Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

Bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh theo pháp luật việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.17 KB, 77 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

LÊ THỊ PHƯƠNG ANH

BẢO VỆ QUYỀN CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI HÌNH ẢNH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
••

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

LÊ THỊ PHƯƠNG ANH

BẢO VỆ QUYỀN CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI HÌNH ẢNH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
••

Ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Mã số: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN NGỌC ĐIỆN

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan luận văn thạc sĩ “Bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh


theo pháp luật Việt Nam” là cơng trình của riêng tác giả. Toàn bộ nội dung, số liệu trong
luận văn là trung thực và là kết quả nghiên cứu của riêng tác giả. Tất cả tài liệu tham khảo và
kế thừa đều được tác giả trích dẫn đầy đủ.
Tác giả đã hồn thành tất cả các mơn học và thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của nhà trường.
Luận văn này được thực hiện một cách độc lập dưới sự hướng dẫn của PGS.TS
Nguyễn Ngọc Điện.
TÁC GIẢ

LÊ THỊ PHƯƠNG ANH


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Tên viết tắt

Thay cho

1

BLDS

Bộ luật dân sự

2


BLHS

Bộ luật hình sự

3

Luật HN&GĐ

Luật hơn nhân và gia đình

4

NXB

Nhà xuất bản

5

Bộ TT&TT

Bộ Thơng tin và truyền thơng


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Trang


6

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng và mạnh mẽ hơn với
nhiều khó khăn, thử thách và cả những thành tựu đáng được ghi nhận. Bên cạnh việc
tập trung phát triển kinh tế, Việt Nam luôn chú trọng tới vấn đề con người. Với việc
đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách, coi con người vừa là động lực,
vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển và đường lối đổi mới, không chỉ tác động
đến kinh tế, xã hội đồng thời còn chi phối mạnh mẽ nhận thức và thực tế bảo đảm
quyền con người ở nước ta trong thời gian qua. Theo đó, mỗi cơng dân đều có những
quyền cơ bản được nhà nước ghi nhận và bảo vệ, một trong số đó phải kể đến quyền
của cá nhân đối với hình ảnh. Hiện nay, việc khai thác và sử dụng hình ảnh tràn lan
của các diễn viên, nghệ sĩ nổi tiếng trên các trang báo điện tử, mạng xã hội, tờ rơi
quảng cáo nhằm mục đích quảng bá sản phẩm, thương hiệu, bán hàng trực tuyến...
khơng cịn q xa lạ. Hay đơn giản chỉ là việc đăng ảnh của người khác mà khơng
được sự đồng ý của người đó lên các ứng dụng mạng xã hội như facebook,
instagram, zalo nhằm một mục đích nào đó, ví dụ như hình chụp phản hồi làn da của
khách hàng sau khi dùng sản phẩm, đăng tải hình ảnh của bạn bè với mục đích mua
vui, hay những bức ảnh chân dung của con cái mà cha mẹ muốn lưu giữ và chia sẻ
với nhiều người. Cũng khơng ít trường hợp giả mạo tài khoản cá nhân bằng việc lấy
hình ảnh của người khác để thực hiện việc câu kéo và thu hút khách hàng, đem lại lợi
ích cho hoạt động mua bán khi khơng phải trả tiền cho việc sử dụng hình ảnh đó để
quảng cáo. Hoặc, trong thời gian gần đây, dư luận đang dấy lên tranh cãi khi con cái
kiện tụng cha mẹ về việc đăng hình ảnh của chúng khi cịn bé, việc cấm cơ quan báo
chí tác nghiệp tại phiên tịa.Tuy nhiên, hầu hết việc sử dụng hình ảnh của cá nhân

trong các trường hợp kể trên khơng có sự cho phép của chủ sở hữu hình ảnh đó, các
cá nhân, tổ chức khi bị “đánh động” chỉ cần gỡ hình ảnh đó là coi như mọi chuyện
được bỏ qua.
Về phía cá nhân có hình ảnh bị lạm dụng, cuộc sống của họ ít nhiều bị ảnh


7

hưởng, đặc biệt là giới nghệ sĩ và các chủ thể đặc biệt khác như trẻ em, phạm nhân
khi một hình ảnh của họ khơng được sử dụng với mục đích tốt cũng có thể gây tổn
hại tới danh dự, nhân phẩm, uy tín, đời sống vật chất và tinh thần, kể cả sự nghiệp và
nhịp sống hằng ngày. Còn đứng về phía những người bị “đánh lừa” bởi những hình
ảnh giả mạo trong các quảng cáo kể trên, cụ thể đa phần đối tượng chịu thiệt là người
tiêu dùng, họ bị mất niềm tin vào người bán là hệ quả khơng tránh khỏi, chưa kể tới
tình huống xấu hơn là họ bị lừa đảo tài sản, “tiền mất tật mang”.
Chính vì những lẽ đó, việc mỗi cá nhân được biết họ có những quyền gì đối
với hình ảnh của chính mình và của cả người khác, có giới hạn nào trong việc sử
dụng hình ảnh của người khác và đâu là những hành vi bị cấm và phải bị xử phạt
nghiêm khắc, ai sẽ là chủ thể đứng ra bảo vệ cho cá nhân có hình ảnh bị xâm phạm,
mức độ và phương thức bảo vệ của pháp luật như thế nào đang là những vấn đề hết
sức cấp thiết cần được giải đáp bởi nhiều ngành luật khác nhau. Trong đó, pháp luật
dân sự đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013 về quyền con người, quyền cơng dân bằng việc khẳng định cá
nhân có quyền đối với hình ảnh của mình, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải
được người đó đồng ý, việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương
mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác1.
Việc pháp luật ghi nhận và bảo vệ hình ảnh của cá nhân có ý nghĩa rất lớn,
đây khơng chỉ là yếu tố gắn liền với tinh thần, mà một khi hình ảnh đó bị xâm phạm
cịn ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm và đời sống của họ. Tuy nhiên, dù đã được

pháp luật dân sự ghi nhận là một trong những quyền nhân thân quan trọng của cá
nhân, nhưng chế định bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh theo pháp luật Việt
Nam vẫn chưa chặt chẽ và cần được hoàn thiện. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và
thực tiễn áp dụng các quy định về quyền đối với hình ảnh, tác giả mạnh dạn quyết
định chọn vấn đề “Bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh theo pháp luật Việt
Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
1 Khoản 1 Điều 32 BLDS 2015


8

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay, ở Việt Nam chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu về quyền
nhân thân nói chung và quyền của cá nhân đối với hình ảnh nói riêng. Liên quan
4 Ạ_ A 4- Ạ 1_______________________ <

.1 Ấ 1 _ Ấ 4- Á ________________ZV . Á ZV

. \1

1_ 1 • _ _• Ấ .

________

đến vấn đề này có thể kể đến một số cơng trình và bài viết sau:
- Cơng trình nghiên cứu luận văn “Quyền cá nhân đối với hình ảnh theo pháp
luật Việt Nam” của tác giả Trần Thị Thu Hằng được hướng dẫn bởi PGS.TS Bùi
Đăng Hiếu, trường Đại học luật Hà Nội (2014);
- Bài viết “Luận bàn về quyền của cá nhân đối với hình ảnh theo quy định của
BLDS 2005” của tác giả Ths. Phùng Bích Ngọc, giảng viên Khoa Luật thương mại,

trường Đại học Thương mại;
-

Bài viết “Tơn trọng và bảo vệ hình ảnh cá nhân” của nhà báo Việt Quang
được đăng tải trên báo Nhân dân ngày 17 tháng 10 năm 2016;

-

Bài viết “Quyền về hình ảnh theo quy định mới” của THS.LS Phạm Thanh
Bình, cơng ty luật Bảo Ngọc (Hà Nội), được đăng tải trên báo VNexpress
ngày 20 tháng 1 năm 2017;

-

Bài viết “Bàn về quyền của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật hiện
hành và kiến nghị” của tác giả THS.LS Lê Văn Sua được đăng tải trên website
thongtinphapluat.edu.vn ngày 11 tháng 7 năm 2017...
Tuy nhiên, có thể thấy rằng, vẫn cịn một số bài báo được viết trong bối cảnh

BLDS 2005, do đó, cịn nhiều nội dung khơng phù hợp với những quy định mới của
BLDS 2015, BLHS 2015, Luật Báo chí 2016, Luật trẻ em 2016... cần được thay thế
và bổ sung. Ngoài ra, các bài viết chưa đánh vào trọng tâm đi khai thác khía cạnh
bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh như thế nào. Đây cũng chính là điểm mới
mà người viết mạnh dạn đi sâu nghiên cứu trong luận văn.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là tập trung giải quyết các nội dung sau đây:


9


Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận chung về bảo vệ quyền của cá nhân
đối với hình ảnh.
Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng bảo vệ quyền của cá nhân đối với
hình ảnh tại Việt Nam hiện nay. Từ đó tìm ra những bất cập, hạn chế trong công tác
bảo vệ quyền và đưa ra giải pháp giải quyết vấn đề.
Thứ ba, trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng, tác giả sẽ đưa ra những
luận cứ khoa học và đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong chế định bảo vệ
quyền của cá nhân đối với hình ảnh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra đối với
luận văn là:
- Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền nhân thân của cá
nhân nói chung và quyền đối với hình ảnh của cá nhân nói riêng.
- Phân tích và làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về các biện pháp
bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh. Phân tích các tình huống cụ thể, từ đó
đánh giá việc thực hiện các biện pháp bảo vệ trên thực tế.
- Làm rõ những thành tựu và hạn chế trong các quy định của pháp luật hiện
hành về vấn đề bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao
hiệu quả áp dụng áp dụng pháp luật trong việc bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình
ảnh.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề về lý luận và thực tiễn liên
quan đến việc bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh theo quy định của pháp
luật Việt Nam.


10


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi nghiên cứu tác giả sẽ đi sâu tìm hiểu, phân tích và đánh giá các
vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh trên cơ sở kế thừa và
học hỏi các kết quả nghiên cứu trong các tài liệu và cơng trình nghiên cứu trước đây
trong khn khổ hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời liên hệ và so sánh với các
quy định về bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh trong luật pháp của một số
quốc gia trên thế giới để học hỏi kinh nghiệm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu đề tài, người viết sử dụng phương pháp
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, cụ thể, các biện pháp được sử dụng trong luận văn đó là:
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Tác giả tiến hành phân tích những vấn
đề cơ bản như khái niệm, đặc điểm và giới hạn của việc bảo vệ quyền của cá nhân
đối với hình ảnh. Đồng thời, tác giả cũng tổng hợp các quy định pháp luật Việt Nam
hiện hành có liên quan đến việc bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh và từ đó
đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến chế định
này.
Phương pháp so sánh: Tác giả tiến hành so sánh, đối chiếu quy định của pháp
luật Việt Nam với quy định của pháp luật một số quốc gia trên thế giới và giữa các
quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành để từ đó đánh giá, chọn lọc
những điểm phù hợp nhằm đưa ra kiến nghị, giải pháp thích hợp, có thể áp dụng vào
thực tiễn.
Phương pháp suy luận: Phương pháp này được tác giả sử dụng để đánh giá
mức độ phù hợp các quy định của pháp luật đối với thực tiễn áp dụng các biện pháp
bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là một cơng trình nghiên cứu có đầu tư và chuyên sâu, góp phần làm



11

phong phú thêm cho cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề bảo vệ quyền của cá nhân
đối với hình ảnh, từ đó chỉ ra những bất cập và hạn chế của pháp luật Việt Nam về
vấn đề này.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho hoạt động học tập, nghiên cứu của sinh viên, giảng viên, những người
nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền hình ảnh của cá nhân, đồng thời đóng góp ý kiến
vào công tác xây dựng và áp dụng các quy định của pháp luật vào thực tiễn.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề
tài gồm 02 chương:
Chương 1: Lý luận chung về bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh theo
pháp luật Việt Nam.
Chương
2: Việt
Thực
trạng
và kiến
hồnđối
thiện
quy
định
của
pháp
luật
về
bảo
Nam.
vệ quyền

củanghị
cá nhân
vớicác
hình
ảnh
theo


CHƯƠNG 1.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI HÌNH ẢNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1
.1. Khái quát về quyền nhân thân và quyền của cá nhân đối với hình
ảnh
1.1.1.
1.1.1.1.

Khái niệm, đặc điểm và phân loại quyền nhân thân
Khái niệm quyền nhân thân

Quyền nhân thân là quyền của cá nhân đối với các giá trị nhân thân của mình
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với
mỗi cá nhân như quyền xác định dân tộc, quyền xác định lại giới tính, quyền chuyển
đổi giới tính, quyền kết hơn, quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên
trong gia đình, quyền ly hơn, quyền được thay đổi họ, tên, quyền được khai sinh,
khai tử, quyền nhận nuôi con ni, quyền sống, quyền được bảo đảm an tồn về tính
mạng, sức khoẻ, thân thể, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín và một số
quyền nhân thân khác được quy định cụ thể trong pháp luật dân sự qua các thời kỳ từ
BLDS năm 1995 đến BLDS năm 2015.
Trong khoa học pháp lý cũng như trên thực tế, thuật ngữ quyền nhân thân

thường bị nhầm với giá trị nhân thân. Giá trị nhân thân là những giá trị tinh thần gắn
liền với cá nhân, có từ khi cá nhân sinh ra và không phải mọi giá trị nhân thân đều
được xác định là quyền nhân thân mà chỉ những giá trị nhân thân được nhà nước ghi
nhận và bảo vệ thơng qua việc luật hố thì mới được coi là quyền nhân thân. 2
Quyền nhân thân với tư cách là một thuật ngữ pháp lý, lần đầu tiên được nhắc
đến trong BLDS năm 1995, nó ra đời và có ý nghĩa là cơ sở pháp lý để bảo vệ cho cá
nhân tồn tại với tư cách là một thực thể, một chủ thể độc lập trong cộng đồng. Thơng
qua việc cụ thể hố các quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền con người về
2 Đoàn Thị Ngọc Hải (2018), Chế định quyền nhân thân trong pháp lu ật dân sự Việt Nam,
< />

dân sự, BLDS năm 1995 xác định quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi
cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác. Đây được xem là một bước đổi mới quan trọng trong tư duy, nhận thức
của các nhà làm luật Việt Nam, cũng là bước tiến đáng ghi nhận, có ý nghĩa đặt nền
móng cho sự phát triển quy định về quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật dân sự
Việt Nam.
Về khái niệm quyền nhân thân, hiện nay trong pháp luật thực định cũng như
trong các cơng trình nghiên cứu khoa học chưa có một định nghĩa nào thống nhất, cụ
thể về quyền nhân thân. Dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, các nhà lập pháp, nhà
nghiên cứu luật học đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm này.
Quan điểm thứ nhất: cho rằng chỉ những giá trị nhân thân được pháp luật ghi
nhận mới được xem là quyền nhân thân, còn những giá trị nhân thân khơng được ghi
nhận thì sẽ không được xem là quyền nhân thân. Quan điểm này có một hạn chế lớn
đó là chưa xác định được quyền nhân thân chính là quyền dân sự. Mặt khác, với cách
nhìn nhận chỉ những giá trị nhân thân được pháp luật ghi nhận mới được coi là quyền
nhân thân, định nghĩa này đã vơ hình chung thu hẹp phạm vi quyền nhân thân của
con người.
Quan điểm thứ hai: cho rằng quyền nhân thân là quyền dân sự chủ quan gắn
liền với cá nhân do nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và các cá nhân không thể

chuyển giao quyền này cho người khác. So với hai quan điểm trên, quan điểm này
được xem là đầy đủ và toàn diện hơn khi nêu được các thuộc tính của quyền nhân
thân như: là quyền dân sự, gắn liền với cá nhân, được nhà nước quy định và không
thể chuyển giao, đồng thời, khắc phục được hạn chế mà quan điểm thứ hai mắc phải.
Quan điểm thứ ba: nhìn nhận quyền nhân thân theo hai vấn đề, đó là quyền
dân sự gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao cho người khác. Quan
điểm này đã được chuyển hóa vào nội dung quy định trong BLDS năm 2015.
Kế thừa những điểm tiến bộ trong quy định của BLDS năm 2005 về quyền
nhân thân, tại khoản 1 Điều 25 BLDS năm 2015 quy định: “Quyền nhân thân được


quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể
chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”.
Quy định này phần nào làm rõ khái niệm quyền nhân thân với hai đặc điểm cơ bản:
là quyền dân sự gắn liền với cá nhân và không thể chuyển giao cho người khác.
Như vậy, qua việc tìm hiểu những quan điểm khoa học pháp lý đến luật thực
định về khái niệm quyền nhân thân cho thấy, hiện nay, cịn có nhiều cách nhìn nhận,
tiếp cận về quyền nhân thân khác nhau ở nhiều góc độ nhất định. Tuy nhiên, về cơ
bản, các quan điểm nói trên đều thống nhất ở một số điểm chung như sau:
Thứ nhất, quyền nhân thân là một bộ phận của quyền dân sự và quyền này
thuộc về cá nhân.
Thứ hai, quyền nhân thân luôn hướng tới những giá trị tinh thần không định
giá được như quyền đối với họ tên; quyền được khai sinh; quyền được khai tử; quyền
tự do đi lại, tự do cư trú; quyền đối với hình ảnh cá nhân; quyền bí mật đời tư; quyền
tác giả... Tất cả những quyền này liên quan mật thiết đến những nhu cầu cần có của
một cá nhân sống trong xã hội và bất cứ ai cũng không được phép xâm phạm.
Thứ ba, quyền nhân thân không thể chuyển giao cho người khác, nghĩa là
quyền nhân thân của mỗi cá nhân chỉ do chính cá nhân đó có quyền thực hiện hoặc
do người đại diện của họ thực hiện trong một số trường hợp do pháp luật quy định.
Xuất phát từ những điểm thống nhất trong một số quan điểm nêu trên và quy

định về quyền nhân thân tại Điều 25 BLDS năm 2015, có thể đưa ra định nghĩa về
quyền nhân thân như sau: “Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với giá trị tinh
thần của mỗi chủ thể, không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho
chủ thể khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.3
1.1.1.2.

Đặc điểm quyền nhân thân

Với bản chất là một bộ phận của quyền dân sự, quyền nhân thân có đầy đủ
các đặc điểm của quyền dân sự nói chung. Ngồi ra, nó cịn mang một số đặc điểm
3 Đặng Thị Lưu (2019), Quyền nhân thân trong pháp luật dân sự, < >.


riêng biệt nhằm phân biệt với quyền tài sản. Cụ thể như:
Thứ nhất, quyền nhân thân mang tính chất phi tài sản.
Khác với quyền tài sản, đối tượng của quyền nhân thân là một giá trị tinh
thần, do đó, quyền nhân thân không biểu hiện bằng vật chất, không quy đổi được
thành tiền và mang giá trị tinh thần. Giá trị tinh thần và tiền tệ không phải là những
đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Do vậy, quyền nhân thân
không thể bị định đoạt hay mang ra chuyển nhượng cho người khác. Một người
không thể kê biên quyền nhân thân của con nợ. Pháp luật quy định cho mọi chủ thể
đều bình đẳng về quyền nhân thân. Mỗi một chủ thể có những giá trị nhân thân khác
nhau nhưng được pháp luật bảo vệ như nhau khi các giá trị đó bị xâm phạm.
Thứ hai, quyền nhân thân gắn liền với một chủ thể nhất định và không thể
chuyển dịch.
Mỗi một chủ thể mang một giá trị nhân thân đặc trưng, do đó, quyền nhân
thân luôn gắn liền với một chủ thể nhất định. Mặc dù vậy, quyền nhân thân không bị
phụ thuộc, chi phối bởi bất kỳ yếu tố khách quan nào như độ tuổi, trình độ, giới tính,
tơn giáo, địa vị xã hội, ...
Quyền nhân thân không thể chuyển dịch cho người khác, tức là, quyền nhân

thân của mỗi cá nhân chỉ do chính cá nhân đó hoặc trong một số trường hợp do chủ
thể khác được pháp luật quy định thực hiện. Quyền nhân thân không thể là đối tượng
trong các giao dịch mua bán, trao đổi, tặng, cho, ... Trên thực tế xuất hiện nhiều hợp
đồng liên quan đến quyền nhân thân, ví dụ: một người mẫu ký hợp đồng với cơng ty
quảng cáo về việc cho phép cơng ty đó sử dụng bức ảnh của mình để quảng cáo.
Vậy, quyền nhân thân đối với hình ảnh của người mẫu trong trường hợp này có được
xem là đối tượng chuyển dịch? Thực chất, đối tượng chuyển dịch trong trường hợp
này chính là những bức ảnh của người mẫu đã được chụp mà khơng phải là quyền
nhân thân đối với hình ảnh của người mẫu. Bởi, như đã phân tích ở trên, quyền nhân
thân mang giá trị tinh thần, do đó, khơng thể định đoạt và chuyển giao cho người
khác. Trong nghiên cứu mới đây về quyền nhân thân, có quan điểm phân loại quyền


nhân thân thành quyền nhân thân cơ sở (hay còn gọi là quyền nhân thân gốc) và
quyền nhân thân phái sinh. Quyền nhân thân cơ sở là quyền nhân thân theo đúng bản
chất của nó, khơng thể chuyển nhượng. Quyền nhân thân phái sinh là quyền khai
thác danh tiếng của một cá nhân với mục đích thương mại. Liên quan đến hình ảnh
của cá nhân, quyền nhân thân đối với hình ảnh là quyền nhân thân cơ sở, cịn quyền
đối với từng bức ảnh cụ thể của cá nhân trong trường hợp ký hợp đồng với cơng ty
quảng cáo nói trên là quyền nhân thân phái sinh.
1.1.1.3.

Phân loại quyền nhân thân

Các quyền nhân thân của cá nhân là một trong những quyền hiến định đã
được ghi nhận và quy định cụ thể trong các văn kiện pháp lý quốc tế như: Hiến
chương Liên hợp quốc 1945, Tuyên ngôn nhân quyền 1948, Hai Công ước quốc tế
về quyền con người năm 1966. Ở Việt Nam, các quyền nhân thân của mỗi cá nhân
cũng được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp năm 2013: Điều 19 (Mọi người có quyền
được sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính

mạng trái luật); Điều 36 (Nam, nữ có quyền kết hơn, ly hơn); Điều 42 (Cơng dân có
quyền xác định dân tộc của mình) ... Thể chế hoá tinh thần Hiến pháp


năm 2013, BLDS năm 2015 khá cụ thể, chi tiết các quyền nhân thân của mỗi cá nhân
trong đời sống dân sự từ Điều 25 đến Điều 39 4:
Nhóm các quyền cá biệt hố chủ thể: Quyền có họ, tên; quyền thay đổi họ;
quyền thay đổi tên; Quyền xác định, xác định lại dân tộc; quyền được khai sinh, khai
tử; quyền đối với quốc tịch; quyền của cá nhân đối với hình ảnh; quyền xác định lại
giới tính; chuyển đổi giới tính.
Đối với nhóm quyền này, BLDS 2015 đã thêm vào một quyền nhân thân mới
cho cá nhân mà BLDS 2005 chưa có quy định, đó là chuyển đổi giới tính.
Trước đây, pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận việc xác định lại giới tính cho
những người bị khuyết tật bẩm sinh về mặt giới tính hoặc giới tính chưa được định
hình chính xác. Việc chuyển đổi giới tính của những người hồn thiện về giới tính
khơng được pháp luật cho phép. Do đó, những người đã chuyển đổi giới tính rất bấp
bênh trong việc bảo vệ quyền của mình. Về mặt hình thể, họ là nam hoặc nữ, nhưng
trên giấy tờ nhân thân thì họ lại là nữ hoặc nam. Chính vì vậy, pháp luật Việt Nam
khơng thừa nhận chuyển đổi giới tính nên các cơ quan có thẩm quyền không thể thay
đổi về hộ tịch cho những người này theo giới tính hiện tại. Cũng vì lẽ đó, một số
quyền nhân thân, quyền tài sản, thậm chí là nhân phẩm, danh dự của những người
này bị xâm phạm mà không được pháp luật bảo vệ.
Hiện nay, BLDS năm 2015 đã thừa nhận việc chuyển đổi giới tính là một
trong những quyền cơ bản của công dân theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm
20135. Song song với việc thừa nhận quyền chuyển đổi giới tính, BLDS năm 2015
cũng có những quy định để đảm bảo các quyền nhân thân cho người chuyển đổi giới
tính. Mặc dù pháp luật đã có hướng mở cho việc chuyển đổi giới tính, tuy nhiên lần
đầu tiên pháp luật Việt Nam cho phép cơng dân được chuyển đổi giới tính, do đó sẽ
có nhiều vấn đề phức tạp và nhạy cảm phát sinh, đó là các vấn đề liên quan đến y tế,
4


Đồn Thị Ngọc Hải (2018), Chế định quyền nhân thân trong pháp luật dân sự Việt Nam,

mục 2 < />5“Các quyền con người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hố, xã hội được cơng
nhận, tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp, pháp luật” (Điều 14), “Mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật; khơng ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hộĩ” (Điều 16).


bảo hiểm, hơn nhân gia đình, hộ tịch, lao động ... cũng như các chính sách an sinh xã
hội. Một vấn đề khác liên quan đến lĩnh vực hôn nhân gia đình, Luật Hơn nhân gia
đình năm 2014 khơng thừa nhận hôn nhân đồng giới, nhưng khi BLDS năm 2015
cho phép chuyển đổi giới tính, có thể nào xảy ra trường hợp một cặp vợ chồng đã kết
hơn và có con chung, sau đó người chồng hoặc người vợ chuyển đổi giới tính mà
chưa ly hơn, lúc đó sẽ xảy ra trường hợp hôn nhân đồng giới.
BLDS năm 2015 mới chỉ quy định khái quát về xác định lại giới tính và
chuyển đổi giới tính, vì vậy cần có các văn bản hướng dẫn thi hành quy định chi tiết
để giải quyết những vướng mắc về vấn đề chuyển giới như việc đăng ký kết hôn cho
những người chuyển giới, cơng tác tạm giữ tạm giam, thi hành án hình sự đối với
người đã thực hiện phẫu thuật nhưng chưa tiến hành cải chính hộ tịch ... có như vậy
thì quyền chuyển đổi giới tính mới được thực thi sớm và đi vào thực tế.
Nhóm các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân: Quyền sống, quyền
được đảm bảo an tồn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền hiến, nhận mô, bộ
phận cơ thể người và hiến, lấy xác.
Tính mạng, sức khỏe, thân thể là những yếu tố quyết định sự sống còn, sự tồn
tại của con người, ảnh hưởng tới tồn bộ q trình sống và chất lượng cuộc sống của
mỗi con người. Do đó, các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân được nhà nước
ta công nhận và bảo vệ tuyệt đối khỏi bất kỳ sự xâm hại nào, khơng phân biệt giới
tính, địa vị xã hội của cá nhân đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Quyền
hiến, nhận mơ, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác là các quyền thể hiện ý chí của
người cịn sống đối với cơ thể của mình, mỗi cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy

đủ có quyền tự quyết định đối với đối với thân thể của mình, khơng ai có quyền can
thiệp hay ngăn cản.
Nhóm các quyền liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể: Quyền được bảo
vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền về đời sống riêng tư, bí
mật cá nhân, bí mật gia đình.
BLDS năm 2015 đã quy định khá hoàn chỉnh, cụ thể, rõ ràng quyền về đời


sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của cá nhân, đây là quyền nhân thân
của cá nhân bất khả xâm phạm. Cá nhân là một chủ thể độc lập trong quan hệ xã hội
nói chung, quan hệ dưới góc độ dân sự nói riêng. Do vậy, mỗi cá nhân có đời sống
riêng tư, nội hàm của đời sống riêng tư có bí mật cá nhân. Quyền riêng tư là quyền
của cá nhân được tự quyết đối với đời sống của mình mà khơng chịu bất kỳ sự can
thiệp nào từ những người xung quan khác. Với quyền này, cá nhân được sống như
mong muốn của mình mà không chịu ảnh hưởng, tác động bất kỳ của chủ thể nào
khác; cịn bí mật cá nhân, bí mật gia đình là những thơng tin, tư liệu mà cá nhân
khơng muốn cơng khai, bộc bạch, được giữ kín bằng các biện pháp thông thường
hoặc biện pháp kỹ thuật khác nhau. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thơng
tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được bản thân cá nhân đó
đồng ý. Quy định này hoàn toàn phù hợp với mọi cá nhân trong đời sống, xã hội, thể
hiện được sự tôn trọng của pháp luật đối với đời sống riêng tư, bí mật đời tư của cá
nhân.
Quyền nhân thân trong hơn nhân và gia đình.
Nếu như trong BLDS 2005, quyền nhân thân trong hơn nhân và gia đình được
quy định từ Điều 39 đến Điều 44 thì BLDS 2015 gói gọn vào duy nhất Điều 39. Theo
đó, quyền nhân thân trong hơn nhân và gia đình được phân thành hai nhóm: nhóm
các quyền tạo lập gia đình (quyền kết hơn, quyền ly hôn, quyền nhận nuôi và quyền
được làm con nuôi) và nhóm quyền giữa các thành viên trong gia đình (quyền bình
đẳng vợ chồng, quyền được hưởng sự chăm sóc từ các thành viên trong gia đình).
Việc này cho thấy kỹ thuật lập pháp của các nhà làm luật đã nâng cao làm cho điều

luật trở nên ngắn gọn, súc tích hơn; xét về mặt nội dung thì các vấn đề liên quan đến
hơn nhân và gia đình đã được quy định cụ thể tại Luật HN&GĐ 2014 và Luật nuôi
con nuôi năm 2010.
1.1.2.

Khái quát quyền của cá nhân đối với hình ảnh

1.1.2.1. Khái niệm quyền của cá nhân đối với hình ảnh
Hình ảnh của cá nhân được hiểu là sự tái hiện lại vẻ bề ngoài của một người


bằng cách thức nào đó có thể ghi lại và gây ấn tượng thị giác cho những người khác.
Cá nhân này có thể được phân biệt về các đặc điểm nhận dạng (khn mặt, các bộ
phận trên cơ thể, hình dang..với những cá nhân khác thơng qua hình ảnh của họ.
Hình ảnh của cá nhân bao gồm mọi hình thức tác phẩm ghi lại hình dáng của
con người cụ thể như: chụp, ảnh họa chép, vẽ và suy rộng ra có thể cả bức tượng của
cá nhân đó nữa. Xét về mặt quyền sở hữu trí tuệ thì bức ảnh, tấm hình, pho tượng
đều là loại hình tác phẩm, người sử dụng tác phẩm trước hết phải xin phép người chủ
bản quyền (chủ sở hữu quyền tác giả) và trả cho họ một khoản lợi ích vật chất, đồng
thời phải trả thù lao, nhuận bút cho người sáng tác (người chụp hình, người vẽ, người
điêu khắc.). Cịn xét về quyền nhân thân của con người, ai muốn sử dụng hình ảnh
của cá nhân phải được sự đồng ý của người đó6.
Xã hội ln nhìn nhận, đánh giá một cá nhân thơng qua những thơng tin, hình
ảnh của cá nhân đó mà họ nhận được. Chính vì vậy, hình ảnh có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với mỗi cá nhân. Trong pháp luật hầu hết các nước phương Tây cũng
như trong pháp luật Việt Nam đều đặt ra quyền của cá nhân đối với hình ảnh, theo
đó, thừa nhận hình ảnh của cá nhân được bảo vệ dưới bất cứ hình thức nào, dù là
tranh vẽ, ảnh chụp, ảnh quay phim. Tuy nhiên, pháp luật chỉ bảo vệ những hình ảnh
mà thơng qua việc xem hình đó, cá nhân xuất hiện trong hình có thể bị nhận dạng và
người xem hình có thể xác định được cá nhân đó là ai. Khơng phải trong mọi trường

hợp, hình ảnh của cá nhân phải có khn mặt và ghi rõ họ tên người trong ảnh thì
mới nhận dạng được cá nhân đó.
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có một quy định nào đưa ra
định nghĩa về khái niệm quyền nhân thân đối với hình ảnh. Ngay cả trong Điều 32
BLDS năm 2015 quy định trực tiếp về quyền của cá nhân đối với hình ảnh cũng chỉ
quy định chung chung “Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình” mà khơng chỉ
ra cụ thể quyền nhân thân đối với hình ảnh là gì. Tuy nhiên, qua nội dung của các
điều luật có liên quan như Điều 25 hay Điều 32 BLDS năm 2015 thì có thể hiểu
6

Lê Văn Sua (2017), Quyền của cá nhân đối với hình ảnh, < />
nhan-doi- voi-hinh-anh.html>.


quyền của cá nhân đối với hình ảnh là “quyền nhân thân gắn liền với cá nhân được
pháp luật quy định và bảo vệ, liên quan đến việc sử dụng và cho phép sử dụng hình
ảnh của chính cá nhân đó”.
Cụ thể hơn, theo quan điểm của người viết, quyền của cá nhân đối với hình
ảnh vừa là quyền nhân thân không gắn với tài sản, vừa là quyền nhân thân gắn với tài
sản. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Bộ luật Dân sự 2015 về năng lực pháp
luật dân sự của cá nhân bao gồm: “Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền
nhân thân gắn với tài sản.”. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản này được
công nhận đối với mọi cá nhân một cách bình đẳng và suốt đời, khơng phụ thuộc vào
bất cứ hoàn cảnh kinh tế, địa vị hay mức độ tài sản của người đó.
Đối với loại quyền nhân thân gắn với tài sản có thể hiểu là khi xác lập quyền
nhân thân này sẽ làm phát sinh các quyền tài sản đi kèm. Nói một cách dễ hiểu hơn,
quyền nhân thân gắn với tài sản chỉ phát sinh khi con người sáng tạo ra một loại tài
sản và chứng minh được loại tài sản này do mình làm ra. Nếu khơng có tài sản đó thì
khơng phát sinh các quyền nhân thân của chủ thể có liên quan. Trường hợp quyền
nhân thân gắn với tài sản thường gắn liền với quyền sở hữu trí tuệ (như tác phẩm văn

học, nghệ thuật, khoa học, sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn,
giống cây trồng, ...), vì đây là những loại hình tài sản mà khi được xác lập đồng
nghĩa với việc xác lập các quyền nhân thân (quyền tài sản) của tác giả đi kèm. Tương
tự như đối với hình ảnh của cá nhân, thực chất thì hình ảnh mà cá nhân đem ra giao
dịch là quyền tài sản đối với hình ảnh. Hình ảnh sau khi được chụp, vẽ, .... trở thành
một tài sản và cá nhân được phép bán quyền đối với hình ảnh cụ thể đó.
Do đó, khi xem xét quyền của cá nhân đối với hình ảnh cần nhìn nhận dưới cả
hai góc độ của quyền nhân thân. Đó cũng là lý do mà pháp luật Pháp có quy định cụ
thể về quyền nhân thân cơ sở và quyền nhân thân phái sinh nhằm phân biệt quyền
nhân thân gắn liền với cá nhân và quyền nhân thân được phép chuyển giao. Vì quyền
nhân thân cơ sở là quyền nhân thân khơng thể chuyển nhượng được quyền đối với
hình ảnh của cá nhân. Tức là quyền nhân thân cơ sở là quyền nhân thân của cá nhân
đối với hình ảnh. Quyền nhân thân phái sinh là quyền khai thác danh tiếng của một


cá nhân với mục đích thương mại. Tức là việc người nổi tiếng ký hợp đồng đồng ý
cho phép sử dụng hình ảnh của mình là quyền nhân thân phái sinh. Quyền nhân thân
phái sinh là quyền đối với từng bức ảnh cụ thể nhằm khai thác danh tiếng của mình
để thu lợi nhuận.
Cũng lại có quan điểm cho rằng, quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền
tài sản, không phải là quyền nhân thân. Tác giả không đồng tình với quan điểm này,
bởi lẽ Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền
sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Theo đó: Quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền, khơng địi hỏi phải có sự chuyển giao trong giao dịch dân sự. Đối với
quyền tài sản là đối tượng của giao dịch dân sự phải đáp ứng được hai yêu cầu là trị
giá được bằng tiền và có thể chuyển giao cho người khác trong giao dịch dân sự.
Quyền tài sản bao gồm quyền đòi nợ, quyền sử dụng tài sản thuê, quyền trị giá bằng
tiền, quyền thực hiện hợp đồng, quyền sở hữu trí tuệ. Những quyền tài sản khác gắn
với nhân thân thì khơng được chuyển giao như quyền thừa kế, quyền cấp dưỡng,

quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe. Trong khi đó, quyền đối với hình
ảnh của cá nhân lại là một loại quyền nghiêng về giá trị tinh thần nhiều hơn, gắn liền
với mỗi cá nhân đó từ khi sinh ra và tồn tại mãi mãi, không thể so sánh ngang bằng
với các quyền tài sản kể trên, dù có hay khơng đặt ra vấn đề sử dụng hình ảnh để thu
lợi nhuận thì về bản chất nó vẫn là quyền nhân thân gắn liền với cá nhân đó.
1.1.2.2.

Đặc điểm quyền của cá nhân đối với hình ảnh

Quyền nhân thân đối với hình ảnh là một trong những quyền nhân thân của cá
nhân, do đó, quyền này mang đầy đủ các đặc điểm chung của quyền nhân thân. Bên
cạnh đó, quyền nhân thân đối với hình ảnh cũng mang một số đặc điểm riêng biệt
khác với các quyền nhân thân khác, cụ thể như sau:
Thứ nhất, quyền nhân thân đối với hình ảnh là quyền nhân thân thuộc về cá
nhân.
Quyền nhân thân đối với hình ảnh là quyền thuộc về cá nhân, mang tính chất


cá nhân và luôn gắn với một cá nhân xác định. Điều đó có nghĩa là quyền này được
ghi nhận và điều chỉnh trong pháp luật dân sự từ khi họ sinh ra và không thể bị trưng
mua hay chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp khi cá nhân đó chết, quyền
nhân thân này có thể được thực thi bởi những chủ thể khác theo quy định pháp luật.
Đây là một trong những đặc điểm quan trọng để phân biệt với một số quyền nhân
thân thuộc về chủ thể khác không phải là cá nhân.
Trong xã hội, mỗi người có một hình dạng, đặc điểm, hình ảnh riêng. Dù
trong một số trường hợp đặc biệt như đối với các cặp song sinh cùng trứng, hình ảnh
của họ có thể giống nhau, nhưng xét về bản chất, đó hồn tồn là hai hình ảnh của
hai cá nhân khác nhau và mang những đặc trưng nhất định. Do đó, hình ảnh chỉ gắn
liền và thuộc về một cá nhân xác định.
Thứ hai, quyền nhân thân đối với hình ảnh là quyền cá thể hóa cá nhân trong

xã hội.
Với đặc điểm nổi bật là sao chép lại và phản ánh đúng các đối tượng được thể
hiện trong các hình thức nghệ thuật, thơng qua việc nhìn vào những hình ảnh đó dù
khơng ghi rõ tên tuổi, thơng tin của người có trong ảnh nhưng người xem vẫn dễ
dàng nhận diện được đối tượng được phản ánh trong ảnh là ai. Do đó, có thể khẳng
định, hình ảnh là một trong các yếu tố có tính chất cá biệt hóa chủ thể và quyền nhân
thân đối với hình ảnh là quyền cá thể hóa cá nhân.
Quyền cá thể hóa cá nhân trong xã hội là quyền nhân thân của cá nhân, trong
đó, ghi nhận những đặc điểm riêng biệt của cá nhân như tên gọi, hình ảnh và các yếu
tố lý lịch để phân biệt cá nhân này với các cá nhân khác. Trong xã hội, mỗi người có
một tên gọi, hình ảnh và yếu tố lý lịch khác nhau như dân tộc, giới tính, quốc tịch,
thơng tin về khai sinh, khai tử, do đó, quyền cá biệt hố chủ thể được xem là các
cơng cụ cá biệt hố khác nhau ở mỗi chủ thể, làm cho bản thân nhân thân cá nhân đó
khơng thể bị lặp lại. Thơng qua đó, chúng ta dễ dàng hình dung và phân biệt được
chủ thể này với các chủ thể khác.
Quyền nhân thân đối với hình ảnh thuộc nhóm quyền tuyệt đối, biểu hiện


bằng việc quyền này được bảo vệ một cách tuyệt đối trước sự xâm phạm của bất kỳ
chủ thể khác và được bảo vệ theo yêu cầu của chủ thể quyền. Bất kỳ hành vi xâm
phạm quyền nhân thân nào cũng phải chịu một trách nhiệm pháp lý. Việc cá biệt hóa
chủ thể trong quan hệ pháp luật có ý nghĩa lớn trong việc xác định rõ quyền, nghĩa
vụ của mỗi chủ thể cũng như trách nhiệm pháp lý của chủ thể khi tham gia quan hệ
pháp luật nói chung và quan hệ pháp luật dân sự nói riêng.
Thứ ba, hành vi xâm phạm quyền nhân thân đối với hình ảnh là hành vi tác
động vào vật phẩm liên quan đến quyền.
Vật phẩm liên quan đến quyền nhân thân đối với hình ảnh chính là hình ảnh
của cá nhân đó. Khác với các quyền nhân thân khác, hành vi xâm phạm quyền của cá
nhân đối với hình ảnh là hành vi tác động trực tiếp vào vật phẩm liên quan đến quyền
mà không phải tác động vào chủ thể. Hành vi xâm phạm đó có thể là hành vi sử dụng

hình ảnh của cá nhân khi chưa có sự đồng ý của cá nhân đó hoặc hành vi sử dụng
hình ảnh của cá nhân vì mục đích thương mại mà khơng trả thù lao cho người đó
theo quy định... Trong trường hợp hành vi xâm phạm có gây ra thiệt hại thì có thể
khắc phục phần nào thiệt hại thơng qua việc tác động đến hình ảnh bị xâm phạm đó.
Tùy từng dạng hành vi xâm phạm khác nhau mà chủ thể có quyền bị xâm phạm hoặc
người có hành vi xâm phạm có các cách tác động khác nhau, ví dụ: Tạp chí M có
hành vi đăng ảnh cá nhân của A khi chưa có sự đồng ý của A, gây tổn thất về tinh
thần cho A thì để khắc phục thiệt hại, M phải thu hồi lại cuốn tạp chí đó. Tuy nhiên,
nếu hành vi xâm phạm quyền đối với hình ảnh của A là hành vi nhãn hiệu B sử dụng
hình ảnh của A làm poster quảng cáo khi chưa có sự xin phép, cách tác động nhằm
khắc phục thiệt hại là gỡ bỏ poster quảng cáo đó. Đặc điểm này có ý nghĩa quan
trọng trong việc nhận diện và chứng minh một hành vi được coi là hành vi xâm phạm
quyền của cá nhân đối với hình ảnh cũng như việc khơi phục lại các giá trị nhân thân
bị xâm phạm. Khi nộp đơn yêu cầu cơ quan nhà nước bảo vệ trước những hành vi
xâm phạm quyền nhân thân của mình thì chủ thể quyền phải chỉ ra được hành vi đó
đã trực tiếp xâm phạm đến quyền nhân thân đối với hình ảnh của mình.
Thứ tư, phương thức Nhà nước bảo vệ quyền nhân thân đối với hình ảnh là


bảo vệ khi có yêu cầu.
Nếu như đối với các quyền như quyền được đảm bảo an tồn về tính mạng,
sức khoẻ, thân thể, quyền được bảo vệ nhân phẩm, quyền được hưởng sự chăm sóc
giữa các thành viên trong gia đình, trong trường hợp có hành vi xâm phạm quyền,
Nhà nước sẽ chủ động can thiệp ngay cả khi khơng có u cầu, thì đối với quyền
nhân thân đối với hình ảnh, Nhà nước chỉ can thiệp khi có yêu cầu của người có
quyền bị xâm phạm hoặc của những người liên quan. Xuất phát từ lý do quyền nhân
thân đối với hình ảnh có đặc điểm mang giá trị tinh thần, không trị giá được bằng
tiền nên chủ thể có hình ảnh phải là người tự xác định và đánh giá xem hành vi tác
động của chủ thể khác đối với hình ảnh của mình có xâm phạm đến quyền hay
khơng. Chủ thể có quyền u cầu can thiệp có thể là cá nhân có quyền bị xâm phạm

hoặc cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên... của người đó trong các trường hợp theo
quy định của pháp luật.
Khi có yêu cầu bảo vệ, Nhà nước có thể thơng qua cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu
hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp
xử lý khác theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền nhân thân vừa gắn
với tài sản, vừa là quyền nhân thân khơng gắn với tài sản.
Có quan điểm cho rằng quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền nhân
thân khơng gắn với tài sản vì, hình ảnh của cá nhân không phải là tài sản, mà thuộc
về nhân thân của cá nhân đó. Quyền đối với hình ảnh thể hiện giá trị tinh thần của
chủ thể đối với chính bản thân mình, ln gắn với chính bản thân người đó và khơng
dịch chuyển được sang chủ thể khác. Ngoài ra, dựa vào căn cứ phát sinh quyền nhân
thân đối với hình ảnh, đây là quyền được pháp luật công nhận vô điều kiện đối với
mọi cá nhân, cơng nhận một cách bình đẳng, được bảo vệ như nhau khi các giá trị đó
bị xâm phạm, khơng phụ thuộc vào bất cứ hoàn cảnh kinh tế, địa vị xã hội hay mức
độ tài sản của người đó. Tuy nhiên, đối với các quyền nhân thân gắn với tài sản thì
ngược lại, các quyền này chỉ được xác lập cùng với sự hình thành của một tài sản


×