Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Hoàn thiện chính sách huy động vốn tại Chi nhánhNH NN & PTNT Láng Hạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.44 KB, 72 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, nên kinh tế Việt Nam có nhiều
chuyển biến theo hướng tích cực theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá nhằm
đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghhiệp vào năm 2020 trong đó
phát huy nội lực trong nước là chính đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ từ bên ngoài. Như
vậy nền kinh tế đòi hỏi phải cần một lượng vốn rất lớn bởi vốn là yếu tố quan trọng
góp phần vào thành quả chung của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, dần
đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, tụt hậu, từ đó tiến nhanh, tiến chắc
ngang với các nước trong khu vực và thế giới. Điều này được thể hiện trong văn
kiện đại hội đảng IX “Chúng ta không thể thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá
nếu không huy động được nhiều nguồn vốn, nhất là nguồn vốn trung và dài hạn
trong nước mà “nòng cốt” để thực hiện được nhiệm vụ quan trọng này phải là các
ngân hàng thương mại, các công ty tài chính ”.
Ngân hàng thương mại với vai trò là trung gian tài chính trong việc huy động
vốn để tái cấp vốn cho nền kinh tế là quan trọng nhất. Tuy nhiên ngân hàng là một
loại hình doanh ngiệp đặc biệt kinh doanh chủ yếu trên lĩnh vực tiền tệ cho nên bắt
buộc phải hoạt động có hiệu quả để vừa đảm bảo mục tiêu an toàn trong hoạt động
vừa có thể đứng vững trong nên kinh tế thị trường và qua đó thực hiện có hiệu quả
vai trò dẫn vốn của mình.
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ là một
chi nhánh thành viên của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam. Với hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực Nông nghiệp Nông thôn. Cũng giống như
các NHTM khác Chi nhánh rất quan tâm tới nguồn vốn huy động từ nền kinh tế để
có thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Thấy đươch tầm quan trọng của nguồn vốn
huy động đối với hoạt động của Chi nhánh, trong quá trình thực và nghiên cứu hoạt
động của Chi nhánh em chọn đề tài “Hoàn thiện chính sách huy động vốn tại Chi
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ”
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương 1- Chính sách huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Trang 1
Chương 2-Thực trạng chính sách huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp


và Phát triển Nôngthôn Chi nhánh Láng Hạ
Chương 3. Hoàn thiện chính sách huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ
Do thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm bản thân còn hạn chế nên những vấn
đề mà Em nêu ra không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý
của các thầy cô giáo, các cô chú, anh chị cán bộ thực tế tại Chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ để đề tài được hoàn thiện hơn, có ý
nghĩa thực tiễn hơn, góp phần hoàn thiện chính sách huy động vốn của Chi nhánh.
Em xin chân thành cảm ơn sự tận tình hướng dẫn chỉ bảo của thầy giáo. Tiến
sỹ Trần Đăng Khâm và toang thể cán bộ công nhân viên Chi nhánh Láng Hạ đã
hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Hà nội, tháng 05 năm 2004
Sinh viên: N«ng V¨n Thùc

Chương 1.
CHÍNH SÁCH HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.
CÁC HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
Trang 2
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển
của nền sản xuất hàng hoá. Sự phát triển của kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát
triển của ngân hàng, đến lượt mình sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Sản xuất phát triển dẫn đến lưu thông hàng hoá ngày càng được mở rộng,
khối lượng lưu thông ngày càng lớn, không chỉ trong mỗi địa phương, trong mỗi
quốc gia mà còn được lưu thông giữa các Quốc gia trong khu vực, giữa các khu vực

trên toàn thế giới. Tuy nhiên ở mỗi Quốc gia lại sử dụng những đồng tiền khác
nhau, với giá trị khác nhau, điều này đã gây rất nhiều khó khăn trong quá trình lưu
thông, trao đổi hàng hoá. Trước thực tế đó một số Thương gia đã chuyển sang kinh
doanh hàng hoá đặc biệt (từ bỏ kinh doanh hàng hoá thông thường), đó là đổi tiền và
kinh doanh tiền tệ. Công việc của các thương gia này đã góp phần quan trọng trong
việc thu hẹp khoảng cách giữa các đồng tiền khác nhau, giúp quá trình lưu thông
hàng hoá thuận tiện, tiết kiệm thời gian cho các nhà buôn, các thương gia. Mặt khác
để đáp ứng nhu cầu thanh toán ngày càng lớn của các thương gia, những người này
kiêm luôn việc giữ hộ và thanh toán hộ tiền, và trong trường hợp cần thiết họ còn
tiến hàng cho các nhà buôn vay tiền để đáp ứng nhu cầu thanh toán (với chi phí thoả
thuận- hay còn gọi là lãi suất).
Ngày nay, hệ thống ngân hàng (bao gồm ngân hàng Nhà nước và hệ thống
các Ngân hàng Thương mại) phát triển hiện đại hơn, có nhiều loại hình dịch vụ hơn
rất nhiều so với thủa sơ khai, tuy nhiên thì một số nghiệp vụ của nó thì vẫn không
thay đổi về bản chất, mà nó chỉ thuận tiện hơn, tiện lợi hơn hình thức phục vụ đa
dạng hơn. Hoạt động của hệ thống ngân hàng ngay từ khi ra đời đã giữ vai trò quan
trọng là huyết mạch và còn thước đo sự hưng thịnh, suy thoái, hay trì trệ của một
nền kinh tế.
Tóm lại, có thể thấy rằng sự ra đời của hệ thống ngân hàng là kết quả của sự
phát triển kinh tế nói chung và lĩnh vực lưu thông hàng hoá nói riêng. Sự ra đời đó
có thể ví như một trong những phát kiến vĩ đại của nhân loại loài người.
Trang 3
Khái niệm Ngân hàng thương mại
Mặc dù trải qua lịch sử phát triển lâu dài nhưng cho đến nay, việc đưa ra một
khái niệm cụ thể về Ngân hàng thương mại thì vẫn còn là điều gây nhiều tranh cãi
của các nhà Kinh tế, bởi tại mỗi một thời điểm khác nhau thì khái niệm lại có những
thay đổi, đây lại cũng là một đặc thù của lĩnh vực ngân hàng tài chính.
Theo các nhà Kinh tế học thế giới thì “Ngân hàng Thương mại là một loại
hình doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng”. Theo
cách tiếp cận trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì

“Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tổ chức tài chính, cung cấp một
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tiết kiệm, dịch vụ thanh
toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức nào
trong nền kinh tế”. Theo luật các tổ chức tín dụng của Nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá X (kỳ họp tứ hai, từ ngày 21 tháng 11 đến
ngày 12 tháng 12 năm1997) thông qua thì “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh
doanh tiền tệ, và các dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi
và sử dụng số tiền này cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Qua đây chúng ta có thể thấy rằng trên mỗi phương diện khác nhau, tại mỗi
quốc gia khác nhau lại có những quan niệm, nhin nhận khác nhau, tuy nhiên tất cả
điều đó đều cho chúng ta những cách hiểu sâu hơn về khái niệm ngân hàng nói
chung và Ngân hàng Thương mại nói riêng đồng thời qua đó giúp chúng ta có hiểu
rõ hơn về các hoạt độngvà những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
1.1.1.2. Các loại hình Ngân hàng thương mại
Bất kì một nền kinh tế nào cũng cần phải có các tổ chức đứng ra làm trung
gian trong việc điều tiết các nguồn tiền để đáp ứng các nhu cầu liên quan đến tài
chính tiền tệ. Ngày nay không chỉ có các ngân hàng thương mại đảm nhận việc đó,
mà còn có các tổ chức trung gian tài chính khác, với khả năng tài chính mạnh mẽ
cũng tiến hành tham gia cung cấp vốn và các dịch vụ khác liên quan tới lĩnh vực tài
chính tiền tệ.
a- Ngân hàng thương mại chia theo hình thức sở hữu
Trang 4
Ngân hàng thương mại Quốc doanh, là loại hình ngân hàng mà sở hữu thuộc
về Nhà nước, do Nhà Nước cấp ngân sách thành lậpvà trực tiếp quản lý, điều hành.
Nhà nước sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm liên quan tới nợ và các nghĩa vụ về tài sản
khác liên quan đến hoạt động của Ngân hàng Thương mại. Thông thường nhà nước
(Trung ương, hoặc Tỉnh) sẽ hỗ trợ về tài chính và bảo lãnh phát hành giấy tờ có giá
cho nên ít khi các ngân hàng này bị phá sản. Tuy nhiên trong một số trường hợp do
hoạt động theo sự chỉ đạo từ Nhà Nước cho nên sẽ ảnh hưởng tới hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.

Ngân hàng thương mại cổ phần, đây là loại hình ngân hàng được thành lập
trên cơ sở góp vốn của các cổ đông, sự góp vốn có thể bằng hoặc không bằng nhau
giữa các Cổ đông tuỳ theo thoả thuận và khả năng của các cổ đông. Theo quy định
thì các cổ đông chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn về nghĩa vụ nợ và trách nhiệm tài
sản khác tuỳ theo mức tỷ lệ cổ phần mà mình sở hữu. Do vốn hình thành theo hình
thức tập trung cho nên các ngân hàng thương mại cổ phần có khả năng mở rộng quy
mô và tăng nguồn vốn nhanh, do vậy đây thường là các ngân hàng lớn. Phạm vi hoạt
động rất rộng, hình thức hoạt động đa năng, có nhiều Chi nhánh hoặc công ty con.
Nhưng nó thường chịu mức rủi ro cao từ cơ chế quản lý phân quyền. (Giữa Tổng
giám đốc và các giám đốc; giữa công ty mẹ và công ty con...).
Ngân hàng Thương mại Liên doanh, là loại hình ngân hàng thành lập trên cơ
sở sự hợp tác hoặc góp vốn của bên hoặc các bên của ngân hàng nước này với bên
hoặc các bên của ngân hàng quốc gia (có thể một hoặc nhiều Quốc gia cùng góp
vốn) khác, để tận dụng ưu thế của nhau. Tuỳ theo thoả thuận và hiệp định ký kết
giữa các bên.
Ngân hàng sở hữu tư nhân, là ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn của
mình. Loại ngân hàng này thường có quy mô nhỏ, phạm vi hoạt động trong từng địa
phương. Các ngân hàng này thường gắn liền với hoạt động của các doanh nghiệp và
cá nhân địa phương. Chủ ngân hàng thường rất am hiểu khách hàng, vì vậy hạn chế
được rủi ro. Tuy nhiên vì quy mô và phạm vi nhỏ nên nó thường không đa dạng
trong hoạt động, nên dễ dàng gặp tổn thất khi mà địa phương đó gặp rủi ro.
b. Ngân hàng thương mại theo tính chất hoạt động
Trang 5
Ngân hàng chuyên doanh và đa năng, ngân hàng hoạt động theo hướng
chuyên doanh là ngân hàng chỉ cung cấp một số dịch vụ hạn chế tuỳ thuộc vào thế
mạnh, cũng như điều kiện mà ngân hàng có thể hoạt động.. Tính chuyên môn hoá
cao cho phép các ngân hàng có được đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, tinh thông
nghiệp vụ. Tuy nhiên loại hình ngân hàng này thường gặp rủi ro lớn, khi mà ngành
hoặc lĩnh vực mà mình hoạt động bị xa sút. Ngân hàng chuyên doanh thường là
ngân hàng có quy mô nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, trình độ cán bộ do tập trung

chuyên sâu nên không đa dạng; hoặc là ngân hàng sở hữu của công ty. Thứ hai,
ngân hàng hoạt động theo hướng đa năng là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân
hàng cho mọi đối tượng. Đây là xu hướng chủ yếu hiện nay của các ngân hàng
thương mại, nhất là ngân hàng thương mại lớn. Các ngân hàng này thường là ngân
hàng lớn (hoặc chủ sử hữu công ty lớn). Tính đa dạng sẽ giúp ngân hàng trong việc
tăng thu nhập và hạn chế rủi ro.
Ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ, ngân hàng bán buôn là ngân hàng
cung cấp các dịch vụ cho các ngân hàng khác, các công ty tài chính, cho nhà nước,
cho các doanh nghiệp quy mô lớn. Ngân hàng bán buôn thường là ngân hàng lớn
hoạt động tại các trung tâm tài chính quốc tế, cung cấp các khoản tín dụng lớn.
Ngân hàng bán lẻ thường là các ngân hàng cung cấp dịch vụ trực tiếp cho các doanh
nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân, với các khoản tín dụng nhỏ lẻ. Ngày nay xu
hướng của các ngân hàng thương mại ít ngân hàng chỉ bán lẻ hay chỉ bán buôn. Các
ngân hàng nhỏ thường bán lẻ, còn ngân hàng lớn vừa bán buôn, vừa bán lẻ.
Tóm lại, có thể thấy các Ngân hàng Thương mại ngoài hoạt động chính là
nhận tiền gửi, phân phối lại nguồn vốn phục vụ nhu cầu của nền kinh tế. Thì nó còn
có chức năng quan trọng là chức năng tạo tiền và cung cấp các dịch vụ nhất liên
quan tới lĩnh vực tiền tệ mà các trung gian tài chính khác không thể thực hiện được.
Đồng thời nó cũng trực tiếp thực hiện sách tiền tệ quốc gia, theo quy định của Ngân
hàng nhà nước.
c. Các trung gian tài chính
Mặc dù không phải là ngân hàng thương mại nhưng các trung gian tài chính
này với tiềm lực tài chính lớn mạnh trong tay, họ cung cấp nhiều loại hình dịch vụ,
Trang 6
và hoạt động tương tự ngân hàng thương mại. Một số trung gian tài chính chủ yếu
hiện nay gồm;
Công ty Tài chính, Có thể là các công ty quốc doanh, công ty cổ phần, với
hoạt động chủ yếu cho vay để mua bán hàng hoá, dịch vụ bằng nguồn vốn của mình.
Nhận tiền gửi, phát hàng trái phiếu, tín phiếu, hoặc vay của các tổ chức tín dụng
trong và ngoài nước.

Công ty Cho thuê Tài chính (Cho thuê tài sản), là công ty cung cấp tín dụng
trung và dài hạn, thông qua các hợp động cho thuê tài sản với khách hàng thuê. Khi
kết thúc thời hợp đồng thuê, khách hàng được mua lại với giá ưu đãi (theo hợp đồng
thuê mua), hoặc cũng có thể tiếp tục thuê tài sản đó theo điều kiện đã thoả thuận và
điều kiện gia hạn (nếu cần thiết).
Công ty Bảo hiểm, với tiềm lực về tài chính trong tay, ngày nay các công ty
Bảo Hiểm cũng hoạt động như một trung gian tài chính (một tổ chức tín dụng) đứng
ra huy động tiền của những người mua bảo hiểm (tiền đóng phí của khách hàng)
trên mọi lĩnh vực khác nhau, với lời hứa sẽ bù đắp thiệt hại cho những người tham
gia khi họ gặp rủi ro, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại, và loại hình bảo hiểm mà
khách hàng tham gia. Như vậy công ty Bảo hiểm sẽ có lượng tiền tạm thời nhàn rỗi
rất lớn có thể tiến hành hoạt động như một trung gian tài chính.
So với các ngân hàng thương mại thì các trung gian tài chính ngoài những
nghiệp vụ mà nó hoạt động giống như một ngân hàng thương mại, thì nó có điểm
khác biệt ở chỗ, nó không có chức năng tạo tiền cho nền kinh tế, không nhận tiền
gửi không kỳ hạn, không cung cấp dịch vụ thanh toán và nhìn chung nó ít chịu sự
ảnh hưởng hay phải thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Ngân
hàng Nhà Nước, hay của Chính phủ. Đó chính là sự khác biệt cơ bản của các tài
chính trung gian tài chính so với các ngân hàng thương mại.
1.1.2. Các hoạt động của ngân hàng thương mại
Cùng với chiều dài lịch sử hình thành ngân hàng thương mại ngày nay khác
xa so với ngân hàng thương mại thủa sơ khai, do nhu cầu kinh doanh và sự cạnh
tranh quyết liệt mà hệ thống ngân hàng thương mại đã mở rộng rất nhiều loại hình
Trang 7
dịch vụ tiện ích cung cấp cho khách hàng, mặc dù mộ số nghiệp vụ truyền thống vẫn
không thể tách rời so với hoạt động của ngân hàng, sau đây chúng ta cùng tìm hiểu
một số loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế.
1.1.2.1. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Mua bán trao đổi ngoại tệ
Lịch sử cho thấy một trong những dịch vụ đầu tiên của ngân hàng là dịch vụ

được thực hiện là trao đổi ngoại tệ, theo đó ngân hàng sẽ đứng ra mua một loại tiền
tệ này đổi lấy một loại tiền tệ khác, để hưởng phí dịch vụ và hưởn chênh lệch giá.
Điều này rất quan trọng đối với khách du lịch quốc tế khi di du lịch tại nước sở tại,
đồng thời hiện nay các ngân hàng thương mại còn thực hiện việc huy động vốn, cho
vay bằng ngoại tệ và quan trọng hơn nữa là việc thanh toán cho lĩnh vực Xuất, nhập
khẩu hàng hoá cùng các hoạt động khác liên quan đến hoạt động thương mại Quốc
tế.
Nhận tiền gửi
Như phần trên đã trình bày, để có vốn để tiến hành hoạt động kinh doanh thì
các ngân hàng thương mại phải tiến hành huy động từ các thành phần trong nền kinh
tế. Ngân hàng sẽ tiếp nhận tất cả các nguồn tiền gửi của dân cư, của các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp với mức lãi suất
phù hợp được công bố. Hiện nay khi khách hàng tới gửi tiền thì Ngân hàng sẻ mở
một tài khoản giúp khách hàng thuận tiện trong giao dịch và kiểm tra.
Cho vay
Cho vay là hoạt động đem lại thu nhập chủ yếu đối với các Nước đang phát
triển (còn ở các Nước phát triển thì thu nhập chủ yếu lại là thu từ phí hoạt động dịch
vụ), hiện nay có một số loại hình cho vay như sau:
- Cho vay Thương mại và chiết khấu thương phiếu
Nghiệp vụ này suất hiện ngay từ thời kỳ đầu thành lập ngân hàng, các ngân
hàng sẽ chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nghiệp địa
phương, những người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của các khách hàng cho
ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu sang cho vay trực
Trang 8
tiếp đối với khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng hoá dự trữ hoặc xây dựng văn
phòng và mua sắm trang thiết bị sản xuất.
- Cho vay tiêu dùng
Trong lịch sử hình thành và phát triển thì hầu hết các ngân hàng thương mại
không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản
cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô rất nhỏ song lại có độ rủi ro vỡ nợ tương đối

cao và do đó chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế kỷ XX, các ngân hàng bắt
đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi khách hàng để tài trợ cho những món vay thương
mại lớn. Và rồi sự cạnh tranh gay gắt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã
buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung
thành và tiềm năng. Nhiều ngân hàng thương mại lớn trên thế giới đã thành lập hẳn
phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai cho vay tiêu
dùng đã trở thành loại hình tín dụng có mức tăng trưởng mạnh nhất. Mặc dù trong
thời gian gần đây tốc độ có chậm lại do cạnh tranh tín dụng ngày càng lớn trong khi
nền kinh tế đã phát triển với tốc độ chậm lại. Tuy nhiên người tiêu dùng vẫn tiếp tục
là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng và tạo ra một nguồn thu quan trọng.
- Cho vay tài trợ và đồng tài trợ dự án
Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ và đồng tài trợ
cho những chi phí xây dựng nhà máy mới, đặc biệt là trong các ngành công nghệ
cao và các dự án có quy mô vốn lớn, thời gian hoạt động lâu dài. Do rủi ro trong loại
hình tín dụng này nói chung là cao nên chúng thường được thực hiện qua một hoặc
nhiều công ty đầu tư, các thành viên của công ty sở hữu ngân hàng, cùng với việc
tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro. Ngoài ra các ngân hàng còn tiến
hành tài trợ cho các chương trình văn hoá xã hội, các chương trình thể thao, các
chương trình phúc lợi xã hội...
Bảo quản vật có giá
Đây là nghiệp vụ có từ thời trung cổ khi mà ngân hàng đang còn ở dạng sơ
khai, các ngân hàng bảo quản vật có giá của khách hàng trong các kho của mình.
Một điều hấp dẫn là, các loại giấy tờ có giá này như giấy chứng nhận do ngân hàng
Trang 9
ký phát cho khách hàng (ghi nhận về tài sản đang được lưu giữ) có thể được lưu
hành như tiền- đây chính là hình thức đầu tiên của loại hình thanh toán Séc và Thẻ
sau này. Ngày nay nghiệp vụ bảo quản vật có giá thường do “phòng bảo quản” của
ngân hàng thực hiện.
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Khi các doanh nghiệp gửi tiền và ngân hàng, họ nhận thấy các ngân hàng

không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả thay cho khách hàng. Thanh
toán qua ngân hàng, đã mở đầu cho hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, tức là
người gửi tiền không phải đến ngân hàng rút tiền sau đó thực hiện thao tác thanh
toán, mà chỉ cần viết lệnh yêu cầu ngân hàng thanh toán thay cho mình. Hoặc cũng
có thể khách hàng mang giấy (Séc, Uỷ nhiệm chi- UNC, do khách hàng khác ký
phát) đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Việc cung cấp dịch vụ thanh toán này đã
góp phần quan trọng trong việc tiết kiệm thời gian giao dịch cho cả ngân hàng lẫn
khách hàng, giảm thiểu chi phí, đặc biệt là ngân hàng sẽ mở rộng màng lưới của
mình để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, một cách nhanh chóng và thuận tiện. Từ
đó khuyến khích các doanh nghiệp, các cá nhân gửi tiền vào ngân hàng và sử dụng
các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Do đó, một dịch vụ mới, quan trọng nhất được
phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch (demand deposit), giúp cho người gửi
tiền viết Séc, uỷ nhiệm chi (UNC) để thanh toán cho việc mua hàng hoá, dịch vụ.
Việc đưa ra loại hình dịch vụ này được xem như là một trong những bước đi quan
trọng nhất trong ngành công nghiệp ngân hàng.
Quản lý ngân quỹ
Với chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp và nhiều cá nhân khác trong
nền kinh tế, các ngân hàng sẽ mở các tài khoản và giữ tiền cho họ. Do đó mối quan
hệ giữa ngân hàng và khách hàng ngày càng chặt chẽ. Mặt khác ngân hàng rất có
kinh nghiệm trong việc quản lý ngân quỹ cho nên họ đã cung cấp dịch vụ quản lý và
đồng ý quản lý việc thu chi cho khách hàng nhất là doanh nghiệp và tiến hành sử
dụng phần thặng dư tiền mặt tạm thời theo mục đích của ngân hàng cho đến khi
khách hàng có nhu cầu rút tiền hoặc thanh toán.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Trang 10
Đây là một trong nhiều loại hình nghiệp vụ mà ngân hàng áp dụng, bởi lẽ
hoạt động của ngành ngân hàng liên quan trực tiếp tới bức tranh toàn cảnh về hoạt
động của nền kinh tế. Do đó ngay từ khi thành lập các ngân hàng đã phải chịu sự
quản lý và điều tiết trực tiếp hoặc gián tiếp của Chính phủ. Thông thương các ngân
hàng phải cam kết mua một lượng trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên

tổng nguồn tiền mà nó huy động được. Các ngân hàng cam kết cho Chính phủ vay
tiền, hoặc tiến hành tài trợ các dự án, chương trình của Chính phủ trong những
trường hợp cần thiết.
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn
Nhằm để bán các thiết bị, máy móc nhất là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều
hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê (thay vì bán) các thiết bị. Khi kết thúc hợp
đồng thuê, khách hàng có thể tiến hành ra hạn hợp đồng thuê tiếp, hoặc mua lại (nếu
hợp đồng đó là hợp đồng thuê mua). Với tiềm lực tài chính lớn mạnh của mình các
ngân hàng thương mại cũng tiến hành king doanh quyền lựa chọn thuê thiết bị, máy
móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê hoặc thuê mua, trong đó ngân hàng tiến hành
mua thiết bị máy móc cho khách hàng thuê, với các cam kết mà các bên thoả thuận,
nhưng thông thường khách hàng phải cam kết trả 2/3 giá trị tài sản thuê. Như vậy,
về thực chất đây là một hình thức cho vay của ngân hàng đối với khách hàng, nó
thường được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn
Do hoạt động của ngân hàng chủ yếu trên lĩnh vực tài chính tiền tệ, nên ngân
hàng thường tập trung các danh mục đầu tư cũng như đội ngũ chuyên gia. Khi các
cá nhân, các tổ chức, các doanh nghiệp có yêu cầu thì ngân hàng tiến hành tư vấn về
đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, chia tách doanh nghiệp, về mua bán chứng
khoán. Đồng thời ngân hàng cũng tiến hành quản lý tài sản hộ khách hàng, và trong
nhiều trường hợp ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ uỷ thác cho khách hàng như
uỷ thác đầu tư, uỷ thác phát hành, uỷ thác cho vay hộ.
Cung cấp dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán
Trang 11
So yêu cầu của sự cạnh tranh trong nền kinh tế, các ngân hàng thương mại
ngày càng quan tâm tói việc cung cấp càng nhiều dịch vụ cho khách hàng càng tốt.
Hiện nay hầu hết các ngân hàng thương mại đều cung cấp dịch vụ mua bán chứng
khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán
khác mà không nhờ tới các nhà kinh doanh chứng khoán. Nhiều ngân hàng hiện nay
đã thành lập hẳn ra các ty chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán.

Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Trong nhiều năm trở lại đây, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng
(chủ yếu là bảo hiểm tiền gửi, hoặc bảo hiểm tín dụng), điều này đảm bảo khả năng
hoàn trả của khách hàng cho ngân hàng khi mà không may khách hàng gặp rủi ro
ảnh hưởng tới tình mạng sức khoẻ, hay rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Cung cấp dịch vụ đại lí
Do nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan, một số ngân hàng chưa có
điều kiện mở Chi nhánh, hay văn phòng đại diện tại vùng, hoặc quốc gia khác có
quan hệ. Các ngân hàng thương mại lớn tiến hành cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lí
cho các ngân hàng khác như, đại lý thanh toán hộ, đại lý phát hành hộ các chứng chỉ
tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối cho đồng tài trợ dự án...
Ngoài ra một số ngân hàng thương mại còn cung cấp các dịch vụ khác như,
dịch vụ hưu trí, dịch vụ quỹ hỗ trợ và trợ cấp,... Điều này cho thấy xu hướng hoạt
động đa năng của các ngân hàng thương mại ngày càng đa dạng, nhiều dịch vụ mới
được đưa vào hoạt động kinh doanh. Sao cho có thể thu hút ngày càng nhiều khách
hàng tới với ngân hàng càng tốt.
1.1.2.2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Đối với ngân hàng thương mại, thì hoạt động huy động vốn luôn được quan
tâm hàng đầu, bởi vì nếu huy động được nhiều vốn thì ngân hàng mới có khả năng
mở rộng được hoạt động, cũng như quy mô của ngân hàng. Ngày nay, trước sức ép
của cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải
có những chính sách thu hút nguồn tiền ngày một linh hoạt, để từ đó đáp ứng cho
Trang 12
hoạt động của ngân hàng. Các phương thức huy động vốn mà hệ thống ngân hàng
thương mại thường áp dụng là;
a. Theo đối tượng huy động
Huy động từ dân cư
Trên cơ cở hoạt động của mình ngân hàng thương mại tiến hành huy động
các nguồn tiền nhà rỗi trong dân cư, thông qua các hình thức tiết kiệm, gửi thanh
toán, ủy thác cho ngân hàng đầu tư. Tuy nhiên thì nguồn tiền gửi trong dân cư bao

giờ cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể (nếu không nói là chủ yếu) của ngân hàng thương
mại, Nguồn này vừa có tính ổn định cao, thời hạn chủ yếu là trung và dài hạn, các
khoản chi phí cho giao dịch đối với nguồn này thường thấp về số tương đối, khách
hàng mang tính ổn định cao, ít biến động, rất thuận lợi cho việc hoạch định chính
sách hoạt động của ngân hàng nói chung và chính sách huy động vốn nói riêng.
- Huy động từ các doanh nghiệp
Các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, thông thường thì các tổ chức
này, không thường xuyên gửi tiền và ngân hàng với mục đích tiết kiệm mà chủ yếu
là dùng vào việc thanh toán. Trên cơ sở nắm bắt được chu kì sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp, chu kì hoạt động của các tổ chức, mà ngân hàng đề nghị,
hoặc khuyến khích doanh nghiệp, các tổ chức gửi tiết kiệm theo một số quy định cụ
thể mà hai bên thoả thuận, cũng như quy định hiện hành của pháp luật. Một số
doanh nghiệp Nhà Nước (doanh nghiệp quốc doanh) không được phép gửi tiết kiệm
thì họ lại gửi dưới hình thức biến tướng của tiền gửi tiết kiệm là uỷ thác đầu tư.
- Huy động từ các tổ chức tín dụng
Đối với các ngân hàng thương mại khác, chỉ áp trong trường hợp ngân hàng
thương mại tạm thời thiếu hụt trong thanh toán cho khách hàng, hoặc trong trường
hợp ngân hàng thiếu hụt dự trữ theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước hoặc để đáp
ứng những tình huống bất khả kháng. Tỷ trọng của nguồn này thường thấp, tính ổn
định không cao và không thường xuyên. Các ngân hàng thương mại rất hạn chế sử
dụng tới nguồn này.
b. Theo mục đích gửi tiền
Trang 13
Tiền gửi tiết kiệm
Hoạt động này đem lại cho ngân hàng nguồn vốn chủ yếu trong tổng nguồn
vốn hoạt động. Thông qua tình hình thực tế của ngân hàng, các chỉ số phát triển của
nền kinh tế, nhu cầu sử dụng vốn hiện tại và dự báo trong tương lai, mà các ngân
hàng thương mại có chính sách huy động vốn hợp lí, thường là công cụ lãi suất
nhằm gây sự quan tâm của khách hàng, từ đó thu hút khách hàng tới gửi tiền vào
ngân hàng với những mục tiêu khác nhau, tuỳ thuộc vào nhu cầu của khách gửi tiền

và danh mục mà ngân hàng cung cấp.
Tiền gửi thanh toán
Nguồn tiền này chủ yếu phục vụ nhu cầu thanh toán thường xuyên hay tiêu
dùng hàng ngày của khách hàng của ngân hàng, nó có tính ổn định không cao, tuy
nhiên các ngân hàng thương mại có thể dùng một phần của nguồn nay để tiến hàng
sử dụng theo mục đích của mình trên cơ sở tính toán hợp lý quy luật biến động của
loại tiền gửi này
Tiền gửi Uỷ thác đầu tư
Nhiều khách hàng (cả các cá nhân và tổ chức) của ngân hàng có lượng tiền
lớn trong tay, một là họ không có thời gian để đầu tư, hoặc là họ thiếu thông tin
nhưng cũng không muốn gửi tiết kiệm vì lãi suất thấp. Họ uỷ thác cho ngân hàng
đầu tư theo thoả thuận. Hoặc cũng có những doanh nghiệp không được phép gửi
tiền tiết kiệm vào ngân hàng cho nên họ biến tường dưới hình thức uỷ thác đầu tư.
Các nguồn vốn vay khác như phát hành trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, các
lhoản nhàn rỗi tàm thời chưa sử dụng...
1.2. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
1.2.1. Khái niệm chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1.1. Khái niệm chính sách huy động vốn
Ngân hàng thương mại hoạt động và phát triển được chủ yếu nhờ vào lượng
tiền mà nó huy động được từ nền kinh tế. Trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt trong
Trang 14
lĩnh vực tài chính tiền tệ như hiện nay, để có được nguồn vốn lớn đòi hỏi các ngân
hàng thương mại phải có những chính sách huy động hợp lý, nhằm từ đó thu hút
được lượng vốn cần thiết trong nền kinh tế để phục vụ cho hoạt động của ngân hàng
thương mại.
Chính sách huy động vốn của ngân hàng có thể hiểu đó là những công cụ,
cách thức và phương pháp, và chương trình cụ thể nhằm thu hút sự chú ý của các cá
nhân, các tổ chức và từ đó gửi tiền vào ngân hàng. Trên cơ sở hai bên đều có lợi.
Như vậy có thể dễ dàng nhận thấy chính sách huy động vốn của ngân hàng thương

mại cũng là một phần trong chính sách Marketing mà các ngân hàng đang sử dụng,
tuy nhiên thì nó luôn được quan tâm và chịu sự giám sát chỉ đạo sát sao từ phía lãnh
đạo ngân hàng.
1.2.1.2. Các yếu tố cấu thành chính sách huy động vốn
Mỗi ngân hàng đều có chính sách huy động vốn riêng của mình tuỳ thuộc và
nhu cầu và mục đích hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên thì không phải lúc nào và bao
giờ ngân hàng cũng có thể thực hiện được theo đúng như yêu cầu của mình đã đặt
ra, bởi lẽ hoạt động ngân hàng có liên quan trực tiếp tới hoạt động nền kinh tế, nó là
thước đo “sức khoẻ” của nền kinh tế, mọi sự biến động của tình hình kinh tế xã hội
đều ít nhiều tác động đến hoạt động ngân hàng. Chính vì lý do đó mà có nhiều yếu
tố tác động hay cấu thành nên chính sách huy động vốn của ngân hàng.
- Tình hình thực tế của kinh tế- xã hội
Đây là một yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ tới công tác huy động vốn của
ngân hàng, vì tình kinh tế xã hội có ổn định, sự phát triển có bền vững thì các thành
phần kinh tế mới thực sự yên tâm khi đầu tư hoặc gửi tiền vào ngân hàng. Chính vì
vậy để hoạt động huy động vốn của ngân hàng thực sự có hiệu quả trong mọi trường
hợp thì không thực sự đơn giản với các ngân hàng thương mại và cũng không phải
ngân hàng nào cũng có thể đạt được.
- Chính sách và quy định của Ngân hàng Nhà Nước
Hệ thống ngân hàng thương mại chịu sự quản lý điều hành trực tiếp từ Ngân
hàng Nhà Nước (một số quốc gia có thể do Bộ tài chính làm thay công tác của Ngân
Trang 15
hàng Nhà Nước). Như vậy các ngân hàng thương mại đều phải tuân thủ nghiên túc
các quy định mà Ngân hàng Nhà Nước đưa ra. Trên cơ sở thực tế của tình hình kinh
tế xã hội, các chính sách vĩ mô của Chính phủ mà Ngân hàng Nhà Nước sẽ có
những điều tiết hoạt động, buộc các ngân hàng này phải tuân thủ. Trong các chính
sách điều tiết đó thì việc huy động vốn luôn được quan tâm và có sự giám sát chặt
chẽ từ Ngân hàng Nhà Nước và Chính phủ.
- Và cuối cung là chính sách huy động vốn mà ngân hàng thương mại áp
dụng

Đây là nhân tố quan trọng quyết định tới lượng vốn mà ngân hàng thương
mại huy động. Căn cứ vào nhu cầu cụ thể của ngân hàng thương mại và các chính
sách quy định của Ngân hàng Nhà Nước, Chính phủ mà ngân hàng thương mại sẽ
đưa ra phương thức huy động hợp lý, nhằm thu hút tối đa lượng vốn mà ngân hàng
có thể thực hiện.
1.2.2. Nội dung của chính sách huy động vốn
1.2.2.1. Các phương thức huy động vốn
a. Tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại, khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài
khoản tiền gửi để giữ tiền, tài sản và thanh toán hộ khách hàng, bằng cách đó ngân
hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. Cùng với sự phát
triển vượt bậc của nền kinh tế và sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương
mại. Ngày nay hầu hết các ngân hàng thương mại đang dẩy mạnh huy động vốn
thông qua các chính sách cụ thể, rõ ràng và hiệu quả.
- Đối với tiền gửi thanh toán
Vớ mục đích giao dịch, trên cơ sở phạm vi số dư có trên tài khoản tiền gửi
của khách hàng, ngân hàng sẽ thực hiện việc chi trả khi khách hàng có yêu cầu hoặc
có sự uỷ quyền. Các khoản thu nhập của khách hàng đều có thể dễ dàng được ngân
hàng nhập vào tài khoản. Hiện nay do yêu cầu của cạnh tranh, các ngân hàng đều
quan tâm tới việc rút ngắn thời gian giao dịch cho khách hàng cho nên thủ tục mở
Trang 16
tại khoản rất đơn giản, gọn nhẹ và thuận tiện. Để thu hút khách hàng một số ngân
hàng còn kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với cho vay (hay còn gọi là cho vay
thấu chi), một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức biến tướng của tài khoản tiền
gửi thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi tương ứng này nhằm cạnh tranh với các
Tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại khác.
- Tiền gửi có kỳ hạn của các Doanh nghiệp, Tổ chức xã hội, Tổ chức xã
hội nghề nghiệp
Nhiều khoản thu bằng tiền của các doanh nghiệp và tổ chức xã hội sẽ được

chi trả trong một khoảng thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện
cho thanh toán song mức lãi suất thường rất thấp. Để đáp ứng nhu cầu và khuyến
khích người gửi tiền, tạo điều kiện khơi tăng nguồn vốn cho mình, các ngân hàng
đưa ra các hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Thông thường khoản tiền gửi này không
thuận tiện trong thanh toán như tiền gửi thanh toán như ở trên, khi cần tiền khách
hàng phải đến ngân hàng để thực hiện rút tiền ra. Tuy nhiên để thu hút khách hàng
gửi tiền vào ngân hàng thường có mức lãi suất ưu đãi tương ứng với độ dài kỳ hạn
gửi mà khách hàng gửi tiền vào ngân hàng. Đây là một trong những yếu tố thu hút
được nhiều nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp và các tổ chức nói
trên.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư, các tâng lớp dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản tiền tạm thời chưa sử dụng (các khoản
tiền tiết kiệm) trong điều kiện có khả năng tiếp cận được với ngân hàng, họ sẽ có thể
gửi tiền nhằm mục tiêu an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là
nhu cầu bảo toàn vốn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều các khoản tiền tiết kiệm, các
ngân hàng đều có gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt
trong nhà thay vì gửi vào ngân hàng, bằng cách mở rộng màng lưới các Chi nhánh,
các phòng giao dịch đáp ứng nhu cầu huy động. Đưa ra hình thức huy động đa dạng
và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như mức lãi suất cạnh tranh với các khoảng
tiền gửi thời hạn khác nhau, lãi suất giữa tiết kiệm bằng đồng nội tệ và tiết kiệm
bằng đồng ngoại tệ, tiết kiệm bằng vàng,...). Ngân hàng có thể mở cho mỗi người
tiết kiệm nhiều chương mục tiết kiệm khác nhau cho mỗi kỳ hạn và cho mỗi lần gửi
Trang 17
khác nhau. Loại hình tiền gửi này không nhằm mục đích thanh toán tiền hàng và
dịch vụ song nó có thể dùng làm tài sản thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng
cho phép.
- Tiền gửi của các ngân hàng khác
Với mục tiêu là an toàn, thuận tiên và nhanh chóng trong thanh toán cho
khách hàng, các ngân hàng thương mại không chỉ duy trì tiền tại ngân hàng của
mình mà còn tiến hành gửi tiền tại ngân hàng thương mại khác. Tuy nhiên thì quy

mô của nó không lớn, thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động
của ngân hàng.
b. Nguồn đi vay
Nguồn tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy
nhiên, trong những trườn hợp cần thiết các ngân hàng thương mại vẫn phải tiến
hành đi vay thêm. Mặt khác tại nhiều quốc gia trên thế giới, ngân hàng Trung ương
thường quy định tỷ lệ giữa bắt buộc với nguồn tiền huy động và vốn chủ sở hữu. Do
vậy trong những trường hợp cần thiết, và trong các giai đoạn cụ thể nhiều ngân hàng
phải tiến hành vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị
hạn chế. Các nguồn mà ngân hàng thương mại có thể vay đó là:
- Vay từ Ngân hàng Nhà nước
Đây là khoản vay nhằm giải quyết công việc cấp bách trong chi trả của các
ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, dự
trữ thanh toán) các ngân hàng thương mại thường vay Ngân hàng Nhà Nước
(NHTW). Hình thức vay chủ yếu là tái cấp vốn hoặc tái chiết khấu thương phiếu.
Các thương phiếu được chiết khấu hoặc tái chiết khấu thì trở thành tài sản của họ
(của Ngân hàng Nhà Nước). Khi cần tiền họ lại mang các thương phiếu này đến
Ngân hàng Nhà Nước để chiết khấu. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của ngân
hàng thương mại giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại Ngân hàng Nhà Nước)
tăng lên, Ngân hàng Nhà Nước điều hành vay mượn một cách chặt chẽ; Ngân hàng
thương mại phải đáp ứng các điều kiện đảm bào và kiểm soát nhất định. Thông
thường Ngân hàng Nhà Nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất
Trang 18
lượng (thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của
Ngân hàng Nhà Nước trong từng thời kỳ. Trong diều kiện chưa có thương phiếu,
Ngân hàng Nhà Nước cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn
theo hạn mức tín dụng.
- Vay từ các Tổ chức tín dụng và Ngân hàng thương mại khác
Đây là nghiệp vụ ngân hàng thương mại này đi vay ngân hàng thương mại
khác và vay của các TCTD trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng hoặc thị trường

vốn. Các ngân hàng thương mại đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng
bất ngờ về các khoản huy động hoặc cho vay giảm sẽ sẵn sàng cho ngân hàng
thương mại khác vay để hưởng lãi suất cao hơn. Ngược lại các ngân hàng thương
mại đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn từ các ngân hàng khác để đảm bảo
khả năng thanh khoản như, đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách, và trong
nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế nguồn từ Ngân hàng Nhà Nước
(NHTW). Quá trình vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp
với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý (hoặc Ngân hàng Nhà
Nước). Khoản vay có thể không cần đảm bảo bằng các chứng khoán của Kho bạc.
Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và ngân hàng đi vay tăng lên.
Vay trên thị trường vốn
Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng thương mại cũng đi vay
bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiều, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn.
Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến
không có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn. Do vậy các khoản vay
trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và
đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có bảo đảm. Những
ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng
nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này, họ thường phải thông quan ngân
hàng đại lý hoặc thông qua sự bảo lãnh của ngân hàng thương mại lớn. Khả năng
vay mượn còn phụ thuộc vào tình hình phát triển của thị trường tài chính, tạo khả
năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ vay mượn
tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị trường để quyết định quy mô,
Trang 19
mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Các vấn đề về chuyển nhượng,
điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ... cũng được các ngân hàng quan tâm.
c. Các nguồn khác
Nguồn uỷ thác
Đây là nghiệp vụ mà thông qua đó ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ
uỷ thác như cho vay, đầu tư, uỷ thác cấp phát, giải ngân, thu ngân hộ... Các hoạt

động này tạo nên nguồn vốn uỷ thác tại ngân hàng. Ngày nay, cùng với sự phát triển
của các mối quan hệ đa phương, rất nhiều các tổ chức kinh tế, xã hội có cùng mục
tiêu phát triển như của các ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng màng lưới
ngân hàng như là kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Và kết quả là hình thành nguồn uỷ
thác, làm tăng nguồn vốn của ngân hàng.
Nguồn trong thanh toán
Các khoản thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn thanh
toán (séc trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ đsể mở L/C,...). Những ngân hàng là
ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư tiền từ của các ngân hàng thành
viên để chuyển về thực hiện cho vay.
- Nguồn khác, các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả, Tiền
khấu hao tài sản nhưng chưa dùng,...
1.2.2.2. Nội dung chính sách huy động vốn
Chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại là một trong những yếu
tố quyết định tới sự thành công của công tác huy động vốn. Bởi tại mỗi thời kỳ,
thậm chí tại các thời điểm khác nhau nhu cầu vốn của ngân hàng cũng có những
thay đổi khác nhau. Do đó mà chính sách huy động vốn cũng thường xuyên có sự
điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình của ngân hàng thương mại. Có rất nhiều
nhân tố cấu thành chính sách huy động vốn, tuy nhiên ở đây ta chỉ xem xét một số
nội dung của chính sách huy động vốn:
- Chính sách thu hút khách hàng
Trang 20
Bất kỳ một ngân hàng nào cũng rất quan tâm tới chính sách này, nó bao gồm
toàn bộ những nội dung liên quan tới hoạt động, kinh doanh của ngân hàng. Sự
thành công hay thất bại của một ngân hàng được quyết định bởi khả năng thu hút
khách hàng. Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ nghiên cứu phạm vi chính sách huy động
vốn của ngân hàng thương mại mà thôi. Như đã trình bày, chính sách huy động vốn
của ngân hàng thương mại ở mỗi thời điểm có nhữ thay đổi khác nhau, nó phụ thuộc
trực tiếp vào bối cảnh kinh tế xã hội, nguồn vốn và nhu cầu thực tế của ngân hàng
như thời điểm đầu năm, giữa năm, cuối năm, hay tính chất mùa vụ của ngành nghề

của khác hàng của ngân hàng. Tương ứng với các thời kỳ này thì của các ngân hàng
thương mại cũng có những nhu cầu vốn khác nhau.
Trường hợp ngân hàng đang có nhu cầu sử dụng vồn lớn, bên cạnh các chính
sách khác, ngân hàng thương mại sẽ tập trung một số biện pháp cần thiết, nhằm huy
động được càng nhiều vốn càng tốt, thông qua hình thức gửi tiết kiệm, đầu tư hoặc
uỷ thác cho ngân hàng đầu tư. Hoặc cũng có thời kỳ, nhu cầu về vốn của ngân hàng
giảm, trong khi khách hàng vẫn tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng. Vì ngân hàng không
được phép từ chối nhận tiền của khách hàng, khi khách hàng gửi vào ngân hàng, do
đó mà ngân hàng có thể dùng công cụ lại xuất (giảm lãi suất đầu vào) để từ đó làm
nản lòng khách hàng, và làm giảm lượng tiền gửi của khách hàng. Tuy nhiên thì
không phải lúc nào ngân hàng cũng áp dụng mức lãi suất như trong trường hợp thứ
hai, vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của khách hàng truyền thống và chiến
lược cạnh trạnh của ngân hàng do đó mà nó hiếm khi được áp dụng. Các chính sách
mà ngân hàng thương mại áp dụng để phục vụ cho công tác huy động vốn nó bao
gồm các chính sách như Marketing, Lãi suất, danh mục dịch vụ mà ngân hàng cung
cấp, cùng các chính sách khác liên quan đến mối quan hệ giữa ngân hàng và khách
hàng.
- Chính sách về lãi suất
Lãi suất được hiểu là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong một thời
gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó. Như vậy lãi suất liên
quan trực tiếp tới các nguồn tiền mà ngân hàng huy động.
Trang 21
Trong lịch sử phát triển của ngành ngân hàng thì, công cụ lãi suất luôn được
coi là một yếu tố góp phần tạo lập nguồn vốn cho ngân hàng thông qua huy động từ
nền kinh tế. Đã có những thời kỳ có ngân hàng thương mại để thu hút đươc vốn đầu
tư những lĩnh vực có lợi nhuận cao mà đã đưa ra mức lãi suất kỷ lục lên đến
114%/năm. Mặc dù tại mỗi thời kỳ khác nhau thì mức lãi suất của ngân hàng đưa ra
là khác nhau nhưng vẫn phải đảm bảo yếu tố hấp dẫn với khách hàng, vừa giữ chân
khách hàng truyền thống đồng thời vừa tìm kiếm thêm khách hàng mới. Ngày nay,
do yêu cầu của cạnh tranh, và quy định của luật pháp, cũng như sự ra đời của các

liêm minh hiệp hội ngân hàng, thì công cụ lãi suất không còn là công cụ hữu hiệu
của các ngân hàng nữa mà thay vào đó là chất lượng công tác phục vụ khách hàng,
chất lượng dịch vụ ngân hàng cung cấp...
- Chính sách mở rộng màng lưới Chi nhánh
Bên cạnh 2 chính sách trên và các yếu tố khác thì chính sách mở rộng màng
lưới Chi nhánh, các Phòng giao dịch của ngân hàng cũng là điều kiện không thể
thiếu trong chính sách huy động vốn mà ngân hàng áp dụng. Mở rộng màng lưới
không chỉ giúp ngân hàng nâng cao khả năng huy động vốn, mà còn đáp ứng nhiều
mục tiêu mà ngân hàng đề ra. Mặc dù ngày nay, các dịch vụ tiện ích của ngân hàng
đã được nhiều ngân hàng áp dụng, nhưng dù sao đi chăng nữa thì không thể coi
trọng mở rộng màng lưới của ngân hàng. Điều đó tạo trong xã hội niềm tin và cảm
giác an toàn khi đến với ngân hàng. Bên cạnh công tác mở rộng màng lưới, thì các
nhà hoạch định chiến lược cũng không thể bỏ qua yếu tố vị trí địa lý, phục vụ công
tác đặt Chi nhánh, phòng giao dịch cho ngân hàng của mình. Một Chi nhánh ở tại vị
trí đông dân cư, khu đô thị, khu công nghiệp sẽ là một môi trường lý tưởng cho mọi
hoạt động của ngân hàng và nhất là công tác huy động vốn của ngân hàng. Ngược
lại tại những vùng mà khả năng phát triển kinh tế, xã hội còn hạn chế, thì không
phải ngân hàng sẽ bỏ qua, mà nhiều lúc ngân hàng phải chấp nhận hoạt động kinh
doanh thua lỗ để từ đó dần tạo mối quan hệ, dần mở rộng thị trường.
Song song với việc mở rộng màng lưới, các phòng giao dịch, NHTM cầm
phải quan tâm tới đặc điểm kinh tế xã hội tại khu vự đó, để trên cơ sở đó có sự thay
đổi trong hoạt động sao cho phù hợp với thực tế như, thay đổi giờ giao dịch đối với
Trang 22
những vùng mà hoạt động kinh tế có thời gian kết thúc muộn so với giờ hành chính,
hay sáng sớm tinh mơ, chiều tối, hoặc cũng có thể làm việc cả ngày nghỉ, ngày lễ
tết... Nếu làm tốt được điều này các ngân hàng thương mại không chỉ làm tốt công
tác huy động vốn mà còn đáp ứng những nhu cầu, mục tiêu khác mà ngân hàng đưa
ra.
- Chính sách về mở rộng quan hệ với các TCTD, các NHTM, các cá nhân,
các tổ chức xã hội

Mối quan hệ với các tổ chức này giúp cho các ngân hàng thương mại trong
việc hoạch định chiến lược hợp lý. Điều đặc biệt là với các tổ chức, các cá nhân,
các doanh nghiệp, có mối quan hệ trực tiếp sẽ giúp các ngân hàng thương mại trong
việc dự báo các luồng tiền sẽ thay đổi. Quan trọng hơn là, trên cơ sở mối quan hệ
mật thiết trên mà ngân hàng sẽ có những ưu tiên hợp lý khuyến khích với từng thành
phần khách hàng.
- Chính sách Marketing
Marketing được hiểu, đó là hệ thống các chiến lược, biện pháp chương trình,
kế hoạch hoạt động, nhằm tác động vào toàn bộ quá trình tổ chức cung ứng dịch vụ
của ngân hàng nhằm sử dụng một cách tốt nhất trong việc làm thoả mãn khàch hàng
mục tiêu. Về mặt lý thuyết, hoạt động marketing bao hàm gần như tất cả các nội
dung liên quan tới hoạt động của ngân hàng thương mại, trong đó có hoạt động của
chính sách huy động vốn. Thông qua việc tìm hiểu, xem xét đánh giá các yếu tố của
môi trường kinh tế vi mô, cũng như yếu tố vĩ mô. Các nhà hoạch định marketing sẽ
đưa ra chương trình, nội dung hoạt động sao cho phù hợp. Chính sách marketing
gồm sự tác động của nhiều nhân tố như; Phương pháp địng giá (xác định lãi suất),
chính sách sản phẩm (cung ứng những dịch vụ mà ngân hàng có khả năng), chính
sách phân phối, chính sách khuyếch trương- giao tiếp,...
- Chính sách hỗ trợ tư vấn khách hàng
Đây là hoạt động, mà thông qua đó ngân hàng sẽ hỗ trợ và tư vấn cho khách
hàng về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực tài chính- tiền tệ- ngân hàng và quan
trọng hơn là giúp khách hàng có được danh mục đầu tư, lựa chọn các loại hình dịch
Trang 23
vụ mà ngân hàng cung cấp. Thông qua nghiệp vụ này ngân hàng sẽ giúp khách hàng
hiểu rõ tác dụng của việc không sử dụng tiên mặt trong lưu thông và tác dụng của
việc gửi tiền, tài sản vào ngân hàng hơn là cất trữ trong nhà.
-Chính sách chăm sóc khách hàng
Hoạt động của chính sách này góp phần giúp ngân hàng củng cố được mối
quan hệ với khách hàng, đồng thời thông qua đó có thể mở rộng được phạm vi hoạt
động. Bởi con người, ai cũng vậy rất muốn được đề cao mình và muốn dược người

khác quan tâm. Vì vậy chính sách này giúp cho ngân hàng củng cố thêm mối quan
hệ qua lại giữa ngân hàng và khách hàng. Một ngân hàng muốn thành công thì cần
phải biết, kết hợp tổng thể mọi chính sách, và quan trọng hơn cả chính là quan tâm
và chăm sóc khách hàng.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CHÍNH SÁCH HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Huy động huy động vốn là một trong những nội dung hoạt động quan trọng
của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên thì hoạt động này không phải là hoạt động
độc lập, mà có mối quan hệ biện chứng với các hoạt động khác của ngân hàng
thương mại. Hơn nữa với chức năng là một trung gian tài chính, vừa là nơi tập trung
vốn, vừa là nơi phân phối lại tín dụng, do đó mà hoạt động huy động vốn của ngân
hàng thương mại chịu sự ảnh hưởng cuỉa rất nhiều nhân tố khác nhau, cả nhân tố
chủ quan lẫn nhân tố khách quan, các nhân tố này trực tiếp hoặc gián tiếp tác động
tới hoạt động của ngân hàng thương mại.
1.3.1. Nhân tố khách quan
Đây là nhân tố không nằm trong sự kiểm soát của ngân hàng thương mại,
song nó lại có tác động lớn tới hoạt động và kết quả kinh doanh của ngân hàng
thương mại nói chung cũng như công tác huy động vốn nói riêng. Và như vậy, sẽ
ảnh hưởng tới chính sách huy động vốn mà ngân hàng đang thực hiện.
1.3.1.1. Tình hình kinh tế xã hội
Nền kinh tế có ổn định, phát triển bền vững, thu nhập bình quân đầu người
có cao, trình độ học vấn của dân cư có cao, xã hội ổn định thì sẽ tạo điều kiện thuận
Trang 24
lợi cho hoạt động và phát triển của ngân hàng thương mại. Bởi khi đó tiết kiệm
trong xã hội sẽ cao, khả năng tin tưởng vào hoạt động của ngành ngân hàng sẽ ngày
càng được nâng lên. Một hệ qủa tất yều là làm cho các thành phần kinh tế sẽ gửi tiền
vào ngân hàng theo từng mục tiêu cụ thể. Và ngược lại nếu trong vùng kinh tế đó có
tình hình xã hội bất ổn định, tốc độ phát triển của kinh tế còn hạn chế... Điều này
làm cho tiết kiệm trong xã hội đạt mức thấp, thêm vào đó là tâm lý ưa dùng tiền
mặt, chưa có thái độ quan tâm thực sự tới các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung

cấp, và do đó việc thực hiện chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại
gặp nhiều khó khăn.
Ngoài ra, chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại còn chịu
những tác của các nhân tố như tỷ lệ lạm phát của đồng tiền. Sự suy thoái của nền
kinh tế, thậm trí là cả sự phát triển “bong bóng” quá nóng của nền kinh tế. Các nhân
tố này ít nhiều đều có ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng thương mại, có nhân
tố ảnh hưởng rất mạnh, ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
1.3.1.2. Hành lang Pháp lý và Chính sách vĩ mô của Nhà Nước
Tại mỗi một quốc gia trên thế giới, mọi hoạt động của ngân hàng thương mại
trong đó có hoạt động huy động vốn đều phải chịu sự điều tiết của các chế tài của
luật pháp, và sự điều hành giám sát và quản lý từ phía Ngân hàng Nhà Nước, để
phục vụ những mục đích mà Chính phủ ban hành hay Ngân hàng Nhà Nước đề ra.
Các ngân hàng thương mại trong trường hợp cần thiết phải tiến hành mua trái phiếu
Chính phủ do Chính phủ (mà đại diện lad Kho Bạc Nhà Nước) phát hành, theo
những quy định cụ thể của Ngân hàng Nhà Nước. Với mục tiêu an toàn và an ninh
tiền tệ của mỗi quốc gia mà Ngân hàng Nhà Nước có quy định mức vốn tối đa được
phép huy động theo một tỷ lệ nhất định nào đó so với vốn chủ sở hữu của ngân hàng
thương mại. Ngoài ra hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại còn chịu sự tác
động nhiều cơ quan, nhiều chế tài pháp luật khác, tuỳ theo mức độ của mối quan hệ
trong hoạt động kinh doanh.
1.3.1.3. Môi trường cạnh tranh
Hoạt động của ngân hàng thương mại không chỉ đơn thuần trong cạnh tranh
như thủa mới ra đời. Sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các ngân hàng thương
Trang 25

×