Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

Áp dụng án lệ trong xét xử các vụ án dân sự tại tòa án (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.07 KB, 59 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN MINH NGỌC

ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
••••
TẠI TỊA ÁN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
••••


TP. HỒ CHÍ MINH - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN MINH NGỌC

ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
TẠI TÒA ÁN
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
••••

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

TP. HỒ CHÍ MINH - 2019
LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan Luận văn là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết


quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của Khoa Luật Kinh tế.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Kinh tế xem xét để tơi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ

NGUYỄN MINH NGỌC


STT
1

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Diễn giải
BLDS

Bộ luật dân sự

2
3

BLTTDS

TANDTC

Bộ luật Tố tụng dân sự
Tòa án nhân dân tối cao

4

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

5

HĐXX

Hội đồng xét xử

6
7

TAND
GCNQSDĐ

Tòa án nhân dân
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................................1

2. Tình hình nghiên cứu..........................................................................................2
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.............................................4
4. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................4
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn.................................................4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn...........................................................4
7. Kết cấu của luận văn..........................................................................................5
CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ÁN LỆ.................................................6
1.1. Khái niệm án lệ.................................................................................................6
1.2. Đặc điểm cơ bản của Án lệ..............................................................................9
1.3. Cơ sở pháp lý cho việc áp dụng án lệ trong quá trình xét xử..........................14
1.4. Nguyên tắc áp dụng án lệ trong xét xử, giải quyết vụ việc dân sự..................17
TỔNG KẾT CHƯƠNG 1 .....................................................................................25
CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁN LỆ TẠI TÒA ÁN .............................26
2.1. Thực tiễn áp dụng án lệ trong việc xét xử tại Tòa án các cấp..........................26
2.2. Đề xuất và kiến nghị.......................................................................................46
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2......................................................................................51
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới, án lệ được coi là một loại nguồn rất quan trọng của pháp luật.
Việc áp dụng án lệ trên thực tế rất phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới như Anh,
Mỹ, Hà Lan, Australia, Indonesia... Ở các quốc gia này từ lâu đã hình thành nguyên
tắc "Stare decisis", nghĩa là phải tuân theo các phán quyết đã có (án lệ bắt buộc).
Theo nguyên tắc này, một phán quyết của Tịa án ngồi ý nghĩa là cách giải quyết
một vụ án cụ thể, cịn có ý nghĩa thiết lập ra một "tiền lệ" để áp dụng cho các vụ án

tương tự sau này, tạo ra sự bình đẳng trong xét xử và giúp các bên gồm cả Thẩm
phán, luật sư, doanh nhân. những người tham gia tố tụng tiên lượng được kết quả của
các vụ tranh chấp, kiện tụng, góp phần giúp cho các bên lưu ý trong quá trình thực
hiện các giao dịch kinh tế, dân sự và thực hiện các hành vi pháp lý khác, tiết kiệm
được thời gian, chi phí và cơng sức của cả xã hội vì sử dụng những tình huống tương
tự đã được giải quyết để làm căn cứ giải quyết công việc. Bởi lẽ đó mà trong nhiều
quốc gia trên thế giới, án lệ dần dần trở thành một bộ phận của pháp luật và rất phát
triển.
Tại Việt Nam án lệ không phải là thuật ngữ mới mà đã được xuất hiện và
được áp dụng Trong các triều đại phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc và thời kỳ Mỹ
chiếm đóng trước năm 1975 thì án lệ đã có một vị trí nhất định trong hệ thống nguồn
pháp luật và chỉ được ghi nhận một cách gián tiếp và không được ghi nhận cho đến
năm 2005, án lệ đã tìm được vị trí của mình trong hệ thống pháp luật. Đây là lúc việc
áp dụng pháp luật còn nhiều bất cập, tồn tại, nhiều cách hiểu khác nhau và thực tế
pháp luật cũng không thể dự liệu các quan hệ tranh chấp mới phát sinh trong thực
tiễn, có những quan hệ pháp luật phát sinh nhưng chưa có các quy định của pháp luật
điều chỉnh hay có sự chồng chéo và mâu thuẫn giữa các văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh.
Tại Nghị quyết số 48/NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020 và Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư


2

pháp đến năm 2020, xác định: “Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh
nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử
giám đốc thẩm, tái thẩm”.
Thể chế tinh thần này tại Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân tối
cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật

trong xét xử” và Luật Tổ chức TAND năm 2014 ghi rõ: “Lựa chọn quyết định giám
đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tịa án, tổng kết phát triển thành án lệ
và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Đến ngày
28/10/2015, Nghị quyết số 03/2015/NQ - HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp
dụng án lệ do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành và đưa án lệ
vào hệ thống pháp luật của Việt Nam. Tiếp đó qua q trình lựa chọn thì Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (HĐTPTANDTC) đã thông qua 27 án lệ tại Việt
Nam.
Tuy nhiên, Án lệ xuất hiện và được thừa nhận là nguồn trong hệ thống pháp
luật Việt Nam nhưng nó cịn rất mới, việc áp dụng trong quá trình xét xử các loại vụ
án cịn nhiều khó khăn, việc tuyển chọn và các tiêu chí lựa chọn án lệ phải được chọn
lọc một cách kỹ lưỡng và quy trình sửa đổi án lệ, việc một số án lệ khơng cịn phù
hợp với thực tiễn xét xử, việc rà soát phát triển án lệ cịn chậm khơng đáp ứng được
với thực tiễn xét xử đó là những khó khăn và thách thức rất lớn do đó tác giả chọn đề
tài “Áp dụng án lệ trong xét xử các vụ án dân sự tại Tòa án” làm luận văn nghiên
cứu. Thơng qua đó tác giả muốn tập chung nghiên cứu về lý luận chung về án lệ, việc
áp dụng án lệ trong thực tiễn xét xử tại Tòa án và một số kiến nghị đề xuất cho hồn
thiện trong việc áp dụng án lệ.
2. Tình hình nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu, tìm hiểu các đề tài liên quan đến án lệ, tác giả nhận
thấy rằng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết, bài báo, tạp chí, bài bình luận,
phân tích... về án lệ. Tuy nhiên trước đây chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào
trực tiếp điều chỉnh về án lệ. Nhưng đến ngày 28/10/2015, Hội đồng Thẩm phán Tòa


3

án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 03/2015/NQ - HĐTP là văn bản quy
phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh về án lệ, quy trình lựa chọn, cơng bố và áp dụng

án lệ. Ngồi ra cịn một số đề tài, bài viết liên quan đến án lệ như sau: Bài viết của Vi
Trần - Thanh Tùng về vấn đề "Có nên xử theo án lệ", Tạp chí nhà nước và pháp luật:
Bài 1 - "Án lệ - những điều chưa biết", đăng ngày 27/9/2010; Bài 2 - "Án lệ - Người
ủng hộ, người phản đối", đăng ngày 28/9/2010, Bài 3 - "Án lệ - Lấp lỗ hổng pháp
luật", đăng ngày 29/09/2010; Bài 4 - "Sửa luật để công nhận án lệ", đăng ngày
30/09/2010; Bài 5 - "Cần một lộ trình", đăng ngày 01/10/2010; Đề tài nghiên cứu
khoa học năm 2007 “Án lệ và khả năng áp dụng án lệ tại Việt Nam” của tác giả
Dương Bích Ngọc và Nguyễn Thị Thúy; Luận văn của tác giả Đoàn Mạnh Hùng đề
tài “Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật” năm 2013; bài viết của Tiến sĩ
Nguyễn Văn Hiện, Phó Trưởng Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương trên Tạp
chí nhà nước và pháp luật, ngày 07/10/2010: "Chưa sửa luật, vẫn có thể phát triển
án lệ"; Tác giả Nguyễn Văn Nam với hàng loạt những bài nghiên cứu được cơng bố
trên các tạp chí pháp luật như “Nghiên cứu so sánh nguồn luật của án lệ trong hệ
thống pháp luật nước Anh” trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 05 (2007);; bài viết
trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 6(191) tháng 3/2011: "Án lệ trong hệ thống
Civil Law các nước Pháp, Đức, và việc sử dụng án lệ ở Việt Nam" và sau đó tác giả
đã cho ra đời Luận án tiến sĩ luật học “Lý luận và thực tiễn về hệ thống pháp luật của
các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức, và những kiến nghị đối với Việt Nam”; Tác giả
Nguyễn Thân Đức Hạnh với đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên “Sự cần thiết áp
dụng án lệ tại Việt Nam”.
Ngày 28/10/2015 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
(HĐTPTANDTC) đã ban hành Nghị quyết số 03/2015/NQ - HĐTP về quy trình lựa
chọn, cơng bố và áp dụng án lệ có hiệu lực có rất nhiều các chuyên gia, các giảng
viên, sinh viên... và đặc biệt hơn nữa là những Thẩm phán là người trực tiếp áp dụng
các quy định của Nghị quyết trên để giải quyết các loại vụ án. Tuy nhiên, các bài viết
chỉ dừng lại ở mức độ các bài đánh giá, bình luận, chưa đi phân tích thực tiễn áp
dụng án lệ tại Tịa án. Do đó, việc nghiên cứu đề tài "Áp dụng án lệ trong việc xét xử


4


các vụ án dân sự tại Tịa án " khơng trùng lặp với các đề tài khác qua đây tác giả
muốn đưa ra những bất cập và hướng hoàn thiện về án lệ.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận văn nhằm hồn thiện các quy định pháp luật về áp dụng,
viện dẫn, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ án lệ tại Việt Nam, qua đó để làm cơ sở cho việc
giải quyết các loại vụ án tại Tòa án.
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận, thực tiễn áp dụng án lệ tại Việt
Nam và kiến nghị hoàn thiện về án lệ.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là áp dụng án lệ, đồng thời cũng nêu ra đánh
giá về vấn đề thực tiễn áp dụng án lệ để giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án và một số
kiến nghị.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả đã vận dụng các phương pháp
pháp phân tích, tổng hợp trong việc áp dụng án lệ.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu tổng quan về án lệ tác giả đưa ra những khái quát
chung về án lệ, những vấn đề áp dụng án lệ để giải quyết vụ án dân sự tại Tịa án qua
đó đưa ra một số đề xuất kiến nghị và một số vướng mắc khi áp dụng trong thực tiễn,
để làm cơ sở cho việc xét xử các vụ án sau này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã cố gắng hệ thống hóa về án lệ ở Việt Nam, đồng thời đưa ra
những nhận xét, đánh giá, phân tích khoa học có tính độc lập.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
việc áp dụng án lệ tại Tòa án.
Đề tài và hướng nghiên cứu có thể có những đóng góp nhất định vào việc
nghiên cứu về án lệ với tư cách là nguồn quan trọng của pháp luật, cách viện dẫn và
áp dụng trong thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì phần nội dung



5

của luận văn gồm 02 chương:
Chương 1: Lý luận chung về việc áp dụng án lệ tại Tòa án.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng án lệ tại Tòa án.


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ÁN LỆ
1.1.

Khái niệm án lệ
Theo từ điển Black's Law thì án lệ được hiểu như sau: “Án lệ là việc làm luật

của Tòa án khi công nhận và áp dụng các quy tắc mới trong quá trình xét xử; vụ việc
đã được giải quyết làm cơ sở để đưa ra các phán quyết cho những trường hợp có tình
tiết hoặc vấn đề tương tự sau này”.1
Theo từ điển luật học Anh thì án lệ là bản án hoặc quyết định của Tòa án được
nêu ra để chứng minh cho một quyết định trong một vụ việc gần tương tự sau đó.2
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì án lệ được hiểu là: "Quyết định hoặc
bản án của tịa cấp trên có giá trị bắt buộc đối với tòa cấp dưới; tòa phá án cũng phải
tơn trọng quyết định trước đó của bản thân mình (riêng ở Mỹ, Tịa án tối cao khơng
tự coi mình có trách nhiệm đó)".3
Theo Từ điển Luật học thì án lệ được hiểu là: "Bản án đã tuyên hoặc một sự
giải thích, áp dụng pháp luật được coi như một tiền lệ làm cơ sở để các Thẩm phán
sau đó có thể áp dụng trong các trường hợp tương tự".4
Theo Từ điển Luật học theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ thì án lệ được hiểu
theo hai nghĩa. Theo nghĩa hẹp, án lệ bao gồm toàn bộ các quyết định, bản án được

tun bố bởi Tịa án và có giá trị như nguồn luật, đưa ra những nguyên tắc, những
nền tảng áp dụng cho những sự việc tương tự sau này, hay là cách thức sử dụng các
nguyên tắc có sẵn như là những căn cứ áp dụng để quyết định các vụ việc xảy ra
trong tương lai. Còn theo nghĩa rộng, án lệ là các nguyên tắc bắt buộc các Thẩm phán
trong hệ thống các cơ quan Tòa án khi xét xử một vụ việc cụ thể cần phải căn cứ
ngay vào các bản án , các vụ việc trước đó, đặc biệt là các phán quyết của các Tòa
cấp cao, Tòa phúc thẩm và Tòa án tối cao, hay là những nguyên tắc không theo luật
1Bryan A. Garner (2004), Black's Law Dictionary, 9th, West Group, pp. 1295.
2Tiểu mục 1 phụ lục 1 - Án lệ và một số khái niệm tương đồng ,Quyết định số 74/QĐ - TANDTC ngày
31/10/2012 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc phê duyệt đề án “phát triển án lệ của Tòa án nhân
dân tối cao.
3Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 1, Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà nội, 1995, trang
46.
4Từ điển Luật học, Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, Nhà xuất bản tư pháp và Nhà xuất bản từ điển bách
khoa, trang 13.


định được đưa ra từ các quyết định tư pháp, hay là hệ thống các quy tắc bất thành văn
đã được cơng nhận và được hình thành thơng qua các quyết định của Tòa án.5
Xem xét các khái niệm trên ta có thể hiểu tổng quát về án lệ như sau:
“Án lệ là tập hợp những tiền lệ xét xử đã được các cơ quan thẩm quyền của
nhà nước tuyển chọn từ những bản án đã được xét xử trong thực tiễn, đúc kết làm
thành mẫu để người xét xử sau tham khảo, noi theo”.6
Tại Việt Nam, Điều 1 Nghị quyết số 03/2015/NQ - HĐTP ngày 28/10/2015
của Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và
áp dụng án lệ (sau đây được gọi là Nghị quyết số 03/2015/NQ - HĐTP) đã đưa ra
khái niệm “Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cơng bố là án lệ
để các Tịa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”.7

Với những khái niệm ở trên, có thể thấy thuật ngữ án lệ đã chứa đựng các nội
dung cơ bản của thuật ngữ tiền lệ pháp và đây là hai thuật ngữ hoàn toàn khác nhau
nhưng cùng chỉ về một khái niệm, có thể được coi như nhau. Một số quan điểm cho
rằng về bản chất, án lệ cũng chính là tiền lệ pháp bởi vì cả hai đều xuất phát từ cơ
quan tư pháp (Tịa án) và được hình thành trong q trình xét xử. Mặt khác, tiền lệ
pháp là một thuật ngữ dùng để chỉ về một hình thức pháp luật cịn về án lệ dùng để
chỉ về nguồn của pháp luật, mà nguồn của pháp luật cũng chính là hình thức pháp
luật. Về mặt từ vựng một số từ điển tiếng Anh khi diễn giải các từ ngữ này cũng cho
những kết quả tương tự nhau.
Như đã trình bày ở phần trên, án lệ có thể là một vụ việc đã được xét xử hoặc
quyết định của Toà án được xem như sự cung cấp quy định hoặc quyền lực cho quyết
định của một vụ việc giống hoặc tương tự xảy ra về sau, hoặc cho một vấn đề tương
tự của pháp luật, hoặc khi các sự kiện là khác nhau thì nguyên tắc chi phối vụ việc
5Nguyễn Cao Thanh Ngân(hệ thống năm 2016), Án lệ Việt Nam và các văn bản pháp luật tham chiếu và một
số nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nxb. Dân trí, tr9.
6Nguyễn Linh Giang (2005), Án lệ trong hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới”. Tạp chí nhà nước và
pháp luật. (12), tr65.
7Nghị quyết số 03/2015/NQ - HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao


đầu tiên có thể áp dụng được cho các sự kiện khác nhau chút ít.
Một án lệ có thể là một bản án, quyết định của Toà án chứa đựng trong nó một
nguyên tắc. Nguyên lý cơ bản giống như mẫu mà phần có căn cứ đích xác của nó
thường được gọi là nguyên tắc pháp lý cho một phán quyết trong một trường hợp cụ
thể. Một quyết định cụ thể là bắt buộc đối với các bên, nhưng nó là bản tóm tắt của
nguyên tắc pháp lý cho một phán quyết trong một trường hợp cụ thể mà chỉ có nó có
hiệu lực pháp luật.
Cũng có thể nói một cách khái quát là, một vụ việc trở thành án lệ vì quy định
chung như vậy là cần thiết đối với quyết định thực tế có thể được đưa ra là sự biến
dạng trong những trường hợp phụ.

Thường thì, một án lệ cũng có thể được chấp nhận, tơn trọng khơng phải bởi
nó bao qt một logic ổn định mà bởi từ các phần của nó có thể nảy sinh ra ý tưởng
về mẫu mới của quyết định.
Như vậy, nhìn chung hiện nay có nhiều khái niệm về án lệ nhưng các định
nghĩa này có nội dung tương tự nhau, chỉ khác nhau về cách diễn đạt và cũng đã nêu
lên những điểm cơ bản, cốt lõi nhất về án lệ. Có thể đưa ra định nghĩa về án lệ như
sau: “Án lệ là hệ thống các quy phạm, nguyên tắc được hình thành và áp dụng bởi
các Thẩm phán trong quá trình xét xử và đưa ra phán quyết”.8 Trong hệ thống thơng
luật án lệ có tính chất bắt buộc đối với các vụ việc tương tự. còn trong hệ thống Dân
luật án lệ có tính thuyết phục, định hướng cho các Thẩm phán trong quá trình giải
quyết các loại vụ việc sau này khi chưa có các quy phạm pháp luật điều chỉnh.
1.2.

Đặc điểm cơ bản của Án lệ
Thứ nhất, án lệ trước hết là các bản án, quyết định của Tòa án. Bản án và

quyết định này phải chứa đựng cách thức chung, quan điểm chung được Tòa án áp
dụng trong việc giải quyết các vấn đề pháp luật trong bản án, quyết định đó.9
Thứ hai, án lệ có mối quan hệ mật thiết với Thẩm phán vì án lệ là do Thẩm
phán sáng tạo ra để giải quyết các vụ việc cụ thể. Mặc dù án lệ được coi như là
8Dương Bích Ngọc,Nguyễn Thị Thúy (2007), Án lệ và khả năng áp dụng án lệ tại Việt Nam, đề tài nghiên cứu
khoa học, tr10.
9Nguyễn Văn Nam (2011), Lý luận và thực tiễn về án lệ trong hệ thống pháp luật của các nước Anh, Mỹ,
Pháp, Đức và những kiến nghị đối với Việt Nam, luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội. tr4


nguồn của pháp luật tuy nhiên nó vẫn được coi như thấp hơn luật thành văn. Quy
định như vậy hạn chế quyền lực để tránh cho các Thẩm phán lạm quyền dẫm chân
lên thẩm quyền của các nhà làm luật. Một bản án dù được tuyên bởi Thẩm phán
nhưng nó khơng thể coi là một án lệ nếu nó khơng được thơng qua một trình tự nhất

định. Điều này để chỉ ra rằng án lệ không được rút ra một cách đơn giản từ các bản
án và không phải sáng tạo pháp luật của các Thẩm phán ở bất kỳ Tịa án nào cũng có
thể trở thành án lệ. Từ đó có thể thấy quy phạm được sáng tạo bởi các Thẩm phán rất
đặc biệt, nó vừa để giải quyết vụ việc cụ thể vừa có khả năng khái quát hóa vì nó có
tính tiềm tàng để mở rộng đến các vụ việc tương tự.10
- Thứ ba, án lệ phải có tính nhắc lại, điều này thể hiện ở việc khi một bản án
được cơng nhận là án lệ thì nó sẽ được lấy làm khn mẫu cho các vụ việc có tính
chất tương tự và sẽ cịn được sử dụng nhiều lần nữa.
- Thứ tư, án lệ có tính bắt buộc, có nghĩa là nếu một bản án được đem ra sử
dụng cho một vụ việc có tính chất tương tự nhưng chỉ để tham khảo thì khơng được
coi là án lệ mà bản án đó phải là khn mẫu buộc các Thẩm phán phải áp dụng đối
với các vụ án tương tự sau này. Sự bắt buộc này cũng giống như việc tại Việt Nam
các Thẩm phán buộc phải viện dẫn ra các quy phạm pháp luật thành văn để xét xử. 11
- Thứ năm, tính tương tự của án lệ, bởi 1 bản án, quyết định có giá trị án lệ
phải là cơ sở cho Tòa án cấp dưới vận dụng khi xét xử 1 vụ án có tính chất tương tự,
cơ sở này có thể mang tính chất bắt buộc hoặc mang tính chất tham khảo. Tính tương
tự ở đây là tương tự về tình tiết, sự kiện cơ bản và tương tự về vấn đề pháp lý. 12
Án lệ là những lập luận, làm rõ quy định của pháp luật cịn có cách hiểu
khác nhau
Loại án lệ này được ban hành để Tòa án bảo đảm áp dụng thống nhất pháp
luật trong trường hợp nội dung văn bản quy phạm pháp luật cần áp dụng chưa đáp
ứng được yêu cầu của công tác xét xử. Hiện nay, trên thực tế, đã xảy ra nhiều trường
hợp khơng có sự thống nhất về nhận thức giữa cơ quan tiến hành tố tụng với nhau
10Nguyễn Linh Giang (2005) “Án lệ trong hệ thống pháp luật một số nước trên thế giới, tạp chí nhà nước và
pháp luật, (05), tr 16.
11Xem: Nguyễn Linh Giang, đd, tr. 7
12Xem Đặng Thị Thơm, Nguyễn Đình Phong (2013)


hoặc giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với đương sự về việc áp dụng các quy định

cụ thể của pháp luật về tố tụng hoặc pháp luật về nội dung để xét xử, giải quyết vụ
việc dân sự. Đó là các trường hợp một số quy định cịn thiếu chi tiết, cụ thể, mới
dừng lại ở những nguyên tắc chung; một số văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành nhưng vẫn còn thiếu chi tiết, chưa phù hợp với quy định của luật, pháp lệnh,
nghị quyết hoặc cịn chồng chéo, mâu thuẫn. Vì vậy, việc phân tích, diễn giải nội
dung, phạm vi, đối tượng áp dụng của một hoặc một số quy định trong văn bản quy
phạm pháp luật nêu trên cho vấn đề pháp lý cụ thể trong vụ việc dân sự là hết sức
khó khăn. Để giải quyết vấn đề này, tùy từng trường hợp, Thẩm phán, Hội đồng xét
xử sẽ lựa chọn phương pháp phù hợp (phương pháp phân tích nghĩa của từ; phân tích
khái niệm trong bối cảnh của quy định hoặc theo mục đích ban hành văn bản...) để
đưa ra lập luận, lý giải về nội dung, phạm vi, đối tượng áp dụng của quy định cịn có
cách hiểu khác nhau hoặc luận giải về lý do lựa chọn, áp dụng một hoặc một số điều
luật cụ thể để đưa ra phán quyết giải quyết vụ việc dân sự.
Vì vậy, trong trường hợp bản án, quyết định đó được lựa chọn, thơng qua để
phát triển án lệ, thì những lập luận, lý giải nêu trên chính là án lệ. Những ví dụ sau
đây sẽ làm rõ thêm nội dung án lệ loại này.
Về việc xác định khái niệm “trở ngại khách quan” khơng tính vào thời hiệu
khởi kiện quy định tại khoản 1 Điều 161 BLDS năm 2005. Trong một vụ án dân sự
chia tài sản thừa kế theo pháp luật, nguyên đơn đề nghị chia tài sản do ông nội của
nguyên đơn để lại sau khi chết và đang được bị đơn quản lý, sử dụng; bị đơn phản
đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với lý do thời hiệu khởi kiện đã hết. Tại phiên
tòa, trên cơ sở xem xét yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn và các tài liệu có trong hồ sơ,
Tịa án huyện A, tỉnh B đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án với lý do thời hiệu
khởi kiện đã hết. Nguyên đơn kháng cáo cho rằng thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
HĐXX của Tòa án tỉnh B chấp nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn, hủy quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiếp tục
giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm đã đưa ra lý do hủy quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm như sau:



“Tịa án xét thấy rằng việc ngun đơn khơng liên lạc được với bị đơn và bị
đơn từ chối không liên lạc, tiếp xúc với nguyên đơn trong thời gian nguyên đơn chấp
hành án phạt tù là nguyên nhân dẫn đến việc ngun đơn khơng biết được ơng nội
của mình đã chết. Đây chính là trở ngại khách quan làm nguyên đơn không nộp đơn
khởi kiện chia di sản thừa kế mà ông nội của nguyên đơn để lại. Căn cứ quy định tại
khoản 1 Điều 161 của BLDS năm 2005, thì thời gian nguyên đơn gặp trở ngại khách
quan nêu trên khơng được tính vào thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế quy định
tại Điều 645 của BLDS năm 2005”.
Như vậy, lập luận nêu trên của Tòa án tỉnh B đã làm rõ thêm khái niệm “trở
ngại khách quan” quy định tại khoản 1 Điều 161 BLDS năm 2005 trong một trường
hợp cụ thể. Lập luận này chính là án lệ để áp dụng cho các vụ việc dân sự có tình tiết
khách quan tương tự mà Tịa án thụ lý giải quyết sau này. Có thể tóm tắt án lệ nói
trên như sau: “Trường hợp trong thời gian chấp hành án phạt tù mà người chấp hành
án không nộp đơn khởi kiện vụ án chia di sản thừa kế và họ chỉ nộp sau khi thời hiệu
khởi kiện loại vụ án này đã hết, thì thời gian chấp hành án phạt tù đó được coi là thời
gian xảy ra trở ngại khách quan nếu trong thời gian này mặc dù người chấp hành án
đã nhiều lần liên lạc với người thân thích của họ nhưng vẫn khơng có kết quả và
người chấp hành án khơng có nguồn thông tin khác để biết được người để lại tài sản
cho họ đã chết”.
Án lệ là phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý làm cơ sở cho Tòa
án chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý hoặc quy phạm pháp luật cần áp dụng
Loại án lệ này được xác lập trong bối cảnh có những vụ việc dân sự mà vấn đề
pháp lý cần được giải quyết chưa được pháp luật quy định hoặc các bên đương sự
khơng có thỏa thuận. Trong trường hợp này, Tòa án sẽ áp dụng Điều 3 của BLDS
năm 2005 để giải quyết, theo đó tập quán, quy định tương tự của pháp luật sẽ được
Tòa án lựa chọn, áp dụng làm cơ sở để đưa ra phán quyết trong bản án, quyết định.
Cách thức giải quyết này cũng được khẳng định tại các văn bản quy phạm pháp luật
khác, bao gồm Luật Thương mại, Bộ luật hàng hải, Luật kinh doanh bảo hiểm. Đặc
biệt, Điều 5 và Điều 6 của BLDS năm 2015 đã quy định cụ thể cách thức giải quyết



trong trường hợp này theo thứ tự như sau: Trường hợp các bên khơng có thỏa thuận
và pháp luật khơng quy định thì có thể áp dụng tập qn; nếu khơng có tập qn
được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự;
trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ và lẽ công bằng 13. Phù
hợp với quy định tại Điều 5 và Điều 6 của BLDS năm 2015, khoản 2 Điều 4 của
BLTTDS năm 2015 đã quy định: Tịa án khơng được từ chối giải quyết vụ việc dân
sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Việc giải quyết vụ việc dân sự quy định tại
khoản này được thực hiện theo các nguyên tắc do BLDS và BLTTDS sự quy định 14.
Như vậy, trong trường hợp mà Tòa án lập luận, biện giải về việc lựa chọn tập
quán hoặc quy định tương tự của pháp luật hoặc phân tích, diễn giải về luận thuyết
“lẽ công bằng” làm cơ sở cho việc đưa ra phán quyết trong bản án, quyết định, thì lập
luận, biện giải hoặc phân tích, diễn giải nêu trên chính là án lệ nếu được lựa chọn,
thông qua theo quy trình hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2015. Sau đây là một ví dụ
cụ thể về án lệ này.
Ơng A và bà B là vợ chồng có đăng ký kết hơn hợp pháp, có một con chung là
cháu C. Từ năm cháu C lên hai tuổi, bà B ra nước ngồi làm việc, để lại cháu C cho
ơng A ni dưỡng. Đến năm cháu C lên 7 tuổi, bà B trở về Việt Nam xin ly hôn với
ông A và đề nghị được ni dưỡng cháu C. Tịa án thành phố H đã giải quyết cho hai
người ly hôn, nhưng giao cháu C cho ông A nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, ông A phát
hiện thấy bà B đang làm thủ tục đưa cháu C sang nước X cư trú theo diện thường trú
với bà B, nên đã làm đơn đề nghị Tòa án quận D, thành phố H cấm bà B thực hiện
các hành vi cản trở ông thực hiện quyền chăm sóc, ni dưỡng trực tiếp cháu C và
thay đổi nơi cư trú của cháu C, bao gồm cấm bà B đưa cháu C ra nước ngồi. Tịa án
quận D đã thụ lý đơn yêu cầu của ông A. Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp
cận cơng khai chứng cứ và hịa giải, Tịa án đã ra quyết định cấm bà B thực hiện các
hành vi có mục đích làm thay đổi nơi cư trú của cháu C và cản trở ông A thực hiện
quyền nuôi dưỡng, chăm sóc trực tiếp cháu C, bao gồm hành vi đưa và giữ cháu C ở
13Xem Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

14Xem khoản 2 Điều 4 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.


lại nước ngoài với các lý do sau đây:
“Xét yêu cầu của ông A, thấy rằng quy định tại Điều 13 của Luật bảo vệ chăm
sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 nghiêm cấm việc cách ly trẻ em khỏi cha, mẹ mình,
trừ trường hợp vì lợi ích của trẻ em. Đồng thời, Điều 82 và Điều 83 của Luật hơn
nhân và gia đình năm 2014 cũng đã quy định cha, mẹ trực tiếp ni con có quyền u
cầu người không trực tiếp nuôi con tôn trọng quyền được ni con của mình; cha, mẹ
khơng trực tiếp ni con có nghĩa vụ tơn trọng quyền của con được sống chung với
người trực tiếp nuôi. Trên cơ sở các quy định này, HĐXX thấy rằng ơng A là người
được Tịa án quận C, tỉnh D giao trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu C theo bản án
ly hơn giữa ơng và bà B năm 2013. Do đó, ơng A là người có quyền quyết định về
nơi cư trú của cháu C. Nếu bà B muốn được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu C
thì phải nộp đơn u cầu Tịa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và bà B chỉ có
quyền này khi được Tịa án cho phép. Vì vậy, khi ơng A đang là người được Tịa án
giao trực tiếp ni dưỡng cháu C thì bà B phải thực hiện nghĩa vụ tôn trọng quyền
của ông A và cháu C theo quy định của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 2004 và Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 nêu trên.
Tuy nhiên, HĐXX xét thấy rằng bà B đã cố tình khơng cho ông A biết việc bà
đang làm thủ tục đưa cháu C sang nước X sinh sống theo diện thường trú; không
cung cấp địa chỉ nơi bà B cư trú tại nước X khi ơng A u cầu. Do đó, có cơ sở để
khẳng định việc làm nêu trên của bà B là nhằm cách ly cháu C với ông A trên các
phương diện: Nơi cư trú, quyền được chăm sóc ni dưỡng; đồng thời là hành vi vi
phạm nghĩa vụ tôn trọng quyền được nuôi cháu C, quyền cư trú cùng với cháu C của
ông A. Để bà B phải tôn trọng quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu C của ông A và
quyền được sống chung với ông A của cháu C, thì cần phải buộc bà B chấm dứt mọi
hành vi có mục đích làm thay đổi nơi cư trú của cháu C, bao gồm hành vi đưa cháu C
ra nước ngồi”.
Như vậy, sự phân tích lý giải trên đây của Tòa án quận D, thành phố H làm

căn cứ cho việc đưa ra phán quyết cấm bà B thực hiện các hành vi có mục đích làm
thay đổi nơi cư trú của cháu C đã xác lập một án lệ về bảo vệ quyền của cha, mẹ


được trực tiếp nuôi con và quyền của người con được sống chung với cha, mẹ trực
tiếp ni dưỡng mình theo quy định của Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 và Luật
bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004. Có thể tóm tắt án lệ này như sau:
“Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con theo quyết định của Tòa án chỉ được phép đưa
con ra nước ngồi khi có sự đồng ý của mẹ, cha là người trực tiếp nuôi con”.
1.3.

Cơ sở pháp lý cho việc áp dụng án lệ trong quá trình xét xử
Thuật ngữ “án lệ” lần đầu tiên xuất hiện trong chính sách của Đảng về cải

cách pháp luật ở Việt Nam được thể hiện trong Nghị quyết số 48-NQ/TW, cụ thể tại
tiểu mục 1.7 Mục III quy định về giải pháp xây dựng pháp luật, trong đó có đề cập
về: “Nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán (kể cả tập quán,
thông lệ thương mại quốc tế) và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ
sung và hồn thiện pháp luật”15.
Tiếp theo, tiểu mục 2.2 Mục II Nghị quyết số 49-NQ/TW cũng quy định một
trong các nhiệm vụ cải cách tư pháp là “Tịa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng
kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và
xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm” 16. Những quy định này có ý nghĩa quan trọng trong
việc khẳng định vai trò của án lệ, biểu hiện cụ thể là việc Tòa án nhân dân các cấp
tham khảo Quyết định của các Tòa chuyên trách, Quyết định của HĐTP Tòa án nhân
dân tối cao và thông qua việc Tổng kết rút kinh nghiệm, phát hành Quyết định của
HĐTP Tòa án nhân dân tối cao đến Tịa án các cấp.
Sau đó, Quyết định số 74/QĐ-TANDTC ngày 31 tháng 10 năm 2012 của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc phê duyệt đề án “Phát triển tiền án lệ của
Tòa án nhân dân tối cao” (sau đây được gọi là Quyết định số 74/QĐ-TANDTC) 17

cũng xác định quan điểm chỉ đạo, hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp
luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử, nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán trong cơng
tác xét xử tại phiên tịa cũng như tăng cường việc sử dụng án lệ trong thực tiễn xét
xử, thành lập bộ phận chuyên trách để luyện tập án lệ...
15tiểu mục 1.7 Mục III, nghị quyết số 48 -NQ/TW.
16tiểu mục 2.2 Mục II Nghị quyết số 49-NQ/TW.
17Quyết định số 74/QĐ-TANDTC ngày 31 tháng 10 năm 2012 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.


Văn bản có giá trị cao nhất là Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ngày 28 tháng 11 năm 2013 (sau đây được gọi là Hiến pháp 2013) quy định tại
khoản 3 Điều 104: “Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử,
bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử”. 18
Luật tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2014
của Quốc hội khóa XIII cũng đã chính thức thừa nhận tại điểm c khoản 2 Điều 22
rằng:
“Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ lựa chọn quyết
định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án quyết
định pháp luật đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết
phát triển thành án lệ và cơng bố án lệ để các Tịa án nghiên cứu và áp dụng trong
xét xử”.19
Ngoài ra, khoản 2 Điều 6 BLDS số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm
2015 của Quốc hội khóa XIII và khoản 3 Điều 45 BLDS số 92/2015/QH13 ngày 25
tháng 11 năm 2015 của Quốc hội khóa một lần nữa khẳng định vị trí của án lệ trong
thực tiễn pháp lý Việt Nam khi nêu lên rằng “Trường hợp không thể áp dụng tương
tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ cơng bằng”, “Án
lệ được Tịa án nghiên cứu, áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự khi đã được Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án Nhân
dân tối cáo công bố”.20

Tại Điều 2 Nghị quyết số 03/2015/HĐTP của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao
ngày 28 tháng 10 năm 2015, đã tiếp tục cụ thể hóa nội dung của án lệ, theo đó án lệ
là “những lập luận làm rõ quy định của pháp luật cịn có cách hiểu khác nhau; phân
tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy
18khoản 3 Điều 104 Hiến pháp năm 2013.
19điểm c khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2014 của
Quốc hội khóa XIII.
20khoản 2 Điều 6 BLDS số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 của Quốc hội khóa XIII (sau đây được
gọi là BLDS năm 2015) và khoản 3 Điều 45 BLTTDS số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015 của Quốc
hội khóa XIII.


phạm pháp luật cần áp dụng”.21
Tại công văn số 146/TANDTC - PC ngày 11 tháng 07 năm 2017 của Tòa án
nhân dân tối cao về việc “Viện dẫn, áp dụng án lệ trong xét xử” 22. hướng dẫn việc
viện dẫn, áp dụng hoặc không áp dụng án lệ khi xét xử, giải quyết những vụ việc cụ
thể phải được thực hiện theo đúng hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2015/NQ- HĐTP
ngày 28-10-2015 về quy trình lựa chọn, cơng bố và áp dụng án lệ của HĐTP Tòa án
nhân dân tối cao. Theo đó, khi xét xử, giải quyết những vụ việc đã có án lệ thì Thẩm
phán, Hội thẩm phải nghiên cứu án lệ đó để quyết định việc viện dẫn, áp dụng hoặc
không áp dụng. Trường hợp áp dụng án lệ thì số án lệ, số bản án, quyết định của Tồ
án có chứa đựng án lệ, tính chất, tình tiết vụ việc tương tự được nêu trong án lệ và
tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp lý trong án lệ (nội dung
khái quát của án lệ) phải được viện dẫn, phân tích trong phần “Nhận định của Tòa
án”; tùy từng trường hợp cụ thể có thể trích dẫn ngun văn những nội dung hạt nhân
của án lệ để làm rõ quan điểm của Tòa án trong việc xét xử, giải quyết các vụ việc
tương tự.
1.4.

Nguyên tắc áp dụng án lệ trong xét xử, giải quyết vụ việc dân sự

Theo Điều 8 Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP quy định nguyên tắc áp dụng án

lệ trong xét xử như sau:
- Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 45 ngày kể từ ngày công
bố hoặc được ghi trong quyết định công bố án lệ của Chánh án Toà án nhân dân tối
cao.
- Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải
quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống
nhau phải được giải quyết như nhau. 23
Như vậy, theo hướng dẫn nêu trên, để áp dụng án lệ, thì có hai vấn đề phải xác
định cho được là các tình tiết khách quan và vấn đề pháp lý cần được giải quyết trong
vụ việc dân sự mà Tịa án đã thụ lý có giống với các tình tiết khách quan và vấn đề
21Điều 2 Nghị quyết số 03/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
22Xem công văn số 146/TANDTC - PC ngày 11 tháng 07 năm 2017 của Tòa án nhân dân tối cao.
23Điều 8 Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP.


pháp lý đã được giải quyết trong bản án, quyết định có chứa đựng án lệ hay khơng.
Do đó, trong quá trình nghiên cứu, áp dụng án lệ, cần phải lưu ý một số vấn đề sau
đây:
Thứ nhất, nguồn gốc của sự giống nhau giữa vụ án dân sự này với vụ án dân
sự khác hoặc giữa việc dân sự này với việc dân sự khác là xuất phát từ việc tranh
chấp hoặc yêu cầu trong vụ việc dân sự đó phát sinh từ cùng một loại quan hệ dân sự.
Tuy nhiên, cho dù phát sinh từ cùng một loại quan hệ dân sự, cần phải khẳng định
rằng trên thực tế khơng có các vụ việc dân sự mà các tình tiết khách quan của vụ việc
này lại giống hồn tồn với vụ việc khác. Do đó, sẽ là phi thực tế nếu cho rằng án lệ
chỉ được áp dụng khi và chỉ khi các tình tiết khách quan của vụ việc dân sự đang giải
quyết phải giống hoàn toàn các tình tiết khách quan của vụ việc dân sự trong bản án,
quyết định có chứa đựng án lệ. Ở các nước Tòa án áp dụng án lệ để xét xử, giải quyết
vụ việc dân sự, thì theo kết quả nghiên cứu của các học giả nước ngoài, án lệ chỉ

được áp dụng khi “các tình tiết khách quan cơ bản” của vụ việc dân sự đang được
giải quyết được xác định là tương tự với “các tình tiết khách quan cơ bản” của vụ
việc dân sự trong bản án, quyết định có chứa đựng án lệ. Các tình tiết khách quan cơ
bản của vụ việc dân sự là các tình tiết chính của vụ việc đó, phản ánh về nội dung
mối quan hệ dân sự đang phát sinh tranh chấp hoặc có yêu cầu giải quyết. Nói cách
khác, đây là những tình tiết quan trọng làm cơ sở cho yêu cầu của đương sự. Như
vậy, theo tác giả, đây là cách tiếp cận phù hợp nhất để vận dụng trong việc thống nhất
nhận thức về hướng dẫn “những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau” tại
khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 03/2015. Theo đó, việc áp dụng án lệ chỉ được thực
hiện khi vụ việc dân sự đang được giải quyết và vụ việc dân sự trong bản án, quyết
định có chứa đựng án lệ được Thẩm phán, hội thẩm, hội đồng xét xử, hội đồng giải
quyết thống nhất, có sự tương đồng về các tình tiết khách quan cơ bản. Nếu các tình
tiết khách quan cơ bản này chỉ giống nhau một phần hoặc phần lớn thì khơng được
áp dụng án lệ.
Thứ hai, trong mỗi vụ việc dân sự thì các vấn đề pháp lý mà các đương sự yêu
cầu Tòa án giải quyết là khác nhau, theo đó có vấn đề pháp lý thì đã được pháp luật


quy định rõ, hướng dẫn chi tiết hoặc có vấn đề pháp lý lại chưa được pháp luật quy
định hoặc quy định chưa đủ rõ và chi tiết để thực hiện một cách cụ thể các quan hệ
tranh chấp phát sinh. Do đó, tùy trường hợp cụ thể mà Tịa án xác định, lựa chọn các
quy định cụ thể của pháp luật phù hợp để áp dụng hoặc đưa ra nguyên tắc, đường lối
xử lý để giải quyết nếu vấn đề pháp lý trong vụ việc dân sự chưa được điều chỉnh
bằng pháp luật hoặc chưa được pháp luật quy định và các bên khơng có thỏa thuận.
Theo định nghĩa về án lệ tại Điều 1 và Điều 2 của Nghị quyết số 03/2015, thì án lệ
chỉ được xác lập để giải quyết vấn đề pháp lý liên quan trực tiếp đến lựa chọn quy
định cụ thể của pháp luật để áp dụng mà quy định của pháp luật đó cịn có cách hiểu
khác nhau hoặc lựa chọn, xác lập nguyên tắc, đường lối xử lý vụ án trong trường hợp
pháp luật chưa có quy định.
Như vậy, khi đã có án lệ, Thẩm phán, hội thẩm nhân dân phải xem xét, so

sánh vấn đề pháp lý cần được giải quyết trong vụ việc dân sự mà Tòa án đã thụ lý với
vấn đề pháp lý đã được giải quyết bằng án lệ nhằm tìm ra sự tương đồng hay khác
biệt, làm cơ sở quyết định áp dụng hay không áp dụng án lệ đó. Bên cạnh đó, cũng
cần lưu ý rằng trên phương diện pháp luật áp dụng, thì án lệ bao gồm hai loại: án lệ
về áp dụng pháp luật nội dung và án lệ về áp dụng pháp luật tố tụng. Do đó, tùy từng
vụ việc dân sự mà Tòa án áp dụng một trong hai loại án lệ nêu trên để giải quyết. Tuy
nhiên, việc phân loại án lệ này cũng chỉ mang tính chất tương đối; bởi lẽ, cũng có
một số loại án lệ về áp dụng pháp luật tố tụng được xác lập trên nền tảng các quy
định của pháp luật nội dung. Vì vậy, án lệ về pháp luật tố tụng cũng có thể được áp
dụng cho các vụ việc dân sự mà quan hệ dân sự phát sinh tranh chấp hay phát sinh
yêu cầu trong vụ việc dân sự đó khác với quan hệ dân sự trong vụ việc dân sự đã
được giải quyết bằng án lệ nhưng yêu cầu pháp lý cần phải giải quyết trong vụ việc
dân sự mà Tòa án đã thụ lý là tương tự với yêu cầu pháp lý đã được giải quyết bằng
án lệ.
Tóm lại, để áp dụng được án lệ, thì vụ việc dân sự mà Tòa án đã thụ lý cần
đáp ứng các điều kiện được phân tích sau:
(i) Giữa vụ việc đang giải quyết và án lệ phải có tình tiết, sự kiện pháp lý


giống nhau: Yêu cầu đầu tiên là phải cùng một loại quan hệ dân sự. Sau đó là tình
tiết cơ bản giữa hai vụ việc dân sự phải giống nhau, cụ thể là các tình tiết chính của
vụ việc đó, phản ánh về nội dung mối quan hệ dân sự đang phát sinh tranh chấp hoặc
có yêu cầu giải quyết. Nói cách khác, đây là những tình tiết quan trọng làm cơ sở cho
yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng trên thực tế khơng có
trường hợp nào mà các tình tiết của vụ việc này lại giống hồn tồn với tình tiết của
vụ việc khác. Do đó, sẽ là phi thực tế nếu cho rằng án lệ chỉ được áp dụng khi và chỉ
khi các tình tiết của vụ việc dân sự đang giải quyết phải giống hồn tồn các tình tiết
của vụ việc dân sự trong bản án, quyết định có chứa đựng án lệ. Vì thế, tác giả cho
rằng án lệ được áp dụng khi “các tình tiết cơ bản” của vụ việc dân sự đang được giải
quyết được xác định là tương tự với “các tình tiết cơ bản” của vụ việc dân sự trong

bản án, quyết định có chứa đựng án lệ.
Ví dụ: Án lệ số 04/2016/AL tại phần Khái quát nội dung của án lệ: “Trường
hợp nhà đất là tài sản chung của vợ chồng mà chỉ có một người đứng tên ký hợp
đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác, người cịn lại khơng ký tên trong
hợp đồng; nếu có đủ căn cứ xác định bên chuyển nhượng đã nhận đủ số tiền theo
thỏa thuận, người không ký tên trong hợp đồng biết và cùng sử dụng tiền chuyển
nhượng nhà đất; bên nhận chuyển nhượng nhà đất đã nhận và quản lý, sử dụng nhà
đất đó cơng khai; người không ký tên trong hợp đồng biết mà không có ý kiến phản
đối gì thì phải xác định là người đó đồng ý với việc chuyển nhượng nhà đất”. Tác giả
cho rằng phần này chính là “tình tiết cơ bản của vụ việc”, giả sử vụ việc đang giải
quyết có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nội dung khái qt này thì có thể áp dụng Án
lệ số 04/2016/AL.24
Mặc dù, trong phần nội dung Án lệ số 04/2016/AL trình bày rất nhiều tình
tiết, thậm chí nhiều quan hệ pháp luật có tranh chấp cần giải quyết, ví dụ: “Căn cứ
vào đơn khởi kiện đề ngày 05-11-2007 và các lời khai của bà Tý, ơng Tiến trong q
trình giải quyết vụ án thì bà Tý, ơng Tiến u cầu ông Ngự, bà Phấn trả lại toàn bộ
nhà, đất mà ông bà đã nhận chuyển nhượng của ông Ngự, bà Phấn đang do vợ
24Xem Án lệ số 04/2016/AL.


chồng ông Ngự chiếm giữ, đồng thời yêu cầu ông Ngự, bà Phấn dỡ bỏ phần xây
dựng trái phép trên diện tích đất trên. Như vậy, ngun đơn có u cầu địi quyền sở
hữu nhà, đất mà ơng Ngự, bà Phấn đã sang nhượng theo hợp đồng chuyển nhượng
nhà, đất lập ngày 26-4-1996. Trong khi đó, ơng Ngự, bà Phấn cho rằng phần đất có
tranh chấp vẫn là của ơng bà, vì ơng bà chưa chuyển nhượng cho bà Tý, ông Tiến.
Do đó, có cơ sở xác định các đương sự tranh chấp về quyền sở hữu tài sản và tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm
chỉ xác định quan hệ pháp luật cần giải quyết là vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà,
đất là chưa đầy đủ”. Rất nhiều những tình tiết, sự kiện pháp lý khác biệt trong phần
nội dung vụ án tại Án lệ chỉ có ý nghĩa cung cấp thông tin giúp người đọc hiểu được

án lệ và tham khảo chứ không buộc phải giống như vụ việc đang giải quyết.
(ii) Giữa vụ việc đang giải quyết và án lệ phải có sự tương đồng về vấn đề
pháp lý: Theo Nghị quyết số 03/2015/HĐTP, thì án lệ chỉ được xác lập để giải quyết
vấn đề pháp lý liên quan trực tiếp đến lựa chọn quy định cụ thể của pháp luật để áp
dụng mà quy định của pháp luật đó cịn có cách hiểu khác nhau hoặc lựa chọn, xác
lập nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc
cụ thể. Như vậy, khi đã có án lệ, người tiến hành tố tụng phải xem xét, so sánh vấn đề
pháp lý cần được giải quyết trong vụ việc dân sự mà Tòa án đã thụ lý với vấn đề
pháp lý đã được giải quyết bằng án lệ nhằm tìm ra sự tương đồng hay khác biệt, làm
cơ sở quyết định áp dụng hay khơng áp dụng án lệ đó. Bên cạnh đó, trên phương diện
áp dụng pháp luật, thì án lệ bao gồm hai loại: án lệ về áp dụng pháp luật nội dung và
án lệ về áp dụng pháp luật tố tụng. Do đó, tùy từng vụ việc dân sự mà Tòa án áp
dụng một trong hai loại án lệ nêu trên để giải quyết.
Mặt khác, Tòa án có quyền khơng viện dẫn án lệ trong trường hợp án lệ
khơng cịn phù hợp do có sự thay đổi của pháp luật tại thời điểm áp dụng và không
áp dụng án lệ khi có chuyển biến tình hình dẫn tới việc án lệ khơng cịn phù hợp. Tác
giả cho rằng, Nghị quyết 03/2015 quy định: “Trường hợp do chuyển biến tình hình
mà án lệ khơng cịn phù hợp thì Thẩm phán, Hội thẩm không áp dụng án lệ” là rất
mơ hồ, khó hiểu, thời gian tới Tịa án Tối cao nên xem xét bỏ quy định này để án lệ


×