Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Pháp luật về đấu thầu qua mạng (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

BÙI XUÂN KHÁNH BÌNH

PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU QUA MẠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

BÙI XUÂN KHÁNH BÌNH

PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU QUA MẠNG

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN ĐÌNH HUY

TP. HỒ CHÍ MINH - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi; các số liệu, tư
liệu được sử dụng trong Luận văn là trung thực, có xuất xứ rõ ràng; những phát
hiện đưa ra trong Luận văn là kết quả nghiên cứu của chính tác giả Luận văn.
TÁC GIẢ

Bùi Xuân Khánh Bình


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐTQM

Đấu thầu qua mạng

BMT

Bên mời thầu

CĐT

Chủ đầu tư

E-HSDT

Hồ sơ dự thầu trong đấu thầu qua mạng

E-HSMT

Hồ sơ mời thầu trong đấu thầu qua mạng


E-TBMT

Thông báo mời thầu trong đấu thầu qua mạng

HSDT

Hồ sơ dự thầu

HSMT

Hồ sơ mời thầu

TBMT

Thông báo mời thầu


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Bảng 1. Lộ trình áp dụng đấu thầu qua mạng giai đoạn 2016 – 2018;
Biểu 1. Số lượng bên mời thầu/nhà thầu đăng ký trên Hệ thống mạng đấu thầu
quốc gia; Số lượng gói thầu đấu thầu qua mạng giai đoạn 2010 – 2018;
Biểu 2. Số lượng gói thầu chỉ có 01 nhà thầu tham gia và trúng thầu/tổng số
gói thầu đấu thầu qua mạng (ngày 17/9 – 17/10/2018);
Biểu 3. 03 đơn vị có tỷ lệ số gói thầu áp dụng hình thức chỉ định thầu cao nhất
cả nước năm 2017.


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1................................................................................................................5
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU THẦU QUA MẠNG ..............................5
1.1. Khái niệm và đặc điểm của đấu thầu qua mạng ...................................................5
1.1.1. Khái niệm về đấu thầu qua mạng ......................................................................5
1.1.2. Đặc điểm của đấu thầu qua mạng .....................................................................7
1.2. Sự cần thiết áp dụng đấu thầu qua mạng: ............................................................9
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng hệ thống pháp lý cho đấu thầu qua mạng ...14
1.3.1. Đấu thầu qua mạng ở Hàn Quốc (Hệ thống mạng KONEPS) ........................14
1.3.2. Đấu thầu qua mạng ở Philippines (Hệ thống mạng PhilGEPS) ......................16
1.3.3. Đấu thầu qua mạng ở Ukraina (Hệ thống mạng ProZorro) ............................18
1.3.4. Bài học xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam về đấu thầu qua mạng từ kinh
nghiệm của các nước .................................................................................................19
1.4. Quá trình hình thành và phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam về đấu thầu
qua mạng ...................................................................................................................21
1.4.1. Giai đoạn 2005 – 2011 ....................................................................................21
1.4.2. Giai đoạn 2012 – 2015 ....................................................................................23
1.4.3. Giai đoạn từ năm 2016 đến nay ......................................................................26
CHƢƠNG 2..............................................................................................................30
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU QUA MẠNG, THỰC TIỄN
THI HÀNH VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ......................................................30
2.1. Thực trạng pháp luật về đấu thầu qua mạng ......................................................30
2.1.1. Phạm vi áp dụng đấu thầu qua mạng ..............................................................30
2.1.2. Nguyên tắc áp dụng lựa chọn nhà thầu qua mạng ..........................................36


2.1.3. Quy trình lựa chọn nhà thầu qua mạng ...........................................................39
2.1.4. Về mẫu hóa hồ sơ mời thầu (dưới dạng webform) đối với các gói thầu áp

dụng đấu thầu qua mạng ...........................................................................................43
2.1.5. Trách nhiệm của các bên trong đấu thầu qua mạng ........................................44
2.1.6. Lộ trình lựa chọn nhà thầu qua mạng..............................................................46
2.2. Thực tiễn áp dụng đấu thầu qua mạng ...............................................................48
2.2.1. Về kết quả áp dụng đấu thầu qua mạng theo lộ trình quy định ......................48
2.2.2. Về số lượng nhà thầu đăng ký tham gia Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia ...50
2.2.3. Về hình thức bảo đảm dự thầu trong đấu thầu qua mạng ...............................52
2.2.4. Quy trình đánh giá ngược E-HSDT ................................................................53
2.2.5. Tình trạng “bỏ thầu”, “đấu thầu thử” trong đấu thầu qua mạng .....................54
2.2.6. Đấu thầu qua mạng chưa được điện tử hố hồn tồn ....................................55
2.2.7. Năng lực của chủ đầu tư, bên mời thầu và tư vấn đấu thầu cịn chưa đáp ứng
u cầu.......................................................................................................................55
2.2.8. Cơng tác thanh tra, kiểm tra về đấu thầu chưa được thực hiện thường xuyên,
chuyên sâu về đấu thầu; chưa có chế tài xử lý tình trạng khơng áp dụng hoặc áp
dụng đấu thầu qua mạng nhưng khơng đáp ứng về lộ trình quy định .......................56
2.2.9. Hạ tầng kỹ thuật, công nghệ thông tin chưa thật sự là một trụ cột vững chắc
để xây dựng hệ thống pháp luật đối với đấu thầu qua mạng .....................................59
2.3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu thầu qua mạng tại Việt
Nam ...........................................................................................................................60
2.3.1. Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về đấu thầu qua mạng ................60
2.3.2. Cần bổ sung và hoàn thiện liên tục khung pháp lý theo hướng đơn giản hóa
các thủ tục hành chính ...............................................................................................62
2.3.3. Hồn thiện các quy định của pháp luật nhằm nâng cao năng lực của các chủ
thể tham gia đấu thầu qua mạng ................................................................................64
2.3.4. Giải pháp hoàn thiện quy định về bảo lãnh dự thầu khi đấu thầu qua mạng ..65
KẾT LUẬN ..............................................................................................................69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................71


PHỤ LỤC .................................................................................................................75



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đấu thầu là một trong những phương thức kinh doanh có hiệu quả cao, góp
phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mang lại nhiều lợi ích to lớn cho nền kinh tế quốc
dân. Đối với mỗi quốc gia, việc thiết lập một hệ thống đấu thầu công hiệu quả là rất
quan trọng để đảm bảo sự phân bổ nguồn lực có hạn của Chính phủ. Để đạt được
mục tiêu này, một trong những xu thế tất yếu là áp dụng đấu thầu qua mạng. Ngồi
tiết kiệm thời gian, chi phí và nhân lực, phương thức này cịn tạo mơi trường cạnh
tranh, công bằng và minh bạch, đảm bảo lựa chọn nhà thầu đáp ứng đủ năng lực,
triệt tiêu được vấn nạn đấu thầu “tù mù” hay lợi dụng việc “quân xanh, quân đỏ” để
trúng thầu.
Tại Việt Nam, việc thí điểm đấu thầu qua mạng được khuyến khích triển
khai thực hiện từ cuối năm 2009. Đến năm 2016, đấu thầu qua mạng bắt đầu được
thực hiện theo lộ trình bắt buộc trên phạm vi cả nước, đây là một bước tiến vượt bậc
trong việc triển khai để các chủ đầu tư (CĐT)/bên mời thầu (BMT) nghiêm túc áp
dụng phương thức này vào thực tiễn. Tuy nhiên, nếu so với tổng giá trị các gói thầu
thực hiện theo Luật Đấu thầu hàng năm, kết quả áp dụng đấu thầu qua mạng chỉ
dừng lại ở con số rất nhỏ, thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu theo quy định của lộ trình.
Đồng thời trên thực tế, việc áp dụng cũng không đồng đều giữa các đơn vị, thậm chí
nhiều tập đồn, tổng cơng ty, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố chưa có bất cứ gói
thầu nào được đấu thầu qua mạng.
Do đó, để tạo thuận lợi tối đa và thu hút sự tham gia của các đơn vị, việc
nghiên cứu hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu thầu qua mạng tại nước ta là cần
thiết và cấp bách. Hiệu quả của phương thức này sẽ phát huy tối đa hơn nữa nếu
chúng ta nhìn nhận được những khiếm khuyết, bất cập của các quy định hiện hành;
đúc kết kinh nghiệm xây dựng, triển khai thực hiện đấu thầu điện tử của một số

nước để từ đó nghiên cứu hồn thiện một hành lang pháp lý đảm bảo hiệu quả tối
ưu cho công tác đấu thầu qua mạng tại Việt Nam trong thời gian tới. Từ tính cấp
thiết và hữu dụng của vấn đề, tôi quyết định lựa chọn đề tài cho luận văn của mình


2

như sau: “Pháp luật về đấu thầu qua mạng”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Đấu thầu qua mạng là một nội dung khá mới mẻ nhưng nhận được khá
nhiều sự quan tâm từ xã hội. Đến nay, nhiều đề tài khoa học, luận văn, bài báo, bài
viết trên tạp chí đã đã đề cập một cách trực tiếp hoặc lồng ghép những nội dung liên
quan. Hầu hết các cơng trình nghiên cứu trong thời gian qua đều tập trung phân tích,
khai thác vấn đề này từ nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau, đánh giá trên cơ sở
nhu cầu phát triển thực tế để từ đó đưa ra định hướng, giải pháp nhất định.
- Luận văn Thạc sĩ năm 2007 của tác giả Trương Thị Hương Giang về “Đấu
thầu qua mạng tại Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”; Luận văn
Thạc sĩ năm 2009 của tác giả Trần Thị Đông Anh về “Pháp luật về đấu thầu điện tử
của một số nước, kinh nghiệm và khả năng áp dụng ở Việt Nam” tập trung nghiên
cứu các quy định về đấu thầu điện tử trong các văn bản pháp luật của một số nước
như Hàn Quốc, Anh, Philippin, các quy định của Liên hợp quốc có liên quan đến
đấu thầu điện tử, trên có sở đó so sánh khung pháp lý về đấu thầu điện tử của Việt
Nam để đánh giá, rút ra bài học kinh nghiệm và đề ra giải pháp hoàn thiện.
- Luận văn Thạc sĩ năm 2009 của tác giả Nguyễn Như Trọng về “Nâng cao
hiệu quả hoạt động đấu thầu ở Việt Nam thông qua việc ứng dụng đấu thầu qua
mạng” đã nêu rõ mơ hình áp dụng và q trình, lộ trình triển khai đấu thầu qua
mạng tại Việt Nam trong giai đoạn quá độ chuyển đổi từ đấu thầu truyền thống sang
đấu thầu qua mạng từ nhiều khía cạnh (hạ tầng mạng thông tin, liên kết trong quản
lý nhà nước, xây dựng hệ thống pháp lý…), từ đó đưa ra các biện pháp triển khai
thành công phương thức này.

- Luận văn Thạc sĩ năm 2013 của tác giả Nghiêm Ngọc Dũng về “Nghiên
cứu thực trạng và ứng dụng đấu thầu điện tử tại việt Nam trong lĩnh vực mua sắm
chính phủ” phân tích kết quả triển khai thí điểm hệ thống đấu thầu điện tử tại Việt
Nam trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2012, đánh giá khả năng ứng dụng đấu
thầu điện tử trong lĩnh vực mua sắm chính phủ và đề xuất phương án triển khai phù
hợp với tình hình thực tế.


3

Tuy nhiên, trong bối cảnh Luật Đấu thầu năm 2013 và các Nghị định,
Thơng tư hướng dẫn có hiệu lực thi hành thì tính thời sự của các cơng trình nêu trên
đã khơng cịn phù hợp.
Gần đây nhất là Luận văn Thạc sĩ năm 2018 của tác giả Đoàn Ngọc Bích về
“Thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt động đấu thầu qua mạng tại Việt Nam”. Đề
tài đã nêu rõ ưu điểm và hạn chế của mua sắm thương mại điện tử nói chung và đấu
thầu qua mạng nói riêng; từ đó đánh giá thực trạng triển khai tại Việt Nam và đề
xuất các biện pháp về khuôn khổ pháp lý, hạ tầng công nghệ thông tin, đội ngũ cán
bộ quản lý, cơng tác giám sát, kiểm sốt rủi ro nhằm hồn thành lộ trình triển khai
đấu thầu qua mạng trong tương lai. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật chỉ là một khía
cạnh của cơng trình nên chưa được nghiên cứu sâu và đánh giá cụ thể.
Ngoài các, nội dung về đấu thầu qua mạng còn được đề cập trong báo cáo
đấu thầu định kỳ hàng năm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bài báo, bài viết trên
Báo Đấu thầu, trang thơng tin điện tử cũng góp phần nâng cao nhận thức về phương
thức này.
Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu liên quan, luận văn sẽ tập trung
nghiên cứu sâu vào những vấn đề lý luận, thực trạng pháp luật Việt Nam về đấu
thầu qua mạng và thực tiễn áp dụng trong giai đoạn hiện nay để từ đó đưa ra các
giải pháp hồn thiện trong thời gian tới.
3. Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài có mục đích làm rõ nền tảng lý luận pháp luật về đấu thầu qua mạng;
trên cơ sở đó phân tích thực trạng các quy định pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp
dụng để tìm ra những bất cập, nguyên nhân của những bất cập nhằm tới việc kiến
nghị hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này cả về phương diện lập pháp và thực thi.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống quy phạm pháp luật hiện
hành điều chỉnh về đấu thầu lựa chọn nhà thầu qua mạng tại Việt Nam và thực tiễn
áp dụng các quy định này.


4

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nội dung các quy định về đấu thầu qua
mạng theo quy định của Luật Đấu thầu năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi
hành.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích, phương pháp bình luận,
phương pháp diễn giải… được sử dụng tại Chương 1 khi nghiên cứu cơ sở lý luận
và pháp luật về đấu thầu qua mạng.
- Phương pháp so sánh, phương pháp đánh giá, phương pháp tổng hợp,
phương pháp lập luận logic… được sử dụng tại Chương 2, Chương 3 khi nghiên
cứu chi tiết quy định pháp luật Việt Nam về đấu thầu qua mạng, thực tiễn áp dụng
và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi các quy định về đấu thầu qua mạng
tại Việt Nam
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
kết cấu thành 2 chương, bao gồm:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về đấu thầu qua mạng;
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về đấu thầu qua mạng; thực tiễn thi hành
và kiến nghị hoàn thiện.



5

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU THẦU QUA MẠNG
1.1. Khái niệm và đặc điểm của đấu thầu qua mạng
1.1.1. Khái niệm về đấu thầu qua mạng
Trước đây, khi nền kinh tế Việt Nam còn ở chế độ bao cấp, người mua khơng
có quyền lựa chọn những hàng hóa phù hợp, thậm chí phải mua hàng dưới hình
thức tem phiếu. Chỉ đến khi nền kinh tế Việt Nam theo chế độ kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa thì tính cạnh tranh xuất hiện; những người bán hàng
hóa, dịch vụ ln có sự cọ xát để tranh dành người mua. Trên cơ sở đó, hoạt động
đấu thầu xuất hiện, khái niệm về đấu thầu cũng dần được hình thành và chấp nhận
như một điều tất yếu.
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Đấu thầu là phương thức giao dịch đặc biệt
trong mua sắm hàng hóa và cơng trình xây dựng, và người bán sẽ công bố giá để
người mua lựa chọn”1. Theo từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
thuật ngữ đấu thầu xuất hiện rất sớm và được định nghĩa “là tranh nhau làm một
cơng trình kiến thiết, ai nhận với giá rẻ nhất thì được làm” 2. Theo Từ điển Luật học
của Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, “Phương thức giao dịch đặc biệt, người
muốn xây dựng một cơng trình (người gọi thầu) công bố trước các yêu cầu và điều
kiện xây dựng cơng trình, người dự thầu cơng bố giá mà mình muốn nhận, người
gọi thầu qua so sánh để lựa chọn nhà thầu có lợi nhất cho mình theo các điều kiện
do mình đưa ra”3. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “Đấu thầu là phương thức
giao dịch đặc biệt, theo đó người muốn xây dựng một cơng trình (người gọi thầu)
cơng bố trước các u cầu và điều kiện xây dựng cơng trình để người nhận xây
dựng cơng trình (người dự thầu) cơng bố giá mà mình muốn nhận. Người gọi thầu
sẽ lựa chọn người chủ thầu nào phù hợp với điều kiện của mình, và giá thấp hơn.
Phương thức đấu thầu được áp dụng tương đối phổ biến trong việc mua sắm tài sản


1

Đại từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa.
Từ điển tiếng Việt (1967), Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
3
Viện Khoa học pháp lý, Từ điển Luật học (2006), Nhà xuất bản Từ điển bách khoa và Nhà xuất bản Tư
pháp.
2


6

và xây dựng các cơng trình tư nhân và Nhà nước”4. Đây là các định nghĩa khái
niệm đấu thầu được sử dụng trong đời sống thường nhật theo nhận thức chung của
xã hội, phần nào chỉ ra được những đặc điểm cốt yếu của đấu thầu; tuy nhiên các
khái niệm này giới hạn đấu thầu chỉ dành cho lĩnh vực xây lắp, là một phần trong
những hoạt động đấu thầu ngày nay thực hiện.
Luật Đấu thầu 2013 được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thơng qua ngày 26 tháng 11 năm 2013 đã đưa ra một định nghĩa có tính chất pháp
lý: Đấu thầu là q trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng cung
cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp trên cơ sở bảo
đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế (Khoản 12 Điều 4 Luật
Đấu thầu 2013).
Như vậy có thể thấy, các định nghĩa trên dù ở góc độ pháp lý, học thuật hay
thơng dụng thì đều hướng tới việc chỉ ra rằng: Bản chất của đấu thầu là hoạt động
mua bán đặc biệt được thực hiện cơng khai theo một quy trình nhất định. Thơng qua
đấu thầu, người mua (CĐT, BMT) sẽ lựa chọn được người bán (nhà thầu) tốt nhất;
đảm bảo các hàng hóa, dịch vụ được cung cấp thỏa mãn các yêu cầu của mình về kĩ
thuật, chất lượng và chi phí thấp nhất. Về phía các nhà thầu sẽ cạnh tranh lành mạnh

với nhau để giành được quyền cung cấp các hàng hóa, dịch vụ đó với giá đủ bù đắp
các chi phí đầu vào và đảm bảo mức lợi nhuận cao nhất có thể.
Hiện nay, Việt Nam đang từng bước theo đuổi cuộc Cách mạng Công nghiệp
4.0 – nơi yếu tố ranh giới, khơng gian địa lý gần như bị xố bỏ; thay vào đó là nền
tảng tự động hố, số hố và mang tính chất kết nối giữa thực và ảo. Trong bối cảnh
các hệ thống công nghiệp 4.0 dần thay thế những hình thức kinh doanh, mua bán và
trao đổi truyền thống, ĐTQM nằm trong tiến trình phát triển và là xu thế tất yếu
trong cuộc cách mạng này tại nước ta.
Về khái niệm ĐTQM, Khoản 13 Điều 4 Luật Đấu thầu 2013 quy định như sau:
“ĐTQM là đấu thầu được thực hiện thông qua việc sử dụng hệ thống mạng đấu
thầu quốc gia”.
4

Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005, tái bản 2011), Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa.


7

Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia được Khoản 26 Điều 4 Luật Đấu thầu 2013
quy định “là hệ thống công nghệ thông tin do cơ quan quản lý nhà nước về hoạt
động đấu thầu xây dựng và quản lý nhằm mục đích thống nhất quản lý thơng tin về
đấu thầu và thực hiện ĐTQM”. Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia là hệ thống công
nghệ thông tin do Cục Quản lý đấu thầu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng, quản lý
và vận hành có địa chỉ nhằm mục đích thống nhất
quản lý thơng tin về đấu thầu và thực hiện ĐTQM5. Như vậy, đây là một cổng thơng
tin điện tử duy nhất trên tồn quốc thực hiện hai chức năng: thống nhất quản lý
thông tin về đấu thầu và ĐTQM.
Như vậy, ĐTQM là quá trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp
đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp thơng
qua việc sử dụng Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia tại địa chỉ

. Tất cả các thông tin, cơ sở dữ liệu liên quan đến
quá trình lựa chọn nhà thầu, ký kết và thực hiện hợp đồng phải được quản lý, đăng
tải đầy đủ và công khai trên Hệ thống này. Việc triển khai áp dụng ĐTQM phải phát
triển đồng bộ các khía cạnh: Xây dựng khung pháp lý, thể chế; phát triển hệ thống
hạ tầng kỹ thuật; quản trị sự thay đổi, đào tạo nâng cao năng lực, tuyên truyền
quảng bá và đặc biệt chú trọng sự tham gia đầy đủ của các bên có liên quan6.
1.1.2. Đặc điểm của đấu thầu qua mạng
Thứ nhất, trong ĐTQM, mọi giao dịch được thực hiện hoàn toàn qua mạng
internet; sự phát triển của ĐTQM gắn liền và tác động qua lại với sự phát triển của
công nghệ thông tin. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa đấu thầu truyền thống và
ĐTQM. ĐTQM là việc ứng dụng công nghệ thông tin để tổ chức lựa chọn nhà thầu
trực tuyến; từng bước lựa chọn nhà thầu (đăng tải thông báo mời thầu (TBMT), phát
hành hồ sơ mời thầu (HSMT), đánh giá hồ sơ dự thầu (HSDT), thông báo kết quả
lựa chọn nhà thầu…) đều được thực hiện thơng qua Internet. Vì lẽ đó mà càng nâng
cấp hạ tầng cơng nghệ thơng tin thì ĐTQM càng phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên
5

Liên Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Bộ Tài chính (2015) hướng dẫn chi tiết về Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia
tại Việt Nam.
6
Thủ tướng Chính phủ (2016) trình bày các quan điểm về đấu thầu qua mạng trong giai đoạn 2016 – 2025.


8

ngược lại, sự phát triển của ĐTQM cũng thúc đẩy và gợi mở nhiều lĩnh vực của
công nghệ thông tin như xây dựng phần cứng và phần mềm chuyên dụng cho các
ứng dụng, dịch vụ thanh toán, đẩy mạnh sản xuất trong lĩnh vực như máy tính, thiết
bị viễn thơng, thiết bị mạng…
Thứ hai, ĐTQM phải có ít nhất 03 chủ thể tham gia. Đối với đấu thầu truyền

thống, số lượng chủ thể tham gia giao dịch cần đảm bảo ít nhất 02 chủ thể là người
mua (BMT) và người bán (nhà thầu). Tuy nhiên trong ĐTQM, không thể thiếu được
sự tham gia của bên thứ ba là các cơ quan cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng
thực, đây là những người tạo môi trường cho BMT và nhà thầu thực hiện các giao
dịch. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan quản lý có nhiệm vụ truyền đi, lưu giữ
thông tin giữa các bên, đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin
trong ĐTQM. Bên cạnh đó, cịn có thể có sự tham gia của các chủ thể trung gian
như đơn vị tư vấn, tổ chuyên gia, CĐT, chủ sở hữu vốn, đơn vị tài trợ, cho vay
vốn…
Thứ ba, ĐTQM khơng có khoảng cách vật lý về không gian và thời gian. Điều
này thể hiện ở chỗ mọi tổ chức, cá nhân trên khắp tồn cầu khơng phải di chuyển tới
bất kì địa điểm nào mà vẫn có thể tham gia đấu thầu thơng qua mạng internet. Các
giao dịch có thể tiến hành suốt 24 giờ 7 ngày trong vòng 365 ngày liên tục ở bất cứ
nơi nào có mạng viễn thơng và có các phương tiện điện tử kết nối với các mạng này.
Thứ tư, thị trường giao dịch của ĐTQM là một hệ thống thông tin thống nhất.
Hệ thống thông tin này có một địa chỉ website cụ thể, được cơng bố cơng khai với
tồn xã hội. Các tổ chức, cá nhân chỉ cần truy cập vào địa chỉ này để tiếp cận được
với tất cả các thông tin trong đấu thầu (kế hoạch lựa chọn nhà thầu, thông báo mời
thầu, kết quả lựa chọn nhà thầu…). Mọi dữ liệu trong đấu thầu đều được xác thực,
bảo mật và quản lý chặt chẽ theo đúng quy định của Nhà nước7. Tại Việt Nam, hệ
thống thông tin này là Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia (tại địa chỉ
), nơi mà các cuộc thầu được quản lý và thực hiện
theo đúng quy trình, thủ tục do Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định.
7

Hồng Ngọc Bích (2018, 19) chỉ ra rằng “Mọi dữ liệu trong đấu thầu đều được xác thực, bảo mật và quản lý
chặt chẽ theo đúng quy định của Nhà nước”.


9


1.2. Sự cần thiết áp dụng đấu thầu qua mạng:
Xuất phát từ đặc điểm là một hình thức giao dịch trực tuyến không giới hạn về
không gian và thời gian giao dịch, ĐTQM là công cụ hữu hiệu nhất để tăng cường
hiệu quả mua sắm cơng của chính phủ; cụ thể như sau:
Thứ nhất, ĐTQM giúp thống nhất về quản lý đối với hoạt động đấu thầu trên
phạm vi cả nước. Trong đấu thầu truyền thống, hoạt động mua sắm các dịch vụ tư
vấn, phi tư vấn, hàng hóa, xây lắp phân tán ở rất nhiều nơi. Các cơ quan quản lý nhà
nước chỉ tiếp xúc với những thông tin của q trình lựa chọn nhà thầu một gói thầu
thơng qua báo cáo bằng văn bản của CĐT hoặc thông qua những cuộc thanh tra,
kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất. Đối với ĐTQM, việc thị trường giao dịch là một hệ
thống thơng tin thống nhất góp phần giúp mọi thông tin về đấu thầu trên phạm vi cả
nước được quy về một đầu mối; tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước
trong công tác quản lý, nâng cao khả năng giám sát, thống kê hiệu quả cơng tác đấu
thầu. Điều này đưa đến một cái nhìn tồn cảnh để xây dựng quy trình đấu thầu dần
theo đúng chuẩn môi trường hiện đại hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng vẫn đảm bảo
thực hiện nghiêm túc và tuân thủ chặt chẽ hơn nữa các quy định của Nhà nước và
pháp luật trong nước. Bên cạnh đó, đây cũng là cơ hội để tích hợp với các hệ thống
khác của Chính phủ như hệ thống tài chính; giúp tiến hành đơn giản hóa, cải cách
thủ tục hành chính, loại bỏ các công việc lặp đi lặp lại và rút ngắn được chu trình
mua sắm.
Thứ hai, ĐTQM tạo cơ hội kinh doanh không giới hạn cho doanh nghiệp, đặc
biệt là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Một trong những khó khăn của các doanh
nghiệp khi muốn mở rộng thị trường hoạt động sang lĩnh vực mua sắm công, đó là
việc tiếp cận thơng tin dự án. Trong đấu thầu truyền thống, các doanh nghiệp phải
tìm kiếm cơ hội đấu thầu thông qua việc đọc báo, bản tin đấu thầu, trang web của
các cơ quan, tổ chức. Đối với ĐTQM, nhà thầu chỉ cần đăng ký hồ sơ thành viên để
tiếp cận với hàng ngàn cơ hội kinh doanh từ các dự án mua sắm công trên cả nước,
trong tất cả các lĩnh vực mua sắm hàng hoá, xây lắp, tư vấn và phi tư vấn thông qua
một đầu mối quy nhất - Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia. Hệ thống này hoạt động



10

tương tự sàn thương mại điện tử giúp kết nối doanh nghiệp với CĐT các dự án mua
sắm công nhanh chóng, tiện lợi; loại bỏ hồn tồn khoảng cách về thời gian và địa
lý.
Nhiều doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ dù muốn tham gia thầu và có năng lực triển
khai các gói thầu tuy nhiên trở ngại lớn nhất để họ tham gia là họ khơng có niềm tin
rằng các gói thầu được đấu thầu minh bạch, bởi vì thực tế là họ đang phải làm "sân
sau" cho rất nhiều doanh nghiệp có quan hệ và hầu hết các gói thầu họ đang thực
hiện đều "nghe nói" có sự dàn xếp nhất định.
Với ĐTQM, nhà thầu chỉ cần có thiết bị kết nối Internet là có thể dễ dàng tải
miễn phí HSMT được đăng tải công khai trên Hệ thống, lập và nộp HSDT qua Hệ
thống. Việc này cũng giúp tăng cơ hội tham gia cho những nhà thầu mới tham gia
thị trường là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí là siêu nhỏ cũng có thể tham
gia. Chỉ cần vượt được rào cản tâm lý này và tham gia thị trường, thấy được sự
minh bạch, dù trúng dù trượt các doanh nghiệp này sẽ dần vượt qua mặc cảm và có
niềm tin vào thị trường.
Thứ ba, ĐTQM giúp tăng cường tính cạnh tranh, cơng bằng, cơng khai và
minh bạch. Hiện nay, hiện tượng “đấu thầu nội bộ” đang là vấn nạn trong quá trình
đấu thầu truyền thống. Đối với các gói thầu được cấp có thẩm quyền phê duyệt hình
thức đấu thầu rộng rãi thì trên thực tế, CĐT vẫn cố ý tổ chức lựa chọn với “bản
chất” là chỉ định cho một nhà thầu duy nhất. Do đó, xuất hiện khơng ít trường hợp
BMT cố ý đăng thơng tin đấu thầu trên các tờ báo địa phương ít được chú ý với thời
hạn ngắn (đối với các dự án không bắt buộc đăng thông tin trên báo Đấu thầu) hoặc
gây khó dễ cho các nhà thầu khi muốn mua HSMT (chặn đường đe dọa, ngừng bán
do chưa kịp photo HSMT, người phụ trách đi vắng…). Về phía nhà thầu cũng xuất
hiện tình trạng liên kết với nhau, ép phe “quân xanh, quân đỏ”, đẩy giá thầu lên cao.
Việc “đi đêm” của các nhà thầu bây giờ đã trở nên quá phổ biến, nhưng đến nay vẫn

chưa tìm ra được giải pháp xử lý triệt để, chưa có một cơ chế giám sát và kiểm tra
hiệu quả để ngăn chặn tình trạng này.


11

Đến với ĐTQM, tồn bộ thơng tin trong đấu thầu từ kế hoạch lựa chọn nhà
thầu, thông báo sơ tuyển, TBMT, HSMT, biên bản mở thầu đến kết quả lựa chọn
nhà thầu đều được đăng tải công khai và dễ dàng tiếp cận trên Hệ thống. Bất kỳ nhà
thầu nào có đăng ký tham gia Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia đều có thể chủ
động tiếp nhận thơng tin mời thầu ngay sau khi nên mời thầu đăng tải thơng báo
mời thầu. Do đó khơng hạn chế số lượng nhà thầu tham gia, tránh tình trạng nhà
thầu phải chờ đợi hoặc khiếu kiện khi mua HSMT; loại bỏ hoàn tồn việc BMT
đăng tải thơng tin “lấy lệ” nhằm ngăn cản nhà thầu mua HSMT.
Bên cạnh đó, trong ĐTQM, tồn bộ giao dịch giữa nhà thầu và BMT được
thực hiện thơng qua hệ thống, khơng có sự tiếp xúc trực tiếp trong tồn bộ q trình
đấu thầu. Đặc biệt, chỉ đến thời điểm mở thầu thì số lượng và thơng tin của các nhà
thầu mới được công khai; không bên nào (kể cả BMT hay nhà quản trị Hệ thống) có
thể biết được nhà thầu nào nộp thầu cho đến khi mở thầu.
Như vậy, ĐTQM sẽ giúp loại bỏ hoàn tồn tình trạng thơng thầu, qn xanh qn đỏ xuất hiện phổ biến tại một số gói thầu đấu thầu truyền thống. Môi trường
công bằng, công khai và minh bạch về thông tin được thiết lập; số lượng nhà thầu
quan tâm và tham dự thầu sẽ tăng cao, đẩy mạnh tính cạnh tranh – một đặc tính
quan trọng và là cốt lõi của hoạt động đấu thầu. Mọi quy trình đấu thầu đều lưu lại
trên hệ thống nên khi tham gia các bên sẽ nghiêm túc và cẩn trọng hơn, giúp nâng
cao trách nhiệm giải trình của CĐT và nhà thầu.
Thứ tư, ĐTQM giúp đơn giản hóa thủ tục hành chính, tiết kiệm nguồn lực về
thời gian, nhân cơng và tiền bạc. So với đấu thầu truyền thống, ĐTQM đơn giản
hơn về mặt thủ tục (như mua HSMT, nộp HSDT, họp mở thầu…). Chỉ cần là thành
viên của hệ thống và một chiếc máy tính được kết nối internet, nhà thầu có thể tham
gia đấu thầu ở bất cứ đâu. Hiện nay, Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia không chỉ

được thiết lập trên phiên bản web mà còn được ứng dụng điện tử trên nền tảng IOS,
Android và Window. Có chỉ dẫn thực hiện chi tiết để lập HSMT, HSDT, các biểu
mẫu trực tuyến có khả năng liên kết thơng tin với nhau nên mọi quy trình, từ mua
hồ sơ, nộp hồ sơ, theo dõi kết quả… đều được thực hiện hoàn toàn qua mạng chỉ


12

sau vài cú nhấp chuột.
Về mặt chi phí, ĐTQM mang lại hiệu quả đối với cả hai bên: nhà thầu và
BMT. BMT thì có được giá tốt hơn và giảm thiểu chi phí giao dịch, cắt giảm các chi
phí nhân sự và giảm chi phí ngân sách. Trong khi với nhà thầu thì họ giảm được chi
phí cho các cuộc đấu thầu như chi phí đi lại, in ấn, di chuyển, lưu trú để mua và nộp
hồ sơ…; ngoài ra họ cũng giảm được chi phí nhân sự đi giao dịch bởi việc bán hàng
đã được thực hiện qua hình thức ĐTQM, do đó cải thiện được dịng tiền của doanh
nghiệp.
Ngồi ra, do mọi thơng tin, q trình đấu thầu được diễn ra trên hệ thống mạng
nên sẽ dễ dàng, tiết kiệm hơn cho công tác quản lý - lưu trữ - bảo quản - tra cứu báo cáo trong cơng tác đấu thầu. Tính cơng bằng, cơng khai, minh bạch của ĐTQM
sẽ giúp giảm thiểu những khiếu nại, vướng mắc của các nhà thầu; tránh tình trạng
phải bỏ nhiều công sức, tiền của để giải quyết và thành lập các đơn vị thanh tra
nhưng hiệu quả vẫn không đáng kể, thậm chí gây bất bình đối với các nhà thầu chân
chính.
Thứ năm, ĐTQM giúp tăng cường tính giám sát của cộng đồng đối với quá
trình lựa chọn nhà thầu. Cùng với sự trợ giúp của ĐTQM, toàn bộ quá trình đấu
thầu có thể được giám sát bởi bất kỳ ai quan tâm. Nói cách khác, những quy trình,
quyết định và kết quả của hoạt động đấu thầu có thể được quan sát một cách trực
tuyến bởi các cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng và những nhà cung cấp tiềm
năng. Chính sự minh bạch và dễ dàng trong quản lý của ĐTQM làm gia tăng tính
trách nhiệm và hiệu quả của những bộ phận tham gia vào quá trình đấu thầu. Nó
cũng khuyến khích những nhà cung cấp mới tham gia vào hoạt động đấu thầu và gia

tăng niềm tin của cả cộng đồng nhằm thúc đẩy sự cạnh tranh8.
Công tác đánh giá, giám sát, thẩm định, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, thanh
toán sẽ thực hiện dễ dàng hơn vì có thể tra cứu, xem văn bản điện tử tương ứng trên
hệ thống; chỉ trừ trường hợp cần kiểm tra, xác nhận văn bản gốc đối với các văn bản
8

Nguyễn Như Trọng (2009) chỉ ra rằng “Chính sự minh bạch và dễ dàng trong quản lý của đấu thầu qua
mạng làm gia tăng tính trách nhiệm và hiệu quả của những bộ phận tham gia vào quá trình đấu thầu. Nó cũng
khuyến khích những nhà cung cấp mới tham gia vào hoạt động đấu thầu và gia tăng niềm tin của cả cộng
đồng nhằm thúc đẩy sự cạnh tranh”.


13

không thể phát hành dưới dạng điện tử (như giấy bảo lãnh, hợp đồng tương tự, báo
cáo tài chính đã được kiểm toán…).
Thứ sáu, ĐTQM là xu hướng tất yếu, đồng hành phát triển trên toàn thế giới.
ĐTQM đã trở thành xu hướng chung của các quốc gia trên thế giới. Các nước phát
triển như Mỹ, Nhật Bản hay các nước châu Âu đã đưa ĐTQM vào ứng dụng từ rất
sớm. Một số nước tiên tiến đã bắt đầu triển khai ĐTQM từ gần 30 năm trước, trước
khi internet và web trở thành kênh truyền thơng chính yếu để trao đổi và truyền bá
thơng tin.
Cũng theo báo cáo này, chính sách đấu thầu điện tử đã giúp Canada tiết kiệm
được hơn 6 triệu đô la mỗi năm9. Từ cuối những năm 1990, chính phủ Hàn Quốc đã
chi hàng triệu đơ la nhằm cải tiến hệ thống ĐTQM - KONEPS để có được một hệ
thống tích hợp tồn diện như hiện nay; đưa Hàn Quốc trở thành một trong những
quốc gia châu Á áp dụng thành công ĐTQM. Hay như Bangladesh - quốc gia có
điều kiện phát triển kinh tế tương đồng Việt Nam, năm 2006 Chính phủ nước này
đã phê duyệt hướng dẫn về ĐTQM; năm 2011 hệ thống mạng đấu thầu được đưa
vào sử dụng và đạt được những bước tiến nhất định.

Đối với những nước đang phát triển, giải pháp điện tử hóa q trình đấu thầu
khiến nó trở nên thương mại hóa hơn, từ đó thúc đẩy sức sản xuất và cạnh tranh,
chống lại cơ chế độc quyền, giảm thiểu những rào cản gia nhập thị trường, làm cho
tồn bộ nền kinh tế nói chung và nền kinh tế từng khu vực nói riêng phát triển. Điều
đó thiết lập nền tảng cho đầu tư công trở nên cơng bằng, cân bằng và hiệu quả hơn.
Do vậy, nó giúp những quốc gia đang phát triển tiến lên một nấc mới trong quá
trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và tồn cầu.
Có thể thấy, ĐTQM đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế hiện
đại bởi nó khắc phục được các nhược điểm của đấu thầu truyền thống; thể hiện ở
các chỉ tiêu về tăng tính cạnh tranh, tỷ lệ tiết kiệm cao, giảm thời gian chuẩn bị hồ
sơ, giảm chi phí đi lại, chi phí in ấn của nhà thầu, BMT. Khi ĐTQM được áp dụng
9

Báo Đầu tư (trích dẫn trong Báo cáo của Liên Hiệp Quốc (2011) chỉ ra rằng “Canada đã bắt đầu phát triển
hệ thống đấu thầu qua mạng cách đây từ hơn 20 năm trước khi chính phủ cắt giảm ngân sách. Cũng theo báo
cáo của Liên Hợp Quốc, chính sách này đã giúp Canada tiết kiệm được hơn 6 triệu đô la mỗi năm”.


14

rộng rãi, chi phí xã hội, chi phí doanh nghiệp sẽ giảm rất lớn. Nếu đấu thầu có vai
trị đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì ĐTQM là một giải pháp mới cho Chính
phủ điện tử trong lĩnh vực đấu thầu tại Việt Nam. Hiện nay, nước ta đã hội đủ 03
yếu tố cốt lõi để làm cơ sở xây dựng hệ sinh thái cho ĐTQM; đó chính là hành lang
pháp lý (khuôn khổ pháp lý rộng mở), Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia (công cụ
với những lợi ích thiết thực) và con người (sự chuyển dịch đầy khả quan).
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng hệ thống pháp lý cho đấu thầu qua
mạng
1.3.1. Đấu thầu qua mạng ở Hàn Quốc (Hệ thống mạng KONEPS)
Hàn Quốc được biết đến là quốc gia có nền chính phủ điện tử rất phát triển;

đây cũng chính là cơ sở để quốc gia này thúc đẩy hệ thống mua sắm cơng điện tử,
trở thành hình mẫu để nhiều quốc gia học tập kinh nghiệm.
Năm 1994, Luật Mua sắm chính phủ (Government Procurement Act) được ban
hành và sửa đổi vào năm 2004; tạo cơ sở pháp lý đầu tiên cho hoạt động mua sắm
cơng nói chung và mua sắm điện tử nói riêng tại Hàn Quốc, bước đầu tăng cường
minh bạch hóa và nâng cao hiệu quả của hoạt động mua sắm chính phủ.
Cùng với sự ra đời của Luật, Hàn Quốc cũng ban hành Nghị định hướng dẫn
thi hành Luật Mua sắm chính phủ (Enforcement Decree of Act on Government
Procurement) vào năm 1994 và sửa đổi vào các năm 1998, 2002 và 2004 nhằm cụ
thể hóa các quy định trong Luật.
Bên cạnh đó, Hàn Quốc cũng ban hành Luật Giao dịch điện tử (Electronic
Transactions Act) và Luật Chữ ký điện tử (Electronic Signature Act) nhằm xác định
rõ quan hệ pháp luật trong giao dịch điện tử, bảo đảm tính an toàn và độ tin cậy của
chữ ký điện tử và giao dịch điện tử; tạo cơ sở thúc đẩy việc sử dụng các văn bản và
giao dịch điện tử, đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Với sự phát
triển của công nghệ thông tin, Luật Tăng cường sử dụng mạng thông tin và bảo đảm
thông tin (Act for reinforcement of using Internet and Information secutity) tiếp tục
được ban hành, quy định cụ thể về thời gian gửi và tiếp nhận văn bản điện tử.


15

Song song với việc xây dựng hành lang pháp lý, năm 1997, Cục Mua sắm
công Hàn Quốc (PPS) bắt đầu triển khai nghiên cứu đấu thầu điện tử song song với
một loạt các hệ thống khác như hệ thống trao đổi tài liệu điện tử, cửa hàng trực
tuyến (shopping mall), thanh toán điện tử và bảo lãnh điện tử nhằm phục vụ cho hệ
thống đấu thầu điện tử. Năm 2002, hệ thống đấu thầu điện tử của Hàn Quốc KONEPS (Korean Online E-Procurement System) chính thức ra mắt và mọi tổ chức
cơng từ trung ương tới địa phương đều có thể tiếp cận10.
Khi mới triển khai thực hiện đấu thầu qua KONEPS, có rất nhiều hồi nghi về
tính khả thi của dự án, các cơ quan ban ngành, tổ chức cơng và nhà thầu cịn do dự

vì hệ thống này hoàn toàn mới trong khi họ đã quen với phương thức đấu thầu
truyền thống dựa trên giấy tờ. Để giải quyết những khó khăn trên, PPS đã thành lập
Ủy ban hỗ trợ KONEPS bao gồm 10 cơ quan chính phủ như Bộ Kinh tế và Tài
chính, Bộ Thơng tin và Truyền thông, Bộ Kế hoạch và Ngân sách… Thông qua đó,
một loạt thay đổi đã được thực hiện. Trước tiên phải kể đến là việc sửa đổi quy định
về đấu thầu mua sắm công và các quy định liên quan phù hợp với hệ thống đấu thầu
điện tử.
Đến nay thông qua KONEPS, tất cả quy trình đấu thầu từ đăng tải thông báo
mời thầu, ký kết hợp đồng đến thanh tốn đều được tự động hóa hồn tồn. Khơng
những thế, ĐTQM còn được xem là dịch vụ một cửa nhờ có sự liên kết với hơn 80
hệ thống bên ngồi của các cơ quan nhà nước và tư nhân như thuế, ngân hàng, công
ty chứng thực số, công ty bảo lãnh, hiệp hội doanh nghiệp Hàn Quốc… Khi tham
dự thầu, chỉ cần kê khai một vài thông tin cần thiết như số đăng ký kinh doanh, số
hồ sơ thuế, số hồ sơ văn bằng chứng minh năng lực... sau đó hệ thống đấu thầu điện
tử sẽ tự động kết nối tới cơ sở dữ liệu chuyên ngành của nhà nước để kiểm chứng
(cơ quan kế hoạch và đầu tư, cơ quan thuế...). Việc chấm thầu sẽ được tiến hành
trên mạng qua hệ thống chấm điểm tự động và kết quả chấm thầu cũng được tự
động chuyển công khai ngay lên mạng, như vậy việc sửa chữa hoặc cố ý làm sai
lệch kết quả chấm thầu vì mục đích cá nhân sẽ khó thực hiện được.
10

Quốc Đạt (2018) nêu ra quá trình hình thành và phát triển hệ thống chính phủ điện tử của Hàn Quốc.


16

Có thể nói, hành lang pháp lý cũng như mơ hình ĐTQM của Hàn Quốc được
đánh giá là đầy đủ và thành cơng nhất thế giới; áp dụng hồn hảo các hình thức: tập
trung thơng tin đăng tải, tiến độ, giá, đấu giá ngược, ĐTQM, ký kết hợp đồng, thanh
toán điện tử. Hệ thống được đánh giá cao bởi các tổ chức quốc tế như Liên hiệp

quốc (UN), Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), Ngân hàng Thế giới
(WB), Ngân hàng châu Á (ADB)… Mua sắm công điện tử hiện nay ở Hàn Quốc đã
đạt được kỳ tích: 95% các cơ quan sử dụng mua sắm cơng điện tử. Theo thống kê
của nước này, trong số 44.000 cơ quan nhà nước sử dụng mua sắm công điện tử có
13% là các cơ quan trung ương, 18% là các cơ quan địa phương; trong số 228 nghìn
doanh nghiệp cung cấp, 39% là cung cấp hàng hóa, 38% xây dựng, 21% dịch vụ và
2% mua sắm nước ngoài.
1.3.2. Đấu thầu qua mạng ở Philippines (Hệ thống mạng PhilGEPS)
Cách đây khoảng 20 năm, các nguyên tắc trong Luật Đấu thầu của
Philippines bao gồm các giá trị cốt lõi của sáng kiến hợp đồng công khai là công
khai, minh bạch, giám sát, tham gia của cộng đồng và khả năng giải trình. Tuy
nhiên, các quy định về đấu thầu khơng thống nhất, nằm rải rác trong hơn 100 văn
bản quy phạm pháp luật, khơng có mẫu HSMT và khơng có cơ quan chịu trách
nhiệm ban hành chính sách và quản lý hoạt động đấu thầu. Đặc trưng của mua sắm
công lúc bấy giờ là gian lận, kém hiệu quả và thiếu minh bạch, sự tin tưởng và tín
nhiệm của người dân rất thấp.
Với sự ra đời của Đạo Luật cải cách mua sắm của Chính phủ (The
Government Procurement Reform Act – GPRA) và Đạo luật Cộng hòa số 9184 (RA
9184) vào năm 2003, hệ thống mua sắm của Philippines đã được hợp lý hóa và hài
hịa hơn với các tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế; nhấn mạnh nguyên tắc minh bạch,
cạnh tranh và trách nhiệm trong quy trình đấu thầu và giám sát. Quan trọng hơn,
GPRA đã tạo ra Ủy ban Chính sách Mua sắm của Chính phủ (GPPB) với tư cách là
cơ quan xây dựng, sửa đổi các quy định; giám sát, đánh giá và báo cáo Chính phủ


17

về tình hình thực hiện đấu thầu hàng năm11.
Một bước đột phá trong GPRA lúc bấy giờ là quy định bắt buộc tất cả các cơ
quan nhà nước sử dụng Hệ thống mua sắm điện tử của Chính phủ (PhilGEPS) làm

cổng thơng tin chính trong mua sắm cơng. Quy trình mua sắm công trên cả nước
phải được đăng tải công khai lên PhilGEPS. Theo quy định, BMT phải gửi các
thông tin về đấu thầu cho Cục Chính sách đấu thầu (GPPB), đăng tải trên PhilGEPS
và trang thông tin điện tử của mình (nếu có), bao gồm: kế hoạch lựa chọn nhà thầu,
thông báo mời thầu, kết quả đánh giá HSDT, trao hợp đồng, giám sát giao hàng,
hiệu suất và thanh tốn. Đối với HSMT, nhà thầu có thể tải miễn phí HSMT từ các
trang điện tử nêu trên, với điều kiện hợp lệ là các nhà thầu phải trả mức phí tham dự
trước thời điểm gửi HSDT.
Đối với cơng tác giám sát của cộng đồng, Chính phủ Philippines cho phép các
tổ chức phi chính phủ (NGO), tổ chức xã hội dân sự (CSO) hoặc các tổ chức nghề
nghiệp … tham gia giám sát tất cả các giai đoạn của quá trình đấu thầu và được
phép xem biên bản họp tổ chuyên gia, báo cáo tóm tắt năng lực nhà thầu và các hồ
sơ đề xuất đã được mở… Danh sách các tổ chức giám sát sẽ được công khai trên
PhilGEPS, cũng như các thông tin khác như báo cáo tổng kết hoạt động đấu thầu
hàng năm; các trường hợp giải quyết khiếu nại trong quá trình tổ chức đấu thầu;
danh sách các nhà thầu vi phạm, gia hạn hợp đồng quá 6 tháng…
Trong quá trình phát triển PhilGEPS, Philippines cũng gặp nhiều khó khăn
trong việc tích hợp dữ liệu từ các bộ, ban, ngành liên quan. Do đó, để thực hiện
thành cơng mơ hình quản lý hiệu quả này, cần có sự quyết tâm chính trị của người
đứng đầu quốc gia và sự thống nhất, phối hợp giữa các bộ, ban ngành và địa
phương.
Đến nay, GPRA và PhilGEPS đã được các quốc gia khác như Indonesia, Việt
Nam, Nepal, Bhutan, Malaysia, Tanzania… tham khảo để xây dựng hành lang pháp
lý và hệ thống ĐTQM của riêng mình. Các lãnh đạo PhilGEPS đã được mời trình
bày về chương trình của hệ thống và kinh nghiệm áp dụng trong nhiều diễn đàn, hội
11

Hà Thắng - Minh Thuận - Bích Thủy (2015) nêu rõ kinh nghiệm của Phillipines về ban hành chính sách và
quản lý hoạt động đấu thầu.



×