Tải bản đầy đủ (.docx) (247 trang)

Lịch sử xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền việt nam cộng hòa (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.17 MB, 247 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------

NGUYỄN THỊ LY

LỊCH SỬ XÂY DỰNG HỆ THỐNG VĂN BẢN
QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH QUYỀN
VIỆT NAM CỘNG HỊA (1955-1975)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH- NĂM 2021

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

NGUYỄN THỊ LY

LỊCH SỬ XÂY DỰNG HỆ THỐNG VĂN BẢN
QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH QUYỀN
VIỆT NAM CỘNG HÒA (1955-1975)
Ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 9229013

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. Trần Thuận



2. TS. Nghiêm Kỳ Hồng
Phản biện độc lập:

1. PGS.TS. Nguyễn Đức Hòa

2. PGS.TS. Huỳnh Thị Gấm

Phản biện:
2. PGS.TS. Nguyễn Đức Hòa
3. PGS.TS. Huỳnh Thị Gấm

1. PGS.TS. Hà Minh Hồng


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH- NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tơi dưới sự hướng dẫn
khoa học của giảng viên hướng dẫn. Các tài liệu, số liệu công bố trong luận án này
là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của luận án chưa
được ai công bố trong bất cứ cơng trình khoa học nào.
Tơi xin chịu trách nhiệm về những lời cam đoan trên.

rri r ________• 2 T_ Ĩ.
Tác giả Luận án


MỤC LỤC
1.1.

1.2.1.

Những nghiên cứu mang tính lý luận về xây dựng hệ thống văn bản quy phạm


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

HPVNCH

Hiến Pháp Việt Nam Cộng hòa

VNCH

Việt Nam Cộng hòa

VBQLNN

Văn bản quản lý nhà nước

VBQPPL

Văn bản quy phạm pháp luật


6

DẪN LUẬN

1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng hệ thống VBQPPL là một trong những hoạt động cần thiết và quan trọng
trong quản lý nhà nước bởi các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương đều sử
dụng văn bản như một công cụ pháp lý quan trọng phục vụ hoạt động quản lý, điều hành.
Trong hệ thống văn bản quản lý nhà nước (VBQLNN), văn bản quy phạm pháp luật
(VBQPPL) có vai trị chủ đạo và chi phối toàn bộ hệ thống. Đây là phương tiện chủ yếu để
thể chế hóa và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. VBQPPL có vai trị
quan trọng trong hoạch định chủ trương, đường lối cho hoạt động quản lý nhà nước trên
nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội...
Thơng qua văn bản, nhà nước có thể kiểm tra và nắm bắt tình hình thực hiện các
quyết định quản lý của mình trong thực tiễn, qua đó tiếp tục duy trì hoặc điều chỉnh chính
sách cho phù hợp và hiệu quả hơn. Đồng thời, sau khi giải quyết công việc, nếu được lưu
trữ, văn bản cịn có giá trị như một nguồn sử liệu quan trọng, giúp các nhà sử học nghiên
cứu và nhìn nhận tồn diện, chân thực về những thời kỳ, những giai đoạn lịch sử mà dân
tộc đã đi qua, đồng thời để lại những bài học kinh nghiệm quý báu cho hiện tại và tương
lai. Do dó, nghiên cứu về quá trình xây dựng hệ thống VBQPPL của một chính thể là một
việc làm cần thiết và cấp thiết.
Sau khi hiệp định Genève ký kết, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Ở
miền Nam Việt Nam, Mỹ đã hậu thuẫn cho Ngơ Đình Diệm xây dựng chính quyền Việt
Nam Cộng hịa (VNCH). Ngay từ khi ra đời, chính quyền VNCH đã phụ thuộc vào Mỹ và
chịu sự chi phối sâu sắc của người Mỹ. Do đó, sau khi Mỹ rút quân khỏi Việt Nam (1973),
VNCH rơi vào khủng hoảng, suy yếu và cuối cùng sụp đổ trước sự tấn công của lực lượng
cách mạng Miền Nam. Trong thời gian tồn tại (1955-1975), chính quyền VNCH cũng đã
có những nỗ lực trong việc quản lý miền Nam Việt Nam thông quan việc ban hành hệ
thống văn bản pháp quy (ngày nay gọi là VBQPPL) trên các lĩnh vực cụ thể. Hệ thống
VBQPPL của VNCH chịu tác động bởi bối cảnh cuộc chiến tranh đương thời và mang
nhiều dấu ấn của mơ hình nhà nước cộng hịa Tổng thống chế. Vì vậy, để có những đánh


7


giá khách quan và tồn diện về chính thể này, bên cạnh những nghiên cứu tổng quát,
chúng ta cần có những nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu về từng lĩnh vực trong hoạt động
quản lý. Do đó, lịch sử xây dựng hệ thống VBQPPL của chính quyền VNCH cũng là một
đối tượng nghiên cứu chuyên môn rất cần thiết và được khuyến khích để chúng ta có cơ
hội nhìn nhận VNCH một cách đa chiều, đa diện hơn.
Hoạt động xây dựng hệ thống VBQPPL của chính quyền VNCH là một phần khơng
thể thiếu khi chúng ta tìm hiểu về lịch sử văn bản Việt Nam, lịch sử xây dựng nhà nước và
pháp luật Việt Nam, lịch sử hành chính Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu quá trình xây dựng
hệ thống VBQPPL một cách đầy đủ, toàn diện và chuyên sâu không chỉ làm phong phú
lịch sử văn bản Việt Nam mà cịn góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử nhà nước và pháp
luật Việt Nam, lịch sử hành chính Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ
sung, làm phong phú hơn nguồn tư liệu phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu cho
những ai quan tâm.
Ngay từ khi ra đời, chính quyền VNCH đã mang dấu ấn của nhà nước cộng hòa
Tổng thống chế và chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố ngoại lai. Vì vậy, sự tồn tại của
VNCH đã thu hút rất nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu trong và ngồi nước tìm hiểu
với các lĩnh vực cụ thể như: kinh tế, chính trị, quân sự, giáo dục, y tế... Các nghiên cứu
nhìn nhận VNCH ở các chiều cạnh khác nhau, đã được công bố trong các sách chuyên
khảo, trên tạp chí chuyên ngành và các hội thảo khoa học. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có
cơng trình nào xác định lịch sử xây dựng hệ thống VBQPPL của chính quyền VNCH là
đối tượng nghiên cứu chính.
Trên cơ sở những định hướng chung đó, tác giả lựa chọn đề tài: Lịch sử xây dựng
hệ thống VBQPPL của chính quyền VNCH (1955-1975) làm luận án tiến sĩ chuyên ngành
Lịch sử Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Thực hiện đề tài lịch sử xây dựng hệ thống VBQPPL của chính quyền VNCH, luận
án xác định rõ mục đích là nhằm hiểu rõ quá trình xây dựng hệ thống VBQPPL của chính
quyền VNCH dưới góc độ lịch sử từ đó góp phần làm rõ bức tranh lịch sử xã hội Miền



8

Nam Việt Nam giai đoạn 1955-1975. Đồng thời, luận án rút ra một số kinh nghiệm trong
xây dựng pháp luật của nước ta hiện nay.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án hướng đến các mục tiêu nghiên
cứu cơ bản sau đây:
- Tái hiện lại bức tranh tổng thể về sự hình thành và quá trình chuyển biến trong xây
dựng hệ thống VBQPPL của chính quyền VNCH từ 1955 đến 1975.
- Làm rõ các đặc điểm trong q trình xây dựng hệ thống VBQPPL của chính quyền
VNCH.
- Làm rõ những kết quả, hạn chế trong xây dựng hệ thống VBQPPL của chính quyền
VNCH.
- Lý giải tác động, ảnh hưởng của quá trình xây dựng hệ thống VBQPPL của chính
quyền VNCH đối với đời sống chính trị, kinh tế - xã hội và văn hóa - giáo dục của Miền
Nam Việt Nam.
- Làm rõ giá trị của hệ thống VBQPPL trong nghiên cứu khoa học lịch sử và xây
dựng pháp luật Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục tiêu nghiên cứu trên đây, NCS xác định cho mình những
nhiệm vụ nghiên cứu sau:
-

Sưu tầm, xử lý hệ thống văn bản, tư liệu có liên quan đến đối tượng nghiên cứu của
luận án.

-

Phân tích bối cảnh lịch sử xã hội Miền Nam Việt Nam và những tác động của bối

nó đến hoạt động xây dựng hệ thống VBQPPL của chính quyền VNCH.

-

Thực hiện phép so sánh đồng đại và lịch đại, các thao tác liệt kê, phân tích, tổng
hợp về những khía cạnh trong xây dựng hệ thống VBQPPL của chính quyền
VNCH: các cơ quan, chức vụ ban hành văn bản, quy trình, tổ chức và nhân sự thực
hiện hoạt động xây dựng hệ thống VBQPPL, các loại hình văn bản trong hệ thống...
Phân tích sự chuyển biến của vấn đề nêu trên trong quá trình xây dựng hệ thống
VBQPPL của chính quyền VNCH.
- Phân tích đặc điểm, những kết quả, hạn chế trong xây dựng hệ thống VBQPPL


9

của chính quyền VNCH.
- Phân tích tác động của hệ thống VBQPPL đối với chính trị, kinh tế - xã hội, văn
hóa - giáo dục của Miền Nam Việt Nam.
- Đánh giá giá trị của quá trình xây dựng hệ thống VBQPPL trong nghiên cứu khoa
học lịch sử và xây dựng pháp luật Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình xây dựng hệ thống VBQPPL của chính quyền trung ương VNCH, cụ thể
là:
- Các nhân tố tác động đến sự hình thành hệ thống VBQPPL của chính quyền
VNCH; những chuyển biến trong quá trình xây dựng hệ thống VBQPPL thơng qua các
khía cạnh cụ thể như: Các quy định chỉ đạo, hướng dẫn; vấn đề tổ chức và nhân sự thực
hiện hoạt động này; quy trình ban hành và hoạt động triển khai hệ thống VBQPPL; các
loại hình văn bản trong hệ thống.
- Kết quả, hạn chế trong xây dựng hệ thống VBQPPL của chính quyền VNCH.

-

Tác động của hệ thống VBQPPL đối với chính trị, kinh tế - xã hội và văn hóa - giáo
dục của Miền Nam Việt Nam.

-

Những giá trị được tạo nên từ quá trình xây dựng hệ thống VBQPPL trong nghiên
cứu khoa học lịch sử và xây dựng pháp luật Việt Nam đã được khai thác.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về khơng gian: Khơng gian nghiên cứu chính của luận án là ở khu vực Miền Nam

Việt Nam (tương ứng với địa giới từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam).
Về thời gian: Phạm vi thời gian nghiên cứu chính của luận án là từ năm 1955 đến
năm 1975 (tương ứng với thời gian tồn tại của chính quyền VNCH).
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
4.1.1.

Cơ sở phương pháp luận

Luận án “Lịch sử xây dựng hệ thống VBQPPL của chính quyền VNCH (19551975)”
vận dụng cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, cụ thể là quan điểm duy vật


10

lịch sử và phép biện chứng. Theo đó, tác giả luận án đặt hoạt động xây dựng hệ thống
VBQPPL của chính quyền VNCH trong thời gian tồn tại của chính quyền này (1955-1975)
để tìm hiểu, phân tích, giải thích và đánh giá. Đây là cơ sở để luận án nhìn nhận chân thực

và khoa học về cơ sở hình thành cùng những chuyển biến cơ bản trong quá trình xây dựng
hệ thống VBQPPL của chính quyền VNCH (1955-1975).
4.1.2.

Phương pháp nghiên cứu cụ thể

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng hai phương pháp nghiên cứu cơ bản của
Khoa học Lịch sử, đó là phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
Phương pháp lịch sử được sử dụng để tái hiện lại q trình xây dựng hệ thống
VBQPPL của chính quyền VNCH. Hoạt động xây dựng hệ thống VBQPPL của chính
quyền VNCH là một thực thể của lịch sử. Sự ra đời và hoàn thiện của hoạt động này là
một quá trình lịch sử. Phương pháp lịch sử giúp luận án làm rõ về tiến trình hình thành,
những chuyển biến của các khía cạnh trong hoạt động xây dựng hệ thống VBQPPL của
chính quyền VNCH. Những chuyển biến này được gắn với bối cảnh lịch sử cụ thể của
từng giai đoạn tồn tại của chính quyền VNCH.
Phương pháp logic được sử dụng nhằm khái qt hóa q trình xây dựng hệ thống
VBQPPL của chính quyền VNCH với một nội dung như: đặc điểm, kết quả, hạn chế trong
quá trình xây dựng hệ thống VBQPPL; tác động và giá trị của hệ thống VBQPPL của
chính quyền VNCH trong nghiên cứu lịch sử và xây dựng pháp luật hiện nay.
Như vậy, việc sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic giúp cho việc
phục dựng quá trình xây dựng hệ thống VBQPPL của chính quyền VNCH từ năm 1955
đến 1975; phân tích và đánh giá các đặc điểm, kết quả và hạn chế trong xây dựng hệ thống
VBQPPL của chính quyền VNCH; phân tích tác động và đánh giá về giá trị của hệ thống
VBQPPL của chính quyền VNCH đối với nghiên cứu sử học và trong xây dựng pháp luật
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài có sự liên quan mật thiết đến nhiều ngành và lĩnh
vực khác nhau như: Sử học, Văn bản học, Văn thư học, Luật học, Hành chính học, Lưu trữ
học,... Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu có tính
liên ngành. Các phương pháp của Sử liệu học, Văn bản học, Văn thư học, Luật học, Lưu



11

trữ học, Hành chính học được kết hợp với phép so sánh lịch sử đồng đại, lịch đại và thao
tác thống kê nhằm làm rõ đối tượng nghiên cứu của luận án. Sự kết hợp thống nhất trong
đa dạng của các phương pháp nghiên cứu nêu trên không chỉ giúp luận án kế thừa những
kết quả nghiên cứu đi trước mà cịn giúp luận án có cơ hội tiếp cận hoạt động xây dựng hệ
thống VBQPPL ở nhiều góc độ khác nhau làm cho đối tượng nghiên cứu thêm phần sáng
rõ, chặt chẽ và sâu sắc.
4.2. Nguồn tư liệu
Thứ nhất, luận án khai thác nguồn tài liệu lưu trữ về VBQPPL của chính quyền
VNCH đang được bảo quản, tổ chức khoa học tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II (hồ sơ
thuộc các Phông Phủ Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa, Phủ Tổng thống Đệ nhị Cộng hòa,
Phủ Thủ tướng VNCH, Hội đồng Quân nhân cách mạng, Tổng bộ Văn hóa xã hội, Hội
đồng sắc tộc...). Bên cạnh đó, nguồn tư liệu từ công báo VNCH và Quy phạm vựng tập sẽ
cung cấp thêm thơng tin về có liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận án. Công báo
VNCH sẽ cung cấp các thông tin liên quan đến các quy định về ban hành và triển khai văn
bản, nội dung, đối tượng điều chỉnh của các loại hình văn bản trong hệ thống VBQPPL.
Quy phạm vựng tập là công trình đã hệ thống hóa các loại hình VBQPPL đã được ban
hành trong từng năm của chính quyền VNCH với các thông tin chủ yếu như tên loại văn
bản, thời gian ban hành, trích yếu nội dung của văn bản. Đây là nguồn tư liệu quan trọng
nhất được sử dụng chủ yếu trong luận án.
Thứ hai, những luận văn - luận án (được công bố và bảo vệ thành công), các cơng
trình (sách) chun khảo, các bài viết trên các tạp chí khoa học và hội thảo khoa học
nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận án. Đây là
một nguồn tư liệu rất quan trọng mà tác giả rất chú trọng kế thừa và phát huy. Nguồn tư
liệu này đang được bảo quản tại thư viện Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành
phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, thư viện Học viện Hành chính và thư
viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh và một số thư viện khác.
Thứ ba, nguồn thông tin về đối tượng nghiên cứu từ các trang thông tin điện tử

(website): Quốc hội, Chính phủ, Bộ Nội vụ, Cục Văn thư Lưu trữ nhà nước, Trung tâm
Lưu trữ Quốc gia II...


12

5. Đóng góp của luận án
Luận án là cơng trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống về quá trình xây dựng hệ
thống VBQPPL của chính quyền VNCH (1955-1975). Vì vậy, luận án có những đóng góp
về khoa học và thực tiễn sau đây:
-

Luận án tái hiện bức tranh về q trình xây dựng hệ thống VBQPPL của chính
quyền VNCH trong bối cảnh lịch sử từ 1955 đến 1975 và rút ra một số đặc điểm
chủ yếu của quá trình đó.

-

Luận án phân tích kết quả, hạn chế và lý giải nguyên nhân trong quá trình xây dựng
hệ thống VBQPPL của chính quyền VNCH.

-

Luận án lý giải tác động, ảnh hưởng của quá trình xây dựng hệ thống VBQPPL của
chính quyền VNCH đối với đời sống chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục ở
Miền Nam Việt Nam trước năm 1975.

-

Luận án đánh giá ý nghĩa của hệ thống VBQPPL trong nghiên cứu Khoa học lịch sử

và rút ra những giá trị trong quá trình xây dựng hệ thống VBQPPL của chính quyền
VNCH có thể xem xét và vận dụng trong bối cảnh hiện nay.

-

Luận án góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, lịch
sử hành chính Việt Nam.

-

Luận án bổ sung nguồn tư liệu phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu cho các
nhà nghiên cứu, cán bộ giảng dạy, học viên và sinh viên có quan tâm.

6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần dẫn luận, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của
luận án được kết cấu thành 4 chương
Chương 1: Một số khái niệm và tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến xây
dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền Việt Nam Cộng hịa (19551975).
Chương 2: Chính quyền Việt Nam Cộng hịa xây dựng hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật giai đoạn 1955 -1967.
Chương 3: Chính quyền Việt Nam Cộng hịa xây dựng hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật giai đoạn 1967 -1975.

Chương
4:pháp
Một luật
số nhận
về quyền
q trình
thống

văn bản
quy
phạm
củaxét
chính
Việtxây
Namdựng
Cộnghệ
hịa
(1955-1975).


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN XÂY DỰNG HỆ THỐNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA
CHÍNH QUYỀN VIỆT NAM CỘNG HÕA (1955-1975)
1.1.

Các khái niệm sử dụng trong luận án

1.1.1.

Văn bản

Thuật ngữ “văn bản” có gốc từ tiếng Latin là “documentum” có nghĩa là sự chứng
minh, chứng nhận. Còn theo Đại từ điển tiếng Việt thì “văn” được hiểu là “chữ nghĩa, hình
thức ngơn ngữ được trau chuốt cho hay, đẹp” (Trung tâm Ngơn ngữ, 1999, tr.1100); cịn
“bản” được hiểu là “tờ giấy, tập giấy có hình chữ chứa đựng nội dung nhất định” (Trung
tâm Ngơn ngữ và Văn hóa Việt Nam, 1998, tr.30). Theo Từ điển tiếng Việt, văn bản “là
bản viết hoặc in, mang một nội dung nhất định, thường để lưu lại” (Trung tâm Từ điển

học, 2009, tr.1406) hay là “chuỗi ký hiệu ngơn ngữ hay nói chung những ký hiệu thuộc hệ
thống nào đó, làm thành một chỉnh thể mang một nội dung, ý nghĩa trọn vẹn” (Trung tâm
Từ điển học, 2009, tr.1406)
Theo nghĩa rộng nhất, văn bản là “phương tiện ghi tin và truyền đạt thông tin bằng
ngôn ngữ hoặc ký hiệu nhất định” (Trung tâm Từ điển học, 2009, tr.1406). Với cách hiểu
này, nội hàm của văn bản rất rộng: cuốn truyện, bài báo, bài thơ, bài hát, gia phả, văn bia,
câu đối, lá thư cho đến tất cả các tài liệu, giấy tờ hình thành hàng ngày trong hoạt động
quản lý của mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị đều được coi là văn bản. Văn bản vừa là phương
tiện giao tiếp đồng thời là sản phẩm của hoạt động giao tiếp, d ng để ghi ch p và truyền đạt
thông tin bằng ngôn ngữ hoặc ký hiệu từ một chủ thể này đến một chủ thể khác nhằm thỏa
mãn những yêu cầu hoặc mục đích nhất định.
Văn bản cịn được hiểu theo nghĩa hẹp hơn. Dưới góc độ hành chính học, “văn bản
dùng để chỉ cơng văn, giấy tờ hình thành trong hoạt động quản lý của các cơ quan tổ chức”
(Vương Đình Quyền, 2005, tr.47). Theo đó, “cơng văn giấy tờ được gọi chung là văn bản
gồm các loại chính sau đây: luật, sắc luật, sắc lệnh, nghị định, nghị quyết, quyết định, điều
lệ, thông tư, chỉ thị, báo cáo, thư công công điện, công lệnh, phiều gửi, giấy giới thiệu,
giấy đi đường” (Thủ tướng Chính phủ, 1957, tr.01) được hình thành trong hoạt động hằng


ngày của các cơ quan, tổ chức. Những loại văn bản này đều hoàn chỉnh về thể thức, trọn
vẹn về nội dung, thống nhất về cấu trúc, độc lập về giao tiếp.
Trong phạm vi nghiên của luận án, tác giả hiểu và nghiên cứu văn bản theo nghĩa
hẹp. Đó là cơng văn giấy tờ hình thành trong q trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức
được sử dụng để quản lý, điều hành cơng việc của chính các cơ quan, tổ chức.
1.1.2.

Văn bản quy phạm pháp luật

VBQPPL là một bộ phận trong hệ thống văn bản quản lý nhà nước. Ở nước ta,
trước năm 1996, trong quy định của pháp luật thực định không đề cập tới khái niệm

VBQPPL. Trong sách báo pháp lý có nhắc tới nhưng khơng phải với tên gọi VBQPPL như
hiện nay mà có thể gọi với tên khác như “văn bản pháp luật” (Trường Đại học Pháp lý Hà
Nội, 1992, tr.52) hay “văn bản pháp quy” (văn bản pháp quy được hiểu theo hai cách: (i) là
cách gọi tắt của VBQPPL; (ii) chỉ các văn bản có giá trị hiệu lực thấp hơn văn bản luật).
Trong thời gian này, VBQPPL không được định nghĩa mà chỉ quy định về từng hình thức
văn bản của các cơ quan nhà nước. Sau này, để thống nhất và rõ ràng hơn về mặt thuật
ngữ, các tài liệu nghiên cứu cũng như pháp luật đã gọi những văn bản có chứa các quy tắc
xử sự chung do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành là VBQPPL.
Khái niệm VBQPPL chính thức định nghĩa lần đầu tiên tại Điều 1 của Luật ban
hành VBQPPL năm 1996: “VBQPPL là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được Nhà nước
bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
(Quốc hội, 1996, tr.01). Sau đó, thuật ngữ này tiếp tục được quy định với một số điểm thay
đổi trong Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật ban hành VBQPPL năm 2002, luật
ban hành VBQPPL của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2004, Luật ban hành
VBQPPL năm 2008 và Luật ban hành VBQPPL năm 2015. Đồng thời, khái niệm
VBQPPL đã được quốc hội nhiều khóa sử dụng trong các luật. Mặc dù có nhiều cách diễn
đạt khác nhau về khái niệm VBQPPL song các quan điểm đều chỉ ra những đặc điểm
chung nhất về VBQPPL, đó là: chứa đựng các quy tắc xử sự chung, mang tính bắt buộc và
được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định. Đây cũng là


cách hiểu phổ biến hiện nay, cách hiểu này được quy định tại Điều 2 Luật ban hành
VBQPPL năm 2015: VBQPPL là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành
theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này (Quốc hội,
2015, tr.01).
Thuật ngữ văn bản pháp quy, văn bản pháp luật hay VBQPPL mặc dù có tên gọi
khơng giống nhau nhưng lại có nội hàm tương tự nhau. Đó là, chứa đựng các quy tắc xử
sự chung, có tính bắt buộc, thể hiện ý chí của nhà nước, được các cơ quan nhà nước ban
hành theo một trình tự thủ tục luật định và được nhà nước đảm bảo thực hiện. Nội hàm của

các tên gọi về VBQPPL là một thành quả của sự phát triển của lịch sử pháp luật nhân loại.
Hệ thống VBQPPL có tính thứ bậc, thống nhất và kế thừa các thời kỳ lịch sử, các chính
thể nhà nước và các giai đoạn phát triển của quốc gia. Vì vậy, sử dụng khái niệm VBQPPL
để chỉ các văn bản lập pháp và lập quy được chính quyền VNCH ban hành trong thời gian
tồn tại của mình (1955-1975) là tương đối phù hợp và thỏa đáng. Theo đó, hệ thống
VBQPPL của chính quyền VNCH bao gồm: văn bản lập pháp (hiến pháp, luật, sắc luật,
dụ) và văn bản lập quy (sắc lệnh, nghị định, quyết định).
Văn bản lập pháp là những văn bản “ấn định quy tắc luật pháp, có tính cách tổng
qt trong mọi sinh hoạt của cộng đồng quốc gia” (Lê Văn An, 1959, tr.45 ). Những văn
bản có tính chất lập pháp ấn định quy tắc tổng quát nên không thể điều chỉnh và chi phối
tất cả các hành vi pháp lý của các cơ quan, tổ chức và người dân trên phạm vi quản lý của
chính quyền. Để áp dụng những quy tắc lập pháp có hiệu quả, VNCH đã ban hành các văn
bản cụ thể hóa và áp dụng quy tắc này trong các cơ quan cơng quyền và đối với dân
chúng. Vì vậy, hệ thống văn bản lập quy đã hình thành và được triển khai vào thực tế cuộc
sống. Do đó, “văn bản lập quy đặt ra những quy định về thiết lập, tổ chức và điều hành các
cơ quan công quyền, quản trị nhân viên..................” (Lê Thái Ất, 1969, tr.22).


1.1.3.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và xây dựng hệ thống văn bản quy

phạm pháp luật
Hệ thống VBQPPL “là khái niệm liên quan tới pháp luật thức định, phản ánh thực
trạng các nguồn của pháp luật, là sự thể hiện ra bên ngồi của pháp luật dưới hình thức văn
bản và mối liên hệ giữa các văn bản trong một chỉnh thể toàn vẹn” (Phạm Hồng Thái &
Đinh Văn Mậu, 2009, tr.346).
Trong phạm vi luận án, tác giả hiểu hệ thống VBQPPL chính là tập hợp các loại
hình VBQPPL do các cơ quan, định chế nhà nước có thẩm quyền ban hành, có quan hệ
chặt chẽ với nhau, có tính thứ bậc rõ ràng tạo thành một chính thể thống nhất, hoàn chỉnh,

d ng làm phương tiện trong hoạt động quản lý và điều hành mọi lĩnh vực của các cơ quan
nhà nước. Theo đó, hệ thống VBQPPL của chính quyền VNCH (1955 - 1975 ) bao gồm:
hiến pháp, luật, dụ, sắc luật, sắc lệnh, nghị định, quyết định.
Hiến pháp: “Là hình thức VBQPPL do Quốc hội ban hành, có giá trị pháp lý cao nhất
trong hệ thống pháp luật, quy định các vấn đề cơ bản nhất của nhà nước như: hình thức,
bản chất nhà nước, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân, tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước” (Bộ Tư pháp & Viện
Khoa học pháp lý, 2018, tr.30). Đối với Miền Nam Việt Nam, trong giai đoạn 19551975,
chính quyền VNCH hoạt động theo sự điều chỉnh của bản Hiếp pháp đã được ban hành
ngày 26/10/1956 và ngày 1/4/1967 do Quốc hội VNCH ban hành.
Luật: “Là một loại VBQPPL do quốc hội hay nghị viện ban hành, có hiệu lực pháp lý
cao nhất, chỉ đứng dưới hiến pháp” (Lê Thái Ất, 1969, tr.472). Trong hoạt động của chính
quyền VNCH, luật là loại văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của quốc hội. Luật là văn
bản pháp lý điều chỉnh những quan hệ cơ bản và quan trọng nhất trong các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Dụ: Là loại văn bản xuất hiện từ thời kỳ phong kiến. Theo Từ điển Văn thư Lưu trữ,
dụ ghi lại những lời truyền dạy, khuyên nhủ của nhà vua đối với bề tơi và các thần dân.
Đây là loại hình văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của nhà vua. Đặc điểm nổi bật của dụ
là ở chỗ nhà vua đưa ra các mệnh lệnh, các yêu cầu bắt buộc thần dân phải thi hành nhưng
lại sử dụng lối văn có tính chất truyền dạy, khun răn để tăng sức thuyết phục. Các triều


đại trước nhà Nguyễn, dụ mang nặng tính chất nhắc nhở, khuyên bảo, thường ban hành
dưới hình thức khẩu dụ, tiêu biểu như: Thời vua Lê Thánh Tông (cuối thế kỷ XV) nhà vua
đã ban hành nhiều đạo dụ nhắc nhở quan lại kể cả quan đã từng đỗ đạt do ít chịu rèn luyện
nâng cao hiểu biết nên phải đặt ra lệ kiểm tra, khảo sát định kỳ đánh giá từng người; vua
Minh Mạng đã ban hành nhiều dụ vừa khuyên răn vừa cấm việc truyền đạo Thiên Chúa
giáo (nhiều nhất là các năm 1825,1833,1836,1838). Trong hoạt động của chính quyền
VNCH, dụ vẫn được ban hành nhưng có sự thay đổi về tính chất: khơng cịn tính khun
răn mà là tính chất mệnh lệnh, bắt buộc. Loại hình văn bản này trong thời kỳ VNCH ban

hành với số lượng không nhiều và chỉ tồn tại đến giai đoạn quân đội nắm quyền quản lý
đất nước (1963-1967). Dụ là văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Tổng thống VNCH
để thực hiện chức năng lập pháp hoặc công bố luật.
Sắc luật: Đối với việc ban hành, thủ tục lập pháp địi hỏi một thời gian khá lâu để
hồn thành một đạo luật. Vì lý do này và trong trường hợp khẩn cấp của công vụ, hiến
pháp đã dự liệu, quy định cho hành pháp một “hướng giải quyết” là quyền ban hành sắc
luật. Các sắc luật này, nếu quốc hội khơng bác bỏ thì sẽ coi hẳn như những đạo luật.
Sắc lệnh: “Là VBQPPL hoặc văn bản pháp luật cá biệt của người đứng đầu bộ máy
nhà nước hoặc bộ máy hành pháp” (Bộ Tư pháp & Viện Khoa học pháp lý, 2018, tr.668).
Đây là loại hình văn bản được hình thành khi chính quyền VNCH ra đời và có chức năng
quy định cơ cấu của các cơ quan thuộc hệ thống bộ máy nhà nước, và quy định về các lĩnh
vực quản lý của quốc gia hay tuyên bố những trường hợp nguy cấp của đất nước.
Nghị định: Là loại văn bản ra đời từ thời Pháp thuộc và được sử dụng như một đạo
luật - có tính lập pháp tại thuộc địa. Đây là loại hình văn bản có giá trị pháp lý cao nhất tại
Nam kỳ (1862-1887) và Liên bang Đông Dương (1887-1945). Nghị định d ng để ban hành
những quy định có tính chất lập pháp và lập quy của cấp liên bang. Thẩm quyền ban hành
nghị định thuộc về Tồn quyền Đơng Dương (lập pháp, lập quy, hành pháp và tư pháp)
trên toàn liên bang, Thống đốc Nam kỳ, Khâm sứ Trung kỳ và Thống sứ Bắc kỳ (lập quy
và hành pháp) trong phạm vi kỳ (xứ) mình quản lý.
Trong hoạt động của chính quyền VNCH, “nghị định là văn bản do cơ quan hành
pháp soạn thảo và ban hành với nội dung bao quát đường lối chính phủ, thực hiện chính


sách quốc gia và tình trạng hành chính của cán bộ công chức” (Lê Thái Ất, 1969, tr.233).
Cùng với nghị định, quyết định cũng là loại hình văn bản được sản sinh trong thời kỳ
Pháp thuộc. Đây là loại hình văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Toàn quyền Đông
Dương (lập quy, hành pháp và tư pháp) trên phạm vi liên bang; Thống đốc Nam kỳ, Khâm
sứ Trung kỳ và Thống sứ Bắc kỳ (lập quy và hành pháp) trong phạm vi kỳ (xứ) mình quản
lý; Cơng sứ ở các tỉnh Bắc kỳ và Trung kỳ, quan chủ tỉnh ở Nam kỳ (lập quy) trong phạm
vi địa hạt quản lý. Trong thời gian này, quyết định một loại văn bản dưới luật, có tính lập

quy d ng để thi hành luật hay nghị quyết hoặc quy định một vấn đề cá biệt (để quyết định
về một việc hay một vấn đề thuộc thẩm quyền theo luật định).
Trong hoạt động quản lý của chính quyền VNCH, “quyết định là loại hình văn bản
“do cơ quan trung ương và địa phương ban hành, có tính chất mệnh lệnh nhằm thực hiện
chính sách quốc gia và phản ánh tình trạng của nhân viên hành chính. Loại hình văn bản
này có giới hạn về không gian và thời gian” (Lê Thái Ất, 1969, tr.235).
Hệ thống văn bản lập pháp và lập quy chứa đựng các quy phạm và có tính lệ thuộc
lẫn nhau. Các văn bản lập quy được ban hành trên cơ sở luật, thực hiện luật và phải đồng
bộ, không mâu thẫn, phủ định lẫn nhau. Đó là đặc trưng cơ bản để tạo ra quy phạm thống
nhất trong hệ thống VBQPPL của chính quyền VNCH.
Xây dựng hệ thống VBQPPL là quá trình ban hành và triển khai các loại hình
VBQPPL theo một trình tự thủ tục luật định để hình thành một hệ thống VBQPPL phục vụ
cho quản lý điều hành của nhà nước. Hiện nay, luật số 80/2015/QH13 của Quốc hội Khóa
13 về ban hành VBQPPL đã quy định rất rõ quy trình xây dựng các loại hình văn bản cụ
thể trong hệ thống VBQPPL. Đối với chính quyền VNCH, hoạt động này bao gồm các
công việc, soạn thảo, biểu quyết, ban hành và công bố VBQPPL.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.2.1.

Những nghiên cứu mang tính lý luận về xây dựng hệ thống văn bản quy

phạm pháp luật
Các cơng trình nghiên cứu mang tính chất lý luận về xây dựng hệ thống văn bản nói
chung và hệ thống VBQPPL nói riêng sẽ tạo cơ sở lý luận và khung lý thuyết giúp luận án
tiếp cận đối tượng nghiên cứu đa diện, đa chiều. Đồng thời, việc khai thác tốt nguồn tư liệu


này, tạo cơ sở để luận án đưa ra những luận cứ vững vàng cho những luận điểm được đúc
kết trong q trình nghiên cứu.
Sách Luật hiến pháp và chính trị học (1969) của tác giả Nguyễn Văn Bông đã phân

tích và trình bày nhiều vấn đề liên quan đến các thể chế chính trị trên thế giới và Việt Nam.
Liên quan đến hoạt động xây dựng hệ thống VBQPPL của chính quyền VNCH, tác giả đã
phân tích q trình xây dựng Hiến pháp VNCH với các nội dung như: khái niệm, thẩm
quyền ban hành và quyền tu chỉnh hiến pháp. Những thơng tin này góp phần giúp tác giả
có thêm một góc nhìn và thơng tin về loại hình văn bản quan trọng nhất trong hệ thống
VBQPPL của chính quyền VNCH đó là Hiến pháp năm 1956 và Hiến pháp năm 1967.
Sách Hình luật tổng quát (1970) của tác giả Nguyễn Quang Qnh đã phân tích vai
trị hình luật. Theo tác giả, “hình luật khơng chỉ quan trọng đối với nhà cầm quyền mà còn
rất quan trọng đối với cơng dân vì hình luật liên quan trực tiếp đến tự do, danh dự, tài sản
và sinh mạng của cá nhân” (Nguyễn Quang Qnh, 1970, tr.79). Thơng qua quy trình ban
hành dự thảo bộ Hình luật, tác giả Nguyễn Quang Quýnh đã bày tỏ quan điểm của mình về
dự thảo Hình luật khi cơ quan hành pháp chuyển qua Quốc hội VNCH năm 1969 với mong
muốn ý kiến của tác giả “góp được phần nhỏ vào cơng việc lớn lao của nhà lập pháp trong
nhiệm vụ xây dựng một nền hình luật Việt Nam duy nhất và tiến bộ”. Như vậy, ngay trong
q trình tồn tại của chính quyền VNCH, các hoạt động xây dựng hệ thống VBQPPL cũng
có những kênh góp ý của nhà khoa học. Đây là một yếu tố giúp cho hoạt động này ngày
càng hoàn thiện và hiệu quả hơn.
Với giáo trình Lịch sử Nhà nước và pháp luật (2015), Trường Đại học Luật Hà Nội
biên soạn đã phân tích mối liên hệ biện giữa hai yếu tố: nhà nước và pháp luật với nguồn
gốc phát sinh, đặc điểm và tính quy luật của hai yêu tố nêu trên. Cơng trình cũng đã phân
tích chi tiết quá trình hình thành nhà nước và pháp luật của Việt Nam từ thời Văn Lang Âu Lạc đến nay. Liên quan đến hoạt động xây dựng VBQPPL của chính quyền VNCH,
giáo trình đã đề cập đến nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1967 và bộ Hình luật (1972).
Tác giả cơng trình đã khẳng định: “Về hình thức, khác với chính quyền chủ nghĩa
thực dân cũ thời Pháp thuộc trước đó, chính quyền VNCH được tổ chức theo chính
thể Cộng hịa Tổng thống. Vì là pháp luật của chính quyền thực dân mới nên trong


hệ thống pháp luật có cả hiến pháp. Chính quyền VNCH đã chú trọng xây dựng
pháp luật và đã tạo ra được hệ thống pháp luật khá hoàn chỉnh theo mơ hình pháp
luật của Pháp” (tr.471).

Đây là nhận định quan trọng giúp luận án nghiên cứu, kiểm chứng thông qua tìm
hiểu sự hình thành và quá trình chuyển biến của hoạt động xây dựng hệ thống VBQPPL
của chính quyền VNCH.
Cơng trình Lý luận nhà nước và pháp luật, tác giả Phạm Hồng Thái và Đinh Văn
Mậu đã tổng hợp và phân tích những thơng tin cơ bản nhất về lý luận nhà nước và pháp
luật của một quốc gia. Liên quan đến lịch sử xây dựng hệ thống VBQPPL, tác giả đã trình
bày và phân tích các loại VBQPPL, thẩm quyền ban hành và hiệu lực của VBQPPL.
Phạm Hồng Thái & Đinh Văn Mậu (2009) cũng đặt ra và phân tích các tiêu chí
phân loại VBQPPL: “dựa vào tính tối cao của luật trong hệ thống văn bản quy phạp
pháp luật chia thành: Luật (hiến pháp, đạo luật, bộ luật) và các văn bản quy phạp
pháp luật dưới luật (pháp lệnh, nghị quyết, lệnh, nghị định, quyết định, thông tư);
phân chia theo ngành luật (luật hành chính, luật hình sự, luật dân sự,...); dựa vào
khơng gian lãnh thổ (VBQPPL có hiệu lực trên phạm vi toàn quốc, hay hiệu lực địa
phương); đối tượng áp dụng; chủ thể ban liíinli...”. (tr.31).
Những thơng tin lý luận về VBQPPL của cơng trình đã được tác giả kế thừa khi
phân loại hệ thống VBQPPL sản sinh trong hoạt động quản lý, điều hành của chính quyền
VNCH (1955-1975).
Bên cạnh những cơng trình nghiên cứu trong nước cịn có các cơng trình nghiên cứu
của một số tác giả nước ngồi về q trình xây dựng hệ thống VBQPPL. Theo đó, các khía
cạnh như quy trình, tiêu chí đánh giá về hiệu quả và chất lượng của hệ thống VBQPPL
ngày càng được phân tích một cách tồn diện và sâu sắc, tiêu biểu là một số công trình
dưới đây:
Cuốn sách Legislative Drafting (soạn thảo dự Luật) của G.C.Thornton (ed) do
Butterworths Pushier, London xuất bản năm 1996 đã giúp những người cịn mới mẻ với
cơng việc soạn thảo luật pháp hiểu rõ về các công việc cần phải làm. Theo tác giả, một
người soạn thảo tốt không bao giờ hồn tồn hài lịng với bản dự thảo đã hồn thành; nó


ln có khả năng cải tiến và hiểu rõ việc cải thiện chất lượng soạn thảo văn bản phải đảm
bảo yêu cầu: chú ý nhiều hơn đến cấu trúc ở mọi mức độ; một sự tâm huyết đối với việc

soạn thảo để được hiểu, nhưng không thiếu sự rõ ràng và chính xác; tiếp tục đặt câu hỏi,
đánh giá và cải tiến các thói quen và phong cách soạn thảo khác; sẵn sàng chấp nhận thay
đổi khi có một lợi ích được chứng minh; chấp nhận rằng tất cả các khả năng không phải là
không thể lường trước được và sẵn sàng đưa ra quyết định khi thích hợp; cung cấp các
nguồn lực nhân sự và công nghệ đầy đủ; lập kế hoạch để luật luôn được sửa đổi và cập
nhật. Với cơng trình này, tác giả đã cung cấp một góc nhìn để có thể tạo ra những
VBQPPL chất lượng. Quá trình học hỏi, hiểu và vận dụng thành thạo các bước trong xây
dựng là yếu tố tạo nên chất lượng văn bản khi ban hành.
Tác giả Ann Seidman, Robert B.Seidman và Nalin Abeyesekere (2003) đã đề cập
đến vấn đề lập pháp trong tác phẩm Assessing Legislation - A manual for legislators (soạn
thảo luật pháp vì tiến bộ xã hội dân chủ) do nhà xuất bản Kluwer Law Internation phát
hành năm 2003, được Nguyễn Duy Hưng, Lưu Tiến Dũng và Nguyễn Khánh Ngọc dịch.
Cuốn sách đề cập đến những vấn đề cơ bản về phương pháp và kỹ thuật lập pháp, xác định
vai trò và trách nhiệm của nhà soạn thảo luật, những yếu tố cần quan tâm trong trình tự lập
pháp, quy trình xây dựng dự thảo luật một cách khoa học, đặc biệt cơng trình đã phân tích
23 kỹ năng soạn thảo văn bản cụ thể giúp các nhà làm luật có thể xây dựng một đạo luật có
hiệu quả. Điều này có ý nghĩa tham khảo trong việc nghiên cứu về quy trình ban hành và
vấn đề tổ chức nhân sự thực hiện hoạt động xây dựng hệ thống VBQPPL của chính quyền
VNCH.
Cơng trình Pháp luật hành chính của Cộng hồ Pháp của Martine Lombard (Giáo
sư Trường Đại học Tổng hợp Panthéon - Assas và Gilles Dumont (Paris II), Giáo sư
Trường Đại học luật và Kinh tế Limoges) do Nhà xuất bản Tư pháp phát hành năm 2007.
Đây là cơng trình đã phân tích đầy đủ và chi tiết nhất về sự hình thành và phát triển của hệ
thống pháp luật hành chính của Cộng hồ Pháp. Cuốn sách đã lý giải về nguồn luật và trật
tự thứ bậc giữa các nguồn của pháp luật hành chính đến cơ chế kiểm tra sự tuân thủ trật tự
thứ bậc đó... Tại Chương I, cuốn sách đã luận giải rất chi tiết về nguồn luật gồm các quy
phạm hiến định, quy phạm pháp luật quốc tế và pháp luật của Liên minh Châu Âu, các quy


phạm có tính chất án lệ, luật và văn bản dưới luật, pháp lệnh và thơng tư có hiệu lực thi

hành bắt buộc. Trong q trình phân tích về từng loại nguồn luật, cuốn sách đã tiếp cận từ
cách hiểu, bản chất, trật tự pháp lý và nhất là đưa ra những tiêu chí để kiểm tra, giám sát về
tính hợp hiến; về sự phù hợp của quyết định hành chính với quy định của điều ước quốc tế;
cơ chế kiểm tra, giám sát của Tham chính viện đối với pháp lệnh và điều kiện về tính hợp
pháp của thơng tư có hiệu lực thi hành bắt buộc. Có thể nói, đây là những nội dung thực sự
có ý nghĩa để nhìn nhận về hoạt động ban hành và triển khai hệ thống VBQPPL của chính
quyền VNCH vào thực tế và nhìn nhận các yếu tố kế thừa cũng như tiếp thu hệ thống
VBQPPL của Pháp ở Việt Nam.
Lon L.Fuller (1969) với tác phẩm The Morality of Law (đạo của pháp luật), Yale
University Press đã khẳng định, một văn bản pháp luật không đảm bảo chất lượng (sẽ mất
hiệu lực) nếu mắc phải một trong 8 lỗi cơ bản sau: (1) khơng có tính quy phạm (tức là
chứa đựng các quy định pháp luật nhưng không thể hiện rõ điều 29 đúng/sai, hợp pháp/bất
hợp pháp, cho phép/cấm đoán, thưởng phạt rõ ràng cho người chấp hành nghiêm và người
vi phạm), (2) khơng cơng khai các quy định của nó cho công chúng, (3) ngôn từ sử dụng
trong các quy định tối nghĩa, khó hiểu, (4) quy định hiệu lực hồi tố, (5) quy định những
quy phạm có nội dung mâu thuẫn nhau, (6) đưa ra các quy định mà đối tượng bị áp dụng
cũng như chủ thể có trách nhiệm áp dụng không thể thực thi được, (7) thay đổi q thường
xun theo thời gian, và (8) khơng có tính nhất quán trong việc áp dụng pháp luật, 8 tiêu
chuẩn này được giáo sư Lon L.Fuller coi là những tiêu chuẩn thiết yếu mà một hệ thống
pháp luật nên có và phải có. Thiếu một trong 8 tiêu chí ấy, chức năng, tác dụng thực tế của
hệ thống pháp luật sẽ bị ảnh hưởng theo chiều hướng tiêu cực. Những tiêu chuẩn mà giáo
sư Lon Fuller đề cập là nguồn tài liệu quan trọng đối với việc nghiên cứu của đề tài luận án
về tiêu chí đánh giá chất lượng ban hành VBQPPL ở Việt Nam, là nguồn tài liệu tham
khảo nhằm đưa ra quan điểm xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng ban hành VBQPPL nói
chung và VBQPPL của chính quyền VNCH nói riêng. Những tiêu chí mà Lon L.Fuller đưa
ra có giá trị tham khảo nhất định khi tác giá đánh giá hiệu quả của quá trình xây dựng hệ
thống VBQPPL vào thực tiễn Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955-1975.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD, 2001) đã công bố bài viết Improving



Policy Instruments through Impact Assessment (Cải thiện các công cụ chính sách thơng
qua đánh giá tác động) đã nhận định: Ở các nước thành viên OECD, việc rà soát, đánh giá
chất lượng VBQPPL là một công việc thường xuyên, hàng ngày của tất cả các Bộ thuộc
Chính phủ. Trong mỗi Bộ, thường có một đơn vị gọi là bộ phận rà soát, đánh giá văn bản
pháp luật (regulatory review unit), chịu trách nhiệm rà soát, đánh giá văn bản pháp luật do
Bộ đó chịu trách nhiệm thực thi. Trực thuộc Chính phủ có Văn phịng chịu trách nhiệm
chung về rà soát và đánh giá văn bản pháp luật (Cơ quan chịu trách nhiệm và điều phối
chung cơng việc rà sốt, đánh giá hệ thống văn bản pháp luật). Ngoài ra, ở một số nước
cịn có các tổ chức nhà nước (nhưng rất độc lập, thuật ngữ tiếng anh là Statutory body); và
những tổ chức này cũng thường xuyên rà soát và đánh giá chất lượng VBQPPL mà họ
quan tâm (có thể văn bản pháp luật trong một ngành nào đó, hay tác động đến một đối
tượng cụ thể nào đó, ví dụ rà sốt tất cả các văn bản pháp luật tác động đến hay liên quan
đến doanh nghiệp)... Như vậy, văn bản pháp luật ở các nước nói trên có thể được bổ sung,
sửa đổi hàng năm theo hướng đảm bảo chất lượng tốt hơn, việc thực thi có tốt và thuận lợi
hơn cho đối tượng bị điều chỉnh, do vậy, pháp luật luôn ổn định và đáng tin cậy đối với
cơng chúng. Bài viết cung cấp một góc nhìn để hệ thống VBQPPL của các quốc gia có
hiệu quả thì hoạt động rà sốt, kiểm tra hệ thống này trước và sau khi ban hành giữ vai trò
rất quan trọng. Những thơng tin bài viết cung cấp có giá trị tham khảo nhất định khi tác giả
đánh giá cơng tác thẩm tra văn bản của chính quyền VNCH trước và sau khi triển khai vào
thực tiễn đương thời.
Mặc dù những cơng trình nêu trên khơng có đối tượng nghiên cứu trực tiếp là quá
trình xây dựng hệ thống VBQPPL của chính quyền VNCH, song nó cung cấp một hệ
thống những cơ sở lý luận, các tiêu chí chuyên mơn liên quan đến văn bản nói chung và
VBQPPL nói riêng như: quy trình ban hành VBQPPL; các phương pháp, tiêu chí đánh giá
hiệu quả, chất lượng ban hành VBQPPL... Tác giả sử dụng những kết quả nghiên cứu
trong những cơng trình trên để xây dựng những luận điểm, luận cứ chuyên môn khi khảo
cứu về lịch sử xây dựng hệ thống VBQPPL của chính quyền VNCH.


1.2.2.


Nghiên cứu về chính quyền và tổ chức bộ máy chính quyền Việt Nam

Cộng hịa (1955-1975)
Chính quyền VNCH và các khía cạnh liên quan đến chính quyền này từ khi hình
thành đến nay đã thu hút sự chú ý, quan tâm và nghiên cứu của các nhà khoa học, các học
giả trong và ngồi nước. Các cơng trình nghiên cứu được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác
nhau như: Sự hình thành chế độ VNCH; chính sách và vai trị của Hoa Kỳ đối với chính
quyền VNCH; tổ chức và hoạt động của chính quyền VNCH trên các phương diện: bộ máy
chính quyền, kinh tế, xã hội, chính trị, quân sự, ngoại giao của VNCH.
Các cơng trình tiêu biểu nghiên cứu về chính quyền VNCH đã được nghiên cứu
ngay trong khi chính quyền này cịn đang tồn tại. Có thể kể đến các cơng trình tiêu biểu đã
được cơng bố như:
“ ng uộ thành ậ hế ộ ộng h nh n vị t i iệt N tự ” của tác giả Vũ Quốc Thơng được
đăng trên Tạp chí Nghi n u hành h nh, số 10, tháng 10-1960; “Lịch trình chuyển biến chính
trị từ ngày cách mạng (01-11-1963 đến ngày 19-6-1965)” của tác giả Nguyễn Thành Cung,
đăng tải trên Tạp chí Nghi n u hành h nh (số 2-Tam cá nguyệt II-1967); “Văn kiện căn bản
tổ chức công quyền Việt Nam” của Thông tấn xã VNCH xuất bản năm 1974; Bộ sách
“Thành tích ( nă ) ho t ộng của Chính phủ VNCH và kỷ niệm đệ (nhất, nhị, tam,...) chu
niên Ngô Tổng thống chấp chánh” được xuất bản theo từng năm từ 1954-1963; “Tổ chức
và điều hành nền hành chính tại Mỹ quốc”, Tạp chí Nghi n u hành h nh, số 2, tháng 2-1961
của tác giả Bùi Quang Khánh; Miền Nam Việt Nam từ s u Điện Biên Phủ (1963, Diệu Bình
dịch), của tác giả Nguyễn Khắc Viện do Nxb. Trí Thức xuất bản; tác phẩm Những ngày hư
qu n (1954-1963) (tập thứ 2) của Đoàn Thêm, xuất bản năm 1969; “Chính sách ngoại giao
của Hoa Kỳ tại Đông Nam (1968)” của Nguyễn Mạnh H ng đăng trên Tạp chí Nghi n u
hành h nh, số 2, Tam cá nguyệt II, năm 1968).
Sau sự kiện ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền VNCH khơng cịn tồn tại nữa.
Tuy nhiên, các vấn đề, các khía cạnh liên quan đến chính quyền này vẫn là những chủ đề
đối với giới nghiên cứu trong và ngồi nước quan tâm. Có thể kể đến các cơng trình
nghiên cứu tiêu biểu như: “Nhìn l i sự thất b i thả h i ủ Đế quốc Mỹ trong chính sách sử

dụng chính quyền tay sai ở miền Nam Việt Nam” của tác giả Cao Văn Lượng đăng trên Tạp


chí Nghiên c u Lịch sử, số 6, năm 1977 (Hà Nội); Cái chết của anh em nhà Ngô, (NXB
CAND, 2009) của Nông Huyền Sơn; Luận án tiến sĩ Lịch sử Việt Nam: Chế ộ Việt Nam
Cộng hòa ở miền Nam Việt N gi i n 1955-1963 của tác giả Nguyễn Xuân Hoài; Sự lừa dối
kinh khủng - 25 năm tôi làm việc ở CIA của Ralph W. McGehee (Trần Đăng Minh Hiếu
dịch, NXB Đà Nẵng, 1987). Sách 1963-2013-50 nă nhìn l i do Nhà xuất bản Thiện Tri
thức Publications, tập hợp 122 bài viết của 99 tác giả, và 100 lời nhận định về chế độ Ngơ
Đình Diệm của các tác giả trong và ngoài nước sống trong chế đệ Ngơ Đình Diệm và hiện
nay với ba tập. Các bài nghiên cứu tâp trung vào tất cả các lĩnh vực trong hoạt động của
chính quyền VNCH (1955-1963) và đưa ra những nhận định về chế độ này. Bên cạnh các
tác giả trong nước, cịn có một số tác giả nước ngồi nghiên cứu và đã cơng bố ấn phẩm
của mình liên quan đến chính quyền VNCH. Có thể kể đến như: Edward Miller (2013),
Misalliance: Ngo Dinh Diem, the United States, and the Fate of South Vietnam (Harvard
University Press). Trong cơng trình này tác giả đã trình bày về q trình thành lập chính
quyền VNCH và có một số nhận định đáng lưu ý như: Theo Hiến pháp 1956, Ngô Đình
Diệm có quyền lực gần như tuyệt đối đối với chính quyền ở Miền Nam Việt Nam. Tác giả
cũng nhận định phong cách quản trị của Ngơ Đình Diệm ngày càng trở nên độc tài theo
thời gian. Bên cạnh đó, ấn phẩm cũng đề cập đến cuộc đảo chính lật đổ chính quyền Ngơ
Đình Diệm vào tháng 11 năm 1963; Moyar, Mark (2006). Triumph Forsaken: The Vietnam
War, 1954-1965. New York: Cambridge University Press. Tác giả đã đề cập một cách khái
qt q trình xây dựng và củng cố chính quyền của Ngơ Đình Diệm trong giai đoạn đầu
của chế độ VNCH và có những bình luận về cuộc đảo chính ngày 1-11-1963 và hậu quả
của nó đối với chính quyền VNCH; Jacobs, Seth (24 July 2006). Cold War Mandarin: Ngo
Dinh Diem and the Origins of America's War in VietNam, 1950-1963. Rowman &
Littlefield Publishers. Trong cuốn sách này, Seth Jacobs vạch ra lịch sử hỗ trợ của Mỹ cho
Ngơ Đình Diệm từ lần xuất hiện đầu tiên của ông tại Washington vào năm 1950 cho đến
khi Diệm bị giết bởi lực lượng quân đội Nam Việt Nam ở ngoại ô Sài Gòn năm 1963;
Chapman, Jessica (2013). Cauldron of resistance: Ngo Dinh Diem, the United States, and

1950s southern Vietnam (Ithaca: Cornell University Press). Trong cơng trình này, tác giả
đã đề cập đến q trình Ngơ Đình Diệm thiết lập chính quyền VNCH ở miền Nam Việt


×