Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo " Bàn về thủ tục rút gọn trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tư pháp nhằm góp phần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.47 KB, 6 trang )



góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
8 - Tạp chí luật học






Trần Huy Liệu *
hủ tục rút gọn hay còn gọi là thủ tục rút
ngắn là dạng thủ tục tố tụng đợc các cơ
quan t pháp có thẩm quyền áp dụng, trong
đó một số thủ tục, một số khâu trung gian
hoặc giai đoạn tố tụng đợc giản lợc, đơn
giản hoá nhằm giúp cho việc điều tra, truy
tố, xét xử nhanh chóng, kịp thời một số loại
án nhất định, phát huy tác dụng giáo dục,
phòng ngừa tội phạm đồng thời tiết kiệm
đợc thời gian, công sức và các chi phí vật
chất khác nhng vẫn bảo đảm đợc việc xử lí
đúng ngời, đúng tội, đúng pháp luật và bảo
vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nớc và công dân.
Việc đơn giản hoá các thủ tục tố tụng,
nâng cao chất lợng hoạt động điều tra, truy
tố và xét xử các vụ án hình sự, bảo vệ kịp
thời các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, nâng cao trình độ chuyên môn và kĩ
năng nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ t


pháp là một trong những nội dung, yêu cầu
cơ bản của công cuộc cải cách t pháp ở
nớc ta.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng, trong chủ trơng đổi
mới tổ chức và hoạt động t pháp đ đề ra
nhiệm vụ "Phân định lại thẩm quyền xét xử
của toà án nhân dân, từng bớc mở rộng
thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho toà án nhân
dân huyện".
(1)
Chủ trơng này đợc cụ thể
hoá trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba
Ban chấp hành Trung ơng Đảng (khoá
VIII): "Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử.
Bỏ thủ tục xét xử sơ chung thẩm của Toà án
nhân dân tối cao và Toà án quân sự trung
ơng. Nghiên cứu thủ tục rút gọn để xét xử
kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng; Toà
án nhân dân tối cao tập trung vào công tác
tổng kết xét xử, hớng dẫn các toà án áp
dụng pháp luật thống nhất và làm tốt chức
năng giám đốc xét xử. Đổi mới thủ tục giám
đốc thẩm để bảo đảm việc xét xử vừa đúng
đắn vừa nhanh chóng".
(2)

Thủ tục tố tụng rút gọn không phải là vấn
đề mới mẻ của khoa học tố tụng hình sự. Nó
đợc quy định trong pháp luật và áp dụng ở

nhiều nớc trên thế giới rất đa dạng và tuỳ
thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của
từng giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia.
Trong Bộ luật tố tụng hình sự của Trung
Quốc có những quy định cho phép xét xử
một số án t tố hoặc có tình tiết nhẹ, tội
trạng rõ ràng theo thủ tục rút gọn với một
thẩm phán. ở Pháp, thủ tục rút ngắn đợc áp
dụng đối với một số loại tội phạm vi cảnh
T

* Bộ t pháp



góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
Tạp chí luật học - 9

hoặc một số việc tiểu hình phạm pháp quả
tang và đợc quy định trong luật tố tụng dân
sự.
(3)
Pháp luật tố tụng hình sự của Nhật Bản
cho phép xét xử theo thủ tục rút gọn đối với
các vụ án mà bị cáo thừa nhận tội, nếu các
tội đó chỉ bị xử phạt từ một năm tù trở xuống
hoặc hình phạt khác nhẹ hơn
ở nớc ta, thủ tục rút gọn đ đợc quy
định trong pháp luật tố tụng và đợc áp dụng
trớc khi ban hành Bộ luật hình sự và Bộ luật

tố tụng hình sự năm 1988. Văn bản pháp luật
đầu tiên quy định về thủ tục rút gọn trong tố
tụng hình sự ở nớc ta là Sắc lệnh số 51/SL
ngày 17/4/1946 của Chính phủ lâm thời nớc
Việt Nam dân chủ Cộng hoà. Điều 23 Sắc
lệnh số 51/SL quy định: "Nếu là một việc
tiểu hình mà lại là một việc phạm pháp quả
tang, ông Biện lí phải hỏi cung ngay bị can
và có thể hạ trát tống giam rồi đa bị can ra
xét xử tại một phiên toà tiểu hình gần nhất".
Để trừng trị kịp thời và nghiêm minh bọn
tội phạm, khắc phục tình trạng kéo dài và ứ
đọng các vụ án hình sự trong hoạt động điều
tra, truy tố và xét xử, ngày 28/4/1974 Phủ
Thủ tớng đ ban hành Thông t số 139/TTg
hớng dẫn về thủ tục điều tra, truy tố và xét
xử các vụ pham pháp quả tang, trong đó quy
định: "Đối với những vụ phạm pháp quả tang
không thuộc loại trọng án, có đủ chứng cứ,
bị can phạm tội thì cơ quan công an lập biên
bản đa sang viện kiểm sát nhân dân để
quyết định chuyển thẳng sang toà án nhân
dân để xét xử". Ngày 08/7/1974, TAND tối
cao ra Thông t số 10/TATC quy định về thủ
tục rút ngắn trong việc điều tra, truy tố và xét
xử một số vụ án hình sự ít nghiêm trọng,
phạm pháp quả tang, đơn giản, rõ ràng. Theo
thủ tục này, với các vụ án nói trên có mức
hình phạt từ 2 năm tù trở xuống thì viện kiểm
sát có thể ra quyết định đa ngay sang toà án

để xét xử mà không cần lập cáo trạng và toà
án cũng không phải tống đạt cáo trạng trớc
khi xét xử.
Để áp dụng thống nhất, đồng bộ thủ tục
rút ngắn, Bộ công an ra Chỉ thị số 54/CP
ngày 17/8/1974 về áp dụng thủ tục rút ngắn
trong việc điều tra các vụ án hình sự ít
nghiêm trọng và ngày 28/02/1975 Viện kiểm
sát nhân dân tối cao ban hành Thông t số
01/TT về áp dụng thủ tục rút ngắn. Các văn
bản nói trên quy định thủ tục rút ngắn đợc
áp dụng đối với loại tội ít nghiêm trọng với
tính chất là phạm tội quả tang, đơn giản, rõ
ràng, với điều kiện bị cáo có căn cớc, lí lịch
rõ ràng và có khung hình phạt từ 2 năm tù trở
xuống.
Nh vậy, thủ tục rút gọn trong tố tụng
hình sự không phải là mới mẻ ở nớc ta và
đợc áp dụng trớc khi có Bộ luật tố tụng
hình sự năm 1988. Bộ luật tố tụng hình sự và
pháp luật tố tụng kinh tế, dân sự, lao động và
hành chính hiện hành không quy định thủ tục
này.
Vấn đề đặt ra là xác định rõ nội dung của
thủ tục rút gọn hay nói cách khác là thủ tục
rút gọn cần đợc áp dụng ở những khâu nào?
ở công đoạn nào của quá trình tố tụng cần
đơn giản hoá và những điều kiện nào đợc áp
dụng thủ tục rút gọn, bảo đảm cho hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử nhanh chóng, kịp thời

nhng vẫn bảo đảm xét xử khách quan, công
bằng, đúng ngời, đúng tội và đúng pháp
luật, trên cơ sở đó để quy định bổ sung hoàn


góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
10 - Tạp chí luật học

thiện pháp luật.
Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự, tố
tụng dân sự là vấn đề có nội dung phức tạp
và liên quan đến nhiều nội dung khác của tố
tụng hình sự. Nhìn dới nhiều góc độ khác
nhau, đa số các nhà lập pháp, t pháp đều
thấy sự cần thiết khôi phục lại chế định thủ
tục rút ngắn trong tố tụng hình sự nhng có
những ý kiến khác nhau về điều kiện (phạm
vi) áp dụng thủ tục rút gọn; những khâu nào
trong tố tụng đợc rút ngắn hoặc đơn giản
hoá. ở đây, chúng tôi đồng tình với một số ý
kiến phổ biến, đợc thừa nhận chung là cần
kế thừa những quy định về thủ tục rút ngắn
trớc đây nhng có sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp với điều kiện hiện nay để làm cơ sở xây
dựng chế định thủ tục rút ngắn trong tố tụng
hình sự. Theo chúng tôi thủ tục rút gọn cần
đợc quy định các vấn đề sau đây:
1. Điều kiện (phạm vi) áp dụng thủ tục
rút gọn
Nói chung, thủ tục rút gọn chỉ đợc áp

dụng đối với một số loại án hình sự, dân sự
nhất định, nhằm giải quyết nhanh chóng, kịp
thời nhng vẫn phải bảo đảm việc xử lí đúng
đắn chính xác. Chúng tôi cho rằng để tránh
sự tuỳ tiện trong việc thực hiện thủ tục rút
gọn, chế định về thủ tục rút gọn cần quy định
các vụ án thoả mn các điều kiện sau đây thì
đợc áp dụng thủ tục rút gọn.
- Đối với các vụ án hình sự
+ Tội phạm thuộc loại ít nghiêm trọng có
khung hình phạt đợc quy định trong Bộ luật
hình sự từ 3 năm tù trở xuống hoặc các hình
phạt khác nhẹ hơn;
+ Phạm pháp quả tang, chứng cứ đầy đủ,
rõ ràng; nội dung phạm tội đơn giản, không
cần nhiều thời gian điều tra, xác minh;
+ Bị can, bị cáo không có tiền án, tiền sự,
có lí lịch, căn cớc, nơi c trú rõ ràng; có gia
đình hoặc ngời thân bảo lnh.
- Đối với các vụ án dân sự
Điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn là:
+ Những vụ án đơn giản, chứng cứ pháp
lí đầy đủ và rõ ràng;
+ Bị đơn không phủ nhận các yêu cầu
của nguyên đơn;
+ Nguyên đơn và bị đơn thừa nhận quyền
và nghĩa vụ của nhau;
+ Tranh chấp dân sự có giá ngạch thấp
dới 500.000 đồng.
Các điều kiện trên đây là thể thống nhất,

nghĩa là vụ án chỉ đợc áp dụng thủ tục rút
ngắn khi có đủ các điều kiện nói trên. Thiếu
một trong các điều kiện nói trên thì sẽ không
đợc áp dụng thủ tục rút ngắn mà phải đợc
giải quyết theo thủ tục thông thờng.
Có ý kiến cho rằng cần bổ sung điều kiện
bị can, bị cáo, các đơng sự không phản đối
việc áp dụng thủ tục rút gọn. Trong trờng
hợp bị can, bị cáo, các đơng sự không nhất
trí áp dụng thủ tục rút gọn để xử lí vụ án thì
các cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành
giải quyết vụ án theo thủ tục thông thờng.
Tuy nhiên, theo chúng tôi không nên đặt vấn
đề bị cáo có quyền chọn thủ tục này hay thủ
tục kia để xét xử hành vi phạm tội của mình,
vì mục đích của việc đặt ra thủ tục rút gọn là
để giải quyết nhanh chóng vụ án, khắc phục
tình trạng án tồn đọng mà vẫn bảo đảm xét
xử đúng ngời, đúng tội, đúng pháp luật.
Cho nên, những vụ án nào có đủ điều kiện
theo luật định thì tiến hành theo thủ tục rút
gọn, không cần quan tâm đến việc bị cáo có


góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
Tạp chí luật học - 11

đồng ý việc áp dụng thủ tục đó hay không.
Nếu bị cáo thấy việc xét xử cha đúng thì
vẫn có quyền kháng cáo theo thủ tục chung.

2. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử
đợc rút ngắn và đơn giản hoá thủ tục
Nh trên đ đề cập, thủ tục rút gọn là sự
đơn giản hoá, giản lợc bớt những thủ tục,
công đoạn trung gian không cần thiết trong
quá trình giải quyết vụ án. Với mục tiêu xử lí
nhanh chóng, kịp thời các vụ án thuộc thủ
tục rút gọn, chúng tôi cho rằng cần đơn giản
hoá và rút ngắn ở tất cả các giai đoạn và ở
từng khâu của quá trình điều tra, truy tố, xét
xử: Rút ngắn thời gian điều tra, truy tố, xét
xử so với các vụ án thông thờng.
Để rút ngắn thời hạn điều tra, truy tố và
xét xử cần có quy định đơn giản hoá các thủ
tục nh:
- Khi kết thúc công tác điều tra, cơ quan
điều tra không cần làm kết luận điều tra mà
chỉ cần có biên bản phạm tội quả tang, bị can
đ nhận tội, kèm theo lời khai của ngời bị
hại, ngời làm chứng và tang vật của vụ án là
có thể chuyển hồ sơ vụ án sang viện kiểm sát
để truy tố ra toà án;
- Sau khi nhận đợc hồ sơ vụ án và đề
nghị truy tố bị can do cơ quan điều tra
chuyển sang, viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ
vụ án, nếu thấy có đủ căn cứ để truy tố thì
làm quyết định truy tố trớc toà án. Do tính
chất vụ việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng, viện
kiểm sát không cần phải lập cáo trạng mà chỉ
ra quyết định chuyển vụ án và quyết định

truy tố đa ra toà án để xét xử. Việc tống đạt
quyết định truy tố gửi kèm theo quyết định
đa vụ án ra xét xử trớc khi mở phiên toà
nên quy định thời hạn là 5 ngày. Theo thủ
tục rút ngắn không nên quy định sự tham gia
bắt buộc của viện kiểm sát ở tất cả các vụ án
mà tuỳ thuộc vào tính chất của từng vụ án cụ
thể mà viện kiểm sát quyết định có tham gia
phiên toà hay không. Trờng hợp không
tham gia phiên toà thì viện kiểm sát phải gửi
cho toà án bản kết luận về vụ án trớc khi
mở phiên toà.
Theo Bộ luật tố tụng hình sự hiện nay,
thời hạn để điều tra, truy tố và xét xử một vụ
án ít nghiêm trọng theo thủ tục thông thờng
là 7 tháng (không kể gia hạn). Để đạt đợc
mục đích của thủ tục rút ngắn, chúng tôi cho
rằng nên quy định thời hạn giải quyết vụ án
(từ khi điều tra đến khi xét xử sơ thẩm) theo
thủ tục rút ngắn không quá 30 ngày, trong đó
điều tra là 7 ngày, thời hạn truy tố là 7 ngày
và thời hạn xét xử sơ thẩm 16 ngày. Thời hạn
để kháng cáo và viện kiểm sát cùng cấp
kháng nghị bản án sơ thẩm nên quy định là 5
ngày và viện kiểm sát cấp trên kháng nghị là
7 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Về thời
hạn xét xử phúc thẩm cần quy định 7 ngày
kể từ ngày toà phúc thẩm thụ lí hồ sơ.
3. Hội đồng xét xử theo thủ tục rút gọn
đợc đơn giản hoá

Hội đồng xét xử theo thủ tục rút gọn ở
phiên toà sơ thẩm cần đợc đơn giản hoá,
nghĩa là chỉ cần một thẩm phán tham gia xét
xử mà không cần sự tham gia của hội thẩm
nhân dân nh xét xử đối với vụ án theo thủ
tục thông thờng. Quy định này hoàn toàn
phù hợp với chế định thủ tục rút gọn đợc áp
dụng ở nhiều nớc trên thế giới đ đợc
chứng minh và kiểm nghiệm, phù hợp với
bản chất của thủ tục rút gọn.
Tuy nhiên, quy định này đặt ra là trái với


góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
12 - Tạp chí luật học

một số nguyên tắc hiến định hiện nay, đó là
nguyên tắc: "Toà án xét xử tập thể và quyết
định theo đa số" (Điều 131 Hiến pháp 1992)
và "Việc xét xử của toà án nhân dân có hội
thẩm nhân dân và của toà án quân sự có hội
thẩm quân nhân tham gia theo quy định của
pháp luật" (Điều 129 Hiến pháp 1992). Theo
pháp luật tố tụng hiện hành, hội đồng xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự có 01 thẩm
phán và 02 hội thẩm nhân dân. Hội đồng xét
xử sơ thẩm các vụ án kinh tế, lao động có 02
thẩm phán, 01 hội thẩm nhân dân. Để có thể
áp dụng thủ tục rút ngắn theo hớng đổi mới
nói trên cần có sự nghiên cứu sửa đổi Hiến

pháp và hệ thống pháp luật tố tụng điều
chỉnh hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của
các cơ quan t pháp, trong đó đặc biệt cần
sửa đổi các văn bản pháp luật có hiệu lực
pháp lí cao nh Hiến pháp, Bộ luật tố tụng
hình sự, Luật tổ chức toà án, Luật tổ chức
viện kiểm sát và Pháp lệnh điều tra hình sự
Vừa qua, tại kì họp thứ 9, trên cơ sở Tờ
trình số 310/UBTVQH10 ngày 18/5/2001
của Uỷ ban thờng vụ Quốc hội, Quốc hội đ
thảo luận và cho ý kiến về những vấn đề cần
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của
Hiến pháp năm 1992. Về nguyên tắc xét xử
tập thể của toà án nhân dân, bên cạnh việc
tiếp tục khẳng định nguyên tắc xét xử tập thể
đợc quy định trong Hiến pháp 1992, các đại
biểu đề nghị bổ sung quy định làm căn cứ để
cụ thể hoá trong luật việc xét xử theo thủ tục
rút gọn. Cụ thể, Uỷ ban dự thảo sửa đổi, bổ
sung một số điều của Hiến pháp năm 1992
đ đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 131 nh
sau:
"Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ
trờng hợp do luật định.
Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết
định theo đa số, trừ trờng hợp luật định
việc xét xử do một thẩm phán thực hiện".
(4)

Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với đề nghị

sửa đổi Điều 131 Hiến pháp 1992 của Uỷ
ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều
Hiến pháp năm 1992 theo hớng tạo cơ sở
pháp lí cho việc áp dụng thủ tục xét xử rút
gọn. Nhng để tạo cơ sở pháp lí cho việc áp
dụng thủ tục xét xử rút gọn một cách đồng
bộ và thống nhất, theo chúng tôi, cần phải
sửa đổi, bổ sung cả Điều 129 và Điều 131
Hiến pháp 1992, cụ thể nh sau:
- Điều 129: Việc xét xử của toà án nhân
dân có hội thẩm nhân dân và của toà án quân
sự có hội thẩm quân nhân tham gia, trừ
trờng hợp xét xử theo thủ tục rút gọn theo
quy định của pháp luật.
- Điều 131: Toà án nhân dân xét xử tập
thể và quyết định theo đa số, trừ trờng hợp
luật định xét xử theo thủ tục rút gọn do một
thẩm phán thực hiện.
Đây là vấn đề phức tạp nhng việc sửa
đổi Hiến pháp phù hợp với thực tiễn khách
quan, để làm cơ sở pháp lí cho việc đổi mới
tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
các cơ quan t pháp, mang lại lợi ích chung
cho đất nớc, theo chúng tôi là việc nên làm
và có thể thực hiện đợc./.

(1).Xem: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1996, tr. 132.
(2).Xem: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ơng Đảng khoá VIII, H. 1997, tr. 57.

(3). Nhà pháp luật Việt Pháp, Bộ luật tố tụng dân sự
của Cộng hòa Pháp, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.
1998.
(4). Xem: Báo Nhân dân số 16832, ngày 16/8/2001,
tr. 6.


gãp ý söa ®æi, bæ sung hiÕn ph¸p
T¹p chÝ luËt häc - 13



×