Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

pháp luật bảo vệ quyền lời người tiêu dùng của một số nước vùng lãnh thổ trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với việc xây dựng luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 138 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN THÀNH

PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
CỦA MỘT SỐ NƯỚC, VÙNG LÃNH THỔ TRÊN THẾ GIỚI VÀ
BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG LUẬT BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành
Mã số

: Luật Quốc tế
: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Như Phát

Hà Nội - 2011


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG............................................................................ 8
1.1. TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU
DÙNG........................................................................................................................ 8
1.1.1 Các cách tiếp cận chủ đạo về pháp luật bảo vệ Ngƣời tiêu dùng trên thế giới .... 8
1.1.2. Đánh giá và phân tích các cách tiếp cận về pháp luật bảo vệ Ngƣời tiêu
dùng ......................................................................................................................... 11
1.2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG


CỦA VIỆT NAM ..................................................................................................... 13
1.2.1 Các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng ........... 13
1.2.2. Những ƣu điểm và hạn chế trong các quy định pháp luật về bảo vệ ngƣời
tiêu dùng .................................................................................................................. 16
CHƯƠNG 2: KINH NGHIỆM XÂY DỰNG VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT BẢO
VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ VÙNG LÃNH THỔ ............ 27
2.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN ............................................................................. 27
2.1.1. Tổng quan quy định của một số nƣớc ............................................................. 28
2.1.2. Phân tích và đánh giá về quy định của các nƣớc ............................................. 34
2.2. CÁC QUYỀN CƠ BẢN CỦA NGƢỜI TIÊU DÙNG ....................................... 39
2.2.1. Tổng quan quy định của một số nƣớc ............................................................. 43
2.2.2 Đánh giá các quy định của các nƣớc ................................................................ 46
2.3 HÀNH VI THƢƠNG MẠI KHÔNG CÔNG BẰNG .......................................... 47
2.3.1 Tổng quan quy định của một số nƣớc .............................................................. 48
2.3.2. Phân tích và đánh giá quy định của các nƣớc .................................................. 62
2.4. HỢP ĐỒNG TIÊU DÙNG ................................................................................ 63
2.4.1. Tổng quan quy định của một số nƣớc ............................................................. 63
2.4.2 Phân tích và đánh giá quy định của các nƣớc ................................................... 75
2.5 CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ NGƢỜI TIÊU DÙNG .......................................... 79
2.5.1.Tổng quan quy định pháp luật của một số nƣớc ............................................... 79
2.5.2. Phân tích và đánh giá quy định của các nƣớc .................................................. 81
2.6. VẤN ĐỀ BẢO HÀNH ..................................................................................... 83
2.6.1. Tổng quan các quy định của một số nƣớc ....................................................... 84

3


2.6.2. Phân tích, đánh giá quy định của các nƣớc...................................................... 86
2.7 CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA NGƢỜI TIÊU DÙNG ............... 89
2.7.1. Tổng quan các quy định của một số nƣớc, vùng lãnh thổ ................................ 90

2.7.2. Phân tích và đánh giá quy định của các nƣớc .................................................. 98
2.8 CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU
DÙNG.................................................................................................................... 104
2.8.1. Tổng quan các quy định của một số nƣớc ..................................................... 104
2.8.2. Phân tích và đánh giá quy định của các nƣớc ................................................ 111
2.9. MỘT SỐ QUY ĐỊNH ĐẶC THÙ ................................................................... 114
2.9.1. Giải quyết mối quan hệ giữa Luật bảo vệ ngƣời tiêu dùng và các quy phạm
pháp luật có liên quan............................................................................................. 114
2.9.2. An toàn cho Ngƣời tiêu dùng ........................................................................ 117
2.9.3 Trách nhiệm đối với sản phẩm ....................................................................... 120
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ ĐỂ XÂY DỰNG VÀ HOÀN
THIỆN LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG CỦA VIỆT NAM .. 126
3.1. Làm rõ các khái niệm cơ bản ........................................................................... 126
3.2. Quy định về các quyền cơ bản của Ngƣời tiêu dùng ........................................ 126
3.3. Quy định về nghĩa vụ của các tổ chức sản xuất, kinh doanh về bảo vệ Ngƣời
tiêu dùng ................................................................................................................ 127
3.4. Quy định liên quan đến hợp đồng tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ .................... 128
3.5. Quy định về trách nhiệm sản phẩm .................................................................. 129
3.6. Quy định về bảo hành ...................................................................................... 129
3.7. Các quy định liên quan đến các hành vi thƣơng mại không công bằng............. 130
3.8. Các quy định liên quan đến giải quyết tranh chấp của tiêu dùng ...................... 131
3.9. Các quy định về xử lý hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ Ngƣời tiêu dùng ....... 132
3.10. Nhóm các quy định liên quan đến tổ chức bảo vệ ngƣời tiêu dùng ................. 133

4


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngày 15 tháng 3 năm 1962, tại một cuộc họp của Thƣợng Nghị Viện

Hoa Kỳ, Tổng thống Hoa Kỳ John Kennedy đã phát biểu: "Người tiêu dùng
theo định nghĩa, bao gồm toàn thể chúng ta. Họ là nhóm người đông đảo
nhất, có ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của hầu hết các quyết định về kinh tế,
dù là của nhà nước hay tư nhân. Vậy mà họ là nhóm người quan trọng độc
nhất mà quan điểm của họ thường không được chú ý tới "[17]. Nhƣ vậy, bảo
vệ quyền lợi Ngƣời tiêu dùng là bảo vệ tất cả chúng ta. Bảo vệ quyền lợi của
Ngƣời tiêu dùng là một việc làm có ý nghĩa thiết thực liên quan đến mọi mặt
của đời sống xã hội; đảm bảo quyền của Ngƣời tiêu dùng góp phần vào công
cuộc chống bất bình đẳng trong xã hội.
Bên cạnh quan hệ giữa các nhà sản xuất với nhau, quan hệ kinh tế chủ
yếu trong xã hội là quan hệ giữa Ngƣời tiêu dùng và nhà sản xuất, kinh doanh,
phân phối hàng hoá, dịch vụ. Tuy là số đông, nhƣng Ngƣời tiêu dùng không
đƣợc tổ chức lại nên họ khó có sức mạnh, tiếng nói đơn lẻ của họ cũng rất ít
đƣợc lắng nghe. So với những nhà sản xuất, những nhà chuyên môn, thì ở
những lĩnh vực nhất định, Ngƣời tiêu dùng kém hiểu biết hơn. Bởi vậy, trong
mối quan hệ giữa họ với các nhà sản xuất kinh doanh, Ngƣời tiêu dùng luôn
đứng ở thế yếu và chịu nhiều thiệt thòi. Điều này thực sự đã kìm hãm sự phát
triển kinh tế xã hội.
Từ nhiều năm nay, các nƣớc đều giành ƣu tiên cao cho công tác bảo vệ
quyền lợi Ngƣời tiêu dùng, tôn trọng các quyền của Ngƣời tiêu dùng, chống
lại sự lạm dụng của những nhà sản xuất kinh doanh và những bất công trong
xã hội. Đa số các nƣớc trên thế giới đều thiết lập cơ quan chuyên trách phụ
trách công tác này. Công tác bảo vệ Ngƣời tiêu dùng cũng đƣợc sự quan tâm
của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên Hợp quốc với việc Đại hội đồng đã
thống nhất thông qua Hƣớng dẫn của Liên Hợp quốc về bảo vệ Ngƣời tiêu

1


dùng từ năm 1985.

Ở Việt Nam, có thể nói rằng, cho đến những ngày trƣớc ―đổi mới‖, hầu
nhƣ quyền lợi của Ngƣời tiêu dùng nói chung và bộ máy bảo vệ quyền lợi của
Ngƣời tiêu dùng nói riêng chƣa đƣợc chú ý một cách thích đáng, kể cả từ góc
độ ngƣời sản xuất, kinh doanh hàng hoá và cung ứng dịch vụ lẫn nhận thức
của toàn xã hội. Điều này có nguyên nhân sâu xa từ những năm tháng chiến
tranh khốc liệt, chúng ta phải tập trung cho sự nghiệp giành độc lập và bảo vệ
Tổ quốc cũng nhƣ giai đoạn phục hồi sau đó, mọi nhu cầu tiêu dùng đều ở
mức tối thiểu. Chính vì vậy, vấn đề bảo vệ quyền lợi của Ngƣời tiêu dùng
chƣa đƣợc chú trọng trong thời kỳ này phần nào do những nguyên nhân khách
quan nhất định.
Bƣớc vào thời kỳ đổi mới, nƣớc ta đã chuyển mạnh từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trƣờng, định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Cũng từ đây, quan hệ mua bán, giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất, kinh
doanh hàng hoá và dịch vụ với một bên là ngƣời bỏ tiền ra mua hàng hoá và
dịch vụ để phục vụ cho sinh hoạt, tiêu dùng của cá nhân, gia đình và tổ chức
(đƣợc gọi chung là Ngƣời tiêu dùng) đã đƣợc xác lập với vai trò ngày càng
đƣợc nâng cao của Ngƣời tiêu dùng.
Khi nền kinh tế thị trƣờng càng phát triển thì càng làm nảy sinh nhiều
vấn đề liên quan đến Ngƣời tiêu dùng. Với chính sách hội nhập kinh tế quốc
tế và xu thế toàn cầu hóa trên thế giới, bên cạnh những cơ hội mới trong việc
thoả mãn những nhu cầu cơ bản nhƣ quyền tiếp cận với nhiều sản phẩm và
dịch vụ với chất lƣợng đảm bảo và giá cả thích hợp, Ngƣời tiêu dùng Việt
Nam cũng đứng trƣớc những nguy cơ mới. Việc kiểm soát an toàn, chất lƣợng
của hàng hoá nhập khẩu trở nên khó khăn, thị trƣờng sẽ ngày càng xuất hiện
nhiều hành vi gây ảnh hƣởng đến quyền lợi Ngƣời tiêu dùng nhƣ buôn bán
hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lƣợng. Các hành vi vi phạm đến quyền lợi
của Ngƣời tiêu dùng cũng tinh vi và phức tạp hơn. Nhiều phƣơng thức kinh
2



doanh, hành vi kinh doanh gian dối gây thiệt hại tới lợi ích Ngƣời tiêu dùng.
Bên cạnh đó là những hành vi gian lận ngày càng tinh vi và với phạm vi rộng:
lạm dụng các hàng hóa xã hội, thỏa thuận ƣu tiên phân phối nhƣ trong trƣờng
hợp của ngành công nghiệp ô tô châu Âu và trƣờng hợp các thỏa thuận về giá
thuốc bổ. Những hành vi nhƣ vậy không chỉ gây thiệt hại cho Ngƣời tiêu dùng
mà còn có thể gây ảnh hƣởng tiêu cực đối với tình hình kinh tế xã hội nói
chung. Chính vì vậy, trong cơ chế thị trƣờng, vấn đề Ngƣời tiêu dùng và bảo
vệ Ngƣời tiêu dùng càng cần đề ra và thực hiện một cách nghiêm túc.
Tóm lại, tuy vấn đề bảo vệ Ngƣời tiêu dùng mới xuất hiện ở Việt Nam
chƣa lâu, nhƣng đây lại là vấn đề cần đƣợc sự quan tâm thích đáng. Bởi vì
trong cơ chế thị trƣờng, Ngƣời tiêu dùng có ảnh hƣởng mang tính quyết định
đối với mọi chủ trƣơng chính sách về kinh tế nhà nƣớc và hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp.
Trƣớc yêu cầu đó, năm 1999, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hô ̣i đã ban hành
Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng

. Pháp lệnh đã quy định rõ các

quyền và trách nhiệm của Ngƣời tiêu dùng; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; công tác quản lý nhà nƣớc về bảo vê ̣
quyền lợi ngƣời tiêu dùng ; vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm... Ngày 02 tháng 10 năm 2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
69/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi Ngƣời
tiêu dùng. Nghị định này đƣợc thay thế bởi Nghị định số 55/2008/NĐ-CP ban
hành ngày 24 tháng 4 năm 2008.
Trong thời kỳ xã hội phát triển hiện nay và trong bối cảnh Việt Nam ra
nhập WTO thì vấn đề bảo vệ Ngƣời tiêu dùng ngày càng trở nên cần thiết và
là mối quan tâm của toàn xã hội nhằm nâng cao mức sống và bảo vệ quyền lợi
cho Ngƣời tiêu dùng.
Tuy nhiên, các quy định pháp luật Việt Nam hiện nay về vấn đề bảo vệ

Ngƣời tiêu dùng vẫn còn khá đơn giản so với những gì thực tế đòi hỏi và thực
3


chất quyền lợi của Ngƣời tiêu dùng vẫn đƣợc bảo đảm. Nhìn vào một số vụ
việc mới đây nhƣ vụ nƣớc tƣơng đen, xăng pha axeton… có thể thấy rằng
quyền lợi Ngƣời tiêu dùng đã bị vi phạm nhƣng Ngƣời tiêu dùng rất khó tự
bảo vệ mình vì pháp luật bảo vệ Ngƣời tiêu dùng Việt Nam vẫn còn quá
chung chung và đơn giản, và việc thực thi luật bảo vệ Ngƣời tiêu dùng vẫn
còn chƣa hiệu quả.
Do vậy, việc Quốc hội quyết định xây dựng, ban hành Luật bảo vệ
quyền lợi ngƣời tiêu dùng thể hiện sự quan tâm của Nhà nƣớc ta đối với vấn
đề này. Đây đƣợc coi là một bƣớc ngoặt quan trọng trong công tác bảo vệ
ngƣời tiêu dùng ở Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu nhƣ vấn đề bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng là một vấn
đề tƣơng đối mới mẻ tại Việt Nam, hay nói cách khác, chúng ta còn thiếu
nhiều kinh nghiệm trong hoạt động xây dựng chính sách về bảo vệ ngƣời tiêu
dùng thì trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia phát triển, vấn đề bảo vệ
quyền lợi ngƣời tiêu dùng đã đƣợc quan tâm từ rất lâu và đạt đƣợc những
thành tựu nổi bật. Tại những quốc gia, vùng lãnh thổ này, hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng đã
đƣợc ban hành từ rất sớm và tƣơng đối hoàn thiện. Do đó, việc nghiên cứu hệ
thống pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng của các quốc gia, vùng lãnh
thổ trên thế giới không chỉ cung cấp các thông tin cần thiết cho hoạt động xây
dựng Luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng mà còn giúp hoàn thiện hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng tại Việt
Nam để học tập bài học, kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cũng nhƣ
đảm bảo pháp luật về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng Việt Nam tƣơng thích
với pháp luật, thông lệ quốc tế.
Vì lý do trên tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu pháp luật bảo vệ người

tiêu dùng của các nước, vùng lãnh thổ trên thế giới và bài học kinh nghiệm
đối với việc xây dựng Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Việt Nam..
4


2. Tình hình nghiên cứu
Mặc dù vấn đề bảo vệ ngƣời tiêu dùng là một vấn đề rất mới mẻ tại
Việt Nam nhƣng cũng đã đƣợc các nhà khoa học quan tâm. Cụ thể đã có một
số công trình nghiên cứu về vấn đề bảo vệ ngƣời tiêu dùng nhƣ sau:
- TS. Đinh Thị Mỹ Loan,“Hoàn thiện pháp luật bảo vệ người tiêu dùng
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tê”, đề tài khoa học cấp Bộ
năm 2007;
- Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tƣ pháp ―trách nhiệm pháp lý, cơ chế để
bảo vệ ngƣời tiêu dùng‖ đề tài khoa học cấp Bộ năm 2006;
- Đoàn Văn Trƣờng, nghiên cứu ngƣời tiêu dùng – những vấn đề về
việc bảo vệ ngƣời tiêu dùng, NXB Khoa học – Kỹ Thuật;
- Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thƣơng, Sổ tay Công tác bảo vệ
ngƣời tiêu dùng, NXB Chính trị quốc gia năm 2006.
- Cục Quản lý cạnh tranh, Hỏi – đáp về bảo vệ ngƣời tiêu dùng, NXB
lao động, xã hội năm 2007.
Tuy nhiên, các công trình khoa học nói trên mới chỉ tiếp cận vấn đề bảo
vệ ngƣời tiêu dùng trên cơ sở phân tích các quy định pháp luật trong nƣớc
cũng nhƣ thực trạng vấn đề bảo vệ ngƣời tiêu dùng hiện nay. Chƣa có một
công trình khoa học nào nghiên cứu, đánh giá về các quy định pháp luật về
bảo vệ ngƣời tiêu dùng trên thế giới và đƣa ra bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam. Vì vậy, đây là lần đầu tiên vấn đề pháp luật bảo vệ ngƣời tiêu dùng trên
thế giới đƣợc nghiên cứu với tƣ cách là một vấn đề khoa học pháp lý.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề sau:
Thứ nhất, làm rõ cơ sở khoa học về vấn đề bảo vệ Ngƣời tiêu dùng và

pháp luật bảo vệ Ngƣời tiêu dùng
Thứ hai, phân tích các quy định trong pháp luật các quốc gia, vùng lãnh

5


thổ phát triển và đang phát triển trên thế giới về các vấn đề cơ bản trong bảo
vệ Ngƣời tiêu dùng, các ƣu điểm và bất cập của các quy định này về mặt nội
dung cũng nhƣ khi đƣa vào thực tiễn.
Thứ ba, đề xuất các khuyến nghị về phƣơng hƣớng cụ thể cho công tác
xây dựng Luật bảo vệ Ngƣời tiêu dùng tại Việt Nam đảm bảo phù hợp với hệ
thống pháp luật hiện hành tại Việt Nam, cũng nhƣ thực trạng và định hƣớng
phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu là các quy định pháp lý về bảo vệ Ngƣời tiêu
dùng trong pháp luật các quốc gia, vùng lãnh thổ trong khu vực và trên thế
giới cũng nhƣ các luật mẫu và điều ƣớc quốc tế (nếu có).
- Phạm vi không gian: Việt Nam và các quốc gia đang phát triển khác
nhƣ Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ, các quốc gia phát triển và điển hình, các
nền kinh tế mới nhƣ Mỹ, Úc, Cộng đồng các quốc gia, vùng lãnh thổ nhƣ
Châu Âu, Canada (Bang Quebec), Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, Đài Loan,
Nhật Bản, v.v…
- Phạm vi thời gian: Các quy định pháp lý gần đây nhất của các quốc
gia, vùng lãnh thổ nói trên.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu truyền thống nhƣ phân tích,
thống kê, luận giải, v.v và phƣơng pháp so sánh luật học đƣợc sử dụng để nêu
bật những nét đặc trƣng riêng biệt trong hệ thống pháp luật từng nƣớc về bảo
vệ Ngƣời tiêu dùng.
- Phƣơng pháp so sánh - đối chiếu đƣợc dùng để đánh giá kinh nghiệm

nƣớc ngoài, từ đó rút ra đề xuất cho Việt Nam.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Luận văn đƣợc kết cấu gồm 3 Chƣơng:

6


Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung về pháp luật bảo vệ quyền lợi
ngƣời tiêu dùng.
Chƣơng 2: Kinh nghiệm xây dựng và thực thi Luật bảo vệ quyền lợi
ngƣời tiêu dùng của một số nƣớc và vùng lãnh thổ
Chƣơng 3: Một số đề xuất, kiến nghị để xây dựng và hoàn thiện Luật
bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng của Việt Nam

7


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT
BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
1.1. TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
1.1.1 Các cách tiếp cận chủ đạo về pháp luật bảo vệ Ngƣời tiêu dùng trên
thế giới
Có quan điểm cho rằng, mối quan hệ giữa ngƣời tiêu dùng và tổ chức,
cá nhân kinh doanh là một mối quan hệ dân sự thông thƣờng dựa trên nguyên
tắc tự do, bình đẳng, tự nguyện. Tuy nhiên, nhƣ đã nói, ngƣời tiêu dùng và
các tổ chức, cá nhân kinh doanh luôn có mối quan hệ bất bình đẳng, hay nói
cách khác, “do tính chất xã hội của quan hệ tiêu dùng mà người tiêu dùng
khó có thể có cơ hội trở thành tự do, bình đẳng vì họ buộc luôn phải tham gia
vào mối quan hệ với đặc tính truyền kiếp là “thông tin bất cân xứng”. Bên

cạnh sự bất cân xứng về thông tin, người tiêu dùng còn có thể phải rơi vào
tình trạng mất khả năng mặc cả khi họ buộc phải sử dụng hàng hóa, dịch vụ
của nhà cung cấp độc quyền”[18]. Chính vì lý do đó, Nhà nƣớc phải can
thiệp để bảo vệ lợi ích của Ngƣời tiêu dùng.
Nhìn chung, trên thế giới có hai cách tiếp cận chủ đạo thông qua đó
Nhà nƣớc có thể can thiệp để bảo vệ lợi ích của Ngƣời tiêu dùng:
Thứ nhất, xây dựng một hệ thống pháp lý trong đó quy định trách nhiệm
pháp lý (liability) đối với các bên sau khi (ex post) đã xảy ra vi phạm; hoặc.
Thứ hai, xây dựng một hệ thống pháp lý (regulation) điều chỉnh, ngăn
chặn trước các hành vi vi phạm (ex ante) để giảm thiểu vi phạm.
Cách tiếp cận thứ nhất là cách tiếp cận mà theo đó các bên liên quan
phải bồi thƣờng thiệt hại sau khi xảy ra thiệt hại thực sự. Theo cách tiếp cận
này, các cơ quan xét xử (thông thƣờng là các toà án, bao gồm cả các toà
chuyên biệt) sẽ quyết định mức độ bồi thƣờng thiệt hại, căn cứ trên bản chất
và thực tế vụ việc. Các bên liên quan sẽ phải chịu bồi thƣờng thiệt hại do hành
8


vi sai sót của họ gây ra, nhƣng chỉ sau khi bên bị thiệt hại đã kiện ra toà hoặc
khiếu nại đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền khác. Tuy nhiên, một
điều cần lƣu ý là việc bên bị thiệt hại kiện ra toà không có nghĩa là bên gây ra
thiệt hại sẽ chịu bồi thƣờng cho nạn nhân, ví dụ nhƣ trong trƣờng hợp bên bị
thiệt hại không thể chứng minh đƣợc rằng bên gây hại đã có hành vi sai sót.
Ví dụ, anh Nguyễn Văn A uống một lon soda B do doanh nghiệp C sản xuất.
Sau khi, anh A đã uống một phần của lon soda, bạn của anh A đổ phần còn lại
của lon soda đó ra cốc, phát hiện thấy có một xác sên đã biến dạng. Anh A bị
viêm nhiễm dạ dày do uống phải lon soda không sạch đó. Tuy nhiên, nếu anh
A không kiện doanh nghiệp C ra toà, thì doanh nghiệp C sẽ không bị quy
trách nhiệm pháp lý. Trong trƣờng hợp anh A khiếu nại ra toà án, và toà án
quyết định rằng thiệt hại về an toàn và sức khoẻ của anh A là do lon soda của

doanh nghiệp C sản xuất gây ra, doanh nghiệp C sẽ phải bồi thƣờng thiệt hại
cho anh A theo mức mà toà án quyết định.
Cách tiếp cận thứ hai mang tính ngăn chặn, phòng ngừa, trước (ex ante)
khi xảy ra vi phạm, theo đó các bên liên quan phải chịu phạt kể cả trƣớc khi
có thiệt hại thực sự, do đã vi phạm các quy định về tiêu chuẩn. Ví dụ, doanh
nghiệp A sản xuất và buôn bán mũ bảo hiểm xe máy trên thị trƣờng Việt
Nam, phải tuân theo Quy chuẩn mũ bảo hiểm quốc gia (gọi tắt là QCVN2) do
Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành. Nếu nhƣ những chiếc mũ bảo hiểm
không đúng quy chuẩn của doanh nghiệp A đƣợc bán ra trên thị trƣờng, thì dù
Ngƣời tiêu dùng có mua mũ đem về đội hay không, hay dù có xảy ra mất an
toàn tai nạn giao thông do những chiếc mũ này hay không, doanh nghiệp A
vẫn sẽ bị phạt do vi phạm quy định về chất lƣợng nói trên. Mức phạt vi phạm
có thể sẽ căn cứ theo quy định xử phạt vi phạm hành chính nói chung hay quy
định riêng của Bộ Khoa học và công nghệ trong lĩnh vực này.
Theo cách tiếp cận này, một hệ thống quy chuẩn phải đƣợc thiết lập,
không liên quan đến việc có xảy ra thiệt hại thực sự cho Ngƣời tiêu dùng hay

9


không. Các vụ việc đơn lẻ, hay cả một nhóm các vấn đề, đều có thể đƣợc điều
chỉnh bởi các quy định chuẩn chung này, giảm thiểu khả năng xảy ra việc
phải phân định đúng sai, hay giúp tránh các phán quyết không nhất quán và
thiếu công bằng trên cơ sở vụ việc. Các bên liên quan sẽ phải chịu phạt chỉ
khi các cơ quan chức năng phát hiện đƣợc rằng họ không tuân thủ các quy
định về tiêu chuẩn. Và trong đại đa số các trƣờng hợp, các cơ quan chức năng
sẽ sử dụng các thủ tục hành chính để xem xét các thông tin kỹ thuật có liên
quan, nhằm đi đến kết luận cuối cùng.
Hệ thống quy định liên quan đến bảo vệ Ngƣời tiêu dùng thƣờng bao
gồm các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tiêu chuẩn (standards), đo

lƣờng (measurement), chất lƣợng (quality), môi trƣờng, hay sức khoẻ. Ở
nhiều quốc gia trên thế giới, hệ thống quy định này do các cơ quan chức năng
giám sát thực thi. Ví dụ nhƣ tại Ấn Độ, các vấn đề tiêu chuẩn do Cục Tiêu
chuẩn Ấn Độ (cơ quan tồn tại song song với Vụ Các Vấn đề Tiêu dùng thuộc
Bộ Các Vấn đề Tiêu dùng, Lƣơng thực thực phẩm và Phân phối các Hàng hoá
công cộng) chịu trách nhiệm, tại Việt Nam cho đến nay là Tổng cục Tiêu
chuẩn Đo lƣờng và Chất lƣợng (thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ).
Trong khi đó, hệ thống quy định trách nhiệm pháp lý liên quan đến bảo
vệ Ngƣời tiêu dùng thƣờng bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến các quyền cơ bản của Ngƣời tiêu dùng, trách nhiệm sản phẩm
(product liability), các hành vi thƣơng mại không công bằng (unfair trade
practices), giải quyết tranh chấp tiêu dùng (consumer redressal) và các chế tài
áp dụng (remedies and corrective measures). Đây là các quy định thƣờng gặp
nhất trong bất kỳ một đạo luật hay bộ luật về bảo vệ Ngƣời tiêu dùng nào trên
thế giới. Trong một số trƣờng hợp, hệ thống quy phạm pháp lý này cũng bao
gồm các vấn đề liên quan đến hợp đồng theo mẫu (standard forms of
contracts), hay bảo hành (warranty). Các vụ việc liên quan đến trách nhiệm

10


pháp lý thƣờng do các toà án chung, các toà chuyên biệt về Ngƣời tiêu dùng
(consumer courts hoặc small claim court), hay các cơ quan quản lý nhà nƣớc
về bảo vệ Ngƣời tiêu dùng có chức năng xét xử áp dụng và thực thi.
1.1.2. Đánh giá và phân tích các cách tiếp cận về pháp luật bảo vệ Ngƣời
tiêu dùng
Từ kinh nghiệm trong hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật bảo vệ
quyền lợi ngƣời tiêu dùng trên thế giới có thể nói rằng, không có hệ thống nào
có thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro cho Ngƣời tiêu dùng. Hệ thống quy định tiêu
chuẩn không thể làm đƣợc điều này, do các cơ quan chức năng không có đủ

thông tin về các hành vi vi phạm quy định của các doanh nghiệp, cũng nhƣ
chi phí thực thi cao, v.v. Trái lại, hệ thống quy trách nhiệm pháp lý lại thất bại
do các bên liên quan có thể không đủ khả năng bồi thƣờng thiệt hại, hoặc cơ
quan phân xử không thể buộc tội họ do bằng chứng không thuyết phục hoặc
các thủ tục pháp lý phức tạp.
Bên cạnh đó, những điểm chung của hai hệ thống này cũng đặt ra yêu
cầu xem xét khả năng kết hợp cả hai lại thành một hệ thống pháp lý bảo vệ
Ngƣời tiêu dùng tối ƣu nhất, để giảm thiểu các nguy cơ thiệt hại cho Ngƣời
tiêu dùng. Đây là một thực tế thƣờng thấy tại hầu hết các quốc gia trên thế
giới nhƣ Pháp, Canada, Hàn Quốc, Malaysia….. Luật bảo vệ Ngƣời tiêu
dùng, chủ yếu bao gồm các điều khoản quy trách nhiệm pháp lý, thƣờng đƣợc
bổ sung bởi quy định của các văn bản quy phạm pháp luật khác, ví dụ nhƣ về
tiêu chuẩn, an toàn, bảo hiểm, sức khoẻ, v.v. Cách tiếp cận này giúp đảm bảo
tính chuyên biệt của từng lĩnh vực pháp lý khác nhau, giúp các cơ quan thực
thi tập trung vào chuyên môn của mình, tuy có mặt trái là tính rời rạc, đôi khi
có thể dẫn đến không nhất quán, hay xung đột pháp lý. Ngƣợc lại, tham vọng
đƣa quá nhiều các vấn đề khác nhau vào cùng một đạo luật về bảo vệ Ngƣời
tiêu dùng có thể làm giảm hiệu quả pháp lý của các điều khoản, hay tăng chi
phí thực thi của cơ quan thực thi hay hệ thống tƣ pháp.

11


Trong trƣờng hợp cả hai hệ thống này đƣợc sử dụng để bổ sung cho
nhau, có hai câu hỏi cần đƣợc làm rõ, để có thể đạt đƣợc giải pháp tối ƣu
trong giảm thiểu rủi ro thiệt hại, bảo vệ Ngƣời tiêu dùng. Đó là:
1) Nếu một bên đã thoả mãn tất cả các tiêu chuẩn quy định đặt ra, bên
đó có thể bị quy trách nhiệm pháp lý trong trƣờng hợp có thhiệt hại hay
không? Và
2) Một bên có thể bị quy trách nhiệm pháp lý do không thoả mãn các

tiêu chuẩn quy định đặt ra hay không?
Câu trả lời là, việc tuân thủ các tiêu chuẩn quy định không có nghĩa là
bên liên quan có thể thoát đƣợc các trách nhiệm pháp lý liên quan đến sản
phẩm của mình. Mặt khác, việc không thoả mãn các tiêu chuẩn an toàn trong
thực tế không tự động làm phát sinh trách nhiệm pháp lý.
Các quy định về tiêu chuẩn thƣờng đƣợc ƣu tiên áp dụng trong các lĩnh
vực nhƣ thiệt hại do các thành phần độc hại gây ra, sản phẩm có lỗi hay các
sơ suất trong khi chữa bệnh, kê đơn. Trong các lĩnh vực này, hệ thống tƣ pháp
thƣờng không có khả năng thành công cao, do thiếu hiểu biết chuyên sâu về
các vấn đề kỹ thuật liên quan đến sức khoẻ và an toàn, không đủ nhân lực hay
các thủ tục không chuyên biệt.
Trên cơ sở khái quát chung về cách tiếp cận vấn đề bảo vệ Ngƣời tiêu
dùng nói trên đây, Tác giả cho rằng xét thực trạng, bất cập về việc thực thi các
quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ ngƣời tiêu dùng tại Việt Nam hiện
nay, Luật bảo vệ ngƣời tiêu dùng Việt Nam nên tiếp cận theo hƣớng kết hợp
tối đa hai hệ thống này, theo đó sẽ:
- Đối với các quy định về tiêu chuẩn, an toàn của ngƣời tiêu dùng hiện
đang đƣợc điều chỉnh tại các văn bản pháp luật khác thì sẽ quy định theo
hƣớng dẫn chiếu.
- Đối với các vấn đề liên quan đến bảo vệ ngƣời tiêu dùng chƣa đƣợc

12


quy định tại các văn bản nào nhƣ: thƣơng mại điện tử, hợp đồng tiêu dùng,
trách nhiệm đối với sản phẩm… hoặc quy định không rõ ràng thì sẽ đƣợc làm
rõ tại Dự thảo Luật Bảo vệ ngƣời tiêu dùng lần này.
Điều quan trọng nhất là Luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng của Việt
Nam cần tạo đƣợc một khuôn khổ pháp lý vững chắc để ngƣời tiêu dùng có
thể tự bảo vệ mình.

Với cách tiếp cận nói trên, các phần tiếp theo của nội dung nghiên cứu
sẽ tập trung phân tích các vấn đề chung, hay nói các khác là các nhóm quy
phạm phổ biến, đƣợc đƣa vào pháp luật về bảo vệ Ngƣời tiêu dùng của một số
quốc gia trên thế giới cũng nhƣ các vấn đề đặc thù của mỗi nƣớc và cân nhắc
tính khả thi hay cần thiết của việc đƣa các vấn đề/quy phạm tƣơng tự vào luật
bảo vệ Ngƣời tiêu dùng tại Việt Nam.
1.2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU
DÙNG CỦA VIỆT NAM
1.2.1 Các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Có thể nói, chế định pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng là một
trong những chế định có nội hàm rộng nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Chính vì điều đó mà hệ thống văn bản các quy phạm pháp luật về bảo vệ ngƣời
tiêu dùng cũng rất phong phú và nằm trong nhiều ngành luật, nhiều lĩnh vực
khác nhau. Có thể phân chia hệ thống pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng
thành hai nhóm: nhóm các văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp vấn đề bảo vệ
quyền lợi ngƣời tiêu dùng và nhóm các văn bản gián tiếp điều chỉnh vấn đề này.
1.2.1.1 Các văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp
Nhƣ trên đã nói, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh
vấn đề bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng rất nhiều. Tuy nhiên, văn bản quy
phạm pháp luật điều chỉnh vấn này chỉ có hai văn bản: Pháp lệnh Bảo vệ
quyền lợi ngƣời tiêu dùng năm 1999 và Nghị định số 55/2008/NĐ-CP ngày
24 tháng 4 năm 2008 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh bảo vệ quyền lợi
13


ngƣời tiêu dùng.
a) Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999
Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng đƣợc Uỷ ban thƣờng vụ
Quốc hội thông qua ngày 27 tháng 4 năm 1999. So với các quốc gia trong khu
vực Đông Nam Á, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên có văn bản

quy phạm pháp luật điều chỉnh về vấn đề bảo vệ ngƣời tiêu dùng. Pháp lệnh
bao gồm 6 chƣơng và 30 điều quy định các vấn đề mang tính nguyên tắc trong
hoạt động bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng ở Việt Nam nhƣ: khái niệm ngƣời
tiêu dùng, các nguyên tắc cơ bản trong công tác bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu
dùng; quyền và trách nhiệm của ngƣời tiêu dùng; trách nhiệm của tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ; quản lý nhà nƣớc về bảo vệ ngƣời tiêu
dùng; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm. Có thể nói rằng, Pháp lệnh
Bảo vệ ngƣời tiêu dùng mặc dù còn bộc lộ nhiều hạn chế (sẽ đƣợc đề cập ở
phần sau) nhƣng nhìn chung đã đề cập đƣợc những vấn đề cơ bản trong hoạt
động bảo vệ ngƣời tiêu dùng ở nƣớc ta.
b) Nghị định số 55/2008/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Nghị định số 55/2008/NĐ-CP đƣợc Chính phủ ban hành ngày 24 tháng 4
năm 2008 quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh
bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng (thay thế cho Nghị định số 69/2001/NĐ-CP).
Nghị định bao gồm 6 chƣơng và 36 điều tập trung làm rõ một số vấn đề liên
quan đến trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ; tổ
chức bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng; giải quyết khiếu nại, tố cáo và quản lý
nhà nƣớc về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng. Nhìn chung, so với Nghị định
số 69/2001/NĐ-CP và Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng, Nghị định
số 55/2008/NĐ-CP đã làm rõ đƣợc một số nội dung nhất là đối với các quy
định liên quan đến tổ chức bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng và việc xử lý

14


khiếu nại, tố cáo của ngƣời tiêu dùng. Mặc dù vậy, do bị giới hạn trong phạm
vi của Pháp lệnh nên các quy định của Nghị định vẫn chƣa thể hiện đƣợc tính
cụ thể, chi tiết và phù hợp với thực tiễn công tác bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu
dùng.

1.2.1.2. Nhóm các văn bản quy phạm gián tiếp
Nhƣ trên đã đề cập, chế định pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu
dùng là một trong những chế định pháp luật có nội hàm rộng nhất trong hệ
thống pháp luật Việt Nam. Có thể nói rằng, trừ những văn bản mang tính cá
biệt, những văn bản pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của các cơ quan, tổ chức còn lại hầu hết các văn bản quy phạm
pháp luật khác đều có mục đích trực tiếp hoặc gián tiếp bảo vệ ngƣời tiêu
dùng. Bởi vì, trong một nền kinh tế thị trƣờng, ngƣời tiêu dùng đƣợc coi là
trung tâm trong mọi chính sách kinh tế của Nhà nƣớc. Các tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ cũng coi ngƣời tiêu dùng là ―thƣợng đế‖, thuyết
phục ngƣời tiêu dùng sử dụng hàng hoá, dịch vụ của mình vì mục tiêu lợi
nhuận là lý do tồn tại hay không tồn tại của doanh nghiệp. Bảo vệ ngƣời tiêu
dùng cũng chính là bảo vệ một môi trƣờng kinh doanh an toàn, trung thực,
lành mạnh. Đây cũng chính là mục tiêu của các văn bản quy phạm pháp luật
đƣợc ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội trên thực tế. Chính vì vậy mà
việc liệt kê những văn bản quy phạm pháp luật gián tiếp điều chỉnh vấn đề
bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng là một việc làm không đơn giản. Tuy nhiên,
có thể kể ra đây một số văn bản quan trọng trong hoạt động bảo vệ ngƣời tiêu
dùng ở nƣớc ta hiện nay nhƣ: Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Hình sự
1999, Luật Cạnh tranh 2004, Luật Thƣơng mại 2005, Pháp lệnh An toà vệ
sinh thực phẩm….Các văn bản này đã đƣa ra đƣợc những quy phạm pháp luật
nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong những lĩnh vực nhất
định. Ví dụ, Bộ luật Dân sự 2005 đã đƣa ra đƣợc một loạt các quy phạm pháp
luật nhằm bảo vệ lợi ích của ngƣời mua (ngƣời tiêu dùng) nhƣ trách nhiệm
15


bảo đảm chất lƣợng hàng hoá, dịch vụ, nghĩa vụ bảo hành…; Luật Cạnh tranh
2004 cũng khẳng định: “Việc cạnh tranh phải được thực hiện theo nguyên tắc
trung thực, không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng,

quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của người tiêu dùng và phải
tuân theo các quy định của Luật này ‖. Luật cũng cấm các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh liên quan đến ngƣời tiêu dùng nhƣ: chỉ dẫn gây nhầm lẫn,
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, khuyến mại nhằm cạnh tranh
không lành mạnh, bán hàng đa cấp bất chính….
Nhƣ vậy, có thể nói rằng vấn đề bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng đƣợc
nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Bên cạnh những thành tựu, những kết quả đáng ghi nhận các quy định
về bảo vệ ngƣời tiêu dùng nhìn chung rất khó thực thi trên thực tế (nhất là
những quy phạm pháp luật trực tiếp). Chính vì vậy mà công tác bảo vệ ngƣời
tiêu dùng gặp rất nhiều khó khăn và các vụ việc vi phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của ngƣời tiêu dùng không những giảm đi mà ngày càng gia tăng về cả
số lƣợng lẫn mức độ. Ngƣời tiêu dùng Việt Nam thực sự đứng trƣớc nhiều
nguy cơ và các cơ quan làm công tác bảo vệ ngƣời tiêu dùng cũng không đủ
công cụ pháp luật cần thiết nhằm thực hiện công tác này.
1.2.2. Những ƣu điểm và hạn chế trong các quy định pháp luật về bảo vệ
ngƣời tiêu dùng
1.2.2.1 Những ưu điểm
So với các quy định pháp luật khác, các văn bản pháp luật về bảo vệ quyền
lợi Ngƣời tiêu dùng ra đời muộn hơn. Mãi đến năm 1999 chúng ta mới có Pháp
lệnh Bảo vệ quyền lợi Ngƣời tiêu dùng và hai năm sau đó Chính phủ mới ban
hành Nghị định số 69/2001/NĐ-CP hƣớng dẫn thi hành Pháp lệnh này. Tuy ra
đời muộn nhƣng những quy định của pháp luật đã đạt đƣợc những thành tựu về
mặt lập pháp đáng ghi nhận, bƣớc đầu tạo đƣợc hành lang pháp lý cho việc bảo
vệ Ngƣời tiêu dùng cũng nhƣ công tác bảo vệ Ngƣời tiêu dùng của các cơ quan
16


quản lý nhà nƣớc có thẩm quyền. Nhìn chung, những mặt ƣu điểm của các quy
định của pháp luật bảo vệ quyền lợi Ngƣời tiêu dùng đƣợc thể hiện ở một số khía

cạnh sau:
Thứ nhất, các quy định của pháp luật đã ghi nhận những nguyên tắc cơ bản
về bảo vệ quyền lợi Ngƣời tiêu dùng. Những nguyên tắc này chính là tƣ tƣởng
chỉ đạo cho mọi hoạt động trong công tác bảo vệ quyền lợi Ngƣời tiêu dùng.
Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi Ngƣời tiêu dùng ngay tại Điều 2 đã khẳng định:
"Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ngƣời tiêu dùng là trách nhiệm chung
của toàn xã hội". Điều đó có nghĩa là công tác bảo vệ Ngƣời tiêu dùng không
phải là công việc của riêng một ngành nào, cấp nào hay một tổ chức cụ thể nào
mà đó là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Khác với nhiều lĩnh vực khác, vấn
đề bảo vệ Ngƣời tiêu dùng liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau,
do đó việc khẳng định công tác này là trách nhiệm chung của toàn xã hội có ý
nghĩa vô cùng to lớn. Mỗi cơ quan, đoàn thể, mỗi cá nhân, tổ chức và cả những
Ngƣời tiêu dùng đều phải có trách nhiệm trong công tác này. Thực tế trong
những năm vừa qua cho thấy, nhiều vấn đề liên quan đến Ngƣời tiêu dùng liên
quan đến nhiều bộ, ngành, đoàn thể khác nhau đòi hỏi tất cả xã hội cùng phải
vào cuộc. Có thể khẳng định, với việc ghi nhận nguyên tắc trách nhiệm bảo vệ
Ngƣời tiêu dùng là của toàn xã hội, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi Ngƣời tiêu dùng
đã tạo ra một tiền đề pháp lý cho những quy định sau này. Bên cạnh đó Pháp
lệnh cũng đề cập đến một số nguyên tắc nhƣ: Nhà nƣớc khuyến khích tiêu dùng
tiết kiệm, khuyến khích hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi ngƣời
tiêu dùng…đây thực sự là những nguyên tắc hết sức quan trọng trong hoạt động
bảo vệ ngƣời tiêu dùng ở nƣớc ta.
Thứ hai, các quy định của pháp luật đã ghi nhận các quyền cơ bản của
Ngƣời tiêu dùng cũng nhƣ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hoá, dịch vụ. Theo hƣớng dẫn của Liên Hợp quốc, Ngƣời tiêu dùng có tám

17


quyền cơ bản đó là: quyền đƣợc thoả mãn những nhu cầu cơ bản; quyền đƣợc an

toàn; quyền đƣợc thông tin; quyền đƣợc lựa chọn; quyền đƣợc lắng nghe; quyền
đƣợc khiếu nại và bồi thƣờng; quyền đƣợc giáo dục về tiêu dùng và quyền đƣợc
có môi trƣờng sống lành mạnh và bền vững. Trên cơ sở tám quyền cơ bản đó,
các quy định của pháp luật về bảo vệ Ngƣời tiêu dùng mặc dù còn rải rác nhƣng
đã ghi nhận đƣợc các quyền này. Ví dụ, tại Chƣơng 2 Pháp lệnh Bảo vệ quyền
lợi Ngƣời tiêu dùng đã ghi nhận các quyền cơ bản của Ngƣời tiêu dùng nhƣ
quyền đƣợc lựa chọn; quyền đƣợc cung cấp thông tin; quyền đƣợc hƣớng dẫn
những hiểu biết về tiêu dùng....Việc ghi nhận những quyền cơ bản này không
những cho thấy các quy định của pháp luật Việt Nam đã rất quan tâm đến lợi ích
của Ngƣời tiêu dùng mà còn cho thấy sự tƣơng thích giữa pháp luật Việt Nam và
thông lệ quốc tế. Chính những điều này đã đƣợc cộng đồng quốc tế đánh giá rất
cao. Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật cũng đã đề cập đến trách nhiệm
của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Có thể nói rằng, để quyền lợi
Ngƣời tiêu dùng đƣợc đảm bảo, một trong những việc quan trọng nhất đó chính
là nêu cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ.
Chƣơng III, Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi Ngƣời tiêu dùng quy định về trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, theo đó, tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ phải có trách nhiệm bảo đảm chất
lƣợng hàng hoá dịch vụ; trách nhiệm thông tin, quảng cáo trung thự; trách nhiệm
niêm yết giá hàng hoá; trách nhiệm bảo hành và hƣớng dẫn cho Ngƣời tiêu
dùng; trách nhiệm giải quyết khiếu nại của Ngƣời tiêu dùng; trách nhiệm tiếp thu
ý kiến của Ngƣời tiêu dùng và trách nhiệm bồi thƣờng, bồi hoàn cho Ngƣời tiêu
dùng.
Thứ ba, pháp luật đã ghi nhận quyền thành lập tổ chức bảo vệ Ngƣời
tiêu dùng của Ngƣời tiêu dùng. Tổ chức bảo vệ quyền lợi Ngƣời tiêu dùng là
một tổ chức xã hội đƣợc thành lập nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho
Ngƣời tiêu dùng. Với những lợi thế của mình, tổ chức bảo vệ Ngƣời tiêu dùng
18



có thể thực hiện có hiệu quả một số hoạt động liên quan đến công tác bảo vệ
ngƣời tiêu dùng. Thực tế công tác bảo vệ Ngƣời tiêu dùng cho thấy, ở những
địa phƣơng có thành lập tổ chức bảo vệ Ngƣời tiêu dùng thì hoạt động bảo vệ
Ngƣời tiêu dùng đƣợc triển khai một cách có hệ thống và đạt đƣợc nhiều kết
quả. Các tổ chức bảo vệ Ngƣời tiêu dùng có thể thông qua các hoạt động
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, mở các khoá đào tạo để nâng cao
nhận thức cho Ngƣời tiêu dùng. Bên cạnh đó, với tƣ cách là tổ chức đại diện
cho Ngƣời tiêu dùng, các tổ chức bảo vệ quyền lợi Ngƣời tiêu dùng cũng
tham gia vào quá trình khiếu nại, giải quyết khiếu nại để bảo vệ những quyền
và lợi ích hợp pháp cho Ngƣời tiêu dùng. Điều 11, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi
Ngƣời tiêu dùng quy định: "Ngƣời tiêu dùng đƣợc thành lập tổ chức để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật" Bên cạnh
đó, Nghị định số 69/2001/NĐ-CP hƣớng dẫn thi hành Pháp lệnh bảo vệ
Ngƣời tiêu dùng đã dành hẳn một chƣơng (Chƣơng IV) để quy định những
vấn đề liên quan đến tổ chức bảo vệ Ngƣời tiêu dùng nhƣ vị trí, chức năng,
nguyên tắc hoạt động,...Chính những quy định này đã bƣớc đầu tạo điều kiện
cho các tổ chức bảo vệ Ngƣời tiêu dùng thành lập và hoạt động.
Thứ tư, các quy định của pháp luật đã quy định khá đầy đủ trách nhiệm
của các cơ quan quản lý nhà nƣớc trong công tác bảo vệ Ngƣời tiêu dùng. Nhƣ
trên đã đề cập, công tác bảo vệ Ngƣời tiêu dùng đòi hỏi phải có sự tham gia,
phối hợp của nhiều cơ quan, đoàn thể. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của
mình các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền tham gia vào công tác bảo vệ Ngƣời
tiêu dùng. Nghị định số 69/2001/NĐ-CP đã quy định về quản lý nhà nƣớc về
bảo vệ quyền lợi Ngƣời tiêu dùng. Theo đó, có đến 13 cơ quan nhà nƣớc có
liên quan đến công tác bảo vệ Ngƣời tiêu dùng. Bên cạnh đó, các quy định
cũng quy định trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan, bộ ngành có liên quan.
Điều này giúp cho công tác bảo vệ Ngƣời tiêu dùng có sự phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan liên quan.
19



1.2.2.2 Những mặt hạn chế
Trong chƣơng trình điều tra, khảo sát do Cục Quản lý cạnh tranh thực
hiện trên cả 3 miền Bắc, Trung, Nam vào năm 2007 rất nhiều ý kiến cho rằng
các quy định trong Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng chƣa phát huy
đƣợc hiệu lực trên thực tế. Nguyên nhân đƣợc đƣa ra là do ―các quy định còn
rất chung chung, khó thực hiện; không có chế tài mạnh để bảo đảm các quy
định đƣợc thực hiện trên thực tế; thiếu công cụ cho các cán bộ trong việc thực
hiện kiểm tra, giám sát; thiếu sự đồng bộ trong phối hợp giữa các cơ quan,
đoàn thể liên quan; Pháp lệnh không phù hợp với tình hình mới...‖. Nhƣ vậy,
có thể nói pháp luật bảo vệ ngƣời tiêu dùng thể hiện một số điểm hạn chế, bất
cập sau:
a) Những hạn chế, bất cập trong quy định liên quan đến quyền và trách
nhiệm của Người tiêu dùng
Việc quy định các quyền và trách nhiệm cơ bản của Ngƣời tiêu dùng
đƣợc coi là một thành tựu lớn về mặt lập pháp. Tuy nhiên, thực tiễn thực thi
các văn bản pháp luật cho thấy vẫn còn nhiều bất cập trong các chế định về
quyền và trách nhiệm của Ngƣời tiêu dùng. Điều đó đƣợc thể hiện ở một số
khía cạnh sau:
Thứ nhất, các quy định về quyền và nghĩa vụ của Ngƣời tiêu dùng đƣợc
quy định một cách rải rác, không mang tính hệ thống. Nhìn vào Chƣơng 2 của
Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi Ngƣời tiêu dùng thì rất khó để Ngƣời tiêu dùng
nhận ra những quyền cơ bản của mình. Có thể nói, với cách quy định theo
kiểu "liệt kê" nhƣ Pháp lệnh thì thật khó để thể hiện rõ ràng các quyền cơ bản
của Ngƣời tiêu dùng. Đọc qua thì dƣờng nhƣ các quyền của Ngƣời tiêu dùng
đƣợc thể hiện một cách rất đầy đủ theo Hƣớng dẫn của Liên Hợp quốc. Tuy
nhiên, Ngƣời tiêu dùng Việt Nam với nhiều trình độ khác nhau và nhìn chung
trình độ còn thấp sẽ rất khó khăn để hiểu đƣợc các quyền này từ các quy định

20



của pháp luật. Có thể nói, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi Ngƣời tiêu dùng cũng
nhƣ các văn bản pháp luật liên quan chƣa đƣa ra đƣợc những quy định về
quyền và trách nhiệm của Ngƣời tiêu dùng một cách rõ ràng, dễ nhận biết.
Đây cũng chính là yêu cầu cơ bản của một văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ hai, các quy định về quyền và trách nhiệm của Ngƣời tiêu dùng còn
chung chung, khó thực hiện. Đọc qua các quyền của Ngƣời tiêu dùng mà
Pháp lệnh quy định chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy các quy định này mới chỉ
dừng lại ở mức "gọi tên" các quyền và trách nhiệm mà chƣa đi sâu phân tích bản
chất cụ thể của các quyền và trách nhiệm đó. Chính điều này không chỉ gây cho
Ngƣời tiêu dùng những khó khăn trong quá trình nhận thức về quyền và trách
nhiệm cuả mình mà còn gây khó khăn cho các cơ quan nhà nƣớc trong công tác
bảo vệ quyền lợi của Ngƣời tiêu dùng. Ví dụ: Điều 8, Pháp lệnh Bảo vệ quyền
lợi Ngƣời tiêu dùng quy định: "...Ngƣời tiêu dùng đƣợc đảm bảo an toàn về tính
mạng, sức khoẻ và môi trƣờng khi sử dụng hàng hoá, dịch vụ...", tuy nhiên
quyền đƣợc an toàn này của Ngƣời tiêu dùng đƣợc thể hiện nhƣ thế nào trên
thực tế? biểu hiện của việc vi phạm quyền này của Ngƣời tiêu dùng này ra sao?
Ngƣời tiêu dùng cần phải làm gì để đảm bảo quyền này của mình?...thì Pháp
lệnh không đề cập đến. Có thể nói rằng, những quy định về quyền và trách
nhiệm của Ngƣời tiêu dùng trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành còn
mang tính "nghị quyết" mà chƣa thực sự đảm bảo cơ chế cho việc thực thi các
quyền này của Ngƣời tiêu dùng trên thực tế.
b) Những bất cập trong quy định và quyền và trách nhiệm của tổ chức,
cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
Một trong những vấn đề quan trọng nhất trong công tác bảo vệ Ngƣời
tiêu dùng đó chính là ý thức của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá dịch
vụ. Pháp luật cần có những quy định về trách nhiệm cuả những tổ chức và cá
nhân này trong việc bảo đảm những quyền cơ bản của Ngƣời tiêu dùng. Pháp


21


lệnh Bảo vệ quyền lợi Ngƣời tiêu dùng đã quy định trách nhiệm của tổ chức
cá nhân kinh doanh hàng hoá dịch vụ bao gồm: trách nhiệm đăng ký, công bố
tiêu chuẩn, chất lƣợng hàng hoá, dịch vụ theo quy định của pháp luật và thực
hiện đúng cam kết với Ngƣời tiêu dùng; trách nhiệm thƣờng xuyên kiểm tra
về an toàn, chất lƣợng hàng hoá, dịch vụ, thực hiện việc cân đong đo đếm
chính xác; trách nhiệm thông tin, quảng cáo chính xác, trung thực về hàng
hoá, dịch vụ; trách nhiệm niêm yết giá hàng hoá, dịch vụ; trách nhiệm bảo
hành; trách nhiệm giải quyết khiếu nại của Ngƣời tiêu dùng; trách nhiệm thu
thập, nghiên cứu, tiếp thu ý kiến đóng góp của Ngƣời tiêu dùng; trách nhiệm
bồi thƣờng, bồi hoàn...Mặc dù đã quy định tƣơng đối toàn diện các trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ tuy nhiên các quy
định của pháp luật hiện hành cũng còn thể hiện những hạn chế sau đây:
Thứ nhất, thiếu chế tài để xử lý các hành vi vi phạm của tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Mặc dù đã có những quy định về trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá dịch vụ đối với Ngƣời tiêu
dùng nhƣng khi các tổ chức, cá nhân này vi phạm các quy định này, ví dụ
nhƣ: cân, đong sai, thông tin về hàng hoá, dịch vụ thiếu trung thực,...thì không
có bất kỳ một quy định nào về chế tài xử lý. Điều này đã làm mất đi tính răn
đe, giáo dục cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Thực tiễn
hoạt động công tác bảo vệ Ngƣời tiêu dùng cho thấy, khi xảy ra vụ việc vi
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Ngƣời tiêu dùng, các cơ quan nhà nƣớc
có thẩm quyền rất khó xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm bởi thiếu một cơ sở
pháp lý vững chắc cho việc xử lý đó. Chính vì vậy, nhiều vụ việc mặc dù xác
định rõ ràng có sự vi phạm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
trong việc thực hiện các trách nhiệm của mình với Ngƣời tiêu dùng những
vẫn không thể xử lý đƣợc. Đây cũng là một trong những lý do ảnh hƣởng đến
hiệu quả trong công tác bảo vệ Ngƣời tiêu dùng trong thời gian qua.


22


×