Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Pháp luật về thủ tục rút gọn trong giải quyết vụ án dân sự (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.46 KB, 53 trang )

u


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

LƯU THỊ THU HƯỜNG

PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2018

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT


LƯU THỊ THU HƯỜNG

PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN
•••
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
••••

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN VĂN TRÁNG


TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Luận văn là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả nêu
trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành
tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa
Luật Dân sự và Tố tụng dân sự.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Dân sự và Tố tụng dân sự xem
xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


TÁC GIẢ

Lưu Thị Thu Hường


Từ viết tắt

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Diễn giải

BLDS

Bộ luật dân sự

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự


CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

HĐXX

Hội đồng xét xử

Luật BVQLNTD

Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

PLVN

Pháp luật Việt Nam

PLTTDS

Pháp luật tố tụng dân sự

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TTDS


Tố tụng dân sự

TTRG

Thủ tục rút gọn

VKS

Viện kiểm sát


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ...........................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu..................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu .........................................4
4. Phạm vi nghiên cứu.....................................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................5
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài ......................................5
7. Kết cấu của đề tài .....................................................................................6
CHƯƠNG 1.............................................................................................................. 7
TỔNG QUAN VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC RÚT
GỌN ......................................................................................................................... 7
1.1. Khái quát về thủ tục rút gọn ..............................................................7
1.1.1. Khái niệm thủ tục rút gọn ..........................................................7
1.1.2. Đặc điểm thủ tục rút gọn ...........................................................10

1.1.3. Sự cần thiết áp dụng thủ tục rút gọn ..........................................18
1.2. Nội dung pháp luật về thủ tục rút gọn ...............................................21
1.2.1. Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm .........................21
1.2.2. Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm ...................30
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.......................................................................................35
CHƯƠNG 2............................................................................................................36
THỰC TRẠNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN QUA THỰC
TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HAI CẤP TỈNH ĐĂK LĂK VÀ
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN .................................................................................36
2.1. Thực trạng của pháp luật về thủ tục rút gọn.....................................36


2.1.1. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn .............................................36
2.1.2. Chuyển vụ án từ thủ tục rút gọn sang thủ tục thông thường .....37
2.1.3. Khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết
định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn .......................................39
2.1.4. Hiệu lực của bản án, quyết định sơ thẩm theo thủ tục rút gọn 40
2.2. Tình hình áp dụng thủ tục rút gọn tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh
Đăk Lăk.........................................................................................................42
2.2.1. Trước khi Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có hiệu lực thi hành......42
2.2.2. Từ khi Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có hiệu lực thi hành ..........44
2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thủ tục rút gọn .................48
2.3.1. Mở rộng tiêu chí xác định loại vụ án được giải quyết theo thủ tục
rút gọn...................................................................................................48
2.3.2. Quyền lựa chọn áp dụng thủ tục rút gọn của đương sự .............50
2.3.3. Hiệu lực của bản án, quyết định sơ thẩm theo thủ tục rút gọn 52
2.3.4. Ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự
2015
về thủ tục rút gọn ..................................................................................53
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2......................................................................................55

KẾT LUẬN ...........................................................................................................56
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................58


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011) khơng có
quy định về giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn, thủ tục tố tụng thơng
thường được Tịa án áp dụng để giải quyết cho tất cả các loại vụ việc dân sự. Theo
quy định của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) thì thời hạn chuan bi
xét xử lạ bơn thang kê tử ngay thu lý vu an đối vời vu an dân sự, hôn nhân vạ gia
đinh, hai thang đối vời vu an kinh doanh, thửờng mai va lao đống 3. Thực tiên xét xử
trong những năm qua cho thấy có rất nhiều các tranh chấp dân sự đờn giản, các bên
đều thừa nhận và mong Tòa án giải quyết nhanh..., đửờng sự chỉ chờ một phán quyết
của Tòa án để thực hiện việc thi hành án bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho họ 4. Nhửng
Tòa án khống thể giải quýết nhanh, bởi khi áp dụng thủ tục tố tụng thông thửờng,
Thẩm phán phải tiến hành đầý đủ các thủ tục tố tụng théo quý định của pháp luật,
mặc dù một số thủ tục tố tụng là khống cần thiết.
Trửớc ýêu cầu của cải cách tử pháp théo tinh thần của Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị và yêu cầu thực tiễn trong thời
kỳ đất nửớc đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Để cụ thể
hóa chủ trửờng cải cách tử pháp của Đảng và Nhà nửớc, Hiến pháp năm 2013 quý
định “Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét
xử theo thủ tục rút gọn”. Nhử vậy, bên cạnh thủ tục tố tụng thống thửờng, việc xét xử
cịn có thể đửợc tiến hành theo thủ tục rút gọn (TTRG) 5. Quý định này của Hiến
pháp năm 2013 đửợc cụ thể hóa trong Bộ luật tố tụng dan sự năm 2015 đửợc Quốc
hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thống qua ngàý 25 tháng 11 năm 2015, có hiệu lực thi
hành từ ngàý 01 tháng 7 năm 2016, gồm 10 phần, 42 chửờng, 517 Điều, trong đó nội
dung về TTRG đửợc quý định tại phần thứ tử. Phần nàý gồm hai chửờng (Chửờng

XVIII và chửờng XIX), quý định về thủ tục giải quýết vụ án théo TTRG tại cấp sơ
thẩm và cấp phúc thẩm. Việc pháp luật tố tụng dân sự quy định về TTRG không chỉ
3 Điều 179 BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung 2011)
4Nguyễn Thị Thu Hà (2015), Về phiên tòa xét xử dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn, Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, Số 19 (299), tr. 36 - 41.
5 Điều 103 (4) Hiến pháp năm 2013


2

tác động tích cực về mặt chính trị như: "“giúp cho pháp luật nước ta nói chung,
pháp luật tố tụng dân sự nói riêng xích lại gần nhau hơn về mặt pháp luật, góp phần
vào việc thúc đẩy quan hệ hợp tác với nhau về phương diện chính trị, kinh tế một
cách dễ dàng hơn, giữa Việt Nam và các nước phát triển”. Mà cịn tác động tích cực
dưới nhiều góc độ khác nhau. Ví dụ, về mặt pháp lý, thủ tục này là cơ sở pháp lý để
các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) giải quyết nhanh chóng, kịp thời nhiều vụ
án đơn giản, rõ ràng; tập trung vào việc giải quyết các vụ án lớn, phức tạp hơn, góp
phần giải quyết tình trạng tồn đọng án kéo dài. về mặt kinh tế, việc giải quyết vụ án
nhanh chóng sẽ tạo điều kiện cho các CQTHTT tiết kiệm được thời gian, tiền bạc,
công sức trong việc giải quyết các vụ án đơn giản. Đồng thời cũng tiết kiệm được
thời gian và chi phí cho những người tham gia tố tụng mà vẫn đảm bảo tính pháp chế
trong việc giải quyết các vụ án dân sự.
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, trên
thực tế các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về TTRG chưa được áp dụng rộng
rãi, còn nhiều điểm ““vênh”” giữa lý luận và thực tiễn. Do đó, đề tài: “Pháp luật về
thủ tục rút gọn trong giải quyết vụ án dân sự” là thực sự cần thiết. Việc nghiên cứu
này nhằm góp phần xây dựng một cách hiểu đúng đắn, thống nhất về thủ tục tố tụng
dân sự rút gọn, từ đó góp phần đưa quy định này đi vào thực tế sao cho đạt hiệu quả
cao nhất.
2. Tình hình nghiên cứu

Tại Việt Nam, TTRG trong tố tụng dân sự là một chế định mới được quy định
trong BLTTDS 2015. Tuy nhiên trong khoa học pháp lý nhiều năm qua, vấn đề này
đã được nhiều cơng trình khoa học đề cập đến ở nhiều góc độ khác nhau. Liên quan
đến luận văn có thể chia ra làm hai nhóm sau:
- Thứ nhất, nhóm các tài liệu, cơng trình được cơng bố trước khi BLTTDS
2015 được ban hành và có hiệu lực thi hành, có thể kể đến như:
Luận án tiến sĩ Luật học: “Thủ tục gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Đặng Thanh Hoa
(Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, bảo vệ năm 2015) đã làm sáng tỏ cơ sở lý
luận về TTRG, đồng thời phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh


3

chấp về Kinh doanh thương mại tại Tòa án Việt Nam, làm cơ sở xây dựng TTRG.
Bài viết: “Khả năng áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thuy Thủy đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
Số 12 năm 2011. Trong bài viết này tác giả đưa ra một cách sơ lược về khái niệm
TTRG; phạm vi áp dụng cũng như vai trò, ý nghĩa của thủ tục tố tụng rút gọn trong
TTDS trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm pháp luật của các quốc gia phát triển. Đồng
thời, tác giả đưa ra các kiến nghị về khả năng áp dụng thủ tục này ở nước ta trong
giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay.
Bài viết “Thủ tục xét xử nhanh trong bộ luật Tố tụng dân sự Pháp và dự
thảo bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Trần Anh Tuấn đăng trên tạp chí
Tịa án nhân dân, Số 7 năm 2004. Trong bài viết này tác giả tiến hành so sánh các
quy định về thủ tục tố tụng nhanh trong BLTTDS Pháp 1807 và các quy định về thủ
tục này trong Dự thảo BLTTDS Việt Nam. Trên cở sở đó, tác giả đề xuất việc xây
dựng thủ tục rút gọn trong Dự thảo BLTTDS Việt Nam.
Ngồi ra cịn có một số bài viết được đăng trên các tạp chí như: Bài viết “Về
xây dựng mơ hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam” của tác giả Trần Anh

Tuấn được đăng trên tạp chí Luật học, số 7 năm 2014; bài viết “Thủ tục rút gọn trong
tố tụng dân sự trước xu thế hội nhập” của tác giả Lê Thị Huệ được đăng trên Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, số 283 năm 2015...
Các cơng trình này chủ yếu xác định cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng
TTRG trong TTDS Việt Nam, kinh nghiệm của các nước trong việc xác định vụ án
được giải quyết theo TTRG. Chính vì vậy, các cơng trình chưa đề cập đến thực trạng
áp dụng TTRG trong thực tiễn xét xử.
- Thứ hai, nhóm tài liệu, cơng trình được cơng bố kể từ sau thời điểm
BTLLDS 2015 có hiệu lực thi hành trong thực tiễn. Có thể kể đến một số cơng trình
như:
Sách chuyên khảo: “Bình luận Khoa học về những điểm mới trong Bộ luật tố
tụng dân sự 2015” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Nhung (Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia TP Hồ Chí Minh, 2017) đã phân tích các điều kiện, phạm vi áp dụng TTRG; trình
tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự theo TTRG trong giai đoạn xét xử sơ thẩm,


4

phúc thẩm.
Bài viết:“Chế định mới về thủ tục rút gọn trong bộ luật tố tụng dân sự năm
2015” của tác giả Nguyễn Thị Thuy Thủy đăng tải trên tạp chí Thanh tra, số 2 năm
2017. Trong bài viết này tác giả phân tích các quy định cụ thể về thủ tục rút gọn
trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và đưa ra kiến nghị hoàn thiện.
Bài viết: “Quy định về thủ tục rút gọn và thực tiễn tại áp dụng tại Tòa án
cấp huyện” của tác giả Dương Tấn Thanh đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân điện tử
ngày 01/03/2018. Bài viết phân tích một số quy định cơ bản về TTRG theo BLTTDS
2015, đồng thời phân tích thực tiễn áp dụng TTRG trong hoạt động xét xử của
TAND cấp huyện, đưa ra kiến nghị, đề xuất.
Đa số các cơng trình này nhấn mạnh về tính hiệu quả của việc giải quyết
tranh chấp dân sự bằng TTRG. Dựa trên các quy định BLTTDS 2015, các cơng trình

cũng đã đề cập đến khái niệm, đặc điểm, vai trò của TTRG và thực tiễn áp dụng
TTRG trong thực tiễn xét xử tại tịa án. Tuy nhiên, các cơng trình này chưa nghiên
cứu một cách toàn diện về thực tiễn áp dụng của các cơ quan Tư pháp kể từ khi
BLTTDS 2015 có hiệu lực thi hành, chưa có sự kết hợp trong việc phân tích: cơ sở lý
luận của TTRG, thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng TTRG trong hoạt động xét
xử của TAND. Trên cơ sở đó, đưa ra các kiến nghị hồn thiện chế định này nhằm
đưa luật vào thực tiễn cuộc sống.
Những cơng trình, bài viết nêu trên là tài liệu quý báu giúp tác giả có thêm
nhiều thơng tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu và hoàn thiện luận văn thạc
sĩ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm ro các vấn đê ly luận cơ bản vê thủ tục
tố tụng dân sự rút gọn và thực tiễn áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết vụ án dân
sự, đề tài đê xuất cac giải pháp cu thê nhằm hoan thiên pháp luật về thủ tục tố tụng
dân sư rút gọn.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích những vấn đề lý luận để làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của
thủ tục tố tụng dân sự rút gọn;


5

- Phân tích các vấn đề cơ bản của pháp luật Việt Nam về thủ tục rút gọn
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm vụ án dân sự.
- Đánh giá các quy định dưới góc độ luật thực định và thực tiễn áp dụng các
quy định về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam, đồng thời đề ra phương
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật pháp luật về thủ tục tố tụng dân sư rút gọn.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ một luận văn thặc sĩ, phạm vi nghiên cứu của đề tài được
giới hạn như saụ:

- Giới hạn về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp
luật hiện hành về TTRG dưới góc nhìn so sánh với pháp luật quốc tế, việc áp dụng
TTRG trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm; tình hình áp dụng TTRG tại
TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk và một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện.
- Giới hạn về thời gian:
Thứ nhất, về luật thực định thì sau khi BLTTDS 2015 có hiệu lực thi hành
(01/7/2016).
Thứ hai, tình hình áp dụng thủ tục rút gọn trong hoạt động xét xử vụ án dân
sự tại TAND hai cấp Tỉnh Đắk Lắk giai đoạn sau khi BTLLTDS có hiệu lực thi hành
(01/7/2016 đến nay).
5. Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp phân tích để nêu rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của TTRG.
-Phương pháp so sánh với pháp luật một số nước, phương pháp phân tích,
tổng hợp, quy nạp được sử dụng để nêu rõ nội dung pháp luật về TTRG trong giai
đoạn sơ thẩm và phúc thẩm; thực trạng pháp luật về TTRG; các kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về TTRG.
-Sử dụng kết quả thống kê tư TAND tỉnh Đăk Lăk để nêu thực tiễn áp dụng
pháp luật về TTRG tại TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Trong quá trình nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn
pháp luật về TTRG, đề tài đã nêu ra được thực trạng pháp luật về TTRG, việc áp
dụng TTRG trong thực tế và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của


6

pháp luật về TTRG. Tác giả hy vọng rằng những vấn đề, kiến nghị của mình trong
luận văn sẽ được tham khảo, sử dụng để sửa đổi một số quy định trong Bộ luật tố
tụng dân sự về TTRG, điều đó góp phần hồn thiện quy định của pháp luật, đưa pháp
luật có giá trị áp dụng cao trong thực tế.

Giá trị ứng dụng của đề tài: Việc nghiên cứu luận văn này một cách có hệ
thống sẽ giúp các CQTHTT có cái nhìn cụ thể, chun sâu hơn về TTRG, qua đó
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng thủ tục này khi giải quyết các tranh chấp dân sự
trong thực tế. Đồng thời, giúp cho người dân có thể tiếp cận, hiểu rõ về TTRG để có
thể đưa ra các kiến nghị, yêu cầu đối với CQTHTT trong trường hợp tranh chấp của
họ có đủ điều kiện áp dụng TTRG.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài những phần như: Phần mở đầu, phần kết luận và phần tài liệu tham
khảo, luận văn được kết cấu với 2 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về thủ tục rút gọn và pháp luật về thủ tục rút gọn.
Chương 2: Thực trạng của pháp luật về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn qua
thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đăk Lăk và giải pháp hoàn
thiện.


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN
VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN
1.1. Khái quát về thủ tục rút gọn
1.1.1.

Khái niệm thủ tục rút gọn
Trong khoa học pháp lý, khi bàn về thủ tục giải quyết các tranh chấp đơn

giản, thuật ngữ “thủ tục rút gọn” được sử dụng phổ biến. Bên cạnh đó, các thuật ngữ
‘thủ tục đơn giản”, “thủ tục giản lược” cũng được một số học giả và nền pháp chế sử
dụng.
Nghiên cứu so sánh thấy rằng, pháp luật tố tụng dân sự nhiều quốc gia trên
thế giới có quy định về vấn đề này.
Ở Cộng hòa Pháp, TTRG được đề cập với tên gọi thủ tục xét xử nhanh được

quy định trong BLTTDS Pháp 1807. Trong suốt quá trình phát triển của PLTTDS, kể
từ khi ban hành BLTTDS 1807 thì thủ tục xét xử nhanh được quy định để áp dụng
giải quyết đối với những tranh chấp mà việc giải quyết mang tính khẩn cấp và những
loại tranh chấp đơn giản mà việc giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường là quá
chậm chạp và tốn kém. Thủ tục tố tụng nhanh được thiết lập để áp dụng giải quyết
những loại việc mang tính khẩn cấp là thủ tục xét xử cấp thẩm và thủ tục xét xử theo
đơn yêu cầu6.
Ở Hoa Kỳ, mặc dù TTRG khơng được pháp điển hóa trong luật thành văn
nhưng trong thực tiễn xét xử, các án lệ thì TTRG được thừa nhận rộng rãi ở nhiều
tiểu bang. Theo một số học giả thì TTRG ở Hoa Kỳ được hiểu là thủ tục pháp lý
được sử dụng để thực thi quyền có hiệu lực nhanh hơn và hiệu quả hơn các phương
pháp thông thường.
Pháp luật tố tụng dân sự nhiều quốc gia như Đan Mạch, Thụy Điển, Nga,
Trung Quốc, Nhật Bản đều có quy định về vấn đề này. Ví dụ Ở Nhật Bản thì
BLTTDS 1996 (sửa đổi, bổ sung 2011) quy định có 04 loại thủ tục giản lược gồm:
- Thủ tục thơng thường trong tịa án rút gọn;
- Thủ tục yêu cầu trả tiền đối với hối phiếu, lệnh phiếu, séc;
6Trần Anh Tuấn (2004), Thủ tục xét xử nhanh trong bộ luật Tố tụng dân sự Pháp và dự thảo bộ luật Tố tụng
dân sự Việt Nam, Tạp chí Tịa án nhân dân, Số 7, tr.24-29.


- Thủ tục đối với những vụ kiện nhỏ;
- Thủ tục đối với các yêu cầu thanh toán.
Ở Trung Quốc, theo quy định của BLTTDS 2012 thì có ba trường hợp có thể
áp dụng TTRG trong xét xử vụ án dân sự:
- Vụ án có tính chất đơn giản;
- Vụ án giá trị tranh chấp nhỏ;
- Vụ án mà các đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ với nhau.
Ở Việt Nam, khái niệm TTRG được tiếp nhận từ pháp luật nước ngồi thơng
qua q trình thuộc địa hóa. Khi nhắc đến TTRG, người ta thường có sự liên tưởng

đến thủ tục xét xử nhanh của Pháp tiếp nhận bị động với sự xâm lược thuộc địa đi
liền với “sự xâm lăng pháp luật”7. Bằng chứng là trong nhiều cơng trình về TTDS,
tác giả Nguyễn Huy Đẩu, Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn (1955-1975) đã đề cập
về TTRG là thủ tục ít nệ thức, đỡ tốn kém, và mau chóng hơn, được nhà lập pháp dự
liệu như biệt lệ với thủ tục tố tụng thông thường8.
Trên thực tế, một số nội hàm của TTRG được thể hiện từ trước năm 1945.
Trong giai đoạn này, TTRG chỉ có một hình thức duy nhất là xét xử sơ thẩm đồng
thời là chung thẩm và chỉ được áp dụng đối với tranh chấp dân sự có giá ngạch thấp.
Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn trước đây nằm rải rác trong một số văn bản như:
- Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về tổ chức tòa án và quy định các ngạch
thẩm phán có quy định chánh án xử một mình.
- Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 về thẩm quyền tòa án sơ cấp về dân sự,
thương mại và Điều 12 Luật Tổ chức Tịa án nhân dân năm 1960 có quy định có thể
xét xử một thẩm phán, khơng có hội thẩm nhân dân trong vụ án nhỏ, đơn giản.
- Nghị định số 32 ngày 06/4/1952 của Bộ Tư pháp, Thông tư số 4013 ngày
09/5/1959 của Bộ Tư pháp và Thông tư liên bộ thẩm phán - Tòa án nhân dân tối cao
số 93 ngày 11/11/1959 có quy định tịa án huyện có quyền chung thẩm trong một số
lĩnh vực.
Trong giai đoạn hiện nay, Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư
7Arnaud De Raulin, Jean-Paul Pastorel, Trinh Quoc Toan, Nguyen Hoang Anh (2016), Ảnh hưởng của truyền
thống pháp luật Pháp tới pháp luật Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr23.
8Nguyễn Huy Đẩu (1968), Luật dân sự tố tụng Việt Nam, Nxb Sài Gòn, tr. 503.


pháp đến năm 2020 có nội dung: “Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối
với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”.
Tuy nhiên, BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung 2011) lại không đề cập về TTRG.
Nói cách khác, TTRG khơng xây dựng trong luật chung (luật tố tụng) mà lại được
quy định ở luật chuyên ngành. Cụ thể, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
2010 quy định, vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giải quyết

theo thủ tục đơn giản quy định trong pháp luật về tố tụng dân sự khi có đủ các điều
kiện sau đây:
a) Cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp
hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện;
b) Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
c) Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng9”.
Tuy nhiên, cả văn kiện của Đảng và luật nêu trên đều không đưa ra khái niệm
thế nào là TTRG. Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng chỉ đưa ra tiêu chí áp
dụng thủ tục đơn giản để giải quyết các vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng chứ chưa quy định về thủ tục giải quyết10.
Trong khoa học pháp lý, TTRG được nhiều học giả đề cập đến với nhiều cách
diễn giải khác nhau. Có tác giả định nghĩa: Thủ tục tố tụng rút gọn được áp dụng để
xử lý những vi phạm pháp luật nhỏ, những tranh chấp, khiếu kiện có giá trị thấp,
những vụ việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng 11. Có tác giả lại tiếp cận một cách cụ thể,
chi tiết hơn: Thủ tục tố tụng rút gọn là dạng đơn giản hóa của thủ tục xét xử thông
thường, được sử dụng để giải quyết các vụ án dân sự có chung những đặc điểm là
nhỏ, đơn giản, rõ ràng và có giá trị tranh chấp nhỏ. Phán quyết và quyết định của
tòa án sử dụng thủ tục tố tụng rút gọn có thể có giá trị chung thẩm12.
Như đã đề cập, về kĩ thuật lập pháp thì TTRG được đề cập trong Hiếp pháp
9Điều 41(2) Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.
10Đặng Thanh Hoa (2015), Thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, tr.23.
11Nguyễn Trọng Điệp (2015), Tố tụng rút gọn trong giải quyết tranh chấp tiêu dùng, Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN, Tập 31, Số 2, tr.37-44.
12Nguyễn Thị Thuy Thủy (2011), Khả năng áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự ở Việt Nam, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, Số 12 (284), tr.37-42.


201313. Tuy nhiên, HP 2013 chỉ sử dụng cụm từ TTRG mà không đưa ra khái niệm
cụ thể của TTRG. Nhằm cụ thể hóa HP 2103, BLTTDS 2015 đã định nghĩa về TTRG

như sau: “Thủ tục tố tụng được áp dụng để giải quyết vụ án dân sự có đủ điều kiện
theo quy định của Bộ luật này với trình tự đơn giản so với thủ tục giải quyết các vụ
án dân sự thông thường nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm
đúng pháp luật14”.
Như vậy, theo tác giả TTRG có thể được hiểu là một thủ tục tố tụng đặc biệt,
nhằm đơn giản hóa thủ tục xét xử thơng thường do Tịa án tiến hành giải quyết đối
với các tranh chấp dân sự theo nghĩa rộng (dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh
thương mại, lao động) có chứng cứ rõ ràng, nội dung tranh chấp đơn giản..., theo
một trình tự tố tụng giản lược.
1.1.2.

Đặc điểm thủ tục rút gọn
Với tư cách là thủ tục tố tụng đặc biệt, TTRG có những điểm khác biệt so với

thủ tục tố tụng thông thường. Những đặc điểm này vừa là để nhận diện các tiêu chí
để áp dụng thủ tục này, đồng thời là để phân biệt TTRG so với thủ tục tố tụng thơng
thường. TTRG có những đặc điểm sau:
Thủ tục rút gọn chỉ áp dụng đối với những vụ án có đủ các điều kiện luật

o•
í•o
o•


định
Thơng thường, TTRG là một thủ tục chỉ để giải quyết đối với những tranh
chấp đặc thù, đáp ứng các điều kiện cơ bản do luật định như: tranh chấp đơn giản,
chứng cứ rõ ràng, các đương sự thừa nhận nghĩa vụ hoặc giá ngạch thấp 15. Vấn đề
này được quy định tương tự ở nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Nghiên cứu pháp
luật tố tụng của Hoa Kỳ, và pháp luật Nhật Bản cho thấy TTRG có những đặc điểm

sau:
1. Vụ án xác định xét xử theo thủ tục giản lựơc hoặc TTRG thường phụ thuộc

13Chú ý: Điều 8 và Điều 10 Luật TCTAND năm 2014 nhằm cụ thể hóa HP 21013 cũng đề cập về TTRG:“Tịa
án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”.
14Điều 316.1 BLTTDS 2015.
15Đặng Thanh Hoa (2015), Thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, tr.41.


vào giá trị tranh chấp16. Các nước thường quy định mức tiền cụ thể để xác định, và
thông thường mức tranh chấp này đều có giá trị nhỏ;
2. Các vụ án mà chứng cứ rõ ràng, các đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ với
nhau.
Ở Việt Nam, theo quy định của BLTTDS 2015, thì việc áp dụng TTRG để giải
quyết vụ án dân sự khi vụ án có đủ các điều kiện sau đây17:
“1. Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa
nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và
Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ.
2. Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng
3. Khơng có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài,
trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề
nghị Tịa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các đương sự đã xuất trình được
chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp ”.
Thứ nhất, vụ án có tình tiết đơn giản, được hiểu là các vụ án mà nội dung của
nó có các tình tiết đơn giản, dễ dàng để Tịa án xác định được sự thật khách quan và
cũng rất thuận lợi trong việc kiểm tra tính hợp pháp của yêu cầu khởi kiện của đương
sự. Chẳng hạn, giữa nguyên đơn và bị đơn có hợp đồng tín dụng cụ thể, rõ ràng và
các khoản vay đã được giải ngân, do vậy, bị đơn khó có thể chối cãi trách nhiệm của
mình đối với nguyên đơn18.

Thứ hai, quan hệ pháp luật rõ ràng, nghĩa là tính chất vụ án đơn giản về mặt
pháp lý, chứng cứ rõ ràng.
Thứ ba, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ. Đương sự - theo quy định của
BLTTDS được hiểu bao gồm cả nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan19. Với các tranh chấp mà đương sự thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ, nghĩa là
một trong các bên hoặc nhiều bên trong quan hệ tranh chấp đều thừa nhận nghĩa vụ
16Tống Công Cường (2007), Luật tố tụng dân sự Việt Nam : Nghiên cứu so sánh, Nxb Đại học Quốc gia Tp.
Hồ Chí Minh, tr.77.
17Điều 317 (1) BLTTDS.
18Phạm Thị Hồng Đào (2016), Thủ tục rút gọn theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, truy cập tại
truy cập tháng 6/2018.
19Điều 68, BLTTDS 2015.


của mình đối với bên có quyền mà giữa họ không đưa ra bất kỳ yêu cầu phản đối nào
so với yêu cầu khởi kiện và sự thừa nhận thực hiện nghĩa vụ đó khơng trái với đạo
đức xã hội cũng như không vi phạm điều cấm của pháp luật, do vậy, Tịa án coi đó là
trường hợp đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ20.
Thứ tư, tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và
Tịa án khơng phải thu thập tài liệu, chứng cứ được hiểu là những tài liệu, chứng cứ
phản ánh đầy đủ, chính xác, tồn diện những vấn đề phải chứng minh trong vụ án.
Những tài liệu, chứng cứ khi đương sự giao nộp cho Tòa án phải đảm bảo đủ căn cứ
để Tòa án giải quyết vụ án mà không phải tiến hành thu thập thêm tài liệu, chứng cứ.
Có thể thấy, pháp luật tố tụng dân sự nước ta khi quy định về vấn đề này, có
tính chất tương đồng với pháp luật các nước. Ví dụ ở Pháp, Italia thì Tịa án ra lệnh
thanh tốn nợ nếu khoản nợ có nguồn gốc từ một hợp đồng hoặc từ một nghĩa vụ
theo điều lệ và là số tiến nhất định; nếu là do hợp đồng thì được xác định theo các
điều khoản của hợp đồng21.
Ở Nga thì lệnh của Tịa án - quyết định của Tồ án do một Thẩm phán ban
hành dựa trên yêu cầu đòi nợ hoặc đòi lại tài sản nếu:

- Yêu cầu căn cứ vào giao dịch đã được công chứng;
- Yêu cầu căn cứ vào giao dịch được thực hiện dưới hình thức văn bản viết
không cần công chứng, chứng thực22;
Như vậy, TTRG được áp dụng đối với các vụ án có đầy đủ các điều kiện quy
định tại Điều 317 BLTTDS. Nếu vụ án dân sự không đáp ứng một trong các điều
kiện quy định thì vụ án đó sẽ được thụ lý, giải quyết theo thủ tục thông thường.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án theo TTRG, nếu xuất hiện tình tiết mới làm
cho vụ án khơng cịn đủ điều kiện để giải quyết theo TTRG thì Tịa án ra quyết định
chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thơng thường.
Thứ năm, các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng, nghĩa là các
thông tin về địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn phải đảm bảo tính chính xác, đầy đủ để
20Phạm Thị Hồng Đào (2016), Thủ tục rút gọn theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, truy cập tại
truy cập tháng 6/2018.
21Trần Anh Tuấn (2015), Thủ tục tố tụng dân sự của một số nước châu Âu và so sánh với thủ tục tố tụng, Tạp
chí Luật học, Số 11 (186), tr. 44 - 57.
22Điều 121 Bộ luật tố tụng dân sự Nga


Tịa án có thể dựa vào các thơng tin đó thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng
của Tịa án, như thơng báo thụ lý vụ án, quyết định đưa vụ án ra xét xử.. .đảm bảo
đúng thời hạn quy định.
Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn chỉ do một Thẩm phán tiến hành giải quyết
Về thành phần tham gia giải quyết tranh chấp theo TTRG có sự thừa nhận
chung theo hướng: việc giải quyết và xét xử chỉ do một Thẩm phán tiến hành từ khi
thụ lý cho đến khi xét xử .
Điều 65, BLTTDS 2015 quy định: “ Việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án dân
sự theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán tiến hành”. Nghiên cứu so sánh cho thấy
Pháp luật tố tụng dân sự ở một số nước thuộc hệ thống pháp luật Châu âu lục địa như
Đan Mạch, Thụy Điển có quy định tương tự. Ở các nước này khi áp dụng TTRG thì
vụ kiện do một Thẩm phán xét xử và việc kháng cáo đối với bản án, quyết định sơ

thẩm bị hạn chế thông qua việc cấp phép 23. Ở nhiều nước, phiên tòa rút gọn do một
thẩm phán phụ trách và diễn ra theo trình tự đơn giản hơn thơng thường. Thường
phiên tịa chỉ diễn ra trong vịng một ngày. Nhân chứng có thể tham gia trực tiếp
hoặc làm chứng qua điện thoại, màn hình video24.
Thủ tục này là ngoại lệ của nguyên tắc xét xử tập thể, nhưng nó lại được ưa
chuộng tại nhiều nước. Thực tế khi áp dụng TTRG nhiều nguyên tắc cơ bản trong
TTDS đã bị bỏ qua. Ví dụ nguyên tắc “Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân
sự”. về lý thuyết, việc Hội thẩm nhân dân (bồi thẩm đoàn, phụ thẩm) tham gia vào
việc xét xử thể hiện việc áp dụng chế độ dân chủ trong hoạt động xét xử thông qua
việc cử người đại diện cho nhân dân vào tham gia xét xử. Điều 11.1 BLTTDS 2015
quy định:” Việc xét xử sơ thẩm vụ án dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia theo
quy định của Bộ luật này”. Tuy nhiên trong việc áp dụng mơ hình TTDS hiện đại,
nhiều nước trên thế giới như Nhật, Đức thì Hội thẩm chỉ tham gia xét xử những vụ
án phức tạp, có tính chất tranh chấp lớn mà thơi. Phụ thẩm là những người dân bình
thường như giáo viên, nông dân, công nhân, công nhân...được lựa chọn một cách
23Trần Anh Tuấn (2015), Thủ tục tố tụng dân sự của một số nước châu Âu và so sánh với thủ tục tố tụng, Tạp
chí Luật học, Số 11 (186), tr. 44 - 57.
24T . KOJIMA, Japanese Civil Law in Comparative Law Perspective, in: University of Kansas Law Review
46 (1997-8) 687


ngẫu nhiên cho mỗi vụ án25. Các Hội thẩm ngồi cùng Thẩm phán trong HĐXX tại
phiên tịa và có quyền ngang với Thẩm phán khi quyết định những vấn đề cần phải
giải quyết trong vụ án.
Trên thực tế không chỉ Hội thẩm mà trong phiên tịa áp dụng TTRG thì vai trị
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Luật sư) cũng thường bị hạn
chế. Về nguyên tắc việc người này tham gia vào vụ án dân sự nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
các đương sự, giúp cho quá trình tố tụng tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.
Qua đó, giúp cho việc giải quyết các vụ án được khách quan, đúng pháp luật, bảo về

quyền bình đẳng của mọi cơng dân. Tuy nhiên, cũng có nước khi quy định cụ thể về
việc hạn chế sự tham gia của Luật sư trong những vụ án áp dụng TTRG nhằm mục
đích giảm chi phí cho đương sự và cũng để hạn chế việc xét xử vụ án bị kéo dài khi
có sự tham gia của Luật sư26. Ở Nhật Bản, trong phiên tịa áp dụng TTRG, khơng
nhất thiết phải có sự tham gia tố tụng của Luật sư. Thậm chí một số bang ở Hoa Kỳ
cịn cấm luật sư tham gia tố tụng.
Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn được giản lược một số thủ tục tố tụng so

•o

••

•o
với thủ tục tố tụng dân sự thơng thường
o•

•o

Khác với thủ tục tố tụng thơng thường, mà theo đó, trong q trình giải quyết
vụ án, Tịa án và đương sự phải tiến hành đầy đủ các hoạt động tố tụng như thu thập,
cung cấp, tổng hợp, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, tổ chức phiên hòa giải, và tại
phiên tịa phải tiến hành đầy đủ các bước trình tự phiên tịa..., thì khi áp dụng TTRG
sẽ đơn giản hóa về trình tự, thủ tục hoặc giản lược một số giai đoạn tố tụng khơng
cần thiết. Ví dụ như trong một vụ án tranh chấp hợp đồng vay nợ, có hợp đồng bằng
văn bản với những thỏa thuận cụ thể, rõ ràng, có biên bản giao nhận tiền vay.. .vv mà
với các chứng cứ đó bị đơn khó có thể chối cãi trách nhiệm của mình đối với nguyên
đơn27. Khi áp dụng thủ tục TTRG thì Tịa án khơng phải tiến hành thu thập chứng cứ,
25Tống Công Cường (2007), Luật tố tụng dân sự Việt Nam Nghiên cứu so sánh, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ
Chí Minh, tr.63.
26Đặng Thanh Hoa (2015), Thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trong pháp luật tố

tụng dân sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, tr.48.
27Nguyễn Thành Nhân (2016), Áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết các vụ việc dân sự theo quy định Bộ


khơng phải hịa giải khi đương sự khơng có u cầu, loại bỏ bước tranh luận tại
phiên tòa28.
Cụ thể, tại phiên tòa xét xử cấp sơ thẩm theo TTRG, trường hợp Kiểm sát
viên Viện kiểm sát cùng cấp vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.
Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt khơng có lý do
chính đáng thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên tòa. Sau khi khai mạc phiên tòa,
Thẩm phán tiến hành hòa giải. Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau
về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự. Trường hợp các đương sự không thỏa thuận được với nhau
về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán tiến hành xét xử 29. Tuy nhiên,
khi áp dụng TTRG để giải quyết vụ án dân sự, Tòa án vẫn phải đảm bảo tuân thủ các
trình tự, hoạt động tố tụng nhất định và cần thiết do pháp luật TTDS quy định từ khi
khởi kiện, thụ lý, trong quá trình chuẩn bị xét xử, tại phiên tịa để giải quyết vụ án,
hoặc quyền kháng cáo trong toàn bộ hoặc một số trường hợp khi áp dụng TTRG...
Những thủ tục nào là cơ bản và nhất thiết cần phải thực hiện để Tịa án có thể thực
thi cơng lý trong việc giải quyết tranh chấp đúng pháp luật, bảo vệ đầy đủ và đúng
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự30.
Quy định như vậy thể hiện sự phân biệt các tiêu chí, và cách thức áp dụng
TTRG, và thủ tục thông thường trong giải quyết vụ án dân sự. Có thể thấy, về trình
tự thủ tục khi áp dụng TTRG vừa giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng.
Đồng thời vẫn bảo đảm cho việc giải quyết vụ án chính xác, đúng pháp luật.
Giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn sẽ rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi
phí so với việc giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường
Thứ nhất, Giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn sẽ rút ngắn thời gian so với
luật


Tố tụng dân sự năm 2015, truy cập tại địa chỉ

/>em_id=167118342&p_details=1, truy cập tháng 6/2018.
28Đặng Thanh Hoa (2015), Thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, tr.55.
29Điều 320 BLTTDS 2015.
30Đặng Thanh Hoa (2015), Thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, tr.56.


việc giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường.
Trong thủ tục thông thường, nhà làm luật quy định một thời hạn nhất định để
CQTHTT có thời gian tiến hành các hoạt động tố tụng ở những giai đoạn tố tụng
nhất định bảo đảm cho việc giải quyết vụ án chính xác, kịp thời, đúng pháp luật. Tuy
nhiên, đối với một số vụ án nhất định, với tính chất đơn giản, chứng cứ rõ ràng, các
đương sự thừa nhận nghĩa vụ hoặc giá ngạch thấp thì CQTHTT có thể giải quyết
nhanh hơn so với thủ tục thông thường, Với những vụ án đó, pháp luật quy định một
thời hạn tố tụng ngắn hơn thời hạn thông thường, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng phải xử lý vụ án nhanh chóng.
Nghiên cứu so sánh, pháp luật tố tụng dân sự nhiều nước đều quy định về vấn
đề này khi áp dụng TTRG. Ở Nga khi áp dụng TTRG để giải quyết việc ra lệnh
thanh toán, thì khi có bằng chứng xác thực Lệnh thanh tốn của Tòa án được ban
hành trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mà không cần phải mở
phiên tịa xét xử và khơng triệu tập các bên để nghe lời giải thích của họ31. Pháp luật
tố tụng dân sự Italia quy định tương tự, cụ thể khi áp dụng thủ tục rút gọn để giải
quyết vụ kiện về nhà ở thì Tịa án có thể lên lịch yêu cầu các bên ra Tòa chỉ trong
vòng 03 ngày32.
Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam cũng quy định cụ thể về thời hạn xét xử sơ
thẩm theo TTRG như sau: Trong thời hạn không quá 01 tháng kể từ ngày thụ lý vụ
án sơ thẩm, Thẩm phán phải ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, và mở phiên

tòa xét xử trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định33. Như vậy, thời hạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm tối đa là 01 tháng 10 ngày, giảm 02 tháng 20 ngày so với thủ
tục thông thường (chưa kể thời gian gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử đối với thủ tục
thông thường).
Do tính chất đơn giản của vụ án, chứng cứ đầy đủ và Tịa án khơng phải thu
thập tài liệu, chứng cứ. Trong thời hạn này, Thẩm phán được phân cơng chủ tọa
phiên tịa có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ, tiến hành những việc cần thiết cho việc mở
phiên tịa như ban hành thơng báo thụ lý vụ án gửi cho các đương sự và Viện kiểm
31Điều 126 BLTTDS Liên Bang Nga
32Trần Anh Tuấn (2015), Thủ tục tố tụng dân sự của một số nước châu Âu và so sánh với thủ tục tố tụng, Tạp
chí Luật học, Số 11 (186), tr. 44 - 57.
33Điều 318 BLTTDS.


sát cùng cấp, ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, đồng thời chuyển hồ sơ cho
Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu. Cho nên thời hạn chuẩn bị xét xử theo TTRG
được rút ngắn hơn rất nhiều so với thủ tục thông thường. Việc quy định thời hạn
chuẩn bị xét xử rút ngắn như vậy là để cho việc giải quyết vụ án được tiến hành
nhanh chóng, đảm bảo được lợi ích hợp pháp của các đương sự, đồng thời nêu cao
tinh thần trách nhiệm của Thẩm phán.
Thứ hai, Giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn sẽ giảm thiểu chi phí so với
việc giải quyết theo thủ tục tố tụng thơng thường.
Nhìn chung, khi giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng thông thường sẽ
đảm bảo ở mức độ cao khả năng tìm kiếm và bảo vệ cơng lý đối với các vụ án dân sự
được áp dụng. Tuy nhiên, việc áp dụng thủ tục thông thường đối với các vụ án đơn
giản, rõ ràng, hoặc có giá trị tranh chấp thấp là một sự lãng phí về tiền do phải trải
qua nhiều hoạt động tố tụng không cần thiết hoặc thời gian tố tụng kéo dài 34. Để khắc
phục hạn chế này, nhiều nền pháp chế văn minh hiện này thường áp dụng TTRG để
giải quyết các vụ án có tình tiết đơn giản, rõ ràng hoặc có giá trị tranh chấp thấp giúp
tiết kiệm chi phí tố tụng.

Khi lập luận về tính hiệu quả trong việc giảm thiểu chi phí, các học giả
thường sử dụng phương pháp kinh tế học pháp luật (phân tích pháp luật dưới góc độ
kinh tế theo đó các quy tắc pháp lý được đánh giá chi phí/lợi ích để xem liệu một sự
thay đổi pháp luật từ trạng thái này sang trạng thái khác sẽ làm tăng hay giảm hiệu
quả sử dụng và phân bổ nguồn lực, tăng hay giảm sự giàu có của xã hội 35). Triết lý
kinh tế luật cho rằng mục đích của hệ thống tố tụng nhìn từ góc độ kinh tế học là
nhằm giảm thiểu rủi ro xảy ra các sơ suất trong quá trình xét xử và cả chi phí để vận
hành hệ thống đó nữa 36. Dưới góc độ kinh tế học pháp luật, nếu Nhà nước muốn
giảm chi phí kiện tụng, thay vì tranh tụng trước tồ, thì các qui định về tố tụng dân
sự phải khơng khuyến khích các bên tranh tụng (thí dụ, tăng tiền tạm ứng án phí nếu
giá ngạch của vụ kiện tăng). Ngoài ra, Nhà nước cũng phải cho phép các bên có u
cầu chính đáng được bảo vệ quyền lợi của mình thơng qua con đường tồ án bằng
34Nguyễn Thị Thu Thủy (2017), Chế định mới về thủ tục rút gọn trong bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Tạp chí
Thanh tra, Số 02, tr. 18-21.
35Bryan A. Garner (2009), Black’s Law Dictionary, 9th ed. (St. Paul, MN: West) at 963.
36Richard .A. Posner (2003), Economic Analysis of Law, Aspen Publishers, tr.517.


các thủ tục đơn giản. Điều này bảo đảm tính pháp chế của hệ thống pháp luật. Một
trong những vấn đề mà các nhà đầu tư nước ngoài vẫn than phiền về hệ thống pháp
luật Việt Nam là ở chỗ hệ thống thực thi kém hiệu quả: thời gian kiện quá lâu, chi phí
kiện quá tốn kém và việc thực thi quá khó khăn37.
1.1.3.

Sự cần thiết áp dụng thủ tục rút gọn
Trong xu thế tồn cầu hố và mở rộng giao lưu thương mại giữa các quốc gia

hiện nay thì sự trao đổi văn hố tư pháp giữa phương Đơng và phương Tây là một tất
yếu khách quan. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tư pháp dân sự thì quy định về tố tụng dân
sự được xây dựng phải đáp ứng được hai yêu cầu cơ bản: Tiếp thu được những thành

tựu khoa học tố tụng của các nước phát triển nhưng khơng q xa lạ với người Việt
và văn hố Việt38. Như đã đề cập, lịch sử phát triển PLTTDS Việt Nam, mặc dù có
nhiều quy định thể hiện TTRG trong việc giải quyết một số loại án nhất định nhưng
nhìn chung, đây mới chỉ là sự giản lược ở một số yếu tố nhất định mà chưa quy định
một cách tổng thể về TTRG. Kinh nghiệm từ nhiều nền pháp chế văn minh và yêu
cầu của công cuộc cải cách tư pháp, đáp ứng tiêu chí hội nhập, việc áp dụng TTRG
trong BLTTDS 2015 thể hiện sự cần thiết ở một số điểm sau:
Thứ nhất, với bối cảnh tự do hóa thương mại địi hỏi là các luật lệ, chính sách,
quy định hay tập quán của mỗi quốc gia phải tương thích trong khn khổ pháp lý
quốc tế chung. Trong đó, yêu cầu pháp luật tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói
riêng phải theo hướng:
- Đảm bảo sự mềm dẻo, linh hoạt;
- Đa dạng hoá các loại hình thủ tục tố tụng cho phù hợp với tính chất của
từng loại tranh chấp;
- Thủ tục giải quyết tranh chấp nhanh chóng, thuận tiện.
Việc áp dụng thủ tục tố tụng dân sự theo hướng rút gọn khi giải quyết các vụ
án dân sự đáp ứng được yêu cầu về tính nhanh chóng, hiệu quả trong việc giải quyết
các loại tranh chấp dân sự theo nghĩa rộng. Đồng thời thúc đẩy hoạt động hội nhập
quốc tế khi mà các quan hệ dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân gia đình có yếu
37Lê Nết (2006), Kinh tế luật, Nxb Tri Thức, Hồ Chí Minh, tr.108.
38Trần Anh Tuấn (2015), Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, truy cập tại địa
chỉ truy cập tháng 4/2018.


tố nước ngoài chiếm tỷ lệ ngày càng lớn. Xét về thực tế thì Việt Nam đã là thành
viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới, nhưng pháp luật tố tụng dân sự của
chúng ta lại thiếu vắng các quy định về thủ tục tố tụng giản đơn áp dụng đối với các
vụ kiện dân sự, thương mại đơn giản, rõ ràng. Các quy định về thủ tục giải quyết
việc dân sự mới được xây dựng ở Việt Nam là một loại hình thủ tục tố tụng dân sự
đặc biệt nhưng bản thân các quy định về thủ tục này cũng cịn có những hạn chế,

thiếu tính mềm dẻo, linh hoạt cần phải được tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi và hoàn
thiện.39
Thứ hai, TTRG trên thực tế sẽ giảm đáng kể các chi phí tố tụng cho đương sự
và Tịa án trong q trình giải quyết vụ án. Bởi lẽ, nếu áp dụng một thủ tục tố tụng
chung cho tất cả các tranh chấp dân sự nói chung mà khơng phân biệt: a) tính chất
đơn giản hay phức tạp; b) tài liệu chứng cứ đầy đủ hay Tòa án phải thu thập thêm tài
liệu, chứng cứ; c) có hay khơng sự thừa nhận nghĩa vụ của đương sự thì sẽ gây lãng
phí về chi phí tố tụng do quá trình giải quyết vụ án bị kéo dài.
Do tính chất của các vụ án áp dụng TTRG là đơn giản, xét xử nhanh nên trên
thực tế sẽ hạn chế các chi phí đi lại của đương sự. Tịa án cũng khơng phải tiến hành
tất cả các trình tự, thủ tục để đưa vụ án ra xét xử mà gần như chỉ căn cứ vào các tài
liệu, chứng cứ do các bên đương sự cung cấp. Vì vậy, các chi phí như thẩm định tại
chỗ, định giá, xác minh, thu thập thêm tài liệu, chứng cứ cũng không phát sinh40.
Thứ ba, trong thủ tục tố tụng dân sự rút gọn, thời gian để tiến hành tố tụng
được rút ngắn đi rất nhiều lần so với thủ tục tố tụng dân sự thông thường. Đây là
điểm đặc trưng cơ bản để nhận diện TTRG so với thủ tục thông thường. Trên thực tế,
PLLTDS nhiều nước khi xây dựng TTRG với mục đích giúp cho CQTHTT tiết kiệm
thời gian, tập trung nghiên cứu, giải quyết các vụ án có tính chất phức tạp địi hỏi
một trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ và đương sự tiết kiệm thời gian, hạn chế sự gián
đoạn và bỏ lỡ cái cơ hội kinh doanh do việc dành quá nhiều thời gian việc kiện tụng.
Nghiên cứu so sánh cho thấy, nhiều hệ thống pháp luật tiêu biểu như Pháp, Australia,
Hoa Kỳ và một số nước châu Á có điều kiện gần gũi và tương đồng với Việt Nam
39Trần Anh Tuấn (2015), Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, truy cập tại địa
chỉ truy cập tháng 4/2018.
40Hồ Nguyễn Quân (2017), Một số vấn đề về thủ tục rút gọn trong Bộ luật TTDS năm 2015, truy cập tại địa
chỉ truy cập tháng 6/2018.


×