Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

soan bai hoi trong co thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (61.71 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Soạn bài : Hồi trống cổ thành</b>


Bên cạnh kho tàng văn học dân gian rất đồ sộ với tác phẩm Kinh Thi nổi tiếng,
nhân dân Trung Quốc cịn rất tự hào với hai đỉnh cao chói lọi là Thanh là giai
đoạnthơ Đường và tiểu thuyết Minh – Thanh. Văn học Minh phát triển cuối
cùng của văn học cổ điển Trung Quốc. Đây là thời kì nền văn học Trung Quốc
khá đa dạng, phong phú và đạt nhiều thành công về mặt nghệ thuật. Trong đó có
sự lên ngơi đầy vẻ vang của tiểu thuyết. Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là một
loại truyện dài, được kể thành chương hồi và theo trật tự trước sau của sự việc.
Khái niệm tiểu thuyết Thanh khác với tiểu thuyết hiện đại sử dụng ngàytrong
văn học Minh Thanhnay. Có thể kể đến những đỉnh cao tiêu biểu của tiểu
thuyết Minh đã rất quen thuộc với chúng ta ngày nay như Tây du kí, Nho lâm
ngoại sử, Thuỷ hử truyện, Tam quốc diễn nghĩa, Hồng lâu mộng… Trong đó,
Tam quốc diễn nghĩa là tác phẩm phản ánh một thời kì dài và đầy biến động của
lịch sử Trung Quốc, đó là thời Tam quốc. La Quán Trung viết tác phẩm này dựa
trên ba nguồn tư liệu chính là sử liệu (cuốn sử biên niên Tam quốc chí của Trần
Thọ đời Tấn và cuốn Tam quốc chí của Bùi Tùng Chi người Nam Bắc triều) ; dã
sử, truyền thuyết trong dân gian ; tạp kịch, thoại bản đời Ngun (cuốn Tam
quốc chí bình thoại). Vì thế tác phẩm vừa là một thiên sử kí, vừa là một tác
phẩm văn học có giá trị nghệ thuật.


Qua việc kể lại những câu chuyện về cuộc chiến tranh cát cứ giữa ba tập đoàn
phong kiến Nguỵ, Thục, Ngơ, bằng nhãn quan chính trị của mình, La Quán
Trung đã bày tỏ khát vọng về một xã hội công bằng, ổn định với vua hiền tướng
giỏi, nhân dân ấm no. Mặc dù, lấy đề tài từ những câu chuyện lịch sử đã lùi sâu
vào quá khứ nhưng tác giả đã khắc hoạ một thế giới nhân vật sinh động trong
những mối quan hệ rất chặt chẽ, với đủ những nét tính cách khác nhau. Không
một nhân vật nào trùng lặp nhân vật nào trong thế giới hàng nghìn nhân vật ấy.
Đoạn trích Hồi trống Cổ Thành đã phần nào bộc lộ một trong những nét tính
cách tiêu biểu của hai nhân vật xuất hiện khá nhiều trong tác phẩm là Quan Vân
Trường và Trương Phi. Đoạn trích rất ngắn so với sự đồ sộ của tác phẩm nhưng


cũng đã thể hiện được một đặc trưng bút pháp nghệ thuật của La Quán Trung
cũng như đặc điểm chung của tiểu thuyết cổ điển Minh – Thanh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

thuẫn giữa các nhân vật đều được giải quyết bằng hành động. Mâu thuẫn giữa
Quan Công và Trương Phi xuất phát từ sự hiểu lầm của Trương Phi nhưng cũng
được giải quyết bằng hành động. Hành động chém đầu tướng giặc. Mâu thuẫn
chỉ được giải quyết khi đầu Sái Dương rơi xuống đất, còn mọi lời giải thích đều
khơng có ý nghĩa gì. Về mặt nội dung, đoạn trích là một câu chuyện hồn chỉnh,
đặc điểm này giúp cho việc nắm bắt nội dung dễ dàng hơn. Mỗi hồi của tiểu
thuyết chương hồi thường giải quyết hoàn chỉnh một mâu thuẫn hoặc hoàn thành
diễn biến một sự kiện, đồng thời lại mở ra một câu chuyện mới tạo nên phần nối
kết với hồi sau. Vì thế kết thúc mỗi hồi bao giờ cũng có câu : "muốn biết sự việc
thế nào xem hồi sau sẽ rõ". Mỗi hồi đều được kết thúc khi mâu thuẫn đang ở cao
trào là một kiểu tạo sức hấp dẫn của nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết cổ
điển.


Vốn là những truyện kể dân gian được sưu tầm và ghi chép lại nên phương thức
trần thuật của Tam quốc diễn nghĩa mang đặc điểm truyện kể rất rõ. Truyện
được kể theo trật tự thời gian trước sau của sự việc. Nếu sự việc xảy ra đồng
thời hoặc muốn chuyển từ nhân vật này sang nhân vật khác thì dùng từ chuyển
"lại nói". Truyện kể ít quan tâm đến diễn biến tâm lí và suy nghĩ nội tâm của
nhân vật. Tính cách nhân vật được bộc lộ qua hành động và cử chỉ. Tác giả ít
xen vào lời giới thiệu hoặc bình luận. Nếu bình luận một trận đánh hoặc một sự
việc, hành động nào đó của nhân vật thì tác giả trích một bài thơ, một bài vịnh
nào đó của người đời sau. Và tên mỗi chương bao giờ cũng là câu văn đối ngẫu
tóm tắt sự việc chính xảy ra trong hồi đó. Nội dung của câu chuyện Hồi trống
Cổ Thành được tóm tắt trong câu : "Chém Sái Dương anh em hoà giải ; Hồi Cổ
Thành tơi chúa đồn viên". Đoạn trích này đã thể hiện khá rõ những đặc sắc
nghệ thuật trần thuật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tam quốc diễn nghĩa.
Những nét tính cách khơng thường nổi bật trong tác phẩm của hai nhân vật


Quan Công và Trương Phi đã được thể hiện trong đoạn trích. Quan Cơng vốn rất
tự phụ, ít khi nhún nhường ai, nhưng trong trường hợp đặc biệt này, trước cơn
giận của Trương Phi, lại rất nhũn nhặn, mềm mỏng. Ở đây hiện lên một Quan
Công oai hùng trong tư thế chém đầu tướng giặc nhưng cũng lại là một người
anh chín chắn, đúng mực. Cịn Trương Phi tính tình vốn xốc nổi, đơn giản
nhưng mối nghi ngờ đã làm cho vị anh hùng này thận trọng hơn. Đó là những
nét tính cách khác tạo nên sự đa chiều trong nghệ thuật xây dựng tính cách nhân
vật của tác giả. Dù thế nào thì mỗi nhân vật của Tam quốc diễn nghĩa vẫn có
một tính cách đặc trưng rất cá tính, khơng thể trộn lẫn vào đâu được. Đoạn trích
này ca ngợi tài năng phi thường của Quan Cơng, lịng dạ thẳng ngay của Trương
Phi và trên hết là lòng trung nghĩa sắt son của cả hai người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

thèm nói một lời, "Trương Phi mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét
như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Cơng". Khơng có lời bình luận, khơng
miêu tả tâm lí nhân vật nhưng tính nóng nảy và sự tức giận của Trương Phi được
thể hiện rất rõ qua hành động, nét mặt, lời nói. Phản ứng của Trương Phi thể
hiện tính trung thực, yêu ghét rõ ràng. Lời thanh minh của Quan Cơng, lời giải
thích của Cam phu nhân, Mi phu nhân đều chỉ như dầu đổ vào lửa. Trương Phi
khơng thích nghe lí lẽ, chỉ tin vào những điều mắt trông thấy. Cơn giận đang
ngùn ngụt lại trông thấy quân mã kéo tới. Cơn giận của Trương Phi được đẩy lên
đỉnh điểm "múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công". Nhân vật của
tiểu thuyết cổ điển tuy có tính cách rất rõ nét nhưng vẫn mang tính ước lệ của
văn học trung đại. Vì vậy, hành động của nhân vật bao giờ cũng minh hoạ cho
tính cách và tư tưởng giai cấp chứ không nhất thiết tuân theo lơgic tâm lí. Tình
nghĩa anh em thuở hàn vi sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu ai đó bị nghi ngờ là phản
bội. Chỉ có lí tưởng trung nghĩa là nguyên tắc ứng xử duy nhất. Và mọi mâu
thuẫn chỉ được giải quyết trên cơ sở lợi ích cộng đồng. Anh em Quan, Trương
đoàn tụ khi đầu Sái Dương rơi xuống đất. Trương Phi thẳng tay đánh trống giục
giã Quan Vũ và "rỏ nước mắt thụp lạy Vân Trường" khi nỗi nghi ngờ được giải
toả. Việc Trương Phi buộc Quan Công phải chém đầu Sái Dương trong ba hồi


trống thể hiện một thái độ dứt khoát và cương quyết, đây cũng là chi tiết đậm
màu sắc Tam quốc nhất. Trương Phi biết rõ tài năng của Quan Công, Quan
Công từng chém rơi đầu Hoa Hùng, một viên tướng giỏi và trở về doanh trại mà
chén rượu vẫn cịn nóng. Việc Quan Công chém được Sái Dương không phải là
việc khó nhưng lại rất có ý nghĩa bởi đó là cách duy nhất để Quan Công minh
oan. Sự minh oan cũng khơng mấy khó khăn nhưng nó thể hiện thái độ dứt
khoát và trắng đen rõ ràng của Trương Phi. Tác giả đã tạo nên một tình huống
rất đặc sắc để vừa ngợi ca tình cảm anh em gắn bó nghĩa tình của Lưu, Quan,
Trương vừa bộc lộ rõ tính cách thẳng ngay của Trương Phi và đức độ của Quan
Công.


Trương Phi và Quan Công là những tướng tài của nhà Thục, tiêu biểu cho nhà
Thục. Lưu Bị và nhà Thục là nơi tác giả gửi gắm ước mơ của quần chúng nhân
dân về một ơng vua hiền, một triều đình chính nghĩa và nhân đạo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

về xã hội Minh Thanh. Chỉ với một đoạn trích Hồi trống Cổ Thành nhưng hai
nhân vật Quan Công và Trương Phi đã nổi lên vẻ đẹp sáng ngời về lòng nhân
nghĩa, sự trung thực và chân thành của tình anh em, tơi chúa. Là tiểu thuyết khai
thác đề tài trận mạc nhưng Tam quốc đã để lại rất nhiều những câu chuyện giáo
dục nghĩa tình, giáo dục lối sống, lối ứng xử theo tiêu chuẩn Nhân, Lễ, Nghĩa,
Trí, Tín của người qn tử phương Đơng.


* Lời bình hồi 28 Tam quốc diễn nghĩa của Mao Luân (cha) và Mao Tôn Cương
(con) :


"Người đời chỉ biết Vân Trường hàng Hán, không hàng Tào, thì khen là tiết
tháo, nhưng khơng biết Dực Đức cịn tiết tháo hơn.... Bởi vì có vua tơi rồi mới
có anh em, nghĩa vua tơi đã đơn sai thì tình anh em cũng đoạn tuyệt. Đã lấy sự
công phẫn ghi trong tờ phiếu gài ở đai áo làm trọng, thì cũng phải lấy lời thề chỗ
vườn đào làm khinh. Suy cái nghĩa ấy mà xem, nếu Dực Đức ở vào cảnh bị vây


ở núi Thổ Sơn thì quyết dấn mình vào lưỡi gươm giáo mà chết chứ khơng khi
nào chịu tịng quyền cơ biến mà ăn cạnh nằm kề với tên giặc họ Tào.


Dực Đức bình sinh rất ghét Lã Bố, coi là kẻ diệt ln tuyệt lí, cho nên hễ trơng
thấy mặt là chửi thằng đi ở ba họ. Đối với Tào Tháo cũng ghét và giận như vậy.
Ghét Lã Bố vì khơng biết đạo cha con, ghét Tào Tháo vì khơng trọng đạo vua
tơi. Coi vậy, Dực Đức thật đáng khen là bậc hiếu tử và trung thần.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×