Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Giải quyết khiếu nại về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.15 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐÌNH MỸ

GIẢI QUYÉT KHIÉU NẠI VỀ KÊ BIÊN
TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN Sự
TỪ THựC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VẪN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐÌNH MỸ

GIẢI QUYÉT KHIÉU NẠI VỀ KÊ BIÊN
TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN Sự
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 838.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HOÀNG VĂN TÚ
Tôi trân trọng cảm ơn quí thầy giáo, cô giáo Học viện Khoa học


xã hội thuộc Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã tận tình, chu
đáo trong quá trình giảng dạy và truyền đạt kiến thức cho tác giả.


Tác giả tỏ lòng biết ơn đối với các đồng chí lãnh đạo Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Nam, Phòng Kiểm tra và giải quyết khiếu
nại, tố cáo - Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam, các đồng nghiệp,
các bạn cùng học và đặc biệt là gia đình đã động viên, giúp đỡ và tạo
mọi điều kiện thuận lợi nhất để tác giả có thể hoàn thành chương trình
học tập và luận văn tốt nghiệp cao học.
Với tình cảm trân trọng nhất, tác giả luận văn xin gửi lời cảm ơn
chân thành và sâu sắc tới PGS.TS Hoàng Văn Tú- Phó Viện trưởng,
Viện nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận
văn cao học: “Giải quyết khiếu nại về kê biên tài sản trong thi hành án
dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam’".
Trân trọng cảm ơn!
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu được sử dụng trong luận văn này có xuất xứ rõ
ràng và kết quả nghiên cứu là do quá trình học tập tích cực và trải qua
thực tiễn công tác nhiều năm tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Nam của bản thân.
Tác
giả

Nguyễn Đình Mỹ



3.2. Giải pháp tăng cường giải quyết khiếu nại về kê biên tài sản trong thi

hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam...................................................67
KẾT LUẬN...........................................................................................................75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


CHV

: Chấp hành viên

CTHADS
KN

: Cục Thi hành án dân sự
: Khiếu nại

THA

: Thi hành án

THADS
TMCP

: Thi hành án dân sự
: Thương mại Cổ phần

TNHH MTV

: Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên



Bảng 2.1. Bảng thống kê các vụ việc kê biên và số đơn khiếu nại về kê biên tài sản
trong THADS từ năm 2013 đến năm 2017 tại Thi hành án dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khiếu nại là một trong các quyền chính trị cơ bản của công dân, được ghi nhận
trong các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao như Hiến pháp, luật. Điều 30 Hiến
pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức,
cá nhân”. Quyền khiếu nại được quy định chi tiết tại Luật khiếu nại năm 2011. Đối
với khiếu nại về thi hành án dân sự, kế thừa các quy định pháp luật về khiếu nại và
giải quyết khiếu nại, Luật Thi hành án dân sự và các Pháp lệnh Thi hành án dân sự
trước đây, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014
có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2015 giữ nguyên các quy định về khiếu nại và
giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự của Luật Thi hành án dân sự năm 2008,
đồng thời bổ sung thêm quy định về thời hạn giải quyết khiếu nại tại khoản 41 Điều
1 Luật sửa đổi như sau: “Trường hợp ở vùng sâu, vùng xa, đường sá xa xôi, đi lại
khó khăn, vụ việc có tính chất phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo
dài nhưng không quá 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại.”
Việc Luật Thi hành án dân sự quy định khiếu nại và giải quyết khiếu nại về thi
hành án dân sự là một trong các phương thức để đương sự, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan (nhân dân) thực hiện quyền kiểm tra, giám sát và thực hiện quyền làm
chủ của mình, hướng tới bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và bảo
đảm pháp luật được thực thi nghiêm minh, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm
xây dựng nhà nước pháp quyền.
Hoạt động THADS là hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, có tính chất phức tạp,
liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, trực tiếp ảnh hưởng đến tiền, tài
sản, nhân thân của các bên đương sự và những người có liên quan. Việc CHV áp

dụng biện pháp kê biên tài sản trong thi hành án dân sự sẽ làm phát sinh, thay đổi

8


hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ về tài sản của các bên đương sự. Chính vì vậy,
nhiều trường hợp đương sự luôn cảm thấy bức xúc trước những hành vi của CHV thi
hành án khi họ thực thi nhiệm vụ, công vụ. Mọi thủ tục của cơ quan THADS tổ
chức, thực hiện đều có thể bị khiếu nại. Trong đó việc KN kê biên tài sản trong quá
trình tổ chức THADS là điều không thể trách khỏi.
Công tác THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong những năm qua luôn
tăng về số lượng và giá trị nhưng kết quả thi hành vẫn hoàn thành và vượt chỉ tiêu
của Quốc hội giao. Tuy nhiên, không phải lúc nào các quyết định thi hành án được
ban hành và tống đạt đến người phải thi hành án là thu được tiền mà phải dùng các
biện pháp cưỡng chế để thi hành. Trong đó, biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản là
một trong sáu biện pháp mà CHV áp dụng để thực thi nhiệm vụ. Quá trình THA có
nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng việc THA xảy ra KN về kê biên tài
sản.
Đối với công tác giải quyết kiếu nại trên địa bàn tỉnh Quảng Nam luôn được đề
cao, coi trọng và là nhiệm vụ quan trọng trong công tác THADS.
Với việc tăng cường, tập trung giải quyết, chỉ đạo giải quyết dứt điểm những
vụ việc khiếu nại kéo dài, đặc biệt là những vụ việc kê biên có giá trị lớn; tăng
cường đối thoại, giải thích, giáo dục, thuyết phục, chú trọng tiến độ, thời hạn, chất
lượng. Việc giải quyết khiếu nại kê biên tài sản trong THADS những năm gần đây đã
có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, việc CHV áp dụng biện pháp kê biên tài
sản để thi hành án nhiều vụ việc hết sức phức tạp dẫn đến tình hình giải quyết KN về
kê biên tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ngày càng nhiều, làm ảnh hưởng đến an
ninh, trật tự tại địa phương và làm giảm đáng kể niềm tin của người dân vào cơ quan
THADS. Vậy, đòi hỏi phải có sự quan tâm nhằm tăng cường giải quyết KN về kê
biên tài sản trong THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.


9


Xuất phát từ thực tiễn đó, việc lựa chọn đề tài "Giải quyết khiếu nại về kê biên
tài sản trong THADS từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam" để nghiên cứu là hết sức cần
thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực
THADS như:
- Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp, Mô hình quản lý thống nhất
công tác thi hành án, mã số 96-98-027/ĐT, đề tài khoa học cấp Bộ.
- Nguyễn Thanh Thuỷ (2008), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt
Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh .
- TS. Lê Thu Hà (2010), Triển khai áp dụng Luật thi hành án dân sự trong
công tác đào tạo nghiệp vụ thi hành án, đề tài khoa học cấp cơ sở tại
Học viện Tư pháp.
- Hoàng Thế Anh (2013), Giám sát thi hành án dân sự, mã số 62380101, Luận
án Tiến sĩ Luật học tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Tài liệu học tập thi hành án dân sự- NXB Đại học Quốc gia -Tp. Hồ Chí
Minh của tác giải Huỳnh Thị Nam Hải.
Các công trình trên đã có nội dung nghiên cứu liên quan đến giải quyết khiếu
nại về thi hành án dân sự ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Tuy
nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập trực tiếp về lý
luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài luận văn có mục đích xây dựng luận cứ khoa học về giải quyết khiếu nại
về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

1
0


Để giải quyết mục đích nêu trên, đề tài luận văn có các nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về giải quyết khiếu nại về kê biên tài sản
trong THADS từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam hiện nay;
Đánh giá đúng đắn, toàn diện thực trạng giải quyết khiếu nại về kê biên tài sản
trong THADS từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam và nguyên nhân của thực trạng đó;
Kiến nghị những giải pháp tăng cường giải quyết khiếu nại về kê biên tài sản
trong THADS từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy công
tác THADS đạt hiệu quả cao hơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của giải
quyết khiếu nại về kê biên tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Tập trung nghiên cứu trong phạm vi giải
quyết khiếu nại về kê biên tài sản trong THADS của các cơ quan THADS trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam gồm: Cục THADS tỉnh Quảng Nam và 18 Chi cục THADS các
huyện, thị xã, thành phố trực thuộc.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Từ năm 2013 đến năm 2017
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp, đó là: Phương pháp phân tích,
phương pháp so sánh, phương pháp thông kế, tổng hợp và phương pháp quy nạp.

11


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần hệ thống hóa, làm rõ thêm cơ sở lý luận về giải quyết khiếu
nại về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Hiện nay, hầu như chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về giải quyết
khiếu nại kê biên tài sản trong thi hành án dân sự. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của
luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về giải quyết
khiếu nại kê biên tài sản trong thi hành án dân sự; sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho việc giảng dạy, học tập và đặc biệt là cho việc từng bước hoàn thiện pháp luật về
thi hành án dân sự trong bối cảnh hiện nay ở nước ta.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết khiếu nại kê biên tài sản trong
thi hành án dân sự;
Chương 2: Thực trạng giải quyết khiếu nại về kê biên tài sản trong thi hành
án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Nam;
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường giải quyết khiếu nại về kê
biên tài sản trong thi hành án dân sự.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN ĐẢN Sự


1

_

r

r

r

>

.1. Khái niệm khiêu nại và giải quyêt khiêu nại vê kê biên tài sản trong
thi hành án dân sự

1
2


1.1.1.
1.11.1.

Khái niệm khiếu nại về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự
Khái niệm về kê biên

Theo Đại từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin năm 1999, thì
"khiếu nại" được hiểu là: "thắc mắc, đề nghị xem xét lại những kết luận, quyết định
do cấp có thẩm quyền đã làm, đã chuẩn y” [22, tr.904]. Thắc mắc, đề nghị thực chất
cũng là sự phản ứng của người khiếu nại đối với kết luận, quyết định do cấp có thẩm
quyền đã làm, đã chuẩn y. Tuy nhiên, quan niệm này chưa thật đầy đủ, vì người ta

thắc mắc, đề nghị xem xét lại không chỉ đối với kết luận, quyết định mà còn đối với
hành vi của những người có thẩm quyền, các cơ quan tổ chức.
Như vậy, tuy có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng có thể thấy về cơ bản,
khiếu nại có thể hiểu là một hình thức phản ứng tự vệ của công dân, cơ quan, tổ chức
trước các quyết định, hành vi của các cơ quan, tổ chức, của người có thẩm quyền
trong cơ quan, tổ chức đó mà theo họ là xâm phạm tới quyền, lợi ích của mình.
1.11.2. Khái niệm về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự Kê biên: Theo
từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, thì “kê” được hiểu là viết
lần lượt vào từng tên, từng thứ một [41, tr.224], còn “biên” được hiểu là ghi chép,
viết vào sổ, biên tên vào sổ [41, tr.38]. Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản
Thời Đại năm 2014, thì “kê” được hiểu là đặt vào chỗ đó [4, tr.235], còn “biên”
được hiểu là chép, ghi vào sổ [42, tr.52]. Như vậy, có thể hiểu “kê biên” là tính toán
và ghi chép lại theo một thứ tự nhất định.
Theo Điều 105 Bộ Luật dân sự năm 2015 thì khái niệm về tài sản: “Tài sản là
vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản.
Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương
lai” [33, tr.32].
Kê biên tài sản trong thi hành án là một trong sáu biện pháp cưỡng chế thi
hành án được ghi nhận tại Điều 71 Luật THADS sẽ bảo đảm thực hiện trách nhiệm
dân sự hay nghĩa vụ dân sự của người phải thi hành án, theo bản án, quyết định của

13


Tòa án mà Chấp hành viên thực hiện hành vi kiểm kê hiện trạng tài sản, ghi chép
một cách trình tự và hạn chế hoặc cấm chủ sở hữu, sử dụng không được không được
thực hiện các hành vi tẩu tán, phá hủy hay các hành vi khác làm thay đổi hiện trạng
đối với tài sản đó để đảm bảo cho việc thi hành án.
Từ sự trình bày nêu trên, khiếu nại về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự
được hiểu là việc người được thi hành án, người phải thi hành án được gọi là

(đương sự) và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phản ứng cho rằng hành vi
của Chấp hành viên đã kê biên tài sản làm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của họ.
1.1.2. Khái niệm giải quyết khiếu nại về kê biên tài sản trong thi hành án
dân sự
Đi liền với quyền KN của các bên đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan là nghĩa vụ giải quyết KN của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm
quyền. Làm tốt công tác giải quyết KN trong THADS không những bảo vệ quyền lợi
chính đáng của các bên đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động THADS, giảm vụ việc THA tồn đọng, bảo đảm bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành trên thực tế, mà qua đó còn tạo niềm tin
của xã hội đối với hoạt động THADS, niềm tin vào những phán quyết của Tòa án,
văn bản luật và công lý.
Giải quyết KN về kê biên tài sản trong THADS cũng mang đầy đủ bản chất,
nội dung, mục đích, ý nghĩa của hoạt động giải quyết KN nói chung. Về bản chất, đó
cũng là việc cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm
làm rõ việc KN có đúng hay sai. Cụ thể là xác định xem quyết định của Thủ trưởng
cơ quan THADS hoặc hành vi CHV thực hiện việc kê biên tài sản có trái pháp luật,
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người KN hay không. Tính chất, mức
độ, hậu quả của sự xâm phạm đến mức nào. Từ đó, đưa ra kết luận về từng vấn đề
liên quan, làm cơ sở cho việc ban hành quyết định giải quyết KN. Trong quá trình

1
4


giải quyết KN, cơ quan hoặc người có thẩm quyền giải quyết KN một mặt sử dụng
những tài liệu, bằng chứng tiếp nhận từ người KN, mặt khác có thể tổ chức xác
minh, thu thập thêm thông tin, tài liệu để làm căn cứ cho việc kết luận và ra quyết
định giải quyết KN một cách chính xác. Từ đó, kết luận nội dung KN là đúng, đúng

một phần hoặc sai toàn bộ. Trên cơ sở ấy ra quyết định giải quyết KN theo hướng
giữ nguyên, sửa đổi, hủy bỏ hoặc yêu cầu sửa đổi, hủy bỏ một phần quyết định, hành
vi bị KN hoặc buộc chấm dứt việc thực hiện quyết định, hành vi bị KN; đồng thời
quyết định về nhiệm bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do quyết định, hành vi
trái pháp luật gây ra.
Hoạt động giải quyết KN nói trên được tiến hành theo các quy định của pháp
luật, trước hết là pháp luật về giải quyết KN trong THADS, ngoài ra còn phải tuân
theo các quy định của pháp luật trong từng chuyên ngành. Chẳng hạn khi giải quyết
KN về kê biên quyền sử dụng đất hay về kê biên tài sản là phần vốn gớp thì ngoài
việc tuân theo các quy định trong giải quyết KN về THADS, người giải quyết KN
còn phải tuân theo các quy định của pháp luật về đất đai, Luật doanh nghiệp ...
Như vậy, từ những phân tích trên có thể hiểu: Giải quyết khiếu nại về kê biên
tài sản trong THADS là việc cơ quan có thẩm quyền thụ lý, xác minh và ra quyết
định giải quyết khiếu nại đối với khiếu nại của người khiếu nại khi họ cho rằng
quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của thủ trưởng cơ quan thi hành án là trái
pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích của mình hoặc hành vi của CHV đã thực hiện
việc kê biên tài sản là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích của mình.
1.2. Nội dung giải quyết khiếu nại về kê biên tài sản trong thi hành án dân
sự
1.2.1. Người có quyền khiếu nại về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 140 Luật THADS năm 2014 quy định thì
người có quyền KN về THADS bao gồm:

15


Đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khiếu nại đối với
quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên nếu
có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích
hợp pháp của mình. Theo đó, “đương sự” bao gồm người được thi hành án, người

phải thi hành án. Người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng
quyền, lợi ích trong bản án, quyết định được thi hành. Người phải thi hành án là cá
nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi
hành (Khoản 1,2,3 Điều 3 Luật THADS 2014) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc
thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của đương sự (Khoản 4 Điều 3 Luật THADS
năm 2014).
Theo quy định của Luật KN năm 2011, người có quyền KN là công dân, cơ
quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức có quyền lợi bị xâm hại bởi một quyết định
hành chính, hành vi hành chính, một quyết định kỷ luật cán bộ, công chức hoặc
người đại diện hợp pháp của những người này khi họ thực hiện quyền KN. Có nghĩa
là, người có quyền KN phải là người bị tác động trực tiếp bởi chính quyết định hoặc
hành vi đó [32, tr.1-2].
Đối chiếu với các quy định trên thì chủ thể thực hiện quyền khiếu nại về kê
biên tài sản trong THADS có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức.
1.2.2. Đối tượng khiếu nại về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự
Theo Luật KN năm 2011 thì đối tượng KN là quyết định hành chính, hành vi
hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ
cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp của người KN.

1
6


Theo Luật THADS năm 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 thì đối tượng
KN về THADS là các quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc hành vi của Thủ
trưởng cơ quan Thi hành án dân sự và Chấp hành viên.
Như vậy, đối tượng khiếu nại về kê biên tài sản trong THADS chính là Quyết

định giải quyết khiếu nại lần đầu và hành vi của CHV thực hiện việc kê biên tài sản
của đương sự.
Thứ nhất: Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của thủ trưởng cơ quan
THADS
Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu thuộc thẩm quyền ban hành của Thủ
trưởng cơ quan THADS như: Quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ
quan THADS cấp huyện giải quyết về hành vi kê biên của Chấp hành viên thuộc
quyền quản lý; Quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan THADS cấp
tỉnh giải quyết về hành vi kê biên của CHV thuộc quyền quản lý và hành vi kê biên
của CHV là Thủ trưởng cơ quan THADS cấp huyện; Quyết định giải quyết khiếu nại
của Thủ trưởng cơ quan quản lý THADS- Bộ Tư pháp giải quyết về hành vi kê biên
của CHV là Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh đều là đối tượng KN về kê biên tài
sản trong THADS.
Khi nhận được một trong các quyết định nói trên nếu không đồng ý thì người
có quyền KN được thực hiện quyền KN.
Thứ hai: Hành vi kê biên tài sản trong thi hành án
Nếu cho rằng hành vi của CHV thực hiện việc kên biên tài sản làm xâm phạm
đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người có quyền khiếu nại được thực hiện
quyền khiếu nại.
Hành vi kê biên tài sản trong THADS bị khiếu nại nếu: kê biên, xử lý tài sản
sai đối tượng; kê biên không tương ứng với giá trị phải thi hành; kê biên thiếu tài
sản; kê biên thừa tài sản hay kê biên tài sản đang tranh chấp...

17


1.2.3. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại về kê biên tài sản trong thi hành án
dân sự
Thẩm quyền giải quyết KN về THADS cũng là thẩm quyền giải quyết KN về
kê biên tài sản trong THADS.

Người có thẩm quyền giải quyết KN về kê biên tài sản trong THADS là Thủ
trưởng cơ quan THADS cấp huyện, Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh, Thủ
trưởng cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp và Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Giải quyết KN về kê biên tài sản trong THADS được thực hiện theo quy trình
giải quyết về KN có thể phân thành hai cấp cụ thể như sau:
- Cấp thứ nhất:
Thẩm quyền giải quyết khiếu nại về kê biên tài sản trong THADS lần đầu
Giải quyết KN lần đầu về kê biên tài sản trong THADS thuộc thẩm quyền của
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện; Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự cấp tỉnh; Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân
sự thuộc Bộ Tư pháp theo quy định tại Điều 142 Luật THADS năm 2008.
Một là: Thẩm quyền giải quyết KN về kê biên tài sản trong THADS của Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện giải quyết KN đối với hành
vi thực hiện việc kê biên tài sản trái pháp luật của CHV thuộc quyền quản lý trực
tiếp của Chi cục THADS cấp huyện.
Bên cạnh đó Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 quy định quy trình
giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong THADS, có hiệu
lực kể từ ngày 16/3/2016 có một điểm mới tại Điểm a Khoản 1 Điều 7 quy định về
thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp
huyện giải quyết KN quyết định, hành vi của Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên. Như vậy, cấp Phó

1
8


Thủ trưởng cơ quan THADS cấp huyện thực hiện việc kê biên mà bị KN thì vẫn
thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ trưởng cơ quan THADS cấp huyện.
Hai là: Thẩm quyền giải quyết KN về kê biên tài sản trong THADS của Thủ

trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh.
Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh giải quyết đối với khiếu nại hành vi thực
hiện việc kê biên tài sản trái pháp luật của Chấp hành viên thuộc quyền quản lý của
Cục THADS và hành vi của Thủ trưởng cơ quan THADS cấp huyện thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của CHV kê biên tài sản trái pháp luật.
Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 quy định quy trình giải quyết
đơn KN, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong THADS, có hiệu lực kể từ ngày
16/3/2016 cũng có một điểm mới tại Điểm a Khoản 2 Điều 7 quy định về thẩm
quyền giải quyết KN của Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh việc giải quyết KN
quyết định, hành vi của Phó Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh khi thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của CHV. Như vậy, cấp Phó Thủ trưởng cơ quan THADS cấp
tỉnh thực hiện việc kê biên mà bị KN thì vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ
trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh.
Ba là: Thẩm quyền giải quyết KN về kê biên tài sản trong THADS của Thủ
trưởng cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp
Thủ trưởng cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp giải quyết đối với
khiếu nại hành vi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên kê biên tài sản
trái pháp luật của Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh.
Tóm lại, Thủ trưởng cơ quan THADS có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về
kê biên tài sản trong THADS lần đầu đối với hành vi của CHV do mình trực tiếp
quản lý.
- Cấp thứ hai:
Thẩm quyền giải quyết khiếu nại về kê biên tài sản trong THADS lần hai.

19


Giải quyết KN về kê biên tài sản trong THADS lần hai thuộc thẩm quyền của
Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh; Thủ trưởng cơ quan quản lý THADS thuộc
Bộ Tư pháp và Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Một là: Thẩm quyền giải quyết khiếu nại về kê biên tài sản trong THADS của
Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 142
Luật THADS năm 2008 và Điểm d, Khoản 2, Điều 7 Thông tư số 02/2016/TT-BTP
ngày 01/02/2016 quy định quy trình giải quyết đơn KN, tố cáo, đề nghị, kiến nghị,
phản ánh trong THADS, có hiệu lực kể từ ngày 16/3/2016 thì Thủ trưởng cơ quan
THADS cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết KN đối với quyết định giải quyết KN của
Thủ trưởng cơ quan THADS cấp huyện. Nghĩa là trước đó CHV của cơ quan
THADS cấp huyện thực hiện việc kê biên tài sản của đương sự mà bị KN và đã được
Thủ trưởng cơ quan THADS cấp huyện giải quyết bằng một quyết định giải quyết
khiếu nại nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại
đó và khiếu nại tiếp.
Hai là: Thẩm quyền giải quyết KN về kê biên tài sản trong THADS của Thủ
trưởng cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp.
Theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 142 Luật THADS năm 2008 và Điểm
b, Khoản 3, Điều 7 Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 quy định quy
trình giải quyết đơn KN, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong THADS, có hiệu
lực kể từ ngày 16/3/2016 thì Thủ trưởng cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp
giải quyết khiếu nại đối với quyết định giải quyết KN của Thủ trưởng cơ quan
THADS cấp tỉnh. Nghĩa là trước đó CHV của cơ quan THADS cấp tỉnh và Thủ
trưởng cơ quan THADS cấp huyện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của CHV thực
hiện việc kê biên tài sản của đương sự mà bị KN và đã được Thủ trưởng cơ quan
THADS cấp tỉnh giải quyết bằng một quyết định giải quyết KN nhưng người khiếu
nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại đó và khiếu nại tiếp.
Ba là: Thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

2
0


Theo quy định tại điểm a, b Khoản 4 Điều 142 Luật THADS năm 2008: Bộ

trưởng Bộ Tư pháp giải quyết KN đối với các quyết định giải quyết KN lần đầu của
Tổng cục trưởng Tổng cục THADS hoặc quyết định giải quyết KN có hiệu lực thi
hành của Thủ trưởng cơ quan THADS và Tổng cục trưởng Tổng cục THADS trong
trường hợp cần thiết. Do vậy, khi tiếp nhận đơn thư KN, người tiếp nhận phải kiểm
tra xem đơn thư KN có thuộc thẩm quyền giải quyết KN của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
hay không.
Trường hợp quyết định giải quyết KN đã có hiệu lực thi hành mà đương sự vẫn
tiếp tục KN: Nếu có căn cứ cho thấy việc giải quyết KN của Thủ trưởng hai cấp đối
với hành vi, quyết định trái pháp luật của CHV, Thủ trưởng cơ quan cấp dưới là
không khách quan, không đúng pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của người KN
bị xâm phạm cần được khôi phục, khắc phục thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền
xem xét lại những quyết định đã có hiệu lực.
Theo Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật THADS, việc xem xét lại chỉ được thực hiện khi
có căn cứ cho rằng: Quyết định, hành vi bị KN là trái pháp luật nhưng quyết định
giải quyết KN cho rằng quyết định, hành vi đó là đúng pháp luật; việc giải quyết KN
đã vi phạm quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết KN về THA; có tình tiết mới
làm thay đổi cơ bản kết quả giải quyết KN [14, tr.24].
Khi xác định thẩm quyền giải quyết KN lần hai, cần chú ý:
Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật THADS: Đối với đơn KN thuộc thẩm quyền giải quyết
của cấp dưới nhưng quá thời hạn quy định mà chưa được giải quyết thì Thủ trưởng
cơ quan THADS hoặc cơ quan quản lý THADS cấp trên yêu cầu cấp dưới giải quyết,
đồng thời có trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc giải quyết của cấp dưới và
áp dụng biện pháp theo thẩm quyền để xử lý đối với người thiếu trách nhiệm hoặc cố
tình trì hoãn việc giải quyết KN đó. Trong trường hợp cần áp dụng biện pháp vượt

21



quá thẩm quyền của mình thì kiến nghị cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền xử
lý [14, tr.24].
1.2.4. Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại về kê biên
tài sản trong thi hành án dân sự
Thứ nhất: Quyền của người khiếu nại được quy định tại Khoản 1 Điều 143
Luật THADS năm 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định người KN có
quyền sau đây:
Có thể tự mình khiếu nại hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khiếu nại;
nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật trong quá trình KN; được nhận
Quyết định giải quyết khiếu nại; được biết các bằng chứng để làm căn cứ giải quyết
KN; đưa ra bằng chứng về việc KN và giải trình ý kiến của mình về bằng chứng đó;
được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm và được bồi thường thiệt
hại, nếu có.
Người KN được quyền rút KN trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình giải
quyết KN; người KN có quyền KN tiếp nếu không đồng ý với quyết định giải quyết
KN lần đầu của người có thẩm quyền giải quyết KN;
Thứ hai: Nghĩa vụ của người khiếu nại được quy định tại Khoản 2 Điều 143
Luật THADS năm 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định người khiếu nại
có các nghĩa sau đây:
Khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết; trình bày trung thực sự việc,
cung cấp thôn tin, tài liệu cho người giải quyết khiếu nại; chịu trách nhiệm trước
pháp luật về nội dung trình bày và việc cung cấp thông tin tài liệu đó; chấp hành
nghiêm chỉnh quyết định giải quyết KN đã có hiệu lực thi hành và quyết định của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp;

2
2


1.3. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại về kê biên tài sản trong thi hành

án dân sự
Trình tự thủ tục giải quyết KN về kê biên tài sản trong THADS quy định tại
Điều 150 và Điều 152 luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy
đinh như sau:
Thủ tục giải quyết KN lần đầu (Điều 150): Sau khi xem xét thấy khiếu nại
thuộc thẩm quyền giải quyết, người có thẩm quyền giải quyết KN phải vào sổ thụ lý
để giải quyết và Thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại, xác minh, trường hợp
cần thiết có thể trưng cầu giám định hoặc tổ chức đối thoại để làm rõ nội dung khiếu
nại sau đó phải ra Quyết định giải quyết khiếu nại.
Thủ tục giải quyết khiếu nại lần hai (Điều 152) Ngoài việc thực hiện
các thủ tục như lần một người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có quyền yêu cầu
người giải quyết khiếu nại lần đầu, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp
thông tin, tài liệu và những bằng chứng liên quan đến nội dung khiếu nại, tiến hành
các biên pháp khác theo quy định của pháp luật để giải quyết khiếu nại.
Lưu ý rằng trường hợp nội dung đơn khiếu nại, báo cáo giải trình của người bị
KN và hồ sơ tài liệu có liên quan rõ ràng, có đủ căn cứ, cơ sở pháp lý đẻ kết luận,
giải quyết thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ra ngay Quyết định giải
quyết KN theo quy định tại Khoản 5 Điều 9 Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày
01/2/2016 có hiệu lực tù ngày 16/3/2016.
Kế thừa quy định của Nghị định 58/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS về thủ tục
THADS, Nghị định số 62/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự đã giữ nguyên quy định
giải quyết khiếu nại về THA và bổ sung quy định: “Trường hợp khiếu nại được giải
quyết mà đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại nhưng không đưa ra bằng chứng mới thì
người giải quyết khiếu nại lưu đơn và thông báo để đương sự biết”.

23



Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành
thì khiếu nại về kê biên tài sản trong THADS được chia thành 5 bước cụ thể như sau:
Tiếp nhận, phân loại đơn; thụ lý đơn KN, yêu cầu báo cáo giải trình, cung cấp hồ sơ
tài liệu; tổ chức xác minh, đối thoại tại địa phương; ra quyết định giải quyết KN;
Phát hành công khai, đôn đốc, theo dõi và kiểm tra việc thực hiện quyết quả giải
quyết KN và Hoàn chỉnh hồ sơ giải quyết khiếu nại.
Bước 1: Tiếp nhận, phân loại đơn
Thụ lý đơn khiếu nại
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn KN do văn thư
chuyển, công chức được giao giải quyết KN có nhiệm vụ thụ lý và thông báo về việc
thụ lý đơn khiếu nại bằng văn bản cho người KN biết.
Khi nhận được đơn khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết KN căn cứ vào
các quy định tại Điều 11 Luật KN năm 2011, Điều 141 Luật THADS và Khoản 5
Điều 4 Quy chế giải quyết KN, tố cáo về THADS (Ban hành kèm theo Quyết định số
1318/QĐ-TCTHADS ngày 30/9/2013 của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS) Điều
5, Điều 6 Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 quy định quy trình giải
quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong THADS, có hiệu lực
kể từ ngày 16/3/2016 để xác định xem vụ việc có đủ điều kiện thụ lý hay không.
Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại sẽ không thụ lý đơn khiếu nại để giải
quyết đối với các khiếu nại sau:
- Quyết định, hành vi bị khiếu nại không liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích
hợp pháp của người khiếu nại;
- Người khiếu nại không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mà không có
người đại diện hợp pháp, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
- Người đại diện không có giấy tờ chứng minh về việc đại diện hợp pháp của
mình;
- Thời hiệu, thời hạn khiếu nại đã hết mà không có lý do chính đáng;

2
4



- Việc khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi hành, trừ
trường hợp cần thiết thuộc diện xem xét lại theo thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư
pháp;
- Khiếu nại đã có quyết định giải quyết KN lần hai;
- Có văn bản thông báo đình chỉ việc giải quyết khiếu nại mà sau 30 ngày
người KN không tiếp tục khiếu nại;
- Việc khiếu nại đã được Toà án thụ lý hoặc đã được giải quyết bằng bản án,
quyết định của Toà án, trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính
của Toà án;
- Không xem xét, giải quyết đơn khiếu nại giấu tên, mạo tên, không rõ địa chỉ,
nhân danh tập thể, không có chữ ký, sao chụp chữ ký, hoặc nội dung khiếu nại đã
được cấp có thẩm quyền giải quyết hay khiếu nại lại nhưng không có bằng chứng
mới, trừ trường hợp xử lý đơn theo quy định của pháp luật về phòng chống tham
nhũng;
- Không thụ lý giải quyết đối với khiếu nại về quyết định, hành vi trong nội bộ
cơ quan Thi hành án để chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ; quyết định,
hành vi trong chỉ đạo điều hành của cơ quan Thi hành án cấp trên đối với cơ quan
Thi hành án cấp dưới.
Khi người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại không thụ lý đơn khiếu nại để
giải quyết thì phải thông báo và nêu rõ lý do.
Tuy nhiên, khi tiếp nhận đơn KN về kê biên tài sản trong THADS trong trường
hợp nhiều người khiếu nại về cùng một nội dung thì người nhận đơn cần lưu ý
hướng dẫn người khiếu nại thực hiện theo quy định tại Khoản 4, Điều 8 Luật khiếu
nại: Đối với trường hợp nhiều người đến khiếu nại trực tiếp thì cơ quan có thẩm
quyền tổ chức và hướng dẫn người khiếu nại cử đại diện để trình bày nội dung khiếu
nại; người tiếp nhận khiếu nại ghi lại việc khiếu nại bằng văn bản, trong đó ghi rõ
ngày, tháng, năm khiếu nại; tên, địa chỉ của người khiếu nại; tên địa chỉ của cơ quan,


25


×