Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

Pháp luật về kê biên tài sản là động sản trong thi hành án dân sự (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.66 KB, 75 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN VĂN TUẤN

PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN LÀ ĐỘNG SẢN
••
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN VĂN TUẤN

PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN LÀ ĐỘNG SẢN
••
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Chuyên ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS LÊ VŨ NAM

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019


MỤC LỤC


1.1.1.................................................................................................


1.1.2.
Những nguyên tắc cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật
về kê biên

KẾT LUẬN

68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

70

PHỤ LỤC


5

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự là giai đoạn đưa phán quyết vào thực thi trên thực tế nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích của các bên. Vì vậy việc tổ chức thi hành những bản án,
quyết định của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh một
cách đầy đủ và có hiệu quả có ý nghĩa hết sức quan trọng trong thực thi công lý của
đất nước. Lần đầu tiên, Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII thơng qua

ngày 14/11/2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009 và được sửa đổi bổ sung tại
Luật số 64/2014/QH13 của Quốc hội sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành
án dân sự, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/1015. Luật thi hành án dân sự ban hành nhằm
thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng được đề ra trong các Nghị quyết Hội
nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1995), Nghị quyết Hội
nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (1997), Nghị quyết số
08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX (2004) và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Sau khi
có hiệu lực, Chính phủ và các cơ quan đã có nhiều văn bản hướng dẫn thi hành để
việc áp dụng pháp luật được chính xác, thống nhất và giải quyết một số vấn đề thực
tiễn do pháp luật chưa dự liệu hết.
Trong công tác tổ chức thi hành án dân sự các nghĩa vụ dân sự mà các bên
phải thực hiện chủ yếu là nghĩa vụ về thanh toán tiền, nộp tiền như: phải thanh toán
tiền theo các hợp đồng tín dụng, bồi thường thiệt hại, các giao dịch dân sự về tiền
giữa các cá nhân, nộp án phí, tịch thu sung cơng và các nghĩa vụ về tài san... Theo
nguyên tắc chung, nếu người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà khơng tự
nguyện thi hành thì sẽ bị cưỡng chế để thi hành án. Khi đó tài sản của người phải thi


6

hành án sẽ bị xử lý để thi hành án. Việc xác định tài sản nào là tài sản của người phải
thi hành án được xử lý và quy trình xử lý như thế nào, nhất là đối với động sản
không phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng là quá trình khá phức tạp. Pháp luật về
thi hành án dân sự hiện quy định khá cụ thể về việc áp dụng biện pháp bảo đảm, biện
pháp cưỡng chế trong việc xử lý tài sản để thi hành án. Tuy nhiên, về mặt lý luận

cũng như thực tiễn áp dụng, các quy định về áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với tài
sản là động sản đã phát sinh nhiều hạn chế, bất cập. Từ những lý do trên, tác giả
chọn đề tài “Pháp luật về kê biên tài sản là động sản trong thi hành án dân sự”
làm Luận văn tốt nghiệp cho khóa cao học Luật dân sự và Tố tụng dân sự tại Trường
Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh với hy vọng sẽ
góp phần hồn thiện pháp luật về xử lý tài sản để thi hành án theo pháp luật thi hành
án dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong lĩnh vực pháp luật về thi hành án dân sự, có nhiều cơng trình, đề tài
nghiên cứu, bài viết về việc cưỡng chế để thi hành án tập trung chủ yếu vào tài sản là
bất động sản, tài sản thế chấp. Việc nghiên cứu các quy định về xử lý đối với tài sản
là động sản theo pháp luật thi hành án dân sự có một số đề tài:
- Bùi Đức Tiến (2018), Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự,
Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án đưa ra
những cơ sở lý luận thực hiện pháp luật cưỡng chế thi hành án, thực trạng về cưỡng
chế thi hành án dân sự tại Việt Nam, đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định
pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sư.
- Lại Anh Thắng (2010), Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả luận văn phân tích một số vấn đề lý luận về thực hiện
pháp luật về thi hành án dân sự như khái niệm, vai trò, đặc điểm của thực hiện pháp
luật về thi hành án dân sự. Trên cơ sở đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật thi
hành án dân sự trên địa bàn cụ thể là tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tác giả luận văn đã đưa


7

ra các giải pháp như: hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự; hồn thiện các chế
độ chính sách đãi ngộ cho cán bộ, công chức thi hành án dân sự; tăng cường các biện
pháp xử lý các vụ việc thi hành án dân sự tồn đọng.

- Lê Xuân Tùng (2016), các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo
pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Học viện khoa học xã hội Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Luận văn
phân tích, đánh giá các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, các vướng mắc, bất
cập, thực trạng áp dụng tại Hà Nội để đề xuất hoàn thiện các quy định pháp luật về
cưỡng chế nói chung và các giải pháp nâng cao hiệu quản công tác thi hành án của
thành phố Hà Nội.
- Lê Anh Tuấn (2010), "Cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi
hành án", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật - Bộ Tư pháp, (Số chuyên đề thi hành án
dân sự). Bài viết đã phân tích biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản, các vướng
mắc của quá trình xử lý tài sản từ xác minh, kê biên, định giá, bán đấu giá tài sản để
thi hành án. Từ đó đưa ra các đề xuất hoàn thiện pháp luật về quá trình xử lý tài sản.
- Trần Cơng Thịnh (2008), "Thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên
tài sản để thi hành án dân sự và một số khuyến nghị", Tạp chí Khoa học ĐHQGHN,
Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266). Tác giả bài viết tác giả chỉ ra những vướng mắc gây

cản trở cho việc cưỡng chế như: một bộ phận chấp hành viên, công chức làm công
tác thi hành án dân sự có trình độ chun mơn chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm
vụ trong tình hình mới; nhiều trường hợp chấp hành viên chưa thực sự tích cực,
quyết liệt đối với những vụ việc phức tạp, khó khăn; ngại khó, ngại va chạm; cơ chế
quản lý, hoạt động thi hành án dân sự còn chồng chéo; sự phối hợp giữa các cơ quan
tổ chức trong việc cưỡng chế còn chưa tốt; nhiều quy định của pháp luật về kê biên
tài sản còn chưa chặt chẽ, rõ ràng. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị
hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự nói chung, hồn thiện pháp luật về cưỡng chế
kê biên tài sản nói riêng.
- Nguyễn Thanh Phương (2011), Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản trong


8


thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật, Hà Nội. Tác giả
bài viết đã phân tích khái niệm, đặc điểm về cưỡng chế kê biên; thực trạng áp dụng
biện pháp cưỡng chế kê biên. Từ đó, tác giả đề xuất giải pháp hồn thiện biện pháp
cưỡng chế kê biên tài sản.
Như vậy, vấn đề cưỡng chế kê biên tài sản và vấn đề về cưỡng chế thi hành án
đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Các tài liệu nói trên đã nghiên cứu tổng quan về
cưỡng chế thi hành án dân sự, các biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản, kê biên tài
sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn gắn liền với đất để thi hành án đất hoặc kê biên,
xử lý một số dạng động sản cụ thể để thi hành án. Đã có nhiều bài viết nghiên cứu về
cưỡng chế tài sản là động sản trong thi hành án, tuy nhiên, các nghiên cứu đó chỉ
nghiên cứu độc lập một số loại đối tượng của động sản như: kê biên phần vốn góp,
kê biên quyền sở hữu trí tuệ, xử lý giấy tờ có giá. Việc nghiên cứu tổng thể biện pháp
kê biên tài sản dựa trên đối tượng kê biên là động sản để thi hành chưa có nghiên cứu
độc lập, chun sâu.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về kê biên tài sản là động
sản trong thi hành án dân sự” nhằm làm rõ cơ sở khoa học, lý luận và thực tiễn của
cơ chế xử lý tài sản là động sản trong thi hành án dân sự.
Một là, làm rõ một số vấn đề quy định của pháp luật thi hành án dân sự và
pháp luật có liên quan trong việc xử lý động sản.
Hai là, phân tích và đánh giá thực trạng xử lý động sản theo pháp luật thi
hành án dân sự hiện nay, nhằm tìm ra những bất cập, những hạn chế để từ đó có
những giải pháp và đưa ra kiến nghị nhằm hồn thiện hoạt động này trong thời gian
tới.
Ba là, trên cơ sở những tồn tại, hạn chế tác giả đưa ra những đề xuất kiến nghị
cụ thể dựa trên những luận cứ khoa học nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý động sản
để thi hành án góp phần hồn thiện các quy định về việc cưỡng chế thi hành án.


9


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận, quy định hiện hành và thực tiễn của việc cưỡng chế kê biên động sản trong thi
hành án dân sự theo quy định của pháp luật và thực tiễn trong thi hành án dân sự.
Về phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ Luật học, trên cơ
sở tiếp thu và kế thừa những kết quả đã đạt được trong các cơng trình nghiên cứu
trước đây, tác giả tập trung nghiên cứu đề tài trong phạm vi là pháp luật thi hành án
dân sự hiện hành theo pháp luật Việt Nam biện pháp cưỡng chế kê biên đối với tài
sản động sản.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với mục đích và kết cấu của luận văn, phương pháp nghiên cứu được học
viên sử dụng dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê
nin, kết hợp với những chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước trong chiến lược
cải cách tư pháp hiện nay. Ngoài ra, học viên sử dụng các phương pháp chính như
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp luật học so sánh. Cụ
thể:
Phương pháp phân tích được sử dụng trong tồn bộ luận văn. Chương I,
phương pháp này được áp dụng để làm rõ những quy định cụ thể liên quan đến quy
định áp dụng biện pháp cưỡng chế, biện pháp đảm bảo. Tại chương II, phân tích,
thống kê, so sánh đánh giá các quy định, liên hệ với thực tiễn để nhận thấy hạn chế,
bất cập từ đó đưa ra các giải pháp. Bên cạnh đó, phương pháp phân tích các vụ việc
thi hành án dân sự có liên quan đến việc áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp
cưỡng chế.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn này là một cơng trình nghiên cứu có tính chun sâu trong việc xử
lý động sản trong thi hành án dân sự, từ đó chỉ ra bất cập và thiếu sót trong các quy
định của pháp luật về vấn đề này từ đó đề xuất hướng hồn thiện pháp luật.



10

Lợi ích thực tiễn của luận văn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu trong hoạt
động học tập và nghiên cứu cho sinh viên, giảng viên những người nghiên cứu pháp
luật về thi hành án dân sự, ngoài ra đó là tài liệu cho những người làm cơng tác thi
hành án dân sự tham khảo trong quá trình tác nghiệp
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Lý luận về kê biên tài sản là động sản và pháp luật về kê biên tài
sản là động sản trong thi hành án dân sự
Chương
định
của
2:pháp
Thựcluật
tiễnán.
thi
áp dụng
hành và
án kiến
dân sự
nghị
đốihoàn
với thiện
cưỡng các
chế động
quy
sản
trong

thi
hành


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN LÀ ĐỘNG SẢN TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1.
1.1.1.
1.1.1.1.

Khái quát về kê biên tài sản là động sản
Khái niệm, đặc điểm, phân loại động sản
Khái niệm động sản

Pháp luật các nước trên thế giới đều có các quy định về phân loại tài sản. Có
nhiều tiêu chí để phân loại tài sản như vật chính và vật phụ, vật đồng bộ và vật đặc
định.... Quan trọng nhất và trên hết cách thức phân loại truyền thống là phân chia tài
sản thành bất động sản và động sản. Pháp luật một số nước trên thế giới về động sản:
-

Pháp luật Cộng hòa Pháp1 quy định: “tất cả tài sản là động sản hoặc là bất
động sản” (Điều 516). Bộ luật Dân sự Pháp có đưa ra 02 tiêu chí để xác định
tài sản là động sản theo đó: “Tài sản là động sản do bản chất của chúng hoặc
do luật định.”(Điều 527), Điều 528 đã giải thích cụ thể một tài sản là động sản
do bản chất khi nó có khả năng tự di chuyển hoặc có thể dịch chuyển nhờ tác
động bên ngồi mà vẫn giữ ngun được hình dạng, kích thước và tính chất
vốn có của tài sản. Điều 529 liệt kê các loại tài sản là động sản do luật định
bao gồm: trái phiếu, cổ phiếu trị giá bằng tiền, các cổ phần, lãi suất trong các
công ty khi các công ty này tồn tại, các khoản lợi tức. Ngồi ra, Điều 533 cịn

quy định các loại tài sản như tiền, các tác phẩm nghệ thuật cũng là động sản.
Cách thức phân loại trên không dựa vào phương pháp loại trừ mà dựa trên
những tiêu chí để xác định tài sản là bất động sản hay động sản.

-

Pháp luật Nhật Bản: Động sản là những vật không thuộc phạm trù của bất
động sản. Nghĩa vụ thanh toán cũng như tín phiếu, cổ phiếu được thể hiện
bằng hình thức văn bản khơng ghi tên người có quyền u cầu thanh toán
được hiểu là động sản. Cách phân loại này dựa vào phương pháp loại trừ và
phân loại theo luật định.
1Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa Pháp - Nhà xuất bản chính trị Quốc gia 1998


-

Pháp luật Thái Lan quy định: Động sản là những vật có thể chuyển từ chỗ này
qua chỗ khác bất chấp do tự chúng hoặc do ngoại lực 2. Cách phân loại này
dựa vào bản chất di chuyển của tài sản.

-

Pháp luật bang Québec (Canada) quy định: các sóng hoặc năng lượng được
con người chế ngự và đưa vào sử dụng, bất kể nguồn của nó là động sản hay
bất động sản, đều được coi là động sản hữu hình 3. Đây là một loại tài sản tạo
ra các giá trị kinh tế, là một dạng mới của tài sản. Cách phân loại này dựa trên
các quy định pháp luật.
Theo pháp luật Việt Nam tại Điều 107 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

1. Bất động sản bao gồm:

a) Đất đai;
b) Nhà, cơng trình xây dựng gắn liền với đất đai;
c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, cơng trình xây dựng;
d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật.
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.
Cách phân chia trên được tiếp tài sản dưới góc độ tài sản là vật. Theo đó tài
sản được phân chia thành bất động sản và động sản. Ngồi ra, cịn có những cách
phân loại khác như: vật chính và vật phụ, vật chia được và không chia được...
Từ các quy định trên cho thấy các Bộ luật Dân sự thường quy tất cả tài sản
còn lại là động sản. Về mặt học thuật, việc phân chia như vậy để xác định do bản
chất và động sản do pháp luật quy định. Bộ luật Dân sự năm 2015 không đưa ra khái
niệm về động sản mà chỉ áp dụng phương pháp loại trừ để xác định động sản. Kết
hợp Điều 105 và Điều 107 xác định tài sản là động sản là những tài sản không phải là
đất đai; nhà, cơng trình xây dựng gắn liền với đất đai; tài sản khác gắn liền với đất
đai, nhà, cơng trình xây dựng; tài sản khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, tài
2Bộ Luật Dân sự và Thương mại Thái Lan - Các quyển I-VI” do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
phát hành tháng 8 năm 1995 (Điều 140)
3Legisquebec.gouv.qc.ca/en/showdoc/cs/CCQ-1991. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2018


sản là động sản có phạm vi rất rộng và phong phú.
1.1.1.2.

Đặc điểm của động sản

Đối tượng được xếp vào là động sản có phạm vi khá rộng vật, tiền, giấy tờ có
giá và quyền tài sản mà khơng gắn liền với bất động sản.
Dạng tồn tại của động sản có thể là tài sản vơ hành hoặc hữu hình, có thể có ở
hiện tại hoặc hình thành trong tương lai. Một số động sản thể hiện giá trị bằng những
con số cụ thể hoặc hoặc bằng cảm tính của con người.

Là những tài sản có thể di dời được bất kể là do tự di chuyển hoặc do ngoại
lực tác động.
1.1.1.3.

Phân loại động sản

Từ khái niệm và đặc điểm trên, tài sản là động sản vô cùng phong phú và đa
dạng. Tuy nhiên, vẫn có thể sắp xếp chúng thành 03 nhóm4
- Động sản tự nhiên: Gọi là động sản tự nhiên những vật di dời được một cách
dễ dàng như: động vật sống, phương tiện đi lại, tiền mặt, quần áo, nữ trang. Các tài
sản này có thể tự di chuyển hoặc do tác động ngoại lực mà di chuyển. Theo pháp luật
Việt Nam hiện hành, trong những loại tài sản này có những tài sản phải bắt buộc
đăng ký hành chính như: ơ tơ, xe máy hoặc đăng ký quyền sở hữu như tàu bay, tàu
biển.
- Động sản do b ản chấ t kinh tế: có những tài sản vốn là bất động sản nhưng
chỉ phát huy được giá trị và tác dụng khi nó trở thành động sản. Điển hình trường
hợp này hoa lợi mùa màng được bán ngay tại ruộng, vườn.
- Động sản vơ hình: như quyền sở hữu trí tuệ, quyền địi nợ, theo đó quyền
này cho phép người có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ trả tiền
nhưng khơng cho phép người có quyền thực hiện một quyền gì đặc biệt trên một tài
sản đặc định. Các phần vốn góp trong cơng ty, quyền sở hữu trí tuệ cũng là tài sản vơ
hình.
4Trường đại học mở Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Lu ật dân sự tập 1, NXB Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, trang179.


1.1.2.
1.1.2.1.

Kê biên tài sản là động sản trong thi hành án dân sự

Khái niệm kê biên tài sản là động sản

Điều 106 Hiến pháp 2013 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy
định: “Bản án, quyết định của Tồ án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ
quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành”. Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 các
bản án, quyết định quy định phải được cơ quan, tổ chức và mọi công dân tơn trọng.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong phạm vi trách nhiệm của mình chấp
hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
việc thi hành án.”5 Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án. Người
phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà khơng tự nguyện thi hành thì sẽ bị
cưỡng chế thi hành án6. Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng trong việc thi hành
bản án, quyết định của Tòa án.
Pháp luật thi hành án dân sự ghi nhận quyền thỏa thuận của đương sự trong
tất cả quá trình tổ chức thi hành án và Chấp hành viên được phân công tổ chức thi
hành án phải ghi nhận sự thỏa thuận với điều kiện là thỏa thuận đó khơng vi phạm
điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội 7. Sau khi cơ quan Thi hành án
dân sự ban hành quyết định thi hành án thì người được thi hành án có thời gian tự
nguyện thi hành là 10 ngày kể từ ngày được thông báo hợp lệ 8. Hết thời gian đó mà
người phải thi hành án khơng tự nguyện thi hành, tìm cách trốn tránh thì Chấp hành
viên được phân công tổ chức thi hành án phải áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện
pháp cưỡng chế thi hành án. Trong trường hợp này, Chấp hành viên được áp dụng
các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Luật Thi hành án dân
sự để buộc người phải thi hành án thi hành. Pháp luật thi hành án dân sự hiện khơng
có khái niệm về kê biên tài sản là động sản mà chỉ đưa ra các biện pháp cưỡng chế
đối với từng nhóm tài sản và quy định các biện pháp cưỡng chế chế đối với từng
54 Điều 4 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014.
6Điều 9 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014.
7Điều 6 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014
8Điều 45 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014



nhóm. Pháp luật về thi hành án dân sự từ 1993 đến nay có sử dụng đến thuật ngữ
pháp lý kê biên tài sản nhưng chưa đưa ra khái niệm kê biên tài sản là động sản.
Trong thực tiễn, không phải lúc nào người có nghĩa vụ trong các bản án, quyết
định của Tòa án đều tuân thủ và tự nguyện chấp hành nghiêm chỉnh. Vì vậy, các cơ
quan Thi hành án dân sự đã phải tiến hành cưỡng chế để buộc người phải thi hành án
phải thi hành nghĩa vụ của mình.
Theo số liệu tổng hợp của Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp:
Năm 2016, các cơ quan Thi hành án dân sự cả nước đã ban hành 11.901 quyết
định cưỡng chế thi hành án, trong đó cưỡng chế có huy động lực lượng là 5.492 vụ.
Tại tỉnh Bình Định có 159 quyết định cưỡng chế, trong đó cưỡng chế có huy động
lực lượng là 70 vụ9. Năm 2017, các cơ quan Thi hành án dân sự cả nước đã ban hành
11.780 quyết định cưỡng chế thi hành án, trong đó cưỡng chế có huy động lực lượng
là 5.549 vụ. Tại tỉnh Bình Định có 112 quyết định cưỡng chế, trong đó cưỡng chế có
huy động lực lượng là 44 vụ10.
Cưỡng chế được hiểu là cá nhân hay tổ chức phải phục từng một mệnh lệnh,
thực hiện một nghĩa vụ, trách nhiệm theo quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền11.
Biện pháp kê biên tài sản của người phải thi hành án: là biện pháp cưỡng chế
thi hành án do Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có
nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định có điều kiện thi hành án nhưng khơng tự
nguyện thi hành12. Khái niệm này hiện chưa đầy đủ về chủ thể có quyền cưỡng chế
thi hành án dân sự, vì hiện nay, ngồi Chấp hành viên cịn có Cục trưởng Cục Thi

9

9
Báo cáo số 188/BC-TKDLCT ngày 07/10/2016 của Trung tâm Thống kê, Quản lý dữ liệu và ứng
dụng CNTT - Tổng cục Thi hành án dân sự.

10

Báo cáo số 177/BC-TKDLCT ngày 09/10/2017 của Trung tâm Thống kê, Quản lý dữ liệu và

ứng dụng CNTT - Tổng cục Thi hành án dân sự.
11

Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr

304.
12
trang 211.

Trường đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình thi hành án dân sự, NXB Cơng an nhân dân,


hành án dân sự cấp tỉnh có thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế trong trường
hợp việc tổ chức thi hành án do Thừa phát lại thực hiện.
Theo Tiến sĩ Lê Anh Tuấn: Cưỡng chế thi hành án dân sự là việc chủ thể có
thẩm quyền dùng quyền lực nhà nước thực hiện biện pháp cưỡng chế theo quy định
của pháp luật về thi hành án dân sự đối với tổ chức, cá nhân nhằm bảo đảm thi hành
trên thực tế quyền, nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định được thi hành
theo thủ tục thi hành án dân sự. 13
Trong cuốn từ điển các thuật ngữ pháp lý thông dụng cũng của NXB Thành
phố Hồ Chí Minh năm 1999 có định nghĩa kê biên tài sản như sau: “Kê biên tài sản
là việc ghi lại từng tài sản, cấm việc tẩu tán, phá hủy, để đảm bảo cho việc xét xử và
thi hành án”. Như vậy, kê biên tài sản là một thuật ngữ pháp lý chỉ việc tính tốn và
ghi chép lại tài sản theo một trật tự nhất định nhằm mục đích cụ thể. Tài sản ở đây có
thể là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm kê biên tài sản là động sản như sau:

kê biên tài sản là động sản trong thi hành án dân sự là một trong các biện pháp
cưỡng chế thi hành án do pháp luật quy định được chủ thể có thẩm quyền tiến hành
để mơ tả, tính tốn và ghi chép lại tài sản theo một trật tự nhất định nhằm ngăn chặn
tẩu tán tài sản, để đảm bảo cho việc thi hành án.
1.1.2.2.

Đặc điểm của cưỡng chế kê biên đối với động sản

Đặc điểm được hiểu là nét riêng biệt để phân biệt sự vật hiện tượng này với
sự vật hiện tượng khác. Ngoài các đặc điểm chung về cưỡng chế thi hành án như sử
dụng quyền lực nhà nước, chủ thể bị cưỡng chế khơng chỉ có hiệu lực đối với người
phải thi hành án mà cịn có hiệu lực đối với các chủ thể khác, kê biên tài sản là động
sản có những đặc điểm như sau:
-

Tài sản bị kê biên là động sản
Tài sản kê biên để thi hành án có nhiều loại tài sản khác nhau, có thể là bất

động sản như: quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hoặc
13
detail.aspx?itemid=840.
Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2018.


là động sản như: máy móc, dây chuyền sản xuất, phương tiện giao thơng, tàu thuyền,
quyền sở hữu trí tuệ, vốn góp, hoa lợi, lợi tức. Đối với một số tài sản như tiền, giấy
tờ có giá thì Luật Thi hành án dân sự không quy định kê biên đối với tài sản này mà
áp dụng các biện pháp cưỡng khác như khấu trừ thu nhập, khấu trừ tài khoản, thu giữ
giấy tờ có giá. Tài sản này có thể là tài sản thế chấp hoặc không thế chấp, do người
phải thi hành án giữ hoặc người khác giữ. Đối tượng là tài sản bị cưỡng chế là động

sản, kể cả trường hợp tài sản của người phải thi hành án chung với người khác.
-

Cưỡng chế thi hành có thể diễn ra ngoài phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ:
xuất phát từ tính chất di chuyển, nơi có tài sản hoặc nơi tản sản được quản lý
mà người có thẩm quyền có thể cưỡng chế kê biên ngồi phạm vi thẩm quyền
lãnh thổ hành chính nhằm đảm bảo tính kịp thời của việc đảm bảo tài sản.
Ví dụ: Chấp hành viên của Cục Thi hành án tỉnh A đang tổ chức thi hành án

đối với ông X. Phát hiện ông X đang sử dụng 01 xe ô tô đang sử dụng. Người được
thi hành án cung cấp tài liệu chứng cứ photocopy là giấy đăng ký xe ô tô dô ông X
đứng tên đăng ký. Chấp hành viên áp dụng biện pháp tạm dừng đăng ký chuyển dịch
quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài đối với chiếc xe ơng X. Sau đó xác
minh tại cơ quan chức năng thì đúng chiếc xe này thuộc sở hữu của ông X. Theo quy
định trong thời hạn 10 ngày, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng đối với
chiếc xe của ông X. Lúc này chiếc xe ông X khơng cịn ở tỉnh A mà thường xun
thay đổi vị trí nếu phát hiện tại tỉnh B thì có thể tổ chức kê biên tại tỉnh B. Như vậy,
tại thời điểm ra quyết định cưỡng chế, chiếc xe ông X không ở tỉnh A.
- Thường được tiến hành sau khi áp dụng các biện pháp đảm bảo thi hành
án: để đảm bảo tính chất kịp thời, đảm bảo tài sản thi hành án, khi phát hiện tài sản
của người phải thi hành án. Mặc dù là tài sản có đăng ký quyền sở hữu hay tài sản
không phải đăng ký quyền sở hữu thì biện pháp Chấp hành viên có thể áp dụng là
các biện pháp bảo đảm như: tạm giữ tài sản, giấy tờ; tạm dừng đăng ký chuyển dịch
quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản nhằm giữ lại tài sản hoặc tiếp tục
xác minh làm rõ. Mặt khác, thủ tục áp dụng biện pháp đảm bảo đơn giản hơn về thủ
tục và thời gian hơn so với thủ tục cưỡng chế, khi phát hiện tài sản có thể thu giữ


ngay.
1.1.2.3.


Phân loại cưỡng chế kê biên động sản

Hiện nay, các quy định pháp luật thi hành án dân sự không phân loại động sản
để cưỡng chế thi hành án mà chỉ quy định việc kê biên đối với từng nhóm tài sản
được quy định: cưỡng chế thi hành án đối với tài sản là tiền, cưỡng chế tài sản là
giấy tờ có giá, cưỡng chế đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ, cưỡng chế đối với
tài sản là vật tại các mục 3,4,5,6 chương II Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi
bổ sung năm 2014. Tuy nhiên, cưỡng chế bằng biện pháp kê biên tài sản chỉ áp dụng
đối với 02 nhóm tài sản: kê biên tài sản là quyền sở hữu trí tuệ, kê biên tài sản là vật.
- Quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao
gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác, quyền sở hữu công nghiệp, và
quyền đối với giống cây trồng14. Theo đó, Chấp hành viên ra quyết định kê biên
quyền sở hữu trí tuệ thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án.
- Động sản là vật
Trong nhóm tài sản này, có thể kể đến là việc kê biên các loại tài sản như:
phương tiện giao thông, hoa lợi, máy móc, thiết bị, vốn góp
Như vậy, việc pháp luật phân chia các mục này đối với các nhóm tài sản và
quyền tài sản để có các quy định cho phù hợp với biện pháp và cách thức kê biên và
thủ tục tiến hành xử lý đối với tài sản.
Đối với giấy tờ có giá và tiền là hai loại động sản mà pháp luật thi hành án
dân sự không quy định bằng biện pháp cưỡng chế là tiền. Đối với tiền mặt, áp dụng
biện pháp cưỡng chế thu tiền, khấu trừ tài khoản. Đối với giấy tờ có giá áp dụng biện
pháp thu giữ.
1.1.2.4.

Nguyên tắc kê biên tài sản là động sản

Trong kê biên, xử lý tài sản để thi hành án nói chung phải đảm bảo tuân thủ

các nguyên tắc nhất định và việc kê biên động sản cũng chịu sự chi phối của các
14

khoản 1 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005


nguyên tắc này.
- Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ phải thi
hành án và các chi phí cần thiết
Để có căn cứ kê biên tài sản, Chấp hành viên hoặc người có thẩm quyền phải
tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, khi thực hiện
hoạt động xác minh điều kiện thi hành án phát hiện người phải thi hành án có tài sản
ngồi việc phải làm rõ tính pháp lý như ai người sở hữu, có cầm cố, thế chấp hay
khơng... cần phải tính giá trị tài sản. Thực tế có những tài sản có thể ước tính được
giá trị như xe ơ tơ, số lượng phần vốn góp nhưng cũng có những tài sản khơng ước
tính được giá trị quyền sở hữu trí tuệ, đá quý, cổ vật. Việc ước tính giá trị tài sản
mang tính tương đối dựa vào ý chí chủ quan của Chấp hành viên hoặc các thành
phần tham gia xác minh để xem xét giá trị tài sản có tương ứng với nghĩa vụ phải thi
hành và các chi phí cần thiết để xử lý tài sản hay không. Trước đây, pháp luật có quy
định phải xử lý động sản trước nếu khơng đủ thì mới xử lý bất động sản, tuy nhiên,
pháp luật thi hành án dân sự đã bỏ quy định này. Hiện nay pháp luật thi hành án quy
định trong trường hợp có nhiều tài sản thì có thể lựa chọn tài sản kê biên hoặc theo
đề nghị của người phải thi hành án miễn là việc lựa chọn đó khơng gây trở ngại cho
việc thi hành án15, trừ trường hợp người phải thi hành án là doanh nghiệp.16 Xác định
như thế nào là nghĩa vụ tương ứng hiện nay pháp luật chưa quy định.
Nguyên tắc này có trường hợp ngoại lệ, trong trường hợp người phải thi hành
án có tài sản duy nhất có giá trị lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi hành án
mà tài sản đó khơng thể phân chia hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị tài
sản thì Chấp hành viên vẫn áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế để thi
hành án.

- Không được tổ chức cưỡng chế thi hành án trong thời gian mà pháp luật
quy định không được cưỡng chế
Để đảm bảo an ninh trật tự xã hội, đảm bảo đời sống bình thường của người
15
16

khoản 4 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.
khoản 4 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.


phải thi hành án và gia đình, thể hiện tính nhân văn của pháp luật vì vậy pháp luật
quy định một số thời gian không được thực hiện cưỡng chế hành án, cụ thể: từ 22 giờ
đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật.
Theo đó, ngồi các quy định trên thì khơng được cưỡng chế có huy động lực lượng
trong thời hạn 15 ngày trước tết và sau tết Nguyên đán, những ngày truyền thống của
đối tượng chính sách, nếu họ là người thi hành án và các trường hợp đặc biệt khác
ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, phong tục, tập
quán của địa phương.
- Chỉ được cưỡng chế kê biên tài sản sau khi đã hết thời hạn tự nguyện thi
hành án
Nghĩa vụ phải thi hành án phát sinh khi họ nhận được quyết định thi hành án
hoặc được thông báo hợp lệ quyết định này. Việc thông báo được thực hiện trực tiếp,
niêm yết công khai, đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Việc xác định
thời điểm thông báo hợp lệ được xác định theo từng phương thức khác nhau. Kể từ
khi được thông báo hợp lệ, người phải thi hành án có thời hạn 10 ngày để tự nguyện
thực hiện nghĩa vụ của mình. Điều này thể hiện tinh thần nhân văn, nhân đạo của
pháp luật và cũng là thời gian để người phải thi hành án thu xếp, xử lý tài sản để thi
hành án. Hết thời hạn tự nguyện thì Chấp hành viên hoặc người có thẩm quyền mới
được tiến hành áp dụng các biện pháp cưỡng chế.
Nguyên tắc này có ngoại lệ là trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi

hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc các hành vi nhằm trốn tránh việc thi
hành án thì người phải thi hành án có thể bị áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện
pháp cưỡng chế do người có thẩm quyền tiến hành.
- Chỉ được áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật
Trên ngun tắc cơng chức chỉ được làm những gì pháp luật quy định. Trong
việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án nói chung và cưỡng chế áp dụng
biện pháp kê biên, xử lý tài sản cũng phải tuân thủ quy định này. Theo quy định tại
Điều 71 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì có 06 biện


pháp cưỡng chế thi hành án. Tuy nhiên, đối với biện pháp kê biên thì chỉ áp dụng
trong một số trường hợp đối với các loại tài sản nhất định, nói cách khác việc áp
dụng biện pháp kê biên tùy theo loại tài sản nhất định như: không áp dụng biện pháp
kê biên đối với tài sản là tiền, kê biên tài khoản của người phải thi hành án.
Người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế không được áp dụng bất kỳ
biện pháp cưỡng chế nào ngoài các biện pháp đã quy định.
1.1.2.5.

Ý nghĩa của việc kê biên tài sản trong thi hành án dân sự

Cưỡng chế kê biên tài sản thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật: Cưỡng
chế là chế tài nghiêm khắc mà Nhà nước buộc cá nhân, tổ chức phải tuân theo. Trong
thi hành án dân sự, không phải lúc nào người phải thi hành án cũng tự giác chấp
hành bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Do người phải thi hành án đã
khơng tự thi hành nghĩa vụ của mình nên phải có biện pháp nghiêm khắc để bắt buộc
họ phải thi hành trong đó có biện pháp kê biên, xử lý tài sản. Chấp hành viên, người
có thẩm quyền sẽ áp dụng trình tự thủ tục để đưa tài sản của người phải thi hành án
ra bán đấu giá để thi hành án. Lúc này người phải thi hành án khơng cịn tồn quyền
quyền quyết định tài sản của mình mà chịu sự cưỡng chế mang tính quyền lực nhà
nước. Trường hợp người phải thi hành án chống đối, cản trở sẽ áp dụng các chế tài

hành chính hoặc hình sự để xử lý hành vi chống đối, cản trở.
Bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan: mục tiêu cuối cùng của các bên trong giải quyết tranh chấp là
giành quyền lợi cho mình. Quyền lợi đó có thể là vật chất hoặc tinh thần và quyền
lợi, quyền lợi đó được thực hiện trên thực tế khi các bên tổ chức thực hiện trên thực
tế. Tuy nhiên, sau khi có phán quyết thì các ít khi tự giác thi hành vì những mâu
thuẫn đã xảy ra trước hoặc trong quá trình tố tụng. Vì vậy, việc cưỡng chế kê biên tài
sản để được xem là biện pháp để bắt buộc người có nghĩa vụ phải thi hành phán
quyết trong việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án về tài sản.
Góp phần giữ vững ổn định kinh tế, trật tự xã hội: các phán quyết phải được
thực thi một cách nghiêm túc không chỉ đảm bảo quyền lợi các bên mà cịn góp phần


vào duy trì sự ổn định của trật tự xã hội, tạo niềm tin vào công lý, tin vào pháp luật,
quyền lợi bị xâm hại trái pháp luật được khôi phục. Từ đó các chủ thể an tâm tham
gia ngày càng nhiều vào các giao dịch trong xã hội góp phần phát triển kinh tế, nâng
cao đời sống.
Nâng cao hiệu quả cơng tác xét xử của Tịa án và các cơ quan có thẩm quyền:
Một phán quyết về tài sản khơng cịn ngun ý nghĩa khi phán quyết đó khơng được
thực hiện và không thể thực hiện được trên thực tế. Pháp luật dân sự tôn trọng tối cao
nguyên tắc thỏa thuận, định đoạt của các bên. Trong quá trình xét xử, Tịa án bắt
buộc phải tơn trọng các quyền này, vì vậy có những thỏa thuận sẽ khơng mang tính
khả thi dẫn đến khơng có khả năng tổ chức thi hành được nghĩa là quyền lợi của các
bên không được thực thi trên thực tế. Trong quá trình xét xử, nếu khơng giải quyết
thấu tình đạt lý, đúng pháp luật sẽ dẫn đến các đương sự có phản ứng quyết liệt,
khơng tơn trọng bản án. Từ đó việc tổ chức thi hành án sẽ kéo dài và tốn kém chi phí
của xã hội. Những phán quyết được xử đúng pháp luật, thấu tình đạt lý thì việc thi
hành án sẽ được thuận lợi. Qua đó đánh giá được chất lượng của công tác xét xử.
Giáo dục, răn đe, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật: trong các phương thức
quản lý xã hội từ trước đến nay, phương thức quản lý xã hội bằng pháp luật được

xem là phương thức tiên tiến nhất, hiệu quả nhất bởi nó khơng chỉ là cơng cụ cho nhà
nước mà cịn là cơng cụ để người dân bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Người dân
sử dụng pháp luật để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi của mình
trong đó có việc u cầu phải thực thi phán quyết đã được ban hành. Nếu người có
nghĩa vụ khơng thực hiện thì sẽ bị áp dụng các chế tài bất lợi, khi đó thiệt hại sẽ
nhiều hơn. Cưỡng chế thi hành án dân sự cũng khơng nằm ngồi mục đích là cho
phán quyết được thi hành trên thực tế, người có hành vi chống đối sẽ bị nhà nước áp
dụng biện pháp cưỡng chế nhằm vào tài sản của người phải thi hành án, khi đó họ sẽ
gặp bất lợi và thiệt hại nhiều hơn nên tự bản thân họ sẽ cân nhắc. Việc này không chỉ
tác động vào bản thân người phải thi hành án mà còn là “tấm gương” để các trường
hợp khác soi rọi khi có thái độ chây ỳ, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Từ đó giúp
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.


1.2.
1.2.1.
1.2.1.1.

Pháp luật về kê biên tài sản là động sản trong thi hành án dân sự
Các quy định của pháp luật thi hành án dân sự
Điều kiện áp dụng biện pháp kê biên đối với một số tài sản đặc

biệt
Kê biên tài sản là một trong sáu biện pháp cưỡng chế được Luật Thi hành
hành dân sự quy định. Đây là một trong nhiều giai đoạn của quá trình tổ chức thi
hành án nhằm đưa tài sản ra xử lý để thi hành án. Từ quá trình xác minh điều kiện thi
hành án phát hiện, làm rõ tính pháp lý và thực tiễn của tài sản đến ra quyết định
cưỡng chế kê biên, tổ chức kê biên, giao bảo quản tài sản kê biên, thẩm định giá, bán
đấu giá, giao tài sản và thanh toán tiền thi hành án. Mỗi giai đoạn điều có quy định
trình tự thủ tục, thời gian tổ chức thực hiện khác nhau.

Biện pháp kê biên tài sản để thi hành án được áp dụng khi người phải thi hành
án có nghĩa vụ tài sản là như: thanh tốn tiền cơng, tiền lương, thực hiện nghĩa vụ
thanh tốn theo hợp đồng, trả nợ, án phí, tiền phạt được xác định tại phán quyết đang
thi hành. Biện pháp kê biên tài sản cũng được thực hiện theo sự thỏa thuận của
đương sự như trường hợp thi hành nghĩa vụ trả vật đặc định nhưng vật khơng cịn
hoặc hư hỏng không sử dụng được, các bên thỏa thuận trị giá bằng tiền và kê biên tài
sản; hoặc Chấp hành viên kê biên tài sản để thanh toán chi phí cưỡng chế, phạt vi
phạm hành chính trong q trình thi hành biện pháp cưỡng chế buộc thực hiện hoặc
không được thực hiện công việc nhất định.
Người phải thi hành án có tài sản là động sản được xác định là tài sản để đảm
bảo thi hành án như: quyền sở hữu trí tuệ, động sản là vật.
- Quyề n s ở h ữ u trí tu ệ
Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền
sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.
Kê biên, xử lý quyền sở hữu trí tuệ để thi hành án được quy định từ Điều 84
đến Điều 86 Luật Thi hành án dân sự. Theo đó, trường hợp người phải thi hành án là


chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ chuyển quyền sử dụng quyền sở hữu trí tuệ cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác thì quyền sở hữu trí tuệ vẫn bị kê biên. Khi kê biên
quyền sở hữu trí tuệ của người phải thi hành án, tùy từng đối tượng của quyền sở hữu
trí tuệ, Chấp hành viên thu giữ các giấy tờ có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của
người phải thi hành án. Trường hợp nhằm bảo đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh,
dân sinh và lợi ích của Nhà nước, xã hội mà Nhà nước quyết định chủ sở hữu trí tuệ
phải chuyển giao quyền của mình cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác sử dụng trong
thời gian nhất định thì Chấp hành viên khơng được kê biên quyền sở hữu trí tuệ của
người phải thi hành án trong thời gian bắt buộc phải chuyển giao. Chấp hành viên
quyết định giao cho cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng, khai thác quyền sở hữu trí
tuệ. Cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao sử dụng, khai thác quyền sở hữu trí tuệ phải

nộp số tiền thu được sau khi trừ các chi phí cần thiết cho cơ quan thi hành án dân sự
để thi hành án. Trường hợp cần thiết, Chấp hành viên yêu cầu tổ chức chuyên môn,
nghề nghiệp về sở hữu trí tuệ thu và quản lý thu nhập, lợi nhuận từ việc sử dụng,
khai thác quyền sở hữu trí tuệ của người phải thi hành án. Trường hợp người phải thi
hành án đã chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà
chưa được thanh toán hoặc mới được thanh toán một phần tiền thì Chấp hành viên ra
quyết định buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao nộp khoản tiền chưa
thanh toán để thi hành án.
Kê biên quyền sở hữu trí tuệ đã được chuyển quyền phải được thực hiện theo
các quy định tại khoản 1 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, nghĩa là người phải
thi hành án thu được tiền từ việc chuyển quyền nhưng không sử dụng số tiền đó để
thực hiện nghĩa vụ phải thi hành án nếu người phải thi hành án khơng cịn tài sản
khác. Thời điểm chuyển quyền được thực hiện sau khi bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật. Trường hợp nhà nước quyết định chủ sở hữu phải chuyển giao quyền
của mình cho tổ chức, cơ quan, cá nhân khác sử dụng trong một thời hạn nhất định
thì Chấp hành viên khơng được kê biên trong thời hạn đó.
Điều kiện để kê biên quyền sở hữu trí tuệ phải tuân thủ các quy định của pháp
luật về quyền sở hữu trí tuệ. Theo đó, để kê biên quyền sở hữu trí tuệ, Chấp hành


viên phải đảo bảo: người phải thi hành án là chủ sở hữu và các quyền đó là quyền tài
sản chuyển nhượng, chuyển giao được.
+ Quyền tác giả, là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình
sáng tạo ra hoặc sở hữu. Quyền liên quan đến tác giả. là quyền của tổ chức, cá nhân
đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh
mang chương trình được mã hóa17. Theo quy định tại Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ số
19/VBNH-VPQH ngày 18/12/2013 của Văn phịng Quốc hội quy định chung về
chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan:
1. Chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan là việc chủ sở hữu quyền tác
giả, chủ sở hữu quyền liên quan chuyển giao quyền sở hữu đối với các quyền

quy định tại khoản 3 Điều 19, Điều 20, khoản 3 Điều 29, Điều 30 và Điều 31
của Luật này cho tổ chức, cá nhân khác theo hợp đồng hoặc theo quy định của
pháp luật có liên quan.
2. Tác giả không được chuyển nhượng các quyền nhân thân quy định tại Điều
19, trừ quyền công bố tác phẩm; người biểu diễn không được chuyển nhượng
các quyền nhân thân quy định tại khoản 2 Điều 29 của Luật này.
3. Trong trường hợp tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương
trình phát sóng có đồng chủ sở hữu thì việc chuyển nhượng phải có sự thỏa
thuận của tất cả các đồng chủ sở hữu; trong trường hợp có đồng chủ sở hữu
nhưng tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng
có các phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập thì chủ sở hữu quyền tác
giả, chủ sở hữu quyền liên quan có quyền chuyển nhượng quyền tác giả,
quyền liên quan đối với phần riêng biệt của mình cho tổ chức, cá nhân khác.
Khi xác minh điều kiện thi hành án về quyền sở hữu trí tuệ, Chấp hành viên
xác minh, làm rõ những quyền được chuyển nhượng, chuyển giao được vì khi kê
biên, xử lý thì chuyển đổi được thành tiền và người nhận chuyển nhượng, chuyển
giao khai thác được giá trị. Không kê biên đối với các quyền về nhân thân, các quyền
không định giá được bằng tiền, các quyền sở hữu trí tuệ khơng chuyển nhượng,
17

Điểm 1, 2 Khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Sở hữu trí tuệ


×