Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Căn cứ ly hôn theo pháp luật hôn nhân và gia đình việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.32 KB, 88 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

ĐẶNG TUẤN THẢO UYÊN

CĂN CỨ LY HƠN
THEO PHÁP LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM

NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
MÃ SỐ: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC ĐIỆN

TP. HỒ CHÍ MINH - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ “Căn cứ ly hôn theo pháp luật hôn nhân và gia
đình Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Điện. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu
của riêng mình.
TÁC GIẢ
Đặng Tuấn Thảo Uyên


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

HNGĐ



:

Hơn nhân và gia đình

BLDS
TAND
VKSND

:
:
:
dân
:

Bộ luật dân sự
Tòa án nhân dân
Viện kiểm sát nhân

HĐXX

Hội đồng xét xử


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ......................................................................... 1
Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................................................. 2
Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................................... 4
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài............................................................................4

Phương pháp nghiên cứu....................................................................................................5
Kết cấu của luận văn ........................................................................................................ 5
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CĂN CỨ LY HƠN..........................................6
1.1.
Khái niệm về ly hơn và căn cứ ly hôn ............................................................. 6
1.1.1. Khái niệm ly hôn ................................................................................... 6
1.1.2. Ý nghĩa của việc ly hôn......................................................................... 8
1.1.3. Cơ sở quy định căn cứ ly hôn............................................................... 10
1.1.4. Yếu tố lỗi trong căn cứ ly hơn.............................................................. 12
1.2.
Tính kế thừa và phát triển của căn cứ ly hôn qua pháp luật hôn nhân và gia đình
1.
2.
3.
4.
5.
6.

các thời kỳ.........................................................................................................................15
1.2.1. Thời kỳ phong kiến ............................................................................. 15
1.2.2. Thời kỳ Pháp thuộc ............................................................................. 17
1.2.3. Giai đoạn năm 1945-1954 ................................................................... 18
1.2.4. Giai đoạn năm 1954-1975 ................................................................... 19
1.2.5. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay .......................................................... 21
Kết luận chương 1 .......................................................................................................... 23
CHƯƠNG 2: CĂN CỨ LY HÔN THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH............................25
2.1.
Thuận tình ly hơn ......................................................................................... 25
2.2.
Ly hơn theo yêu cầu của vợ hoặc chồng........................................................ 28

2.2.1. Trường hợp bao lực gia đình.................................................................29
2.2.2. Vợ hoặc chồng của người bị Tịa án tun bố mất tích u cầu ly hơn ...
33
2.3.
Ly hôn theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc người thân thích khác của vợ, chồng...
38
Kết luận chương 2:...........................................................................................................40
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 41
3.1.
Thực trạng và nguyên nhân của tình trạng ly hôn hiện nay............................41
3.2.
Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hơn khi Tịa án giải quyết u cầu ly hơn .........45
3.2.1. Quy định về căn cứ ly hôn chưa đủ rõ ràng để áp dụng........................45
3.2.2. Một số căn cứ cần được thừa nhận khi xem xét cho ly hôn..................52
3.3.
Khẳng định vai trò của yếu tố lỗi trong căn cứ ly hơn ...................................61
3.4.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em khi ly hơn...............63
3.5.
Mục đích và ý nghĩa của việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về ly
hôn và căn cứ ly hôn........................................................................................................64
3.6.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn ......................66


Kết luận chương 3:...........................................................................................................73
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................75
PHỤ LỤC ............................................................................................................78




1


2

Đối tượng nghiên cứu đề tài: Các quy định của Luật HNGĐ năm 2014 và các
văn bản pháp luật hiện hành có liên quan đến căn cứ ly hơn. Vấn đề về căn cứ ly hôn
theo pháp luật Việt Nam - khơng bao gồm nghiên cứu trình tự, thủ tục tố tụng về ly
hôn. Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận của căn cứ ly hôn theo pháp luật hơn nhân và
gia đình Việt Nam năm 2014;
Phạm vi nghiên cứu:
Thời gian: Giai đoạn 2012-2016
Không gian: Các quy định được ban hành và thực tiễn tại Việt Nam.
5.

Phương pháp nghiên cứu
Đề tài khoa học được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ

nghĩa Mác - Lê nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ
Chí Minh về gia đình, và đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp tư duy trừu
tượng, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp và diễn
dịch, phương pháp hệ thống và phương pháp so sánh các quy định pháp luật về hơn
nhân và gia đình tại Việt Nam.
6.

Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia


thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về căn cứ ly hôn.
Chương 2: Căn cứ ly hôn theo pháp luật hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn và một số kiến nghị.


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CĂN CỨ LY HÔN
1.1. Khái niệm về ly hôn và căn cứ ly hôn
1.1.1.

Khái niệm ly hơn

Trong khoa học pháp lý nói chung, nếu hơn nhân được định nghĩa như là sự
kết hợp giữa một người nam và một người nữ, được xác lập bằng việc kết hôn hợp
pháp, để hai bên cùng chung sống và tạo lập một gia đình, thì ly hơn chính là hành vi
pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân đó 4. Nói cách khác, ly hơn là việc chấm dứt
quan hệ hôn nhân về mặt pháp lý khi cả vợ và chồng đều còn sống.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, tại khoản 14 Điều 3 Luật HNGĐ năm
2014 định nghĩa: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật của Tịa án”. Từ định nghĩa này có thể thấy pháp luật Việt Nam
chấp nhận và thực hiện theo quan điểm thứ ba: ly hôn tự do dưới sự kiểm soát của
Nhà nước. Khác với định nghĩa tại khoản 8 Điều 8 Luật HNGĐ năm 2000 rằng: “Ly
hôn là chấm dứt quan hệ hơn nhân do Tịa án công nhận hoặc quyết định theo yêu
cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng”, định nghĩa về ly hơn của pháp
luật hiện hành có sự thay đổi cơ bản, mang tính chất chặt chẽ hơn, phản ánh tính
quyền lực của nhà nước nói chung, cũng như phản ánh bản chất của ly hơn nói riêng
là mang tính chất giai cấp, được khẳng định qua nội dung: “bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật của Tịa án". Tịa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử, có

vai trị quan trọng trong việc đóng góp phần tuân thủ, chấp hành các quy định của
pháp luật. Phán quyết ly hơn của Tịa án thể hiện dưới hình thức bản án hoặc quyết
định. Nếu cả hai vợ chồng thuận tình ly hơn, giải quyết với nhau được tất cả các nội
dung sau khi ly hôn (quan hệ nhân thân, tài sản, con cái...) thì Tịa án cơng nhận ly
hơn và ra quyết định cơng nhận thuận tình ly hôn. Nếu vợ chồng mâu
4
Trường Đại học Luật TPHCM(2018), Giáo trình luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam, NXB Hồng
Đức- Hội luật gia Việt Nam.

thuẫn, tranh chấp thì Tịa án xét xử và ra phán quyết ly hơn bằng bản án. Tóm lại, ly


hơn chính là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tịa án.
Ly hơn là một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp sâu sắc và chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ bởi phong tục, tập quán và bị tác động bởi kinh tế - xã hội, văn hố, đạo
đức, tơn giáo và pháp luật. Tuy nhiên, ngoài những yếu tố kể trên, pháp luật khi
muốn điều chỉnh về ly hơn cịn phải xem xét những yếu tố thuộc về tâm sinh lý con
người. Như vậy, có thể nói khi quy định ly hôn và những căn cứ cho ly hôn, nhà làm
luật phải phụ thuộc và cân nhắc rất nhiều vào điều kiện kinh tế xã hội, văn hoá, đạo
đức và chịu ảnh hưởng của yếu tố tâm sinh lý con người. Do đó, quan niệm về hơn
nhân ở mỗi quốc gia là khác nhau, dẫn đến việc quy định về ly hôn trong hệ thống
pháp luật của mỗi quốc gia cũng khác nhau. Trên thế giới có thể tạm chia thành ba
quan điểm về ly hôn:6
(1)

Cấm ly hôn: Quan điểm này được chấp nhận trong rất nhiều hệ thống

luật nguyên sơ và được coi là nền tảng của luật giáo hội về gia đình. Nhiều nước
Châu Âu chỉ mới từ b quan điểm này cách đây không lâu (ở Ý từ năm 1975, ở Tây

Ban Nha từ năm 1982...). Việc duy trì quan điểm này trong luật cận đại và đương đại
của các nước chủ yếu vì lý do tơn giáo. Theo đó, hơn nhân được xác lập và được duy
trì chỉ nhờ vào sự ưng thuận lúc ban đầu, một khi đã ưng thuận kết hơn thì khơng thể
thay đổi ý chí, nghĩa là phải chấp nhận cuộc sống chung cho đến cuối đời. Nói cách
khác, một khi đã kết hơn thì khơng được ly hơn.
(2)

Tự do ly hơn: Trái ngược với quan điểm trên, hệ thống tự do ly hôn bắt

đầu xuất hiện và được thiết lập trong luật La Mã thời kì cuối. Quan điểm này dựa trên
lập luận rằng hơn nhân khơng thể được duy trì một khi vợ hoặc chồng hoặc cả hai
khơng cịn cảm thấy muốn chung sống cùng nhau. Mỗi người đều có quyền tự do xác
lập quan hệ hơn nhân thì cũng có quyền tự do chấm dứt quan hệ đó. Có hai hình thức
tự do ly hơn: ly hơn do cả vợ và chồng cùng đồng thuận hoặc ly hôn đơn phương từ
một phía.
(3)

Ly hơn tự do dưới sự kiểm sốt của Nhà nước: Đây được xem như là sự

6PGS.TS Hà Thị Liên Mai (2012), Giáo trình Luật hơn nhân và gia đình Việt Nam Phần 2 , Đại học Huế


dung hoà giữa hai quan điểm trên. Nghĩa là, việc ly hôn vẫn xuất phát từ sự tự do lựa
chọn của các bên trong quan hệ vợ chồng, nhưng chỉ được chấp nhận trong những
trường hợp luật định. Nói cách khác, vợ hoặc chồng hoặc cả hai bên có thể đưa ra
yêu cầu ly hôn, nhưng quyền quyết định cho phép ly hơn hay khơng lại thuộc về Tịa
án, thơng qua phán quyết của Thẩm phán, dựa trên cơ sở đánh giá tình trạng, mức độ
nghiêm trọng trong quan hệ hơn nhân, sự thấu tình đạt lý, ngun nhân mâu thuẫn
v.v... Như vậy, khi Thẩm phán xét thấy có căn cứ cho rằng việc ly hơn có thể ảnh
hưởng bất lợi nghiêm trọng đối với cuộc sống sau ly hôn của một trong hai đương sự

(hoặc cả hai) hoặc đối với các thành viên khác trong gia đình, so với việc tiếp tục
quan hệ hơn nhân, thì Thẩm phán có quyền không chấp nhận đơn xin ly hôn và các
bên phải tiếp tục duy trì quan hệ hơn nhân đó. Hệ thống ly hơn tự do dưới sự kiểm
sốt của Nhà nước cho phép cơ quan Nhà nước có thẩm quyền can thiệp vào sự hình
thành suy nghĩ của vợ, chồng về vấn đề ly hôn đồng thời vẫn tôn trọng ý chí của vợ,
chồng hoặc của cả hai về việc duy trì hay khơng duy trì cuộc sống chung.
1.1.2.

Ý nghĩa của việc ly hôn

Ly hôn là một hiện tượng xã hội phức tạp. Xét từ góc độ xã hội học, nếu hơn
nhân là hiện tượng bình thường thì ly hơn là hiện tượng bất bình thường, là mặt trái
của hôn nhân. Ly hôn chỉ là giải pháp sau cùng khi khơng cịn khả năng hàn gắn lại
cuộc sống vợ chồng, mục đích hơn nhân khơng đạt được. Trước đây, do ảnh hưởng
của tư tưởng lạc hậu nên việc ly hơn được xem là bất bình thường, bị xã hội lên án.
Đặc biệt đối với người phụ nữ, việc chủ động xin ly hơn là điều khó được chấp nhận.
Tuy nhiên, trong xã hội ngày nay, cách nhìn nhận về ly hơn đã có phần thống hơn.
Ly hơn dần được xem là một hiện tượng bình thường của xã hội hiện đại. Khi xã hội
thừa nhận quyền tự do kết hơn thì cũng đương nhiên cho phép tự do trong ly hôn.
Quan hệ hôn nhân hiện đại với đặc điểm tồn tại lâu dài, bền vững cho đến suốt cuộc
đời con người vì nó được xác lập trên cơ sở tình u thương, tự nguyện gắn bó giữa
vợ chồng. Song, trong cuộc sống vợ chồng, vì nhiều lý do dẫn tới mâu thuẫn sâu sắc
giữa vợ chồng đến mức không thể chung sống với nhau nữa, vấn đề ly hôn được đặt
ra để giải phóng cho vợ chồng và các thành viên khác thốt kh i mâu thuẫn gia đình.


Mọi vấn đề đều có hai mặt, ly hơn cũng khơng ngoại lệ. Mặt trái của ly hơn có
thể để lại hậu quả nặng nề cho mỗi người trong cuộc và cho xã hội, kéo theo sự tranh
chấp trong phân chia tài sản, nuôi con, gây chia rẽ quan hệ gia đình, gây ảnh hưởng
trực tiếp tới đời sống và tương lai của các thành viên, đặc biệt là con chưa thành niên;

bên cạnh đó, xã hội phải gánh chịu hậu quả nặng nề khi ly hôn xảy ra như tình trạng
trẻ em phạm tội trong các gia đình ly hơn tăng nhanh do khơng nhận được đầy đủ tình
u thương, quan tâm chăm sóc từ cha mẹ.
Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, mặt tiến bộ của ly hơn là giải phóng cho mỗi
cá nhân khi hơn nhân của họ đã thực sự khơng cịn hạnh phúc, đây là việc làm mang
tính nhân văn. Ly hơn là một trong những quyền cơ bản của con người, việc Nhà
nước thừa nhận chế định ly hôn trong pháp luật là thể hiện sự đảm bảo cũng như tôn
trọng quyền tự do định đoạt của vợ chồng, giúp họ giải quyết những bế tắc, xung đột
trong đời sống hôn nhân. Nhà nước kiểm sốt ly hơn bằng pháp luật, mặc dù Nhà
nước thừa nhận ly hôn là quyền dân sự gắn liền với nhân thân vợ chồng song cũng
cần phải hiểu rõ về bản chất rằng đây không phải là quyền tuyệt đối. Nhà nước sẽ
thực hiện quyền kiểm soát đối với hôn nhân nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu
cực mà ly hơn để lại. Tịa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của vợ chồng phải dựa vào
thực chất quan hệ vợ chồng và phải phù hợp với các căn cứ ly hôn mà pháp luật quy
định. Nhà nước ban hành các quy định pháp luật về căn cứ ly hơn, trường hợp ly hơn,
về trình tự thủ tục ly hôn, về việc giải quyết hậu quả ly hơn. Do đó nếu vợ chồng
muốn được ly hơn phải tuân thủ các điều kiện, căn cứ ly hôn và các trình tự thủ tục ly
hơn theo luật định. Mọi trường hợp vợ chồng xin ly hôn chỉ xét thấy có căn cứ ly hơn
theo luật định là quan hệ vợ chồng đã đến mức “tình trạng trầm trọng, đời sống chung
khơng thể kéo dài, mục đích hơn nhân khơng đạt được” thì Tịa án mới giải quyết cho
ly hơn.
Ly hơn cịn hướng đến bảo vệ các quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, tạo sự công
bằng cho xã hội. Vì khi xảy ra ly hơn, gia đình tan vỡ thì phụ nữ và trẻ em là những
đối tượng dễ chịu nhiều tổn thương nhất. Điều này thể hiện qua các quy định về hạn
chế quyền xin ly hôn của người chồng trong một số trường hợp nhất định. Cụ thể, tại


khoản 3 Điều 51 Luật HNGĐ năm 2014 quy định: “Trong trường hợp vợ có thai,
sinh con hoặc đang ni con dưới 12 tháng tuổi thì chồng khơng có quyền yêu cầu
xin ly hôn”. Đồng thời, các quy định về ly hôn đã tạo nền tảng vững chắc cho việc

giải quyết các hậu quả pháp lý phát sinh sau khi quan hệ hơn nhân chấm dứt. Đó là
các quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản, quan hệ cấp dưỡng giữa vợ, chồng và quan hệ
cấp dưỡng nuôi con...
Ly hôn là một chế định quan trọng trong Luật HNGĐ năm 2014 , cùng với kết
hôn, ly hôn tạo nên hai mặt hồn thiện của hơn nhân. Dù là mặt trái của hôn nhân,
nhưng ly hôn là điều cần thiết nếu hơn nhân khơng thể duy trì và bảo đảm trách
nhiệm là tế bào cho xã hội. Chính vì thế, chế độ ly hơn có ý nghĩa to lớn trong hệ
thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật hơn nhân và gia đình nói riêng và
thực tiễn cuộc sống.
1.1.3.

Cơ sở quy định căn cứ ly hôn

Hôn nhân (bao gồm cả ly hơn) là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp sâu sắc.
Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, giai cấp
thống trị đều thông qua Nhà nước, bằng pháp luật và tục lệ, quy định chế độ hôn
nhân phù hợp với ý chí của Nhà nước 7. Bởi vì trong quan hệ hơn nhân và gia đình,
ngồi lợi ích riêng tư của chủ thể, ln ẩn chứa lợi ích của xã hội, của Nhà nước,
thông qua các chức năng xã hội của gia đình. Theo đó, việc giải quyết ly hôn phải
dựa vào thực chất của quan hệ vợ chồng, trên cơ sở đánh giá một cách khách quan
thực trạng quan hệ đó, một mặt phải bảo đảm lợi ích của vợ chồng, mặt khác phải
bảo đảm lợi ích của con cái, của các thành viên trong gia đình và lợi ích của xã hội.
Do đó, Nhà nước phải kiểm sốt việc giải quyết ly hơn bằng cách xác định những
điều kiện cho phép chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Đó chính là căn cứ
để giải quyết cho ly hôn. Như vậy, “căn cứ ly hôn” là những điều kiện được quy định
trong pháp luật và chỉ khi có những điều kiện đó, Tịa án mới được xử cho ly hôn.
“Căn cứ ly hôn” ở đây cần được hiểu theo nghĩa của một thuật ngữ pháp lý; theo đó,
7Nguyễn Văn Cừ; Ngơ Thị Hường (2002), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002



khi một đề nghị xin ly hôn đã hội đủ các điều kiện quy định trong luật thì Tịa án
khơng thể dựa vào bất cứ lý do nào ngoài những điều kiện ấy để bác đơn xin ly hôn
của đương sự. Từ ý nghĩa pháp lý của thuật ngữ này giúp phân biệt “căn cứ” ly hôn
với “động cơ” ly hơn, hoặc “mục đích” ly hơn, hai khái niệm gần nghĩa nhưng không
được coi là những điều kiện ly hôn quy định trong luật.
Cơ sở để quy định căn cứ ly hôn được quy định dựa trên quan điểm chủ nghĩa
Mác - Lênin thể hiện quyền tự do kết hôn nhằm xác lập quan hệ vợ chồng và quyền
tự do ly hôn khi bản chất hôn nhân “đã chết” 8, sự tồn tại của hơn nhân chỉ cịn là bề
ngồi và lừa dối. Nghĩa là, khi quy định căn cứ ly hôn, nhà lập pháp không dựa trên
sự tùy tiện của mỗi cá nhân mà phải căn cứ vào bản chất của những sự kiện xảy ra
mới xác định cuộc hơn nhân này thực sự cịn “tồn tại” hay khơng, từ đó Tịa án mới
xem xét quyết định cho ly hôn. Từ quan điểm trên cho thấy, nhà nước xã hội chủ
nghĩa Việt Nam quy định căn cứ ly hôn mang tính khoa học, phản ánh thực chất cuộc
hơn nhân đã bị tan vỡ và việc Tòa án giải quyết cho họ được ly hơn chính là cơng
nhận một thực tế đã và đang tồn tại trong mối quan hệ vợ chồng không thể cứu vãn
được. Với những căn cứ ly hơn như vậy sẽ đảm bảo khi Tịa án cho phép vợ chồng ly
hơn là hồn tồn phù hợp với những mâu thuẫn thực tế trong đời sống vợ chồng. Lúc
này, ly hơn trở thành một giải pháp tích cực để giải phóng vợ chồng và các thành viên
trong gia đình thốt kh i mâu thuẫn, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
1.1.4.

Yếu tố lỗi trong căn cứ ly hôn

Trong các căn cứ xem xét cấu thành vi phạm, như cấu thành vi phạm hành
chính, cấu thành tội phạm, căn cứ bồi thường thiệt hại về hợp đồng và ngồi hợp
đồng..., thì “lỗi” ln là một trong những yếu tố được cân nhắc nhằm xem xét trách
nhiệm của các bên tham gia quan hệ đó.
Ở nước ta, trước khi Luật HNGĐ năm 2014 được ban hành, các luật HNGĐ
trước đây (năm 1959, 1986 và 2000) khi xem xét căn cứ ly hơn hồn tồn khơng dựa

vào lỗi của vợ chồng mà chỉ dựa vào bản chất của hôn nhân tan vỡ trên ba cơ sở: tình
trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng
8V.I.Lênin - Tồn tập(1980), Tập 25, Nxb Tiến bộ, Maxcơva,


đạt được. Điều này đã gây ra khơng ít khó khăn cho Tòa án trong việc áp dụng pháp
luật về trách nhiệm của các bên. Ví dụ: người chồng thường xuyên say rượu, đánh
đập, chửi mắng, hành hạ thể xác và tinh thần vợ con; người vợ khơng chăm sóc gia
đình mà đi ngoại tình b bê chồng con.
Nhằm khắc phục vấn đề này, Luật HNGĐ năm 2014 đã đưa việc “vợ, chồng
có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ,
chồng làm cho hơn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể
kéo dài, mục đích của hơn nhân không đạt được” trở thành một trong các căn cứ cụ
thể để Tịa án giải quyết cho ly hơn. Đây là một điểm mới quan trọng và tiến bộ của
Luật HNGĐ năm 2014 so với các Luật HNGĐ trước đó, bởi qua tổng kết thực tiễn
giải quyết các vụ án ly hơn của Tịa án cho thấy, số vụ ly hơn do bạo lực gia đình
chiếm tỉ lệ cao trong các nguyên nhân dẫn đến ly hôn, mà phần lớn nạn nhân là phụ
nữ và trẻ em. Tình trạng bạo lực gia đình ngày càng gia tăng về số lượng và tính chất
nghiêm trọng và xuất phát từ nhiều lý do. Ngoài ra, đối với những vi phạm khác,
những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng trong đời sống vợ chồng phải đến mức khiến
hơn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống hơn nhân khơng thể kéo dài, mục
đích hơn nhân khơng đạt được do có sự vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của
vợ chồng thì Tịa án mới giải quyết cho ly hơn. Có thể nói, Luật HNGĐ năm 2014
lần đầu tiên đưa “yếu tố lỗi” để xem xét cho ly hôn. Việc quy định như vậy đã tạo cơ
sở pháp lý rõ ràng cho Tòa án khi giải quyết việc ly hôn theo yêu cầu của một bên,
hạn chế sự tùy tiện của Tòa án trong áp dụng pháp luật. Đây là một sự đổi mới quan
trọng nhằm đưa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền
công dân vào thực tiễn và tạo cơ sở pháp lý thống nhất trong việc giải quyết việc ly
hơn trong cả nước. Qua đó, thể hiện sự tiếp thu quy định của một số nước trên thế
giới khi có sự kết hợp giữa thực trạng của hôn nhân và yếu tố lỗi để giải quyết việc ly

hơn như:
Có thể kể đến BLDS Cộng hịa Pháp (Luật số 65-570 năm 1965), Điều 243
quy định: “Vợ hoặc chồng có thể xin ly hơn khi nêu ra tồn bộ những sự việc bắt
nguồn từ bên vợ hoặc chồng làm cho cuộc sống chung không thể tiếp tục”. Theo quy


định này, vợ hoặc chồng xin ly hôn trong đơn có nêu lỗi của bên kia và nếu bên kia
thừa nhận lỗi trước Tịa thì Tịa sẽ tun ly hơn. Đồng thời, theo Điều 230 BLDS
Cộng hòa Pháp quy định: “Nếu hai vợ chồng cùng xin ly hơn thì khơng phải nói rõ lý
do”, trường hợp thuận tình ly hơn thì Tịa án cho ly hơn mà khơng cần xem xét tới
yếu tố lỗi, ly hôn được giải quyết theo sự thoả thuận của đương sự và cũng tương tự
trường hợp “thuận tình ly hơn” của pháp luật hiện hành nước ta. Tuy nhiên, LDS
Pháp cũng xét đến tình trạng hơn nhân trên thực tế của vợ chồng, Tịa án sẽ xử cho ly
hơn nếu tính tình của một người đã thay đổi đến mức không thể sống chung được nữa
và dự đốn khơng thể được khơi phục trong tương lai. Đồng thời, Điều 237 BLDS
Cộng hòa Pháp còn xét đến thời gian sống riêng biệt của hai vợ chồng vì lý do rạn
nứt tình cảm phải là sáu năm, tức pháp luật Pháp công nhận ly thân là một trong các
căn cứ ly hôn. Như vậy, pháp luật của Pháp nhìn nhận bản chất hơn nhân cũng là một
hợp đồng như những hợp đồng dân sự khác.
Luật pháp của Canada về ly hơn có sự kết hợp giữa căn cứ ly hôn trong việc
xác định yếu tố lỗi và thực trạng hôn nhân. Hôn nhân được coi là tan vỡ khi hai vợ
chồng sống riêng rẽ đã hơn một năm với lý do hôn nhân bị rạn nứt, khi hai vợ chồng
có quan hệ ngoại tình với người khác hoặc khi vợ hoặc chồng có đối xử ngược đãi về
thể chất hoặc tinh thần làm bên kia không thể chịu đựng được, khi đó Tịa án sẽ tun
chấp nhận ly hơn.
Theo BLDS Nhật Bản, vợ hoặc chồng có thể ly hơn qua th a thuận hoặc theo
trình tự xét xử. Đối với trường hợp ly hôn theo th a thuận thì vợ chồng cũng phải th a
thuận được người nuôi con và những vấn đề cần thiết khác đối với việc chăm sóc con
như cấp dưỡng hoặc việc phân chia tài sản. Nếu các bên không th a thuận được các
vấn đề này thì có thể u cầu Tịa án quyết định. Đối với trường hợp ly hôn theo trình

tự xét xử, vợ hoặc chồng chỉ có quyền kiện địi ly hơn trong năm trường hợp sau: (1)
Nếu một trong hai người bị người kia ngược đãi, hành hạ thậm tệ; (2) Một trong hai
người có hành vi khơng chung thuỷ; (3) Nếu một trong hai người trong ba năm liền
biệt tích khơng rõ cịn sống hay đã chết; (4) Một trong hai người bị bệnh tâm thần mà
không có khả năng chữa trị; (5) Tồn tại lý do dẫn đến các bên không thể tiếp tục hôn


nhân (Điều 170 BLDS Nhật Bản). Tuy nhiên pháp luật Nhật Bản cũng quy định nếu
vợ hoặc chồng kiện đòi ly hơn trong bốn trường hợp đầu nhưng Tịa án xét thấy việc
tiếp tục hôn nhân là đúng đắn khi căn cứ vào mọi hồn cảnh thì Tịa án có thể xem
xét không cho ly hôn. Điều này giống quy định của pháp luật nước ta. Giải quyết ly
hôn phải dựa vào bản chất của vấn đề chứ không chỉ nhìn vào những lý do mà đương
sự viện ra để xin ly hơn.
Tóm lại, có thể thấy Luật HNGĐ năm 2014 đã bổ sung điểm mới khi quy định
một trong các căn cứ để ly hơn là “có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm
trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng”. Như vậy, pháp luật về hơn nhân và gia đình
hiện hành đã đưa “yếu tố lỗi” để xem xét cho ly hôn. Đây là quan điểm tiến bộ, được
nhiều người đồng tình ủng hộ, phù hợp với các yếu tố cấu thành trách nhiệm dân sự,
thể hiện kỹ thuật lập pháp cao hơn so với các văn bản quy phạm pháp luật về hôn
nhân và gia đình trước đây.
1.2. Tính kế thừa và phát triển của căn cứ ly hôn qua pháp luật hôn nhân và gia
đình các thời kỳ
1.2.1.

Thời kỳ phong kiến

Bộ luật Hồng Đức (hay Quốc triều Hình luật) được ban hành dưới thời vua Lê
Thánh Tông trong giai đoạn khoảng từ năm 1428 đến năm 1497, và ộ luật Gia Long
(hay Hoàng triều luật lệ) được nhà Nguyễn ban hành vào thế kỷ XIX, là những thành
tựu lập pháp của thời kỳ phong kiến nước ta. Quy định về căn cứ ly hôn trong các bộ

luật trên cũng mang đậm nét tư tưởng Nho giáo khi đặt luân lý gia đình lên trên
quyền lợi, lợi ích cá nhân. Đặc biệt là người phụ nữ luôn phải gạt b nhu cầu, hạnh
phúc riêng của mình để phục tùng vua, cha và chồng theo thuyết tam cương. Thân
phận người phụ nữ thời phong kiến ln bị xem nhẹ và bất bình đẳng trong quan hệ
vợ chồng. Với mục đích bảo vệ quyền lợi gia đình hơn quyền lợi cá nhân, căn cứ ly
hơn (hay cịn gọi là “dun cớ ly hơn”) trong xã hội phong kiến Việt Nam được chia
thành các trường hợp sau: ly hôn bắt buộc, đơn phương ly hôn và ly hơn thuận tình. 9
9Nguyễn Thị Thu Vân (8/2005), "Căn cứ ly hơn trong cổ luật Việt Nam”, tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số
208, Tr.55-61.


Ly hôn bắt buộc: Trong các trường hợp này, người chồng buộc phải b ỏ vợ
(rẫy vợ) cho dù có muốn hay không. Điều 310 Bộ luật Hồng Đức quy định nếu người
vợ phạm phải một trong các điều “thất xuất” thì chồng phải b vợ, nếu khơng sẽ bị xử
tội biếm (giáng chức quan), bao gồm: khơng có con, dâm đãng, không thờ phụng bố
mẹ chồng, lắm lời, trộm cắp, ghen tuông và bị ác tật. Trên thực tế, tục lệ xã hội
phong kiến Việt Nam chỉ công nhận bốn duyên cớ để chồng b vợ đó là: vợ bất chính
(khơng trung thành với chồng, cờ bạc), vợ ăn cắp của chồng hoặc cha mẹ chồng, vợ
khơng kính trọng cha mẹ chồng, vợ đánh đập chồng.
Tuy nhiên, các trường hợp “thất xuất” cũng có ngoại lệ. Theo đoạn 165 Hồng
Đức Thiện chính thư và Điều 108 Bộ luật Gia Long quy định ba trường hợp “tam bất
khứ”, khi đó người chồng không được phép b vợ kể cả khi vợ phạm phải thất xuất,
bao gồm: khi vợ đã để tang nhà chồng ba năm; khi vợ chồng lấy nhau nghèo, về sau
giàu có; khi vợ chồng lấy nhau, vợ cịn bà con họ hàng, khi bỏ nhau thì vợ khơng cịn
nơi nào để trở về. Riêng đối với Bộ luật Gia Long, “tam bất khứ” sẽ khơng có hiệu
lực nếu vợ phạm phải tội thơng gian (ngoại tình).
Đơn phương xin ly hơn: Ngồi các trường hợp “thất xuất”, cổ luật Việt Nam
cịn quy định khi việc kết hơn vi phạm các điều kiện thiết yếu của hơn nhân thì vợ
chồng có quyền xin ly hơn. Các Điều 308 Bộ luật Hồng Đức và Điều 108 Bộ luật Gia
Long đã cho phép người vợ được phép xin quan cải giá sau năm tháng chồng khơng

đi lại (nếu có con là một năm) theo Bộ luật Hồng Đức và ba năm theo Bộ luật Gia
Long. Đây là một quy định thể hiện sự tiến bộ của nhà làm luật phong kiến Việt Nam,
góp phần hạn chế sự thiếu trách nhiệm của chồng đối với vợ và tạo cho người phụ nữ
có cơ hội để có thể tự giải thốt cho mình. Ngược lại, trường vợ b nhà đi thì người
chồng cũng được phép xin ly dị (Điều 321 Bộ luật Hồng Đức và Điều 108 Bộ luật
Gia Long). Đặc biệt, tại Điều 333 Bộ luật Hồng Đức còn cho phép vợ được ly dị nếu
chồng mắng cha mẹ vợ phi lý, bởi trong trường hợp này người con rể đã phạm vào tội
bất hiếu với cha mẹ vợ nên luật cho phép người vợ có quyền ly hơn.
Thuận tình ly hơn: Ngồi hai trường hợp ly hơn kể trên thì pháp luật phong
kiến cũng cho phép vợ chồng được thuận tình ly hôn. Tại đoạn 167 Hồng Đức Thiện


chính thư: “Nếu hai vợ chồng bất hịa thuận, nguyện xin ly dị thì tờ xin ly hơn do hai
bên vợ chồng tự viết hoặc nhờ người trong họ viết thay giấy thỏa thuận được hai bên
cùng ký, viết chữ giáp lai rồi mỗi bên giữ một nửa làm bằng, sau đó mỗi người một
nơi mà khơng cần có sự cho phép của nhà chức trách”. Đơn giản hơn thì trên thực tế,
tục bẻ đôi một đồng tiền (tượng trưng cho việc phân chia tài sản) hay một đôi đũa
(chia lìa cuộc sống) vẫn được dân ta áp dụng khi hai vợ chồng có sự th a thuận ly
hơn. Trong Bộ luật Gia Long, tại Điều 108 cũng chấp nhận sự thuận tình ly hơn:
“Nếu hai vợ chồng khơng thể hịa hợp, thế là tuyệt tình chứ khơng phải tuyệt nghĩa,
mặc dù khơng có điều gì bắt buộc phải ly dị và làm cho hết ân nghĩa vợ chồng, họ có
thể được phép bỏ nhau mà khơng bị phạm tội”.
Như vậy, việc quy định vợ chồng được phép thuận tình ly hôn trong cổ luật
cho ta thấy được thái độ tôn trọng quyền tự quyết của vợ chồng về mối quan hệ hơn
nhân giữa họ. ên cạnh đó ta cịn thấy được ý nghĩa nhân văn và tiến bộ của quy định,
khi các nhà làm luật thời phong kiến ghi nhận sự thuận tình ly hơn tức là hướng tới sự
giải phóng cho vợ chồng thốt kh i bế tắc trong cuộc sống hôn nhân của họ.
1.2.2. Thời kỳ Pháp thuộc
Trong thời Pháp thuộc, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, bị
chia cắt thành ba xứ riêng biệt với ba cơ cấu hành chính riêng: xứ thuộc địa Nam Kỳ

và hai xứ bảo hộ Bắc và Trung Kỳ. Với mục đích nhằm củng cố sự thống trị của
mình, thực dân Pháp đã ban hành ba bộ luật dân sự tương ứng với ba miền, đó là: ộ
dân luật Bắc Kỳ năm 1931, bộ dân luật Trung Kỳ năm 1936 và tập Dân luật giản yếu
Nam Kỳ năm 1883.10
Về căn cứ ly hôn, mặc dù mỗi bộ luật được ban hành và áp dụng ở các vùng
miền khác nhau nhưng chúng đều có sự tương đồng nhất định và chủ yếu vẫn dựa
trên cơ sở “lỗi” của vợ chồng, cụ thể như sau:
Các trường hợp chồng có thể xin ly hôn: Tại Điều 117 Dân luật Trung kỳ và
Điều 118 Dân luật Bắc kỳ quy định chồng có thể xin ly hơn vợ vì các dun cớ: vợ
phạm gian; vợ b nhà chồng ra đi, tuy đã buộc phải về nhưng không chịu về; vợ thứ
10Nguyễn Văn Cừ; Ngơ Thị Hường (2002), “Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về Luật Hơn nhân và gia đình
năm 2000”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002


đánh chửi, bạo hành vợ chính.
Các trường hợp vợ có thể xin ly hôn: Điều 118 Bộ Dân luật Trung kỳ và Điều
119 Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định vợ có thể xin ly hơn chồng vì những dun cớ như:
chồng b nhà đi q hai năm khơng có lý do chính đáng và khơng lo liệu việc ni
nấng vợ con; chồng đuổi vợ ra kh i nhà mà khơng có lý do chính đáng; làm trái trật tự
trong thê đẳng; chồng không làm nghĩa vụ đã cam đoan khi kết hôn, là phải tùy theo
kế sinh nhai mà nuôi nấng vợ con. Đặc biệt, tại Điều 123 Dân luật Bắc kỳ có quy
định: “Người vợ có thể kiện xin ly hôn, không cần phải chồng cho phép”. Như vậy,
việc đặt ra quy định này có ý nghĩa quan trọng khi xác định cho người phụ nữ quyền
được tự quyết định hạnh phúc hơn nhân của mình chứ khơng phụ thuộc vào người
chồng.
Thuận tình ly hơn: Điều 119 Dân luật Trung kỳ và Điều 120 Dân luật Bắc kỳ
quy định về những duyên cớ mà cả vợ cả chồng cùng có thể xin ly hơn như: vì một
bên can án trọng tội, vì một bên vơ hạnh làm nhơ nhuốc đến nỗi bên kia không thể ở
chung được... Tuy nhiên, điều kiện để hai vợ chồng có thể xin thuận tình ly hơn là
“đã chung sống với nhau 02 năm” (Điều 121 Dân luật Bắc kỳ và Điều 120 Dân luật

Trung kỳ). Dân luật giản yếu Nam kỳ lại chặt chẽ hơn khi quy định vợ chồng xin
thuận tình ly hôn sẽ không được chấp thuận nếu: chưa chung sống đủ 02 năm hoặc đã
quá 20 năm; người chồng dưới 25 tuổi hay người vợ dưới 21 tuổi hoặc đã quá 45
tuổi. Như vậy, có thể thấy việc quy định hạn chế sự thuận tình ly hơn này nhằm
khuyến khích vợ chồng củng cố xây dựng gia đình lâu dài, bền vững, cũng như nhằm
đảm bảo lợi ích cho cả vợ và chồng khi mà việc ly hôn ảnh hưởng trực tiếp đến họ.
1.2.3.

Giai đoạn năm 1945-1954

Trong những năm từ 1945 đến 1950, Nhà nước ta đã ban hành các sắc lệnh
quy định về hơn nhân gia đình: Sắc lệnh số 90-SL ngày 10/10/1945, Sắc lệnh số 97SL ngày 22/5/1950 và Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950.
Về vấn đề ly hôn, nhà nước ta quy định rõ tại Sắc lệnh số 159-SL ngày
17/11/1950. Sắc lệnh gồm 9 điều chia thành 3 mục: duyên cớ ly hôn, thủ tục ly hôn
và hiệu lực của việc ly hôn. Cụ thể, tại mục đầu tiên về “duyên cớ ly hôn” quy định


thành hai trường hợp như sau:
Đơn phương ly hôn (Điều 2): Tịa án có thể cho phép vợ hoặc chồng ly hơn
trong những trường hợp sau: một bên ngoại tình; một bên can án phát giam; một bên
mắc bệnh điên hoặc một bệnh khó chữa kh i; một bên b nhà đi q hai năm khơng có
dun cớ chính đáng; vợ chồng tính tình khơng được hoặc đối xử với nhau đến nỗi
không thể sống chung được. Sắc lệnh 159-SL thật sự đã thực hiện nguyên tắc tự do
hôn nhân: công nhận quyền tự do kết hôn và tự do ly hơn khi khơng cịn phân biệt
dun cớ ly hơn cho riêng vợ hoặc riêng chồng mà gộp vào làm một với cách dùng từ
“một bên”, xóa b sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong các ộ Dân luật cũ.
Thuận tình ly hơn (Điều 3): Thêm một điểm tiến bộ trong Sắc lệnh số 159-SL
ngày 17/11/1950 đáng ghi nhận khi nhà làm luật đã cho phép vợ chồng có thể xin ly
hơn theo như đúng ý chí của họ mong muốn mà không phải chịu bất cứ một sự ràng
buộc nào về điều kiện được ly hôn, chỉ cần th a mãn duy nhất ý chí tự nguyện xin

thuận tình ly hơn của đơi bên.
Ngồi ra, sắc lệnh này còn bảo vệ phụ nữ và thai nhi trong việc ly hơn khi quy
định: nếu người vợ đang có thai thì vợ hay chồng có thể xin Tịa án hỗn sau khi sinh
nở mới xử lý việc ly hơn (Điều 5).
1.2.4.

Giai đoạn năm 1954-1975

Năm 1954, chiến dịch Điện iên Phủ thành công dẫn đến cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp toàn thắng. Hiệp định Geneve được ký kết. Quân Pháp rút về
nước, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Thời kỳ này đất nước ta tạm bị
chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị và hai hệ thống pháp luật hơn nhân và
gia đình khác biệt:
- Ở miền Bắc, Luật HNGĐ năm 1959 được Quốc hội khóa I nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa ban hành vào ngày 29/12/1959 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày
13/01/1960. Đây là một trong những văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sớm
nhất thời kỳ này và là một bước ngoặt đánh dấu sự tiến bộ trong lịch sử lập pháp của
nước ta. về căn cứ ly hôn, Luật HNGĐ năm 1959 quy định thành hai trường hợp:11
11Nguyễn Thị Thanh Trà (2012), “Thuận tình ly hôn - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” : Luận văn thạc sĩ /
TS. Ngô Thị Hường hướng dẫn . Hà Nội, 2012.


Thuận tình ly hơn: Tại Điều 25 quy định “Khi hai bên vợ chồng xin thuận tình
ly hơn, thì sau khi điều tra, nếu xét đúng là hai bên tự nguyện xin lý hơn, Tịa án nhân
dân sẽ cơng nhận việc thuận tình ly hơn”.
Đơn phương ly hơn: Tại Điều 26 quy định “Khi một bên vợ hoặc chồng xin ly
hơn, cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra và hồ giải. Hồ giải khơng được, Tịa án
nhân dân sẽ xét xử. Nếu tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài,
mục đích của hơn nhân khơng đạt được, thì Tịa án nhân dân sẽ cho ly hơn”.
Như vậy, có thể thấy Luật HNGĐ năm 1959 khơng quy định những căn cứ ly

hôn riêng biệt mà quy định khái qt hóa căn cứ ly hơn cho mọi trường hợp là khi vợ
chồng lâm vào “tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích
của hơn nhân không đạt được”. Đây là sự biểu hiện của ngun tắc tự nguyện, tiến
bộ, tơn trọng ý chí của vợ chồng trong việc tự do đưa ra quyết định ly hơn.
Trường hợp vợ có thai, chồng bị hạn chế quyền xin ly hôn cho đến sau khi vợ
sinh con được một năm theo quy định tại Điều 27. Song, điều này không bị hạn chế
đối với quyền xin ly hơn của vợ, nghĩa là dù đang có thai hoặc ni con dưới một
năm tuổi, người vợ vẫn có quyền xin ly hơn chồng. Có thể nói, quy định hạn chế
quyền ly hôn của chồng trong Luật HNGĐ năm 1959 đã thể hiện rất rõ tính nhân đạo,
tơn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em.
Trong khi đó ở miền Nam, Luật I/59 về gia đình của Chính phủ Việt Nam
Cộng hịa ra đời cấm vợ chồng ruồng b và ly hôn. Những trường hợp đặc biệt muốn
được ly hôn phải do tổng thống xem xét (Điều 55). Luật I/1959 nhấn mạnh đến
trường hợp lấy nhầm phải đầu s cộng sản giết người thì phải ly hơn, thể hiện ý chí
của chính quyền Ngơ Đình Diệm “chống cộng” điên cuồng, đồng thời thấy được chế
độ hơn nhân gia đình ở thời kỳ này không được quan tâm đúng mực mà chủ yếu
nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị.
Ngày 23/07/1964, Sắc luật 15/64 được ban hành thay thế Luật I/59. Trong sắc
luật này có nhiều điểm thơng thống hơn, nhưng cũng có điểm hạn chế hơn Luật
I/59. Về căn cứ ly hôn, ngoại trừ trường hợp giá thú bị mất giá trị khi một trong hai
người chết, hay do tòa án tun bố vơ hiệu, vợ hoặc chồng chỉ có thể xin ly hôn hoặc


ly thân sau khi lập hơn thú ít nhất là hai năm. Ngồi ra, phải có một trong những lý
do sau: người phối ngẫu ngoại tình; người phối ngẫu bị kết án trọng hình về thường
tội; bị ngược đãi, bạo hành, nhục mạ một cách thậm từ và thường xuyên khiến hai
người không thể chung sống với nhau được nữa; có án văn xác định người phối ngẫu
bị mất tích; người phối ngẫu bỏ phế gia đình, sau khi có án văn xử phạt người phạm
lỗi.
1.2.5.


Giai đoạn từ năm 1975 đến nay

Năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh thành cơng giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Trong bối cảnh mới, nền kinh tế xã hội của đất nước có nhiều đổi thay
thì việc ban hành một văn bản quy phạm pháp luật mới về hơn nhân và gia đình là
điều cần thiết và tất yếu khách quan, phù hợp với sự chuyển biến của xã hội, góp
phần thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ngày 29/12/1986, Luật HNGĐ năm 1986 đã được Quốc hội khóa VII thơng
qua tại kỳ họp thứ 12 và được công bố vào ngày 03/01/1987. So với Luật HNGĐ
năm 1959 thì Luật HNGĐ năm 1986 có nhiều điểm mới cụ thể hơn và tiến bộ hơn.
Căn cứ ly hôn được quy định tại Điều 40 và được chia làm hai trường hợp:
Thuận tình ly hơn: Trong trường hợp vợ chồng có đơn thuận tình ly hơn thì
Tịa án sẽ điều tra và hịa giải. Nếu hồ giải khơng thành và xét đúng là hai bên thật
sự tự nguyện ly hôn, thì Tịa án nhân dân cơng nhận cho thuận tình ly hôn.
Đơn phương ly hôn: Nếu trường hợp một bên vợ hoặc chồng xin ly hơn thì sau
khi hịa giải khơng thành, Tịa án sẽ đưa ra xét xử và dựa trên tình trạng trầm trọng,
đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt được thì Tịa án
nhân dân xử cho ly hơn..
Có thể thấy, vấn đề căn cứ ly hôn vẫn không dựa trên cơ sở “lỗi” mà dựa trên
ba căn cứ rất tổng qt: tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục
đích của hơn nhân khơng đạt được. Tịa án sẽ căn cứ vào đó để quyết định cho vợ
chồng có được ly hơn hay khơng. Qua thực tiễn thi hành, Luật HNGĐ năm 1986 đã
đem đến sự chuyển biến sâu sắc trong đời sống tình cảm, phong tục tập quán lâu đời
của người dân. Những tàn tích, hủ tục về hôn nhân trong thời kỳ cũ dần được xóa b ,


chế độ hơn nhân và gia đình mới được hình thành.
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội và xu thế hội nhập quốc tế, Luật
HNGĐ năm 1986 đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập. Trước yêu cầu sửa đổi bổ sung để

phù hợp với tình hình mới, Luật HNGĐ năm 2000 được ban hành và có hiệu lực từ
ngày 01/01/2001.
Luật HNGĐ năm 2000 lần đầu đưa ra định nghĩa “ly hôn” tại khoản 8 Điều 8:
“Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tịa án cơng nhận hoặc quyết định theo
u cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng”. Căn cứ ly hôn được quy định
thành một điều riêng tại Điều 89 với nội dung cũng tương tự như trong quy định của
Luật HNGĐ năm 1959 và năm 1986.
Điều 89. Căn cứ cho ly hơn
1. Tịa án xem xét u cầu ly hơn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống
chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt được thì Tịa án quyết
định cho ly hôn.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tịa án tun bố mất tích xin
ly hơn thì Tịa án giải quyết cho ly hôn.
So với các luật hôn nhân và gia đình trước đây, Luật HNGĐ năm 2000 cịn
quy định thêm một căn cứ ly hơn nữa đó là trong trường hợp “vợ hoặc chồng của
người bị Tòa án tun bố mất tích” xin ly hơn thì Tịa án giải quyết cho ly hôn. Đây
là một điểm tiến bộ của Luật HNGĐ năm 2000 so với các Luật HNGĐ trước đó về cả
nội dung và kỹ thuật lập pháp.
Về các trường hợp ly hơn thì cũng khơng có gì khác so với những Luật HNGĐ
trước đó khi quy định ly hơn có thể do một bên u cầu hoặc là thuận tình ly hơn
(Điều 90, 91). Như vậy, dù đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần nhưng Luật HNGĐ từ
năm 1945 đến nay quy định về căn cứ xin ly hôn vẫn giữ nguyên quan điểm là dựa
vào thực trạng của cuộc hôn nhân để công nhận tính khơng thể tồn tại, tự hơn nhân đã
đổ vỡ của pháp luật.
Tóm lại, căn cứ ly hơn và các trường hợp ly hôn đã được quy định trong pháp
luật hơn nhân và gia đình của nước ta trong suốt cả quá trình lịch sử từ thời kỳ nhà


nước phong kiến cho đến tận ngày nay. Điều đó cho thấy tầm quan trọng và ảnh
hưởng rất lớn của pháp luật hơn nhân và gia đình nói chung và các quy định của pháp

luật về căn cứ ly hôn và các trường hợp ly hơn nói riêng trong đời sống xã hội của
nhân dân ta.
Kết luận chương 1
Chương 1 đã khái quát về căn cứ lý hôn bao gồm khái niệm, ý nghĩa và cơ sở
quy định cũng như yếu tố lỗi trong căn cứ lý hôn. Qua nghiên cứu cũng cho thấy ly
hôn không chỉ căn cứ vào pháp luật mà còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi phong tục,
tập quán và bị tác động bởi kinh tế - xã hội, văn hố, đạo đức, tơn giáo. Trong đó,
theo cơ sở quy định tại Luật HNGĐ năm 2014 thì việc chấm dứt quan hệ vợ chồng
theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án. Điều đó có thể thấy pháp
luật Việt Nam chấp nhận và thực hiện theo quan điểm thứ ba: ly hôn tự do dưới sự
kiểm soát của Nhà nước
Qua nghiên cứu tính kế thừa và phát triển của căn cứ ly hơn qua pháp luật hơn
nhân và gia đình các thời kỳ từ thế kỷ 14 tại Việt Nam cho đến ngày nay cho thấy căn
cứ ly hôn và các trường hợp ly hôn đã được quy định trong pháp luật hơn nhân và gia
đình của nước ta trong suốt cả quá trình lịch sử từ thời kỳ nhà nước phong kiến cho
đến tận ngày nay. Điều đó cho thấy pháp luật hơn nhân và gia đình nói chung và các
quy định của pháp luật về căn cứ ly hôn và các trường hợp ly hơn nói riêng trong đời
sống xã hội có tầm quan trọng và ảnh hưởng rất lớn trong xã hội của của nhân dân ta.


×