Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn qua thực tiễn xét xử tại tỉnh bình định (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.33 KB, 72 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

TRẦN THỊ HOÀI

PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
••
KHI LY HƠN QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ
TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH
••

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

TRẦN THỊ HOÀI

PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
••
KHI LY HƠN QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ
TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH
••

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
••••
Ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự

o







•o



Mã số: 60.38.01.03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐOÀN THỊ PHƯƠNG DIỆP


TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 209
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi.
Các kết quả, số liệu, ví dụ và trích dẫn nêu trong Luận văn này là trung thực và
chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào khác.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.

rrĩ £ _

___• 2

Tác giả

Trần Thị Hoài



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

TỪ, CỤM TỪ ĐƯỢC VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT

1

Bộ luật Dân sự

BLDS

2

Hơn nhân và gia đình

HN&GĐ

3

Nhà xuất bản

NXB

4

Tòa án nhân dân


TAND

5

Giấy chứng nhận

GCN


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Về công tác giải quyết các vụ việc HN&GĐ chia tài sản chung khi
ly hôn ở cấp sơ thẩm từ năm 2012 - 2016

Trang
26

Bảng 2: Về công tác giải quyết các vụ việc HN&GĐ chia tài sản chung khi
ly hôn ở cấp phúc thẩm từ năm 2012 - 2016

27

Bảng 3: Số vụ việc chia tài sản chung khi ly hôn bị từ năm 2012 -2016 hủy,
sửa từ năm 2012 - 2016

28


MỤC LỤC

TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................

PHỤ LỤC ..................................................................................................................


7

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, gia đình ln là tế bào của xã hội, đó là cái nơi ni
dưỡng con người, là nơi những người có quan hệ huyết thống, hơn nhân và nuôi
dưỡng cùng chung sống, là môi trường quan trọng giáo dục và hình thành nhân cách
của mỗi thành viên trong gia đình. Một gia đình hịa thuận và hạnh phúc sẽ góp phần
vào sự phát triển và phồn thịnh chung cho xã hội. Trong quan niệm truyền thống, đất
nước được hình dung như một gia đình lớn mà việc tổ chức và vận hành chỉ là sự
phóng to mơ hình gia đình nhỏ, gồm những người gắn bó với nhau trên quan hệ
huyết thống hoặc hôn nhân. Trong quan niệm hiện đại, gia đình là nơi mà các cơng
dân nhỏ tuổi được chuẩn bị mọi mặt để tham gia vào đời sống xã hội. Nhận thấy
được vị thế quan trọng của gia đình với đời sống kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước ta
luôn quan tâm, chú trọng đến việc xây dựng và giữ gìn gia đình êm ấm, hịa thuận,
hạnh phúc. Sự quan tâm đó Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện qua việc ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ về hơn nhân và gia đình, góp
phần giúp cho sự tồn tại và phát triển của gia đình đi vào chuẩn mực đạo đức, khuôn
khổ pháp luật nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và phát
triển bền vững.
Khi nam nữ kết hôn, cùng nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc thì sự bền
vững của quan hệ hôn nhân là mong muốn của các thành viên trong gia đình, đây
cũng là mục đích của việc xây dựng gia đình mà pháp luật đặt ra. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp, quan hệ hôn nhân do chịu sự tác động của nhiều yếu tố chủ quan
và khách quan, đã không giữ được ý nghĩa và giá trị như mong muốn ban đầu, cuộc
sống chung khơng cịn hạnh phúc, nên pháp luật đã dự liệu khả năng cho họ quyền
được giải phóng, thốt khỏi mối quan hệ hơn nhân bằng việc ly hôn.

Khi ly hôn, hậu quả pháp lý của ly hôn sẽ được giải quyết vợ chồng thường
xảy ra các tranh chấp về quyền nhân thân, như quyền nuôi con chung và quyền về
quan hệ tài sản chung, đặc biệt là quan hệ về tài sản. Quan hệ về tài sản giữa vợ,


8

chồng là quan hệ tài sản gắn với nhân thân, tồn tại trong thời kỳ hơn nhân, khơng có
tính đền bù ngang giá và không xác định được công sức đóng góp cụ thể của các bên,
nên khi xảy ra tranh chấp thì việc phân chia tài sản chung vợ chồng là tương đối khó
khăn, phức tạp, gây nhiều tranh cãi trong các vụ án ly hôn tại các cấp Tòa án.
Sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, quy phạm pháp luật của nhà
nước ta cũng đã kịp thời sửa đổi, bổ sung và ban hành để phù hợp với tinh thần của
Hiến pháp mới và tình hình thay đổi đất nước, trong đó có Luật HN&GĐ năm 2014,
có hiệu lực từ ngày 01/01/2015. Luật HN&GĐ năm 2014 đã có nhiều quy định mới
tương đối cụ thể về chế độ tài sản của vợ chồng, trong đó đặc biệt quy định về chia
tài sản của vợ chồng khi ly hôn, đã phát huy hiệu quả trong việc điều chỉnh các quan
hệ pháp luật về HN&GĐ, góp phần xây dựng và phát triển chế độ HN&GĐ, tạo cơ
sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các thành
viên khác trong gia đình.
Hiện nay, cùng với xu thế phát triển của xã hội, số lượng các vụ án ly hơn có
tranh chấp về quan hệ tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ngày càng tăng và phức
tạp, giá trị tài sản tranh chấp giữa các bên ngày càng lớn đã gây ra rất nhiều khó khăn
và áp lực cho cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề pháp luật về
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc.
Với những lý do trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Pháp luật về chia
tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn qua thực tiễn xét xử tại tỉnh Bình Định”
làm luận văn thạc sĩ luật học của mình, để làm rõ hơn các quy định của pháp luật về
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn và phát hiện những vướng mắc, bất cập

để từ đó đề ra những kiến nghị nhằm góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật trong
hoạt động xét xử của Tịa án nói chung, giúp cho việc giải quyết các vụ án hôn nhân
và gia đình nói riêng đảm bảo tính cơng bằng và bình đẳng giữa các bên tham gia tố
tụng.


9

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Gia đình có vị trí và vai trị quan trọng trong sự phát triển của xã hội, xuất
phát từ vai trò quan trọng của gia đình trong xã hội, nên việc nghiên cứu về các tranh
chấp trong quan hệ hơn nhân và gia đình luôn được quan tâm và chú ý, đặc biệt vấn
đề về tài sản của vợ, chồng. Các cơng trình nghiên cứu khoa học nói chung về chế độ
tài sản, chia tài sản của vợ chồng cũng luôn thu hút được nhiều sự quan tâm, nghiên
cứu.
* Luận văn thạc sĩ
-

Lò Thị Thu Hoa (2016), “Áp dụng pháp luật chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn tại tỉnh Sơn La”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội.
Đề tài nêu các vấn đề lý luận, thực trạng quy định pháp luật, thực tiễn áp dụng
pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng tại tỉnh Sơn La, trên cơ sở đó
kiến nghị hồn thiện pháp luật và giải pháp điều chỉnh nhằm nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng. Do đó, luận văn chỉ
có ý nghĩa đối với tác giả trong việc xem xét khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc
về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.

-

Chu Minh Khôi (2015), “Các trường hợp chia tài sản chung của vợ

chồng”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội. Luận văn tập trung nghiên
cứu các nội dung quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong các
trường hợp cụ thể theo Luật HN&GĐ năm 2014 và một số kiến nghị hồn
thiện pháp luật.
Có thể nói, các luận văn nêu trên đã đạt được những kết quả nhất định và có

giá trị về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn. Tuy nhiên, hiện nay các vấn đề này
đã có nhiều thay đổi, đã được ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mới,
do đó cần phải nghiên cứu dưới góc độ mới hơn.
•X.TT /K

rt•Ấ

tot

* Luận án tiến sĩ
Nguyễn Văn Cừ (2005), “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học. Cơng trình này nghiên


10

cứu một cách toàn diện tất cả các vấn đề về chế độ tài sản của vợ chồng trong đó bao
gồm các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng, tuy nhiên do nghiên cứu tổng
thể vấn đề về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của hệ thống pháp luật
HN&GĐ Việt Nam nên chưa tập trung vào việc phân tích cụ thể các vấn đề liên quan
tới từng trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng.
* Các bài tạp chí, bài báo
-


Đồn Thị Phương Diệp với “Nguyên tắc suy đoán tài sản chung trong
Luật hơn nhân và gia đình Việt Nam và Luật dân sự pháp”, trang Thông
tin pháp luật dân sự 10/11/2008. Công trình nghiên cứu khá sâu sắc các quy
định của Luật HN&GĐ Việt Nam và Luật dân sự pháp. Nhưng do chỉ tập
trung nghiên cứu về nguyên tắc suy đoán tài sản chung của vợ chồng phát
hiện những vướng mắc bất cập của Luật HN&GĐ, từ đó đưa ra các kiến nghị
hồn thiện mà việc phân tích cụ thể các trường hợp chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn cũng như tìm hiểu thực tiễn xét xử về vấn đề này chưa được
đề cập đến nhiều.

-

Tưởng Duy Lượng (2007), “Những khó khăn, vướng mắc khi xác định đã
cho hay chưa cho trong trường hợp các con ra ở riêng bố mẹ có giao cho
một số tài sản cho con sử dụng - Một số kiến nghị về hướng giải quyết”,
tạp chí TAND, tháng 04/2007 (số 7). Bài viết đề cập những khó khăn, vướng
mắc trong thực tiễn xét xử, các quy định cụ thể của BLDS về hợp đồng tặng
cho, xuất phát từ tình hình thực tế tác giả đề cập một số kiến nghị về hướng
giải quyết.

-

Lê Thu (2013), “Có coi là tài sản chung của vợ chồng”, tạp chí TAND,
tháng 03/2013 (số 5). Trong bài viết này tác giả đã đưa ra vụ án hôn nhân và
gia đình giữa nguyên đơn là chị Trần Thị Lẫm, bị đơn Trần Văn Hồng, người
có nghĩa vụ liên quan là anh Trần Văn Thúy. Các đương sự khởi kiện chia tài
sản chung khi ly hôn về nhà đất và ba thửa đất nương. Vụ án đã bị cấp giám
đốc thẩm hủy cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm với lý do chưa làm rõ



11

nguồn gốc đất đang tranh chấp do cha mẹ anh Hồng để lại trước khi anh chị
kết hơn, chị Lẫm khơng cung cấp được tài liệu chứng cứ gì khác để chứng
minh tài sản trên đã được cho cả hai vợ chồng, mà chỉ căn cứ vào việc vợ
chồng anh Hồng đang sống, sử dụng nhà đất, hàng năm đóng thuế cho Nhà
nước và lời xác nhận của ông Đỗ Xuân Các (nguyên chủ tịch xã cũ) là “sổ đỏ
giao đất thuộc hộ anh Hoàng năm 1999 là hoàn toàn hợp pháp, khơng có tranh
chấp theo đơn trình bày là hoàn toàn đúng” để xác định đất thổ cư, đất vườn,
được cấp cho hộ gia đình anh Hồng là tài sản chung của vợ chồng là khơng
có căn cứ, khơng đúng pháp luật.
-

Thu Hương - Duy Kiên (2013), “Một số vấn đề cơ bản về chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ - Thực tiễn giải
quyết”, tạp chí TAND, tháng 5/2013 (số 5). Bài viết chỉ dừng lại ở việc đưa ra
một vài điểm lưu ý khi phân chia tài sản chung của vợ chồng và thực tiễn giải
quyết. Chưa đưa ra được những bất cập khi áp dụng pháp luật và kiến nghị
hoàn thiện.
* Sách chuyên khảo

-

Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bình luận khoa học Luật HN&GĐ Việt Nam,
NXB trẻ, Hồ Chí Minh.
Sách chuyên khảo này mới chỉ đề cập đến các kiến thức pháp lý cơ bản và

khái quát các vấn đề về HN&GĐ trong đó bao gồm cả chế định về chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn mà chưa đi sâu vào nghiên cứu, phân tích các trường hợp
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.

Nhận xét chung: Các cơng trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu, đề cập đến
nhiều khía cạnh của vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Kế thừa kết
quả các cơng trình nghiên cứu trên, luận văn tiếp tục nghiên cứu về vấn đề chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn qua thực tiễn xét xử của Tịa án nhân dân tỉnh
Bình Định. Để thấy được những thuận lợi, khó khăn khi áp dụng các căn cứ pháp
luật này trên thực tế, giải quyết cụ thể các trường hợp chia tài sản chung của vợ


12

chồng khi ly hơn, từ đó có những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật trong đời sống và công tác xét xử. Với xu hướng phát triển kinh tế xã hội như hiện nay dẫn tới các vụ án ly hôn và chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hôn, hiện nay ngày càng tăng và việc Luật HN&GĐ năm 2014 mới được ban
hành, bước đầu đi vào áp dụng trong thực tiễn xét xử thì việc nghiên cứu các quy
định của pháp luật về việc giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn là điều rất quan trọng, qua nghiên cứu sẽ thấy được những tiến bộ của
Luật HN&GĐ năm 2014 và những hạn chế, bất cập trong quá trình áp dụng các quy
định của pháp luật để giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn qua thực tiễn xét xử, đề ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và những
phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả của công tác xét xử giải quyết tranh chấp về
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở pháp lý những vấn đề của
việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, thực tiễn áp dụng pháp luật đề giải
quyết các tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn tại Tịa án qua cơng
tác xét xử, đánh giá thực trạng của hoạt động này trong những năm qua và qua đó
phát hiện những vấn đề cịn bất cập trong các quy định của pháp luật cũng như
những khuyết điểm, sai sót trong cơng tác xét xử của tịa án để từ đó đưa ra những
quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án nói chung và

các vụ án hơn nhân và gia đình nói riêng, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động áp dụng pháp luật của hệ thống Tịa án Việt Nam, bảo đảm quyền, lợi ích chính
đáng của các đương sự trong vụ án giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu làm rõ các quy định của pháp luật để giải quyết các tranh chấp về
tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo quy định của pháp luật hiện hành.
Nghiên cứu việc áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp về tài sản


13

chung của vợ chồng khi ly hôn qua thực tiễn cơng tác xét xử của Tịa án tại tỉnh Bình
Định.
Qua đó đánh giá thực trạng giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình, tìm ra
ưu điểm, hạn chế và những nguyên nhân của những hạn chế đó.
Trên cơ sở thực tiễn giải quyết phát hiện những vướng mắc, bất cập trong quy
định của pháp luật cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật khi xét xử tại tịa án,
từ đó đề ra những giải pháp và kiến nghị cần thiết để bảo đảm thực thi pháp luật
trong giải quyết các vụ án hơn nhân và gia đình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
về đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của
pháp luật hiện hành về căn cứ xác lập tài sản chung, riêng của vợ chồng. Căn cứ,
nguyên tắc và cách thức chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo Luật
HN&GĐ năm 2014. Đồng thời đưa ra một số tình huống, vụ án cụ thể mà Tòa án đã
xét xử giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn tại tỉnh Bình Định.
Về phạm vi nghiên cứu: Vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn có
phạm vi rất rộng, trong khuôn khổ của luận văn ứng dụng đề tài này không nghiên
cứu vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn có yếu tố nước ngoài mà chỉ
tập trung nghiên cứu vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn đối với quan
hệ hôn nhân trong nước theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn xét xử tại tỉnh Bình

Định.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, so sánh,
tổng hợp, thống kê và đồng thời nghiên cứu những báo cáo công tác xét xử của tòa
án, các bản án của tòa án giải quyết các tranh chấp về chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hơn của Tịa án nhân dân tỉnh Bình Định từ năm 2012 -2016, các bài
viết, tham luận của một số tác giả về vấn đề nghiên cứu.


14

6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 02 chương:
Chương 1: Khái quát về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Chương
2:sản
Thực
tiễncủa
áp vợ
dụng
các khi
quy ly
định
của
pháp
về
chia Định
Bình
tài

Đề
chung
xuất
hồn
thiện.
chồng
hơn
tại
Tịaluật
án tỉnh


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
1.1.
1.1.1.

Lý luận về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Tài sản chung của vợ chồng

Tài sản là một phần không thể thiếu trong đời sống của con người, nó tồn tại
để đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần cho con người. Do đó, tài sản và các lợi
ích của tài sản trong nhiều trường hợp là mối quan tâm của các quan hệ xã hội nói
chung và của quan hệ pháp luật nói riêng.
Tài sản chung của vợ chồng cũng là một loại tài sản theo pháp luật dân sự, vì
vậy, nghiên cứu vấn đề tài sản của vợ chồng phải đặt trong bối cảnh của chế định tài
sản nói chung. Theo quy định tại Điều 105 BLDS năm 2015 “Tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá về quyền tài sản”.
Theo Điều 33 của Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:

“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng
và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại
khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được
tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho
riêng hoặc có được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo
đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp khơng có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang
có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản
chung”.
Từ điều luật này, có thể nhận thấy rằng khối tài sản chung gồm có các tài sản
do vợ hoặc chồng tạo ra, bằng sức lao động hoặc thông qua các hoạt động chuyển


nhượng tài sản có đền bù; các thu nhập do lao động hoặc thu nhập không do lao
động; các tài sản có được do được chuyển dịch khơng có đền bù trong những trường
hợp đặc thù và các tài sản do vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Thực ra, cịn một
loại tài sản chung hình thành từ các phương thức xác lập quyền sở hữu trực tiếp theo
luật chung về tài sản: sáp nhập, trộn lẫn, chế biến, xác lập quyền sở hữu theo thời
hiệu,...Mặt khác, trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, quyền sử dụng đất
có căn cứ xác lập ban đầu theo quy định của pháp luật đất đai; tính chất chung hay
riêng của quyền sử dụng đất được xác định theo các tiêu chí đặc thù, chứ khơng dựa
vào hệ thống tiêu chí áp dụng chung cho các tài sản thông thường3.
1.1.1.1.

Khái niệm tài sản chung của vợ chồng


Trong quá trình vợ chồng chung sống, ngồi tình cảm thì giữa vợ chồng cịn
cần có tài sản chung, tài sản chung được coi là một điều kiện khơng thể thiếu để duy
trì mối quan hệ vợ chồng.
Tài sản theo nghĩa Từ điển tiếng việt tài sản là của cải, vật chất dùng vào mục
đích sản xuất và tiêu dùng. Theo quy định của BLDS thì: Tài sản của vợ chồng bao
gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản thuộc sở hữu của vợ chồng. Tài sản
của vợ chồng gồm có tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng.
Tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung của cả vợ và chồng,
vợ chồng cùng là chủ sở hữu đối với khối tài sản đó, là hình thức sở hữu chung đặc
biệt. Xuất phát từ quan hệ hôn nhân, sự tồn tại của chế độ tài sản chung vợ chồng
phụ thuộc vào sự tồn tại của quan hệ hôn nhân và chấm dứt khi một trong hai vợ
chồng chết hoặc có bản án, quyết định của Tịa án cho vợ chồng ly hơn. Như vậy,
mọi tài sản có được trong thời kỳ hơn nhân đều được coi là tài sản chung của vợ
chồng, vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà
không phụ thuộc vào khả năng trực tiếp tạo ra tài sản hay cơng sức đóng góp của mỗi
bên.
1.1.1.2.

Nguồn gốc tài sản chung của vợ chồng

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ
3Nguyễn Ngọc Điện, Khoa Luật -Đại học Cần Thơ, “Giáo trình Luật HN&GĐ tập 2” Tr.10


tài sản pháp định, khối tài sản tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là nguồn chủ yếu của
khối tài sản chung của vợ chồng. Theo đó, nguồn gốc tài sản chung của vợ chồng
bao gồm: Tài sản chung do vợ, chồng tạo ra; thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác
trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Như vậy, luật quy định cụm từ “tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung” đây là quy định có tính mềm dẻo nhằm bảo đảm quyền tự định đoạt của vợ
chồng quyết định về phạm vi các tài sản thuộc sở hữu chung, đồng thời, quy định
này cũng phù hợp với xu hướng cơ bản của pháp luật nước ta là ưu tiên khuyến khích
việc xây dựng, củng cố chế độ tài sản chung hợp nhất của vợ chồng, góp phần củng
cố sự bền vững của gia đình.
Ngồi ra, luật cũng quy định cụ thể để làm rõ chế độ pháp lý đối với loại tài
sản đặc biệt, có tính chất đặc thù, đó là quyền sử dụng đất của vợ chồng, “Quyền sử
dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hơn là tài sản chung của vợ chồng” quyền
sử dụng đất mà vợ, chồng có được trước khi kết hơn, được thừa kế riêng chỉ là tài
sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy
định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì Giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà, Giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng. Quy định này của
pháp luật chỉ nhằm tạo ra các căn cứ pháp lý cần thiết xác định rõ đâu là tài sản
chung, đâu là tài sản riêng của vợ chồng để làm chứng cứ giải quyết khi xảy ra tranh
chấp về tài sản giữa vợ chồng (ví dụ: Một bên có u cầu Tịa án tuyên bố giao dịch
dân sự vô hiệu do bên kia thực hiện nhằm định đoạt tài sản thuộc sở hữu của vợ
chồng mà không được bên vợ hoặc chồng của bên đó đồng ý, việc chia tài sản của vợ
chồng nếu có tranh chấp...) thì việc trên giấy tờ đăng ký tài sản có ghi cả tên vợ và
chồng sẽ là bằng chứng pháp lý để xác định đó là tài sản chung của vợ chồng, còn
nếu khi đăng ký tài sản chung của vợ chồng mà chỉ ghi tên của một người bất kể vì
lý do gì (do vợ chồng thỏa thuận, do một bên tự ý đăng ký và chỉ ghi tên của mình,
do vợ chồng khơng nắm được quy định này của pháp luật ...) thì điều này cũng


khơng ảnh hưởng gì đến quyền sở hữu chung của vợ chồng đối với tài sản đó, kể cả
trong các giao dịch của vợ, chồng có liên quan đến tài sản đó, kể cả các giao dịch của
vợ, chồng có liên quan đến tài sản đó với người thứ ba, nhưng nếu khi có tranh chấp
về tài sản xảy ra giữa vợ chồng hoặc giữa vợ, chồng với người thứ ba, thì bên khơng

được ghi tên trên giấy tờ vẫn có quyền khẳng định tài sản đó thuộc sở hữu riêng của
mình thì có nghĩa vụ phải chứng minh, nếu khơng có các chứng cứ để chứng minh
được đó là tài sản riêng thì thẩm phán xét xử có quyền suy đốn đó là tài sản chung
của vợ chồng.
Tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết do hai vợ, chồng trực tiếp tạo ra
hoặc tạo ra ngang bằng nhau. Tài sản chung có thể chỉ do vợ, chồng tạo ra trong thời
kỳ hôn nhân, quy định này thể hiện sự gắn kết của quan hệ hôn nhân...Đây là điểm
khác biệt của tài sản chung vợ chồng so với tài sản chung theo phần khác. Tài sản
chung vợ, chồng là tài sản sở hữu chung hợp nhất, khi vợ chồng chưa phân chia tài
sản thì khơng xác định được tỷ lệ tài sản của mỗi người. Khi hai bên thỏa thuận phân
chia xong hoặc có quyết định phân chia của Tịa án thì phần tài sản của vợ, chồng
trong khối tài sản chung mới được xác định.
1.1.2.

Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn

Xuất phát từ tình hình thực tế các quan hệ hơn nhân và gia đình, đồng thời
cũng nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của vợ chồng về vấn đề tài sản, luật HN&GĐ
quy định các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng. Đó là: Chia tài sản của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân; chia tài sản chung của vợ chồng khi một trong hai vợ
hoặc chồng chết và chia tài sản khi vợ chồng ly hôn.
Theo quy định tại khoản 14 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014: “Ly hôn là chấm
dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án”.
Khi đời sống hơn nhân chấm dứt, vấn đề tài sản luôn được các cặp vợ chồng quan
tâm hàng đầu. Cụ thể như việc xác định nguồn gốc hình thành tài sản, việc phân định
đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng để thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án phân
chia. Mặc dù pháp luật đã có những quy định điều chỉnh vấn đề giải quyết tài sản của
vợ chồng khi ly hôn một cách khái quát. Nhưng thực tiễn giải quyết lại rất phức tạp



gây nên những khó khăn, vướng mắc trong q trình áp dụng pháp luật. Nếu như kết
hôn là sự kiện làm phát sinh quan hệ hơn nhân vợ chồng thì ly hơn là chấm dứt quan
hệ vợ chồng do Tịa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của
chồng hoặc của cả hai vợ chồng4. Khi tình cảm khơng cịn, vợ chồng thực sự tự
nguyện ly hơn hoặc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc hành vi vi phạm
nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ vợ chồng làm cho hơn nhân rơi vào tình trạng trầm
trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt được thì
Tịa án quyết định cho ly hôn.
Việc tranh chấp về chia tài sản chung có thể diễn ra cùng với việc vợ, chồng
xin ly hơn hoặc có thể diễn ra sau khi vợ chồng đã ly hôn do thời điểm ly hôn vợ,
chồng không yêu cầu giải quyết về tài sản chung mà để họ tự thỏa thuận nhưng sau
đó họ khơng tự thỏa thuận được. Việc vợ chồng tranh chấp về tài sản đồng thời với
việc ly hôn hoặc sau khi ly hôn đều được coi là tranh chấp về tài sản chung của vợ
chồng khi ly hơn. Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định hạn chế một số trường hợp
theo khoản 3 Điều 5 Luật HNGĐ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ và con.
Các tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn chủ yếu các nội
dung sau đây:
Tranh chấp về xác định tài sản chung hay tài sản riêng, đây là dạng tranh chấp
phổ biến nhất (ví dụ như tài sản do vợ, chồng tạo lập được trong thời kỳ hôn nhân
như nhà, đất nhưng trong giấy tờ mua bán hoặc GCN quyền sử dụng đất chỉ đứng tên
vợ hoặc chồng; tài sản là của bố mẹ vợ hoặc chồng cho vợ chồng nhưng khi ly hơn
thì bố mẹ lại thay đổi là chỉ cho con trai hoặc con gái hoặc cha mẹ địi lại; tài sản
riêng của vợ chồng có trước khi kết hôn nhưng lại đưa vào sử dụng trong thời kỳ hôn
nhân...).
Tranh chấp về việc xác định tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng hay của
gia đình (trong trường hợp vợ chồng sống chung cùng gia đình mà ly hôn).
Tranh chấp về việc phân chia hiện vật.
Tranh chấp về việc thỏa thuận giá trị tài sản tranh chấp.
Tranh chấp về việc thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với người thứ ba.
4 Khoản 1 Điều 51 Luật HNGĐ năm 2014



Khi vợ chồng tranh chấp về chia tài sản chung thì họ khó thỏa thuận trong
việc phân chia tài sản chung, nên cần có một cơ quan Nhà nước có đủ thẩm quyền
tiến hành giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng.
1.1.2.1.

Khái niệm về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn

Thông thường, tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất phần
quyền sở hữu của vợ, chồng không được xác định trước. Khi đem chia, khối tài sản
chung được phân chia thành từng phần (tính theo hiện vật hoặc giá trị) để vợ, chồng
có quyền sở hữu riêng.
Luật HN& GĐ năm 2014 chưa đưa ra khái niệm cụ thể về chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hơn, tuy nhiên có thể đưa ra khái niệm về chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn như sau:
Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn là việc vợ chồng tự thỏa thuận
hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia một phần hay toàn bộ tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn dựa trên những nguyên tắc nhất định, nhằm đảm bảo quyền và lợi
ích của các bên, con cái và người thứ ba.
1.1.2.2.

Đặc điểm của chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn

Thứ nhất, Việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn có thể thực
hiện theo thỏa thuận hoặc bằng con đường tư pháp.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo nguyên tắc do các bên
thỏa thuận, tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó. Như vậy,
việc chia tài sản chung trước hết sẽ do vợ chồng tự thỏa thuận (sự thỏa thuận phải
phù hợp với các nguyên tắc của Luật HN&GĐ); nếu khơng thỏa thuận được thì theo

u cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng không thỏa thuận được mà có u cầu
thì Tịa án xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa
thuận hay theo luật định, tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý như sau:
Trường hợp khơng có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng hoặc văn
bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tun bố vơ hiệu tồn bộ thì
áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi
ly hơn; Trường hợp có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản


này khơng bị Tịa án tun bố vơ hiệu tồn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản
thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đối với những vấn đề không
được vợ chồng thỏa thuận hoặc không thỏa thuận rõ ràng hoặc bị vô hiệu thì áp dụng
các quy định tương ứng tại các khoản 2,3,4,5 Điều 59 và các Điều 60,61,62,63 và 64
của Luật hơn nhân và gia đình để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Thứ hai, việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn phải xem xét đến
chế độ tài sản đang được áp dụng là chế độ tài sản thỏa thuận hay chế độ tài sản
luật định.
Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định chế độ tài sản theo thỏa thuận khi vợ
chồng lựa chọn chế chế độ tài sản theo thỏa thuận thì phải lập văn bản, văn bản phải
có cơng chứng, chứng thực. Văn bản thỏa thuận về tài sản phải được lập trước khi
kết hơn và phải có hiệu lực kể từ thời điểm các bên đăng ký kết hôn. Văn bản thỏa
thuận của các bên bao gồm các nội dung liên quan đến tài sản mà không liên quan
đến quan hệ nhân thân của vợ chồng. Nội dung thỏa thuận phải đáp ứng những nội
dung cơ bản tại Điều 48 Luật HN&GĐ ngồi ra cịn được hướng dẫn cụ thể tại Điều
17 Nghị định 126/CP5. Bên cạnh việc tôn trọng quyền tự định đoạt đối với tài sản của
vợ chồng pháp luật cịn bảo về quyền, lợi ích hợp pháp của bên vợ, chồng và các
thành viên trong gia đình. Trong trường hợp sự thỏa thuận xâm phạm đến các lợi ích
được pháp luật bảo vệ thì theo yêu cầu của người có quyền lợi và lợi ích liên quan.
Tịa án có thể tuyên bố chế độ tài sản thỏa thuận bị vơ hiệu khi vi phạm Điều 50 Luật
HN&GĐ.

1.2.

Ngun tắc Tịa án áp dụng pháp luật để giải quyết việc chia tài sản

chung của vợ, chồng khi ly hôn
Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ
chồng khi ly hôn tại Điều 59. Nguyên tắc là những tư tưởng chính trị, pháp lý mà
pháp luật quy định ra để hướng các chủ thể tuân theo khi tham gia các quan hệ xã hội
nói chung và quan hệ HN&GĐ nói riêng, việc tuân thủ các nguyên tắc này góp phần
5 Nghị định 126/CP của Chính phủ ban hành ngày 31/12/2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật HN&GĐ


đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, đồng thời cũng là căn cứ cho việc
giải quyết các tranh chấp phát sinh. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly
hôn được quy định tại Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014 và Điều 7 Thông tư liên tịch
số 01/2016-TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì “Vợ chồng khi ly hơn có quyền tự
thỏa thuận với nhau về tồn bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản.
Trường hợp vợ chồng khơng thỏa thuận được mà có u cầu thì Tịa án phải xem xét,
quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hay theo luật
định”6.
Theo quy định, thì việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn do các bên
thỏa thuận, nếu khơng thỏa thuận được thì u cầu Tòa án giải quyết.
Việc vợ chồng tự thỏa thuận việc chia tài sản chung khi ly hôn sẽ phù hợp với
nguyện vọng của các bên, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án sau này. Mặt
khác tránh tư tưởng được thua trong khiếu kiện, kéo dài vụ án một cách không cần
thiết; tránh được sự bất đồng, khơng thỏa mãn với quyết định phân chia của Tịa tạo
sự bình thường hóa quan hệ giữa các bên sau khi ly hơn để có điều kiện chăm sóc
ni dưỡng con cái, sớm ổn định cuộc sống gia đình.
Như vậy, nguyên tắc tài sản vợ chồng do vợ chồng tự định đoạt. Luật pháp chỉ

can thiệp nếu vợ chồng không tự định đoạt được. Ngoài ra tài sản của vợ chồng còn
được xác lập theo luật tục, tập quán từng địa phương như: Tập qn cưới hỏi phải có
sính lễ hoặc “của chồng công vợ”.
Luật HN&GĐ năm 2014 đã đề cao quyền “tự định đoạt" của vợ chồng, đã
không quy định “sự thỏa thuận của vợ chồng” phải được Tòa án nhân dân cơng nhận.
Vậy, cần có hướng dẫn cụ thể của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về vấn đề
này để hiểu rõ tinh thần của điều luật, tránh việc áp dụng tùy tiện, ngăn cản việc vợ
chồng tự thỏa thuận phân chia tài sản khi ly hôn nhằm tẩu tán tài sản, lẩn tránh nghĩa
vụ về tài sản của vợ chồng đối với người khác 7.
Trường hợp vợ chồng khơng thỏa thuận được với nhau thì yêu cầu Tòa án giải
quyết, Tòa án sẽ thụ lý giải quyết. Trong thực tiễn xét xử nếu đương sự tự thỏa thuận
6 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 Hướng dẫn thi hành một
số quy định của Luật HN&GĐ
7 Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hơn nhân gia đình Việt Nam, tr 281


với nhau hoặc Tòa án nhân dân hướng dẫn, giải thích, giúp đỡ để các đương sự tự
dàn xếp, thỏa thuận dưới sự giám sát và cơng nhận của Tịa án là một biện pháp hiệu
quả hơn cả, tránh được những mâu thuẫn bất đồng sau khi ly hơn. Nói chung, cũng
như các vụ kiện dân sự khác, nếu Tòa án tiến hành hịa giải thành thì việc giải quyết
tranh chấp có nhiều thuận lợi hơn, vừa bảo đảm đúng pháp luật, đoàn kết trong quần
chúng, vừa giúp cho việc thi hành án được thuận lợi, nhanh chóng, vì “sự thỏa
thuận” phù hợp với ý chí, nguyện vọng của các bên đương sự. Trường hợp vợ chồng
không thỏa thuận được được với nhau, Tòa án sẽ quyết định.
Tài sản riêng của bên nào vẫn thuộc sở hữu riêng của bên đó, sau khi ly hơn
vợ, chồng có tài sản riêng thì có quyền lấy về. Tuy nhiên, nếu có tranh chấp người có
tài sản riêng phải chứng minh được đó là tài sản riêng của mình, việc chứng minh có
thể bằng sự công nhận của bên kia hoặc bằng các giấy tờ xác nhận quyền sở hữu
riêng của mình (các văn tự, di chúc, hoặc các chứng cứ khác chứng tỏ tài riêng đó là
của vợ, chồng); trong trường hợp vợ, chồng khơng có chứng cứ chứng minh tài sản

đang tranh chấp đó là tài sản riêng của mình, thì tài sản đó là tài sản chung vợ chồng
theo quy định tại khoản 3 Điều 33 Luật HN&GĐ 2014.
Về nguyên tắc, phần tài sản mà vợ, chồng được chia trong khối tài sản chung
là bằng nhau. Tuy vậy, trong mỗi trường hợp cụ thể, để đảm bảo quyền lợi chính
đáng của mỗi bên, Tịa án có thể quyết định khác với ngun tắc chung đó, chia theo
cơng sức đóng góp, hồn cảnh cụ thể của mỗi bên cho cơng bằng và hợp lý.
Khoản 2, khoản 3 Điều 59 quy định việc chia tài sản chung được giải quyết
theo các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc thứ nhất: Tài sản chung của vợ chồng được chia đơi nhưng có
tính đến các yếu tố sau đây: Hồn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; Cơng sức
đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung, lao
động của vợ chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; Bảo vệ lợi ích
chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có
điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền,
nghĩa vụ của vợ chồng (khoản 2 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014).
Trong thời kỳ hôn nhân, tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp


nhất có thể phân chia. Tỷ lệ phần quyền của mỗi bên chỉ được xác định khi phân chia
tài sản chung. Khối tài sản chung của vợ chồng được hình thành không nhất thiết
phải do hai vợ chồng trực tiếp làm ra; có thể nó được hình thành bởi do một bên vợ
hoặc chồng làm ra, vì lao động trong gia đình là lao động có thu nhập. Động từ “Coi
như” cho phép nghĩ rằng cụm từ “lao động trong gia đình”ám chỉ một loại cơng việc
gì đó, được thực hiện trong gia đình, khơng trực tiếp tạo ra của cải, nhưng được xếp
ngang với lao động tạo thu nhập về phương diện giá trị kinh tế. Thực ra, lao động
trong gia đình chỉ là cách diễn đạt hoa mỹ của công việc nội trợ. Tất nhiên, nếu
người ta chỉ sống một mình, thì việc nội trợ chắc chắn khơng thể được coi là lao
động có thu nhập; nhưng trong cuộc sống vợ chồng, việc nội trợ của một người và
việc lao động trực tiếp có thu nhập của một người khác có tác dụng tạo điều kiện cho
nhau: một người bảo đảm việc nội trợ để người kia yên tâm lao động tạo ra của cải;

việc người kia tạo ra của cải có tác dụng tạo sự yên tâm cho người này trong cơng tác
chăm sóc việc nhà. Trong chừng mực đó, ta nói rằng việc nội trợ thực sự là một khâu
trong sự phân công lao động xã hội trong phạm vi gia đình. Cũng chính là trong
chừng mực đó mà việc nội trợ được coi là lao động có thu nhập8. Ví dụ: Trong
trường hợp một bên vợ hoặc chồng không tham gia lao động để tạo ra thu nhập mà
chỉ làm công việc nội trợ trong gia đình, cịn bên kia thì tham gia lao động và có thu
nhập, thì khoản thu nhập đó được tính là tài sản do lao động của hai vợ chồng cùng
tạo ra. Cơng sức đóng góp vào việc hình thành khối tài sản chung của vợ chồng có
thể nhiều hay ít. Theo khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2014 cịn quy định: “Vợ,
chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao
động có thu nhập”.
Cuộc sống chung của gia đình khơng thể tự tay một bên vợ hoặc chồng có thể
xây đắp được, mà nó phải là kết quả đóng góp của các thành viên trong gia đình. Tuy
nhiên vấn đề đặt ra là ý thức của các bên trong việc chung sức xây dựng mái ấm gia
đình, khi một bên tích cực tạo lập, phát triển, duy trì khối tài sản chung, cịn bên kia
thì hoang phí, phá tán tài sản chung. Do đó để bảo vệ quyền lợi của bên có trách
8Nguyễn Ngọc Điện, Khoa Luật -Đại học Cần Thơ, “Giáo trình Luật HN&GĐ tập 2” Tr.79


nhiệm trong việc xây dựng kinh tế gia đình, thì việc phân chia tài sản chung cần có
sự cân nhắc về cơng sức đóng góp của các bên.
Bên cạnh việc xem xét “cơng sức đóng góp” của mỗi bên, thì “hoàn cảnh của
mỗi bên” cũng được nhà làm luật quan tâm và xem như một tiêu chí khi phân chia tài
sản chung của vợ chồng. Trên cơ sở nguyên tắc chung là chia đơi, Tịa xem xét đến
khả năng lao động, điều kiện sức khỏe của các bên vợ, chồng để phân chia tài sản
chung, ngồi ra tình trạng tài sản cũng cần được xem xét: tài sản đang được vợ
chồng trực tiếp quản lý hay bị cầm cố thế chấp.. .Khi xem xét tồn diện các yếu tố đó
thì mới có căn cứ phân chia tài sản hợp tình, hợp lý, nhằm tạo điều kiện nhanh chóng
ổn định cuộc sống của các bên sau khi ly hôn.

Trong thực tiễn xét xử, sai sót thường gặp là Tịa án đã chia đôi tài sản chung
vợ chồng mà không xem xét đến cơng sức đóng góp của mỗi bên; hoặc đã q nhấn
mạnh đến cơng sức đóng góp mà khơng xem xét đến tình hình tài sản, tình trạng cụ
thể của gia đình; hoặc nhận định khơng đúng về “Cơng sức đóng góp” nên đã chia tài
sản chung chưa hợp lý.
Cần phải hiểu thuật ngữ “Cơng sức đóng góp” tương đối rộng trên cơ sở xem
xét nguồn gốc hình thành tài sản chung. Cơng sức đóng góp với nghĩa là lao động
của mỗi bên đã bỏ ra để góp phần tạo nên số tài sản trong khi sống chung (mà lao
động trong gia đình được kể như lao động có thu nhập); Phần tài sản của mỗi bên có
trước khi kết hôn đã nhập vào khối tài sản chung; Phần tài sản do gia đình mỗi bên
cho hai vợ chồng trong ngày cưới hoặc trong thời gian sống chung, do được hưởng
thừa kế chung.v.v.
Dù có nguồn gốc từ đâu, nếu được coi là tài sản chung, thì khi tính về cơng
sức đóng góp phải xem xét tài sản đó do gia đình bên nào tặng cho hay người thân
của phía nào cho vợ chồng hưởng thừa kế..., thì bên đó được coi là có đóng góp
nhiều hơn.
Khi đánh giá về cơng sức, ngoài việc xét tinh thần, thái độ trong quá trình lao
động (ví dụ một bên tích cực, cịn một bên lười lao động), phải xem xét cả kết quả
lao động góp vào khối tài sản chung hiện có và phải coi lao động trong quá trình
được coi là lao động có thu nhập. Do đó, bên cạnh nguyên tắc tài sản chung của vợ


×