Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Pháp luật về kê biên tài sản là động sản trong thi hành án dân sự (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (849.15 KB, 80 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN VĂN TUẤN

PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN LÀ ĐỘNG SẢN
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN VĂN TUẤN

PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN LÀ ĐỘNG SẢN
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Chuyên ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS LÊ VŨ NAM

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019



MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ................................................. 6
7. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 6
CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN LÀ ĐỘNG
SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ......................................................... 7
1.1. Khái quát về kê biên tài sản là động sản .................................................... 7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại động sản ............................................... 7
1.1.1.1. Khái niệm động sản.............................................................................. 7
1.1.1.2. Đặc điểm của động sản ........................................................................ 9
1.1.1.3. Phân loại động sản ............................................................................... 9
1.1.2. Kê biên tài sản là động sản trong thi hành án dân sự ............................ 10
1.1.2.1. Khái niệm kê biên tài sản là động sản................................................ 10
1.1.2.2. Đặc điểm của cưỡng chế kê biên đối với động sản............................ 13
1.1.2.3. Phân loại cưỡng chế kê biên động sản ............................................... 14
1.1.2.4. Nguyên tắc kê biên tài sản là động sản .............................................. 15
1.1.2.5. Ý nghĩa của việc kê biên tài sản trong thi hành án dân sự ................. 18


1.2. Pháp luật về kê biên tài sản là động sản trong thi hành án dân sự........... 20
1.2.1. Các quy định của pháp luật thi hành án dân sự ..................................... 20
1.2.1.1. Điều kiện áp dụng biện pháp kê biên đối với một số tài sản đặc biệt 20
1.2.1.2. Tổ chức cưỡng chế thi hành án .......................................................... 30
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................ 36

CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN
LÀ ĐỘNG SẢN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ........................................ 37
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật thi hành án dân sự về kê biên động sản ..... 37
2.1.1. Quy định tài sản là động sản bị cưỡng chế kê biên............................... 37
2.1.1.1. Kê biên động sản là phương tiện giao thông, tàu thuyền, đồ vật....... 38
2.1.1.2. Kê biên quyền sở hữu trí tuệ .............................................................. 42
2.1.1.3. Kê biên phần vốn góp ........................................................................ 44
2.1.1.4. Kê biên giấy tờ có giá ........................................................................ 47
2.1.1.5. Kê biên đối với hàng hóa là nơng sản, lâm sản; hàng tươi sống, mau
hỏng ................................................................................................................. 49
2.1.2. Chủ thể tiến hành cưỡng chế kê biên .................................................... 51
2.1.3. Trình tự thủ tục về kê biên động sản ..................................................... 52
2.1.4. Hậu quả pháp lý đối với tài sản bị kê biên ............................................ 54
2.1.5. Bảo quản tài sản kê biên ....................................................................... 55
2.1.6. Quy định về giải tỏa kê biên ................................................................. 56
2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kê biên động sản ............................... 58
2.2.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về kê biên động sản ................. 58


2.2.2. Những nguyên tắc cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật về kê biên
động sản........................................................................................................... 59
2.2.2.1. Cưỡng chế thi hành án dân sự phải bảo đảm quyền con người, quyền
công dân .......................................................................................................... 59
2.2.2.2. Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự gắn với cải cách hành
chính và cải cách tư pháp ................................................................................ 60
2.2.2.3. Đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật............ 61
2.2.2.4. Đảo bảo các nguyên tắc cưỡng chế .................................................... 61
2.2.2.5. Đảm bảo hiệu lực thi hành bản án, quyết định của Tịa án, quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự ........................................................................ 62
2.2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản là động sản ............. 62

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................ 67
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 70
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự là giai đoạn đưa phán quyết vào thực thi trên thực tế
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các bên. Vì vậy việc tổ chức thi hành những bản
án, quyết định của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh
một cách đầy đủ và có hiệu quả có ý nghĩa hết sức quan trọng trong thực thi công lý
của đất nước. Lần đầu tiên, Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII thơng
qua ngày 14/11/2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009 và được sửa đổi bổ
sung tại Luật số 64/2014/QH13 của Quốc hội sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
Thi hành án dân sự, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/1015. Luật thi hành án dân sự ban
hành nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng được đề ra trong các
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII
(1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
(1997), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết Hội nghị lần
thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (2004) và nhất là trong Nghị
quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và
hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020,
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020. Sau khi có hiệu lực, Chính phủ và các cơ quan đã có nhiều
văn bản hướng dẫn thi hành để việc áp dụng pháp luật được chính xác, thống nhất
và giải quyết một số vấn đề thực tiễn do pháp luật chưa dự liệu hết.

Trong công tác tổ chức thi hành án dân sự các nghĩa vụ dân sự mà các bên
phải thực hiện chủ yếu là nghĩa vụ về thanh toán tiền, nộp tiền như: phải thanh toán
tiền theo các hợp đồng tín dụng, bồi thường thiệt hại, các giao dịch dân sự về tiền
giữa các cá nhân, nộp án phí, tịch thu sung cơng và các nghĩa vụ về tài sản… Theo
nguyên tắc chung, nếu người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà khơng tự
nguyện thi hành thì sẽ bị cưỡng chế để thi hành án. Khi đó tài sản của người phải thi


2

hành án sẽ bị xử lý để thi hành án. Việc xác định tài sản nào là tài sản của người
phải thi hành án được xử lý và quy trình xử lý như thế nào, nhất là đối với động sản
không phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng là quá trình khá phức tạp. Pháp luật về
thi hành án dân sự hiện quy định khá cụ thể về việc áp dụng biện pháp bảo đảm,
biện pháp cưỡng chế trong việc xử lý tài sản để thi hành án. Tuy nhiên, về mặt lý
luận cũng như thực tiễn áp dụng, các quy định về áp dụng biện pháp cưỡng chế đối
với tài sản là động sản đã phát sinh nhiều hạn chế, bất cập. Từ những lý do trên, tác
giả chọn đề tài “Pháp luật về kê biên tài sản là động sản trong thi hành án dân
sự” làm Luận văn tốt nghiệp cho khóa cao học Luật dân sự và Tố tụng dân sự tại
Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh với hy
vọng sẽ góp phần hồn thiện pháp luật về xử lý tài sản để thi hành án theo pháp luật
thi hành án dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong lĩnh vực pháp luật về thi hành án dân sự, có nhiều cơng trình, đề tài
nghiên cứu, bài viết về việc cưỡng chế để thi hành án tập trung chủ yếu vào tài sản
là bất động sản, tài sản thế chấp. Việc nghiên cứu các quy định về xử lý đối với tài
sản là động sản theo pháp luật thi hành án dân sự có một số đề tài:
- Bùi Đức Tiến (2018), Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân
sự, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án
đưa ra những cơ sở lý luận thực hiện pháp luật cưỡng chế thi hành án, thực trạng về

cưỡng chế thi hành án dân sự tại Việt Nam, đề xuất các giải pháp hoàn thiện các
quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sư.
- Lại Anh Thắng (2010), Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả luận văn phân tích một số vấn đề lý luận về thực
hiện pháp luật về thi hành án dân sự như khái niệm, vai trò, đặc điểm của thực hiện
pháp luật về thi hành án dân sự. Trên cơ sở đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật
thi hành án dân sự trên địa bàn cụ thể là tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tác giả luận văn đã


3

đưa ra các giải pháp như: hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự; hoàn thiện các
chế độ chính sách đãi ngộ cho cán bộ, cơng chức thi hành án dân sự; tăng cường
các biện pháp xử lý các vụ việc thi hành án dân sự tồn đọng.
- Lê Xuân Tùng (2016), các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo
pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Học viện khoa học xã hội Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Luận văn
phân tích, đánh giá các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, các vướng mắc, bất
cập, thực trạng áp dụng tại Hà Nội để đề xuất hoàn thiện các quy định pháp luật về
cưỡng chế nói chung và các giải pháp nâng cao hiệu quản công tác thi hành án của
thành phố Hà Nội.
- Lê Anh Tuấn (2010), "Cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi
hành án", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật - Bộ Tư pháp, (Số chuyên đề thi hành án
dân sự). Bài viết đã phân tích biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản, các vướng
mắc của quá trình xử lý tài sản từ xác minh, kê biên, định giá, bán đấu giá tài sản để
thi hành án. Từ đó đưa ra các đề xuất hoàn thiện pháp luật về q trình xử lý tài sản.
- Trần Cơng Thịnh (2008), "Thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên
tài sản để thi hành án dân sự và một số khuyến nghị", Tạp chí Khoa học ĐHQGHN,
Kinh tế - Luật 24 (2008) 254-266). Tác giả bài viết tác giả chỉ ra những vướng mắc


gây cản trở cho việc cưỡng chế như: một bộ phận chấp hành viên, công chức làm
công tác thi hành án dân sự có trình độ chun môn chưa đáp ứng được yêu cầu của
nhiệm vụ trong tình hình mới; nhiều trường hợp chấp hành viên chưa thực sự tích
cực, quyết liệt đối với những vụ việc phức tạp, khó khăn; ngại khó, ngại va chạm;
cơ chế quản lý, hoạt động thi hành án dân sự còn chồng chéo; sự phối hợp giữa các
cơ quan tổ chức trong việc cưỡng chế còn chưa tốt; nhiều quy định của pháp luật về
kê biên tài sản còn chưa chặt chẽ, rõ ràng. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số kiến
nghị hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự nói chung, hồn thiện pháp luật về
cưỡng chế kê biên tài sản nói riêng.


4

- Nguyễn Thanh Phương (2011), Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản trong
thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật, Hà Nội. Tác
giả bài viết đã phân tích khái niệm, đặc điểm về cưỡng chế kê biên; thực trạng áp
dụng biện pháp cưỡng chế kê biên. Từ đó, tác giả đề xuất giải pháp hoàn thiện biện
pháp cưỡng chế kê biên tài sản.
Như vậy, vấn đề cưỡng chế kê biên tài sản và vấn đề về cưỡng chế thi hành
án đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Các tài liệu nói trên đã nghiên cứu tổng quan
về cưỡng chế thi hành án dân sự, các biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản, kê biên
tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn gắn liền với đất để thi hành án đất hoặc kê
biên, xử lý một số dạng động sản cụ thể để thi hành án. Đã có nhiều bài viết nghiên
cứu về cưỡng chế tài sản là động sản trong thi hành án, tuy nhiên, các nghiên cứu
đó chỉ nghiên cứu độc lập một số loại đối tượng của động sản như: kê biên phần
vốn góp, kê biên quyền sở hữu trí tuệ, xử lý giấy tờ có giá. Việc nghiên cứu tổng thể
biện pháp kê biên tài sản dựa trên đối tượng kê biên là động sản để thi hành chưa có
nghiên cứu độc lập, chuyên sâu.
3. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về kê biên tài sản là động
sản trong thi hành án dân sự” nhằm làm rõ cơ sở khoa học, lý luận và thực tiễn
của cơ chế xử lý tài sản là động sản trong thi hành án dân sự.
Một là, làm rõ một số vấn đề quy định của pháp luật thi hành án dân sự và
pháp luật có liên quan trong việc xử lý động sản.
Hai là, phân tích và đánh giá thực trạng xử lý động sản theo pháp luật thi
hành án dân sự hiện nay, nhằm tìm ra những bất cập, những hạn chế để từ đó có
những giải pháp và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động này trong thời gian
tới.
Ba là, trên cơ sở những tồn tại, hạn chế tác giả đưa ra những đề xuất kiến
nghị cụ thể dựa trên những luận cứ khoa học nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý


5

động sản để thi hành án góp phần hồn thiện các quy định về việc cưỡng chế thi
hành án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận, quy định hiện hành và thực tiễn của việc cưỡng chế kê biên động sản trong thi
hành án dân sự theo quy định của pháp luật và thực tiễn trong thi hành án dân sự.
Về phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ Luật học, trên cơ
sở tiếp thu và kế thừa những kết quả đã đạt được trong các cơng trình nghiên cứu
trước đây, tác giả tập trung nghiên cứu đề tài trong phạm vi là pháp luật thi hành án
dân sự hiện hành theo pháp luật Việt Nam biện pháp cưỡng chế kê biên đối với tài
sản động sản.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với mục đích và kết cấu của luận văn, phương pháp nghiên cứu được học
viên sử dụng dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê
nin, kết hợp với những chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước trong chiến

lược cải cách tư pháp hiện nay. Ngoài ra, học viên sử dụng các phương pháp chính
như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp luật học so sánh.
Cụ thể:
Phương pháp phân tích được sử dụng trong toàn bộ luận văn. Chương I,
phương pháp này được áp dụng để làm rõ những quy định cụ thể liên quan đến quy
định áp dụng biện pháp cưỡng chế, biện pháp đảm bảo. Tại chương II, phân tích,
thống kê, so sánh đánh giá các quy định, liên hệ với thực tiễn để nhận thấy hạn chế,
bất cập từ đó đưa ra các giải pháp. Bên cạnh đó, phương pháp phân tích các vụ việc
thi hành án dân sự có liên quan đến việc áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp
cưỡng chế.


6

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn này là một cơng trình nghiên cứu có tính chuyên sâu trong việc xử
lý động sản trong thi hành án dân sự, từ đó chỉ ra bất cập và thiếu sót trong các quy
định của pháp luật về vấn đề này từ đó đề xuất hướng hồn thiện pháp luật.
Lợi ích thực tiễn của luận văn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu trong hoạt
động học tập và nghiên cứu cho sinh viên, giảng viên những người nghiên cứu pháp
luật về thi hành án dân sự, ngoài ra đó là tài liệu cho những người làm cơng tác thi
hành án dân sự tham khảo trong quá trình tác nghiệp
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Lý luận về kê biên tài sản là động sản và pháp luật về kê biên tài
sản là động sản trong thi hành án dân sự
Chương 2: Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp
luật thi hành án dân sự đối với cưỡng chế động sản trong thi hành án.



7

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN LÀ ĐỘNG SẢN TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái quát về kê biên tài sản là động sản

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại động sản
1.1.1.1. Khái niệm động sản
Pháp luật các nước trên thế giới đều có các quy định về phân loại tài sản. Có
nhiều tiêu chí để phân loại tài sản như vật chính và vật phụ, vật đồng bộ và vật đặc
định…. Quan trọng nhất và trên hết cách thức phân loại truyền thống là phân chia
tài sản thành bất động sản và động sản. Pháp luật một số nước trên thế giới về động
sản:
- Pháp luật Cộng hòa Pháp1 quy định: “tất cả tài sản là động sản hoặc là bất
động sản” (Điều 516). Bộ luật Dân sự Pháp có đưa ra 02 tiêu chí để xác định tài sản
là động sản theo đó: “Tài sản là động sản do bản chất của chúng hoặc do luật
định.”(Điều 527), Điều 528 đã giải thích cụ thể một tài sản là động sản do bản chất
khi nó có khả năng tự di chuyển hoặc có thể dịch chuyển nhờ tác động bên ngoài
mà vẫn giữ nguyên được hình dạng, kích thước và tính chất vốn có của tài sản. Điều
529 liệt kê các loại tài sản là động sản do luật định bao gồm: trái phiếu, cổ phiếu trị
giá bằng tiền, các cổ phần, lãi suất trong các công ty khi các công ty này tồn tại, các
khoản lợi tức. Ngồi ra, Điều 533 cịn quy định các loại tài sản như tiền, các tác
phẩm nghệ thuật cũng là động sản. Cách thức phân loại trên không dựa vào phương
pháp loại trừ mà dựa trên những tiêu chí để xác định tài sản là bất động sản hay
động sản.
- Pháp luật Nhật Bản: Động sản là những vật không thuộc phạm trù của bất
động sản. Nghĩa vụ thanh tốn cũng như tín phiếu, cổ phiếu được thể hiện bằng


1

Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa Pháp – Nhà xuất bản chính trị Quốc gia 1998


8

hình thức văn bản khơng ghi tên người có quyền yêu cầu thanh toán được hiểu là
động sản. Cách phân loại này dựa vào phương pháp loại trừ và phân loại theo luật
định.
- Pháp luật Thái Lan quy định: Động sản là những vật có thể chuyển từ chỗ
này qua chỗ khác bất chấp do tự chúng hoặc do ngoại lực2. Cách phân loại này dựa
vào bản chất di chuyển của tài sản.
- Pháp luật bang Québec (Canada) quy định: các sóng hoặc năng lượng được
con người chế ngự và đưa vào sử dụng, bất kể nguồn của nó là động sản hay bất
động sản, đều được coi là động sản hữu hình3. Đây là một loại tài sản tạo ra các giá
trị kinh tế, là một dạng mới của tài sản. Cách phân loại này dựa trên các quy định
pháp luật.
Theo pháp luật Việt Nam tại Điều 107 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
1. Bất động sản bao gồm:
a) Đất đai;
b) Nhà, cơng trình xây dựng gắn liền với đất đai;
c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, cơng trình xây dựng;
d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật.
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.
Cách phân chia trên được tiếp tài sản dưới góc độ tài sản là vật. Theo đó tài
sản được phân chia thành bất động sản và động sản. Ngồi ra, cịn có những cách
phân loại khác như: vật chính và vật phụ, vật chia được và không chia được…

2


Bộ Luật Dân sự và Thương mại Thái Lan – Các quyển I-VI” do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia

phát hành tháng 8 năm 1995 (Điều 140)
3

Legisquebec.gouv.qc.ca/en/showdoc/cs/CCQ-1991. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2018


9

Từ các quy định trên cho thấy các Bộ luật Dân sự thường quy tất cả tài sản
còn lại là động sản. Về mặt học thuật, việc phân chia như vậy để xác định do bản
chất và động sản do pháp luật quy định. Bộ luật Dân sự năm 2015 không đưa ra
khái niệm về động sản mà chỉ áp dụng phương pháp loại trừ để xác định động sản.
Kết hợp Điều 105 và Điều 107 xác định tài sản là động sản là những tài sản không
phải là đất đai; nhà, cơng trình xây dựng gắn liền với đất đai; tài sản khác gắn liền
với đất đai, nhà, công trình xây dựng; tài sản khác theo quy định của pháp luật. Như
vậy, tài sản là động sản có phạm vi rất rộng và phong phú.

1.1.1.2. Đặc điểm của động sản
Đối tượng được xếp vào là động sản có phạm vi khá rộng vật, tiền, giấy tờ có
giá và quyền tài sản mà không gắn liền với bất động sản.
Dạng tồn tại của động sản có thể là tài sản vơ hành hoặc hữu hình, có thể có
ở hiện tại hoặc hình thành trong tương lai. Một số động sản thể hiện giá trị bằng
những con số cụ thể hoặc hoặc bằng cảm tính của con người.
Là những tài sản có thể di dời được bất kể là do tự di chuyển hoặc do ngoại
lực tác động.

1.1.1.3. Phân loại động sản

Từ khái niệm và đặc điểm trên, tài sản là động sản vô cùng phong phú và đa
dạng. Tuy nhiên, vẫn có thể sắp xếp chúng thành 03 nhóm4
- Động sản tự nhiên: Gọi là động sản tự nhiên những vật di dời được một
cách dễ dàng như: động vật sống, phương tiện đi lại, tiền mặt, quần áo, nữ trang.
Các tài sản này có thể tự di chuyển hoặc do tác động ngoại lực mà di chuyển. Theo
pháp luật Việt Nam hiện hành, trong những loại tài sản này có những tài sản phải
4

Trường đại học mở Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Luật dân sự tập 1, NXB Đại học

Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, trang179.


10

bắt buộc đăng ký hành chính như: ơ tơ, xe máy hoặc đăng ký quyền sở hữu như tàu
bay, tàu biển.
- Động sản do bản chất kinh tế: có những tài sản vốn là bất động sản nhưng
chỉ phát huy được giá trị và tác dụng khi nó trở thành động sản. Điển hình trường
hợp này hoa lợi mùa màng được bán ngay tại ruộng, vườn.
- Động sản vơ hình: như quyền sở hữu trí tuệ, quyền địi nợ, theo đó quyền
này cho phép người có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ trả tiền
nhưng khơng cho phép người có quyền thực hiện một quyền gì đặc biệt trên một tài
sản đặc định. Các phần vốn góp trong cơng ty, quyền sở hữu trí tuệ cũng là tài sản
vơ hình.

1.1.2. Kê biên tài sản là động sản trong thi hành án dân sự
1.1.2.1. Khái niệm kê biên tài sản là động sản
Điều 106 Hiến pháp 2013 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được

cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải
nghiêm chỉnh chấp hành”. Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm
2014 các bản án, quyết định quy định phải được cơ quan, tổ chức và mọi công dân
tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong phạm vi trách nhiệm của
mình chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định và phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về việc thi hành án.”5 Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi
hành án. Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà khơng tự nguyện thi
hành thì sẽ bị cưỡng chế thi hành án6. Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng trong
việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
Pháp luật thi hành án dân sự ghi nhận quyền thỏa thuận của đương sự trong
tất cả quá trình tổ chức thi hành án và Chấp hành viên được phân công tổ chức thi
4

Điều 4 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014.

6

Điều 9 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014.


11

hành án phải ghi nhận sự thỏa thuận với điều kiện là thỏa thuận đó khơng vi phạm
điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội7. Sau khi cơ quan Thi hành án
dân sự ban hành quyết định thi hành án thì người được thi hành án có thời gian tự
nguyện thi hành là 10 ngày kể từ ngày được thông báo hợp lệ8. Hết thời gian đó mà
người phải thi hành án khơng tự nguyện thi hành, tìm cách trốn tránh thì Chấp hành
viên được phân công tổ chức thi hành án phải áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện
pháp cưỡng chế thi hành án. Trong trường hợp này, Chấp hành viên được áp dụng
các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Luật Thi hành án

dân sự để buộc người phải thi hành án thi hành. Pháp luật thi hành án dân sự hiện
khơng có khái niệm về kê biên tài sản là động sản mà chỉ đưa ra các biện pháp
cưỡng chế đối với từng nhóm tài sản và quy định các biện pháp cưỡng chế chế đối
với từng nhóm. Pháp luật về thi hành án dân sự từ 1993 đến nay có sử dụng đến
thuật ngữ pháp lý kê biên tài sản nhưng chưa đưa ra khái niệm kê biên tài sản là
động sản.
Trong thực tiễn, không phải lúc nào người có nghĩa vụ trong các bản án,
quyết định của Tòa án đều tuân thủ và tự nguyện chấp hành nghiêm chỉnh. Vì vậy,
các cơ quan Thi hành án dân sự đã phải tiến hành cưỡng chế để buộc người phải thi
hành án phải thi hành nghĩa vụ của mình.
Theo số liệu tổng hợp của Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp:
Năm 2016, các cơ quan Thi hành án dân sự cả nước đã ban hành 11.901
quyết định cưỡng chế thi hành án, trong đó cưỡng chế có huy động lực lượng là
5.492 vụ. Tại tỉnh Bình Định có 159 quyết định cưỡng chế, trong đó cưỡng chế có
huy động lực lượng là 70 vụ9. Năm 2017, các cơ quan Thi hành án dân sự cả nước
7

Điều 6 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014

8

Điều 45 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014

9

Báo cáo số 188/BC-TKDLCT ngày 07/10/2016 của Trung tâm Thống kê, Quản lý dữ liệu và ứng

dụng CNTT - Tổng cục Thi hành án dân sự.



12

đã ban hành 11.780 quyết định cưỡng chế thi hành án, trong đó cưỡng chế có huy
động lực lượng là 5.549 vụ. Tại tỉnh Bình Định có 112 quyết định cưỡng chế, trong
đó cưỡng chế có huy động lực lượng là 44 vụ10.
Cưỡng chế được hiểu là cá nhân hay tổ chức phải phục từng một mệnh lệnh,
thực hiện một nghĩa vụ, trách nhiệm theo quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền11.
Biện pháp kê biên tài sản của người phải thi hành án: là biện pháp cưỡng
chế thi hành án do Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án
có nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định có điều kiện thi hành án nhưng không tự
nguyện thi hành12. Khái niệm này hiện chưa đầy đủ về chủ thể có quyền cưỡng chế
thi hành án dân sự, vì hiện nay, ngồi Chấp hành viên cịn có Cục trưởng Cục Thi
hành án dân sự cấp tỉnh có thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế trong trường
hợp việc tổ chức thi hành án do Thừa phát lại thực hiện.
Theo Tiến sĩ Lê Anh Tuấn: Cưỡng chế thi hành án dân sự là việc chủ thể có
thẩm quyền dùng quyền lực nhà nước thực hiện biện pháp cưỡng chế theo quy định
của pháp luật về thi hành án dân sự đối với tổ chức, cá nhân nhằm bảo đảm thi hành
trên thực tế quyền, nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định được thi
hành theo thủ tục thi hành án dân sự. 13
Trong cuốn từ điển các thuật ngữ pháp lý thông dụng cũng của NXB Thành
phố Hồ Chí Minh năm 1999 có định nghĩa kê biên tài sản như sau: “Kê biên tài sản
là việc ghi lại từng tài sản, cấm việc tẩu tán, phá hủy, để đảm bảo cho việc xét xử
10

Báo cáo số 177/BC-TKDLCT ngày 09/10/2017 của Trung tâm Thống kê, Quản lý dữ liệu và ứng

dụng CNTT - Tổng cục Thi hành án dân sự.
11


Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr 304.

12

Trường đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình thi hành án dân sự, NXB Công an nhân dân,

trang 211.
13

Truy
cập ngày 10 tháng 11 năm 2018.


13

và thi hành án”. Như vậy, kê biên tài sản là một thuật ngữ pháp lý chỉ việc tính
tốn và ghi chép lại tài sản theo một trật tự nhất định nhằm mục đích cụ thể. Tài
sản ở đây có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm kê biên tài sản là động sản như
sau: kê biên tài sản là động sản trong thi hành án dân sự là một trong các biện pháp
cưỡng chế thi hành án do pháp luật quy định được chủ thể có thẩm quyền tiến hành
để mơ tả, tính tốn và ghi chép lại tài sản theo một trật tự nhất định nhằm ngăn
chặn tẩu tán tài sản, để đảm bảo cho việc thi hành án.

1.1.2.2. Đặc điểm của cưỡng chế kê biên đối với động sản
Đặc điểm được hiểu là nét riêng biệt để phân biệt sự vật hiện tượng này với
sự vật hiện tượng khác. Ngoài các đặc điểm chung về cưỡng chế thi hành án như sử
dụng quyền lực nhà nước, chủ thể bị cưỡng chế không chỉ có hiệu lực đối với người
phải thi hành án mà cịn có hiệu lực đối với các chủ thể khác, kê biên tài sản là động
sản có những đặc điểm như sau:

- Tài sản bị kê biên là động sản
Tài sản kê biên để thi hành án có nhiều loại tài sản khác nhau, có thể là bất
động sản như: quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hoặc
là động sản như: máy móc, dây chuyền sản xuất, phương tiện giao thơng, tàu
thuyền, quyền sở hữu trí tuệ, vốn góp, hoa lợi, lợi tức. Đối với một số tài sản như
tiền, giấy tờ có giá thì Luật Thi hành án dân sự không quy định kê biên đối với tài
sản này mà áp dụng các biện pháp cưỡng khác như khấu trừ thu nhập, khấu trừ tài
khoản, thu giữ giấy tờ có giá. Tài sản này có thể là tài sản thế chấp hoặc không thế
chấp, do người phải thi hành án giữ hoặc người khác giữ. Đối tượng là tài sản bị
cưỡng chế là động sản, kể cả trường hợp tài sản của người phải thi hành án chung
với người khác.
- Cưỡng chế thi hành có thể diễn ra ngồi phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ:
xuất phát từ tính chất di chuyển, nơi có tài sản hoặc nơi tản sản được quản lý mà


14

người có thẩm quyền có thể cưỡng chế kê biên ngồi phạm vi thẩm quyền lãnh thổ
hành chính nhằm đảm bảo tính kịp thời của việc đảm bảo tài sản.
Ví dụ: Chấp hành viên của Cục Thi hành án tỉnh A đang tổ chức thi hành án
đối với ông X. Phát hiện ông X đang sử dụng 01 xe ô tô đang sử dụng. Người được
thi hành án cung cấp tài liệu chứng cứ photocopy là giấy đăng ký xe ô tô dô ông X
đứng tên đăng ký. Chấp hành viên áp dụng biện pháp tạm dừng đăng ký chuyển
dịch quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài đối với chiếc xe ơng X. Sau đó
xác minh tại cơ quan chức năng thì đúng chiếc xe này thuộc sở hữu của ông X.
Theo quy định trong thời hạn 10 ngày, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp
cưỡng đối với chiếc xe của ông X. Lúc này chiếc xe ơng X khơng cịn ở tỉnh A mà
thường xun thay đổi vị trí nếu phát hiện tại tỉnh B thì có thể tổ chức kê biên tại
tỉnh B. Như vậy, tại thời điểm ra quyết định cưỡng chế, chiếc xe ông X không ở
tỉnh A.

- Thường được tiến hành sau khi áp dụng các biện pháp đảm bảo thi hành
án: để đảm bảo tính chất kịp thời, đảm bảo tài sản thi hành án, khi phát hiện tài sản
của người phải thi hành án. Mặc dù là tài sản có đăng ký quyền sở hữu hay tài sản
khơng phải đăng ký quyền sở hữu thì biện pháp Chấp hành viên có thể áp dụng là
các biện pháp bảo đảm như: tạm giữ tài sản, giấy tờ; tạm dừng đăng ký chuyển dịch
quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản nhằm giữ lại tài sản hoặc tiếp tục
xác minh làm rõ. Mặt khác, thủ tục áp dụng biện pháp đảm bảo đơn giản hơn về thủ
tục và thời gian hơn so với thủ tục cưỡng chế, khi phát hiện tài sản có thể thu giữ
ngay.

1.1.2.3. Phân loại cưỡng chế kê biên động sản
Hiện nay, các quy định pháp luật thi hành án dân sự không phân loại động
sản để cưỡng chế thi hành án mà chỉ quy định việc kê biên đối với từng nhóm tài
sản được quy định: cưỡng chế thi hành án đối với tài sản là tiền, cưỡng chế tài sản
là giấy tờ có giá, cưỡng chế đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ, cưỡng chế đối
với tài sản là vật tại các mục 3,4,5,6 chương II Luật Thi hành án dân sự đã được sửa


15

đổi bổ sung năm 2014. Tuy nhiên, cưỡng chế bằng biện pháp kê biên tài sản chỉ áp
dụng đối với 02 nhóm tài sản: kê biên tài sản là quyền sở hữu trí tuệ, kê biên tài sản
là vật.
- Quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao
gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác, quyền sở hữu công nghiệp, và
quyền đối với giống cây trồng14. Theo đó, Chấp hành viên ra quyết định kê biên
quyền sở hữu trí tuệ thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án.
- Động sản là vật
Trong nhóm tài sản này, có thể kể đến là việc kê biên các loại tài sản như:

phương tiện giao thông, hoa lợi, máy móc, thiết bị, vốn góp
Như vậy, việc pháp luật phân chia các mục này đối với các nhóm tài sản và
quyền tài sản để có các quy định cho phù hợp với biện pháp và cách thức kê biên và
thủ tục tiến hành xử lý đối với tài sản.
Đối với giấy tờ có giá và tiền là hai loại động sản mà pháp luật thi hành án
dân sự không quy định bằng biện pháp cưỡng chế là tiền. Đối với tiền mặt, áp dụng
biện pháp cưỡng chế thu tiền, khấu trừ tài khoản. Đối với giấy tờ có giá áp dụng
biện pháp thu giữ.

1.1.2.4. Nguyên tắc kê biên tài sản là động sản
Trong kê biên, xử lý tài sản để thi hành án nói chung phải đảm bảo tuân thủ
các nguyên tắc nhất định và việc kê biên động sản cũng chịu sự chi phối của các
nguyên tắc này.
- Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ phải thi
hành án và các chi phí cần thiết

14

khoản 1 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005


16

Để có căn cứ kê biên tài sản, Chấp hành viên hoặc người có thẩm quyền phải
tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, khi thực hiện
hoạt động xác minh điều kiện thi hành án phát hiện người phải thi hành án có tài sản
ngồi việc phải làm rõ tính pháp lý như ai người sở hữu, có cầm cố, thế chấp hay
khơng... cần phải tính giá trị tài sản. Thực tế có những tài sản có thể ước tính được
giá trị như xe ơ tơ, số lượng phần vốn góp nhưng cũng có những tài sản khơng ước
tính được giá trị quyền sở hữu trí tuệ, đá quý, cổ vật. Việc ước tính giá trị tài sản

mang tính tương đối dựa vào ý chí chủ quan của Chấp hành viên hoặc các thành
phần tham gia xác minh để xem xét giá trị tài sản có tương ứng với nghĩa vụ phải
thi hành và các chi phí cần thiết để xử lý tài sản hay khơng. Trước đây, pháp luật có
quy định phải xử lý động sản trước nếu khơng đủ thì mới xử lý bất động sản, tuy
nhiên, pháp luật thi hành án dân sự đã bỏ quy định này. Hiện nay pháp luật thi hành
án quy định trong trường hợp có nhiều tài sản thì có thể lựa chọn tài sản kê biên
hoặc theo đề nghị của người phải thi hành án miễn là việc lựa chọn đó khơng gây
trở ngại cho việc thi hành án15, trừ trường hợp người phải thi hành án là doanh
nghiệp.16 Xác định như thế nào là nghĩa vụ tương ứng hiện nay pháp luật chưa quy
định.
Nguyên tắc này có trường hợp ngoại lệ, trong trường hợp người phải thi hành
án có tài sản duy nhất có giá trị lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi hành án
mà tài sản đó khơng thể phân chia hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị tài
sản thì Chấp hành viên vẫn áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế để thi
hành án.
- Không được tổ chức cưỡng chế thi hành án trong thời gian mà pháp luật
quy định không được cưỡng chế
Để đảm bảo an ninh trật tự xã hội, đảm bảo đời sống bình thường của người
phải thi hành án và gia đình, thể hiện tính nhân văn của pháp luật vì vậy pháp luật

15

khoản 4 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.

16

khoản 4 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.


17


quy định một số thời gian không được thực hiện cưỡng chế hành án, cụ thể: từ 22
giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp
luật. Theo đó, ngồi các quy định trên thì khơng được cưỡng chế có huy động lực
lượng trong thời hạn 15 ngày trước tết và sau tết Nguyên đán, những ngày truyền
thống của đối tượng chính sách, nếu họ là người thi hành án và các trường hợp đặc
biệt khác ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, chính trị, trật tự an tồn xã hội,
phong tục, tập quán của địa phương.
- Chỉ được cưỡng chế kê biên tài sản sau khi đã hết thời hạn tự nguyện thi
hành án
Nghĩa vụ phải thi hành án phát sinh khi họ nhận được quyết định thi hành án
hoặc được thông báo hợp lệ quyết định này. Việc thông báo được thực hiện trực
tiếp, niêm yết công khai, đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Việc
xác định thời điểm thông báo hợp lệ được xác định theo từng phương thức khác
nhau. Kể từ khi được thông báo hợp lệ, người phải thi hành án có thời hạn 10 ngày
để tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình. Điều này thể hiện tinh thần nhân văn,
nhân đạo của pháp luật và cũng là thời gian để người phải thi hành án thu xếp, xử lý
tài sản để thi hành án. Hết thời hạn tự nguyện thì Chấp hành viên hoặc người có
thẩm quyền mới được tiến hành áp dụng các biện pháp cưỡng chế.
Nguyên tắc này có ngoại lệ là trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi
hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc các hành vi nhằm trốn tránh việc
thi hành án thì người phải thi hành án có thể bị áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện
pháp cưỡng chế do người có thẩm quyền tiến hành.
- Chỉ được áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật
Trên nguyên tắc công chức chỉ được làm những gì pháp luật quy định. Trong
việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án nói chung và cưỡng chế áp dụng
biện pháp kê biên, xử lý tài sản cũng phải tuân thủ quy định này. Theo quy định tại
Điều 71 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì có 06 biện
pháp cưỡng chế thi hành án. Tuy nhiên, đối với biện pháp kê biên thì chỉ áp dụng



18

trong một số trường hợp đối với các loại tài sản nhất định, nói cách khác việc áp
dụng biện pháp kê biên tùy theo loại tài sản nhất định như: không áp dụng biện
pháp kê biên đối với tài sản là tiền, kê biên tài khoản của người phải thi hành án.
Người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế không được áp dụng bất kỳ
biện pháp cưỡng chế nào ngoài các biện pháp đã quy định.

1.1.2.5. Ý nghĩa của việc kê biên tài sản trong thi hành án dân sự
Cưỡng chế kê biên tài sản thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật: Cưỡng
chế là chế tài nghiêm khắc mà Nhà nước buộc cá nhân, tổ chức phải tuân theo.
Trong thi hành án dân sự, không phải lúc nào người phải thi hành án cũng tự giác
chấp hành bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Do người phải thi hành
án đã không tự thi hành nghĩa vụ của mình nên phải có biện pháp nghiêm khắc để
bắt buộc họ phải thi hành trong đó có biện pháp kê biên, xử lý tài sản. Chấp hành
viên, người có thẩm quyền sẽ áp dụng trình tự thủ tục để đưa tài sản của người phải
thi hành án ra bán đấu giá để thi hành án. Lúc này người phải thi hành án khơng cịn
tồn quyền quyền quyết định tài sản của mình mà chịu sự cưỡng chế mang tính
quyền lực nhà nước. Trường hợp người phải thi hành án chống đối, cản trở sẽ áp
dụng các chế tài hành chính hoặc hình sự để xử lý hành vi chống đối, cản trở.
Bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan: mục tiêu cuối cùng của các bên trong giải quyết tranh chấp là
giành quyền lợi cho mình. Quyền lợi đó có thể là vật chất hoặc tinh thần và quyền
lợi, quyền lợi đó được thực hiện trên thực tế khi các bên tổ chức thực hiện trên thực
tế. Tuy nhiên, sau khi có phán quyết thì các ít khi tự giác thi hành vì những mâu
thuẫn đã xảy ra trước hoặc trong quá trình tố tụng. Vì vậy, việc cưỡng chế kê biên
tài sản để được xem là biện pháp để bắt buộc người có nghĩa vụ phải thi hành phán
quyết trong việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án về tài sản.
Góp phần giữ vững ổn định kinh tế, trật tự xã hội: các phán quyết phải được

thực thi một cách nghiêm túc không chỉ đảm bảo quyền lợi các bên mà cịn góp
phần vào duy trì sự ổn định của trật tự xã hội, tạo niềm tin vào công lý, tin vào pháp


19

luật, quyền lợi bị xâm hại trái pháp luật được khơi phục. Từ đó các chủ thể an tâm
tham gia ngày càng nhiều vào các giao dịch trong xã hội góp phần phát triển kinh
tế, nâng cao đời sống.
Nâng cao hiệu quả cơng tác xét xử của Tịa án và các cơ quan có thẩm
quyền: Một phán quyết về tài sản khơng cịn ngun ý nghĩa khi phán quyết đó
khơng được thực hiện và không thể thực hiện được trên thực tế. Pháp luật dân sự
tôn trọng tối cao nguyên tắc thỏa thuận, định đoạt của các bên. Trong quá trình xét
xử, Tịa án bắt buộc phải tơn trọng các quyền này, vì vậy có những thỏa thuận sẽ
khơng mang tính khả thi dẫn đến khơng có khả năng tổ chức thi hành được nghĩa là
quyền lợi của các bên khơng được thực thi trên thực tế. Trong q trình xét xử, nếu
khơng giải quyết thấu tình đạt lý, đúng pháp luật sẽ dẫn đến các đương sự có phản
ứng quyết liệt, khơng tơn trọng bản án. Từ đó việc tổ chức thi hành án sẽ kéo dài và
tốn kém chi phí của xã hội. Những phán quyết được xử đúng pháp luật, thấu tình đạt
lý thì việc thi hành án sẽ được thuận lợi. Qua đó đánh giá được chất lượng của công
tác xét xử.
Giáo dục, răn đe, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật: trong các phương
thức quản lý xã hội từ trước đến nay, phương thức quản lý xã hội bằng pháp luật
được xem là phương thức tiên tiến nhất, hiệu quả nhất bởi nó khơng chỉ là cơng cụ
cho nhà nước mà cịn là cơng cụ để người dân bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
Người dân sử dụng pháp luật để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi
của mình trong đó có việc yêu cầu phải thực thi phán quyết đã được ban hành. Nếu
người có nghĩa vụ khơng thực hiện thì sẽ bị áp dụng các chế tài bất lợi, khi đó thiệt
hại sẽ nhiều hơn. Cưỡng chế thi hành án dân sự cũng khơng nằm ngồi mục đích là
cho phán quyết được thi hành trên thực tế, người có hành vi chống đối sẽ bị nhà

nước áp dụng biện pháp cưỡng chế nhằm vào tài sản của người phải thi hành án, khi
đó họ sẽ gặp bất lợi và thiệt hại nhiều hơn nên tự bản thân họ sẽ cân nhắc. Việc này
không chỉ tác động vào bản thân người phải thi hành án mà còn là “tấm gương” để
các trường hợp khác soi rọi khi có thái độ chây ỳ, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
Từ đó giúp nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.


20

1.2. Pháp luật về kê biên tài sản là động sản trong thi hành án dân sự

1.2.1. Các quy định của pháp luật thi hành án dân sự
1.2.1.1. Điều kiện áp dụng biện pháp kê biên đối với một số tài sản đặc biệt
Kê biên tài sản là một trong sáu biện pháp cưỡng chế được Luật Thi hành
hành dân sự quy định. Đây là một trong nhiều giai đoạn của quá trình tổ chức thi
hành án nhằm đưa tài sản ra xử lý để thi hành án. Từ quá trình xác minh điều kiện
thi hành án phát hiện, làm rõ tính pháp lý và thực tiễn của tài sản đến ra quyết định
cưỡng chế kê biên, tổ chức kê biên, giao bảo quản tài sản kê biên, thẩm định giá,
bán đấu giá, giao tài sản và thanh toán tiền thi hành án. Mỗi giai đoạn điều có quy
định trình tự thủ tục, thời gian tổ chức thực hiện khác nhau.
Biện pháp kê biên tài sản để thi hành án được áp dụng khi người phải thi
hành án có nghĩa vụ tài sản là như: thanh tốn tiền cơng, tiền lương, thực hiện nghĩa
vụ thanh toán theo hợp đồng, trả nợ, án phí, tiền phạt được xác định tại phán quyết
đang thi hành. Biện pháp kê biên tài sản cũng được thực hiện theo sự thỏa thuận của
đương sự như trường hợp thi hành nghĩa vụ trả vật đặc định nhưng vật khơng cịn
hoặc hư hỏng khơng sử dụng được, các bên thỏa thuận trị giá bằng tiền và kê biên
tài sản; hoặc Chấp hành viên kê biên tài sản để thanh tốn chi phí cưỡng chế, phạt
vi phạm hành chính trong q trình thi hành biện pháp cưỡng chế buộc thực hiện
hoặc không được thực hiện công việc nhất định.
Người phải thi hành án có tài sản là động sản được xác định là tài sản để đảm

bảo thi hành án như: quyền sở hữu trí tuệ, động sản là vật.
- Quyền sở hữu trí tuệ
Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ,
quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.
Kê biên, xử lý quyền sở hữu trí tuệ để thi hành án được quy định từ Điều 84
đến Điều 86 Luật Thi hành án dân sự. Theo đó, trường hợp người phải thi hành án


×