng kết nối hội
Trang 22
sở với tất cả các chi nhánh. Thông tin, dữ liệu được quản lý và lưu trữ qua hệ quản
trị cơ sở dữ liệu Oracle. TCBS cho phép ACB triển khai các sản phẩm, dịch vụ, tiện
ích cho khách hàng trong tương lai như thẻ ghi nợ, hệ thống máy rút tiền tự động
(ATM) cũng như tiến tới các dịch vụ ngân hàng điện tử, ngân hàng qua
Internet...TCBS cũng tạo cơ sở cho việc chuẩn hoá quy trình phục vụ khách hàng.
II/ HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ TẠI NGÂN
HÀNG TMCP Á CHÂU
1/ Giới thiệu chung về hoạt động kinh doanh thẻ tại Ngân hàng TMCP á
Châu.
1.1. Những bước đi đầu tiên:
Việc phát triển đa dạng hoá các hình thức dịch vụ kinh doanh sẽ tạo cho ngân
hàng có điều kiện nâng cao uy tín của mình trên thị trường và khả năng sinh lời cao.
Do vậy, một ngân hàng muốn tồn tại và phát triển trong giai đoạn cạnh tranh gay gắt
như hiện nay thì việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ là việc cần làm và nhất thiết
phải làm. Kinh doanh thẻ là một lĩnh vực kinh doanh có khả năng sinh lời cao nhưng
lại là lĩnh vực kinh doanh hoàn toàn mới mẻ, nên đòi hỏi các ngân hàng phải có sự
đầu tư chiều sâu về hạ tầng cũng như về con người. ý thức được tầm quan trọng của
nghiệp vụ kinh doanh thẻ, nên ngay sau khi ra đời, ACB đã rất chú trọng phát triển
nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ. ACB đã xúc tiến chuẩn bị nhân sự cũng như
trang thiết bị để xây dựng trung tâm thẻ ngân hàng. Đến 09/02/1996, Trung tâm thẻ
ACB chính thức thành lập.
Cùng với việc hoàn tất các thủ tục để trở thành thành viên chính thức của tổ
chức thẻ quốc tế Mastercard (27/03/96) và xin phép Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
Trung tâm thẻ ACB gồm 28 nhân viên đã được tuyển dụng, đào tạo trong các lĩnh
vực chuyên môn của nghiệp vụ thẻ, xây dựng hệ thống xử lý giao dịch thẻ và truyền
dữ liệu nối kết thành công với hệ thống Banknet của tổ chức Mastercard quốc tế vào
cuối năm 1995. Việc chuẩn bị cho việc phát hành thẻ ACB Mastercard quốc tế và
chấp nhận thanh toán bằng thẻ Mastercard đã được thực hiện hoàn chỉnh và Trung
tâm rhẻ ACB đã chính thức công bố hoạt động dịch vụ thẻ Mastercard quốc tế vào
ngày 27/04/1996. Bên cạnh đó, với mong muốn đa dạng hoá dịch vụ thẻ tín dụng tại
Việt Nam và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, Trung tâm thẻ ACB
Trang 23
đã đệ đơn xin gia nhập tổ chức thẻ quốc tế Visa. Ngày 25/10/1996 tổ chức thẻ quốc
tế Visa đã công nhận ACB là thành viên chính thức sau khi xem xét quy mô tổ chức
và kỹ năng điều hành, yêu cầu kỹ thuật của Ngân hàng á Châu và Trung tâm thẻ
ACB. Ngày 20/01/1997, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép Ngân hàng á
Châu được phép phát hành và thanh toán thẻ Visa tại Việt Nam. Như vậy, Ngân
hàng TMCP á Châu cùng với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trở thành hai
thành viên đầu tiên tại Việt Nam tham gia vào lĩnh vực phát hành và thanh toán thẻ
ngân hàng.
Sau một thời gian tham gia vào thị trường thẻ Việt Nam, nhận thức được tầm
quan trọng của sản phẩm thẻ tín dụng cũng như tiềm năng phát triển của loại hình
thanh toán này trên lãnh thổ Việt Nam, sau một thời gian chuẩn bị, ngày 28/04/1999,
ACB đã công bố việc tham gia phát hành thẻ tín dụng công ty ACB-VISA, một sản
phẩm đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam.
Có thể nói, ACB là một trong số ít những ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam là
thành viên chính thức của hai tổ chức thẻ quốc tế lớn nhất thế giới, đánh dấu thêm
một bước tiến của ACB trên con đường hiện đại hoá và hội nhập vào hệ thống thanh
toán toàn cầu.
Cùng với việc phát triển thẻ tín dụng quốc tế, ACB cũng rất chú trọng đến việc
phát triển thẻ tín dụng nội địa, vì thẻ nội địa phù hợp với nhu cầu, thu nhập của đa
số người dân Việt Nam. Hơn nữa, việc sử dụng thẻ nội địa cũng không khác nhiều
so với thẻ quốc tế, chỉ khác là phạm vi sử dụng thẻ chỉ nằm trong lãnh thổ Việt
Nam.
Hiện nay, ACB đang xúc tiến tiếp cận với tất cả các tổ chức phát hành thẻ tín
dụng quốc tế tạo điều kiện đưa tất cả các loại thẻ tín dụng khác như American
Express, JCB, Dinner Club, Mastro EuroCard, Att Card, VisionCard, Countdown,
GM Card JP Peney vào thương trường Việt Nam. Nói cách khác, rồi đây các loại thẻ
tín dụng quốc tế được du khách mang đi sử dụng ở bất kỳ nơi nào trên toàn thế giới
cũng đều được chấp nhận tại Việt Nam.
Để đáp ứng nhu cầu sử dụng thẻ ngày càng tăng, trong năm 2000, Trung tâm
thẻ đã mở rộng mạng lưới đại lý chấp nhận thẻ trên hầu hết các tỉnh thành trong cả
nước, tạo tiện ích tối đa cho khách hàng. Sự ra đời của thẻ tín dụng nội địa ACB-
Trang 24
Saigon Tourist và ACB-Saigon Co-op vào cuối năm 2000 nhằm đáp ứng nhu cầu sử
thẻ ngày càng cao, đã đánh dấu bước đầu thành công của Trung tâm thẻ trong việc
tiên phong phát triển thẻ nội địa tại Việt Nam.
Những thành công trong năm 2000 đã tiếp tục được đẩy mạnh và phát triển
trong năm 2001 với sự ra đời của hai sản phẩm mới là thẻ tín dụng nội địa ACB-
Mai Linh và ACB-Phước Lộc Thọ. Đầu tháng 6/2002, ACB đã phát hành một dạng
thẻ Debit nội địa mang nhãn hiệu ACB e.Card. Đây là loại thẻ nhằm hướng đến tất
cả các khách hàng có nhu cầu sử dụng thẻ bằng thu nhập riêng của mình mà không
cần đến tiền vay của ngân hàng. Cũng trong năm 2002, ACB đã triển khai thành
công chương trình chấp nhận thanh toán thẻ Visa Electron và MasterCard
Electronic. Bên cạnh đó, ACB tiếp tục trang bị hệ thống máy rút tiền tự động ATM
tại các chi nhánh và trung tâm thương mại ở các thành phố lớn nhằm đem lại tiện
ích tối đa cho khách hàng.
1.2. Các loại thẻ do Ngân hàng TMCP á Châu đang phát hành:
a/ Thẻ tín dụng quốc tế.
- Thẻ ACB Mastercard và ACB VISA tín dụng tuần hoàn ký quỹ.
Là loại thẻ đáp ứng nhu cầu sử dụng của cá nhân do cá nhân thanh toán bằng
nguồn tiền của mình. Đặc điểm của loại thẻ này là mỗi tháng sau khi nhận được
bảng thông báo giao dịch do Trung tâm thẻ ACB gửi đến, chủ thẻ được phép thanh
toán trước 20% số dư nợ trên tài khoản thẻ, 80% còn lại (là tín dụng được ACB cấp
trong 3 kỳ hoá đơn) được phép nợ và sẽ chịu phí tài chính theo quy định hiện hành
của ACB. Để được sử dụng thẻ khách hàng phải ký quỹ tại ngân hàng đó là số tiền
đồng Việt Nam mà khách hàng phải nộp vào tài khoản của Trung tâm thẻ ACB để
đảm bảo cho việc sử dụng thẻ tín dụng do ngân hàng phát hành. Khách hàng có thể
ký quỹ bằng cách cầm cố một sổ tiết kiệm hay mở tài khoản tiền gửi phong toả
trong thời hạn 12 tháng (có hưởng lãi), và thường số tiền ký quỹ này phải bằng hoặc
lớn hơn hạn mức tín dụng (số tiền tối đa mà chủ thẻ được phép sử dụng để giao dịch
thẻ mà ACB cho phép) của thẻ.
- Thẻ ACB Mastercard và ACB VISA tín dụng tuần hoàn không ký quỹ.
Loại thẻ này nói chung không khác gì so với thẻ ACB Mastercard và ACB
VISA tín dụng tuần hoàn ký quỹ, điểm khác nhau duy nhất là thẻ ACB Mastercard
Trang 25