Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trường trung học phổ thông nghi lộc 2, huyện nghi lộc, tỉnh nghệ an luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.47 KB, 89 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐẶNG KHẮC BÌNH

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI
NGŨ GIÁO VIÊN TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG NGHI LỘC 2, HUYỆN NGHI LỘC,
TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60 . 14 . 05

VINH, 2011


2

LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới các thầy
giáo, cơ giáo khoa Sau đại học trường Đại học Vinh và các thầy, cô giáo đã
tham gia giảng dạy, giúp đỡ, tạo điều kiện để tơi học tập, nghiên cứu hồn thành
nhiệm vụ đề tài luận văn của mình.
Tơi chân thành cảm ơn bạn bè đồng nghiệp đã quan tâm, động viên, và
tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ trong việc cung cấp tài liệu, số liệu, đóng góp ý
kiến trong q trình nghiên cứu, hồn thành đề tài luận văn.
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư, Tiến sĩ Hà


Văn Hùng - Người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tơi trong suốt q trình
nghiên cứu, hồn thành đề tài luận văn này.
Trong q trình học tập, nghiên cứu, tơi đã có nhiều cố gắng để hồn
thành nhiệm vụ khố học nói chung và hồn thành đề tài luận văn nói riêng. Kết
quả nghiên cứu mới chỉ là những khám phá ban đầu, có thể cịn nhiều thiếu sót.
Kính mong các nhà khoa học, các thầy giáo, cơ giáo và các bạn đóng góp ý kiến
để tơi tiếp tục nghiên cứu sâu sắc và hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 12 năm 2011
Tác giả luận văn
Đặng Khắc Bình


3

MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu

1

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

5

1.1. Lịch sử vấn đề

5

1.2. Giáo viên


5

1.3. Đội ngũ giáo viên

13

1.4. Chất lượng đội ngũ giáo viên

13

1.5. Quản lý

21

1.6. Quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên

23

1.7. Quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên THPT

24

1.8. Cơ sở pháp lý của đề tài.

25

Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRƯỜNG THPT NGHI LỘC 2
NHỮNG NĂM QUA.


26

2.1. Khái quát tình hình kinh tế, văn hóa xã hội
miền Tây huyện Nghi Lộc.

27

2.2. Khái quát về tình hình giáo dục các xã miền Tây
huyện Nghi Lộc.

29

Chương 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRƯỜNG THPT NGHI LỘC 2
HUYỆN NGHI LỘC TỈNH NGHỆ AN.

67

3.1. Nguyên tắc xây dựng biện pháp.

67

3.2. Các biện pháp.

68

3.3 Kết quả thăm dị tính cấp thiết các biện pháp.

82


Kết luận và kiến nghị.

84

Tài liệu tham khảo.

86


4

DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
XHCN:
BCH TW:
CNH - HĐH:
GD - ĐT:
GV:
HS:
PCGDTHĐĐT:
HĐND:
UBND:
KT - XH:
CSVC:
THCS
PTCS
THSP
PTTH
THPT
MTTQ

TCCS
HSTNTHCS
ĐH, CĐ, THCN
TNCS
HTCĐ
BDTX
GDTX
ĐDDH
ĐHSP
TH
TP
SGK

Xã hội chủ nghĩa
Ban chấp hành Trung ương
Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa
Giáo dục – Đào tạo
Giáo viên
Học sinh
Phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi
Hội đồng nhân dân
Ủy ban nhân dân
Kinh tế - Xã hội
Cơ sở vật chất
Trung học cơ sở
Phổ thông cơ sở
Trung học sư phạm
Phổ thông trung học
Trung học phổ thông
Mặt trận Tổ quốc

Tổ chức cơ sở
Học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở
Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghệp
Thanh niên cộng sản
Học tập cộng đồng
Bồi dưỡng thường xuyên
Giáo dục thường xuyên
Đồ dùng dạy học
Đại học sư phạm
Tiểu học
Thành phố
Sách giáo khoa

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
1.1. Chỉ thị số 40 CT/TƯ về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đã khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào


5

tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người. Đây
là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân trong đó nhà giáo và cán bộ quản lí giáo
dục là lực lượng nịng cốt, có vai trị quan trọng” [1]. Chỉ thị nêu rõ: “Mục tiêu
là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục được chuẩn hoá, đảm
bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao
bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo.” [1]
Hội nghị lần thứ hai BCHTW khoá VIII khẳng định: “Giáo viên là nhân tố
quyết định chất lượng của giáo dục và được xã hội tôn vinh. Giáo viên phải có

đủ đức, tài....
Đào tạo giáo viên gắn gắn với địa chỉ và có chính sách sử dụng hợp lý để
khắc phục nhanh chóng tình trạng thiếu giáo viên hiện nay.
Thực hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng chuẩn hoá,
nâng cao phẩm chất và năng lực cho đội ngũ giáo viên....Khơng bố trí người
kém phẩm chất, đạo đức làm giáo viên, kể cả giáo viên hợp đồng.” [10, Tr39]
Đối với giáo dục đào tạo nhân tố con người chính là đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý các cấp. Đội ngũ giáo viên là người trực tiếp thực thi hàng ngày
các mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục đào tạo. Với vai trò chủ đạo trong
quá trình đào tạo của các trường, các cơ sở đào tạo, đội ngũ giáo viên là nhân tố
quyết định chất lượng của giáo dục. Trong chiến lược phát triển giáo dục 20012010 xác định, để đạt được mục tiêu của chiến lược giáo dục, cần tập trung thực
hiện 7 nhóm giải pháp lớn trong đó, đổi mới chương trình giáo dục, phát triển
đội ngũ nhà giáo là giải pháp trọng tâm [7, Tr 27].
Khâu then chốt để thực hiện chiến lược phát triển giáo dục là phải đặc biệt
chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và tiêu chuẩn hoá đội ngũ giáo viên cũng như cán bộ
quản lý giáo dục cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức và năng lực chuyên môn
nghiệp vụ [9].


6

1.2. Những năm qua, chúng ta xây dựng được đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục ngày càng đơng đảo, phần lớn có phẩm chất đạo đức và ý thức
chính trị tốt, trình độ chun mơn, nghiệp vụ ngày càng được nâng cao. Đội ngũ
này đã đáp ứng quan trọng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng đất nước. Tuy nhiên,
trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có những hạn
chế, bất cập.... Chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ nhà giáo có mặt
chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và phát triển kinh tế- xã hội, đa số vẫn

dạy theo lối còn nặng về truyền đạt lý thuyết, ít chú ý đến phát triển tư duy, năng
lực sáng tạo, kỹ năng thực hành của người học; một bộ phận nhà giáo thiếu
gương mẫu trong đạo đức, lối sống, nhân cách, chưa làm gương tốt cho học
sinh, sinh viên...[1].
Trong những năm qua, đội ngũ giáo viên THPT trên địa bàn Huyện Nghi
Lộc, Tỉnh Nghệ An nói chung và các trường THPT vùng tây Huyện Nghi Lộc
nói riêng cịn nhiều bất cập về chất lượng, số lượng cơ cấu và độ ổn định. Vì vậy
có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả đào tạo.
Đã có một số các cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực quản lý giáo dục tại
Huyện Nghi Lộc nhưng chưa có đề tài nào đề cập tới việc đề xuất các biện pháp
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên THPT. Từ thực tế và yêu cầu đòi hỏi phát
triển kinh tế xã hội như hiện nay nhất thiết phải xây dựng và phát triển đội ngũ
giáo viên THPT đủ về số lượng mạnh về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu góp
phần tích cực thực hiện mục tiêu của sự nghiệp giáo dục: “Nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hố hiện
đại hố đất nước”. Vì những lý do như vậy tôi chọn đề tài “ Một số biện pháp
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên của trường THPT Nghi Lộc 2” làm đề
tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ, chuyên ngành quản lý giáo dục.


7

2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý đề xuất các biện pháp
quản lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong bối cảnh hiện nay,
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của trường THPT Nghi Lộc 2 Huyện
Nghi Lộc Tỉnh Nghệ An
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
3.1. Khách thể: Công tác quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên.
3.2. Đối tượng: Biện pháp quản nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở

trường THPT Nghi Lộc 2 Huyện Nghi Lộc Tỉnh Nghệ An
4. Giả thuyết khoa học.
Nếu đề xuất và vận dụng được các biện pháp quản lý một cách khoa học
thì chất lượng đội ngũ giáo viên của Trường THPT Nghi Lộc 2 sẽ được nâng
cao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc quản lý chất lượng đội ngũ giáo
viên ở trường THPT.
5.2. Phân tích thực trạng quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên ở trường
THPT Nghi Lộc 2 – Tỉnh Nghệ An
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên ở
trường THPT Nghi Lộc 2 – Huyện Nghi Lộc – Tỉnh Nghệ An.
5.4. Thăm dị tính khả thi: Đề tài này được nghiên cứu dựa trên thực tế của
đơn vị sẽ được áp dụng vì vậy tính khả thi cao.
6. Phương pháp nghiên cứu.
6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận.
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
6.3. Nhóm các phương pháp thống kê toán để xử lý các số liệu


8

7. Đóng góp của đề tài
Đề tài đã xây dựng được những biện pháp quản lý nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên trong trường THPT tại địa bàn miền tây Huyện Nghi Lộc , Tỉnh
Nghệ An
8. Cấu trúc của đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu, phần kết luận, các tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành ba chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài

Chương 2: Thực trạng công tác quản lý nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên trường THPT Nghi Lộc 2.
Chương 3: Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên trường THPT Nghi Lộc 2


9

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Từ trước đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về chất lượng đội ngũ
giáo viên trong và ngoài nước, tại địa bàn Huyện Nghi Lộc đã có một số luận
văn thạc sỹ quản lý giáo dục nhưng chưa có ai nghiên cứu về vấn đề các biện
pháp nâng cao chất lượng đội ngũ tại các trường THPT miền tây Huyện Nghi
Lộc.
1.2. Giáo viên.
1.2.1. Khái niệm giáo viên.
“Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường
hoặc các cơ sở giáo dục khác” [22, Điều 70].
“Giáo viên là những người làm công tác dạy học- giáo dục, người trực tiếp
biến các chủ trương, các chương trình, cải cách, đổi mới giáo dục thành hiện
thực”.[15, Tr 9].
“Trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên THPT là có bằng tốt nghiệp
đại học sư phạm hoặc có bằng tốt nghiệp đại học và có chứng chỉ bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm theo đúng chuyên ngành tại các khoa, trường đại học sư
phạm”.[3]
Vai trị của GD và vị trí của người giáo viên trong giai đoạn hiện nay.
Hiện nay, loài người đang sống những năm đầu của thế kỉ XXI, thế kỉ của
đỉnh cao trí tuệ.

Theo tác giả Trần Bá Hồnh thì thế kỉ XXI có những đặc điểm nổi bật là:
“Sự bùng nổ của tri thức và khoa học công nghệ; sự xuất hiện một thế giới phụ
thuộc lẫn nhau; sự đối mặt những vấn đề lớn có tính tồn cầu, vượt ra ngoài
phạm vi của mỗi quốc gia; con người là trung tâm của sự phát triển”.[16].


10

Đánh giá vai trò của giáo dục trong thế kỉ XXI, tác giả Trần Bá Hồnh
khẳng định:
Giáo dục đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển của
mỗi quốc gia. Sự bùng nổ của tri thức khoa học và cơng nghệ địi hỏi khơng
những khoa học mà cả kĩ thuật và công nghệ phải trở thành những yếu tố không
thể thiếu trong cấu trúc nhân cách con người hiện đại thì mới bảo đảm sự thích
nghi với đời sống xã hội và khả năng đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng.
Sự xuất hiện của một thế giới phụ thuộc lẫn nhau yêu cầu GD phải phát
huy tính năng động sáng tạo của mỗi cá nhân đồng thời xây dựng ý thức và kĩ
năng hợp tác trong tập thể.
Sự đối mặt với những vấn đề toàn cầu đặt ra nhiệm vụ cho GD không
chỉ trang bị những kiến thức mà phải chăm lo hình thành trong lớp trẻ những
tình cảm, thái độ, hành vi, thói quen ứng xử hợp lí để góp phần ngăn chặn các
hiểm hoạ của nhân loại, bảo đảm sự phát triển bền vững.
Việc đặt con người vào trung tâm của sự phát triển khiến cho GD phải rà
soát lại nhận thức về mục tiêu: từ chỗ “học để biết” sang nhấn mạnh “học để
làm”, rồi “học để tồn tại, để cùng chung sống”. GD phải nhằm xây dựng nguồn
lực con người thành động lực cho sự phát triển bền vững.
Như vậy, trong những năm của thế kỉ XXI, GD phải thay đổi mục tiêu của
nó cho phù hợp với những yêu cầu của thời đại.
Đội ngũ giáo viên là lực lượng cốt cán biến các mục tiêu GD thành hiện
thực, giữ vai trò quyết định chất lượng và hiệu quả GD. Xu thế đổi mới GD

đang đặt ra những yêu cầu mới về phẩm chất, năng lực, làm thay đổi vai trò và
chức năng của người giáo viên [16].
Nói về tầm quan trọng của giáo viên, đội ngũ giáo viên trong bối cảnh giáo
dục đi vào thế kỉ XXI, Tiến sỹ Raja Roy Singh, nhà giáo dục nổi tiếng ở Ấn Độ,


11

chuyên gia giáo dục nhiều năm ở UNESCO khu vực châu Á- Thái Bình Dương
có một lời bình khá ấn tượng:
“ Giáo viên giữ vai trò quyết định trong quá trình giáo dục và đặc biệt
trong việc định hướng lại giáo dục [14].
Những cơng nghệ thành đạt, nói chính xác là những công nghệ thông tin
(giáo dục từ xa chẳng hạn) sử dụng trình độ nghề nghiệp và phong cách của
những giáo viên giỏi nhất. Trong quá trình dạy học giáo viên không chỉ là người
truyền thụ những tri thức rời rạc. Giáo viên giúp người học thường xuyên gắn
với cơ cấu lớn hơn. Giáo viên cũng đồng thời là người hướng dẫn, người cố vấn,
người mẫu mực của người học. Giáo viên do đó khơng phải là người chun về
một ngành hẹp mà là người cán bộ tri thức, người học suốt đời. Trong cơng cuộc
hồn thiện q trình dạy học, người dạy, người học là những người bạn cùng
làm việc, cùng nhau tìm hiểu và khám phá” [14].
Nước Việt Nam của chúng ta nằm trong một khu vực năng động về kinh tế,
đồng thời đang phải đối mặt với sức ép dân số và suy thối mơi trường. Đảng ta
đã khẳng định: GD và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu, là một động lực thúc đảy và là một điều kiện cơ bản bảo đảm việc
thực hiện những mục tiêu kinh tế- xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong
thời kì CNH, HĐH, GD nước ta nhằm mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài; coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất
lượng và phát huy hiệu quả.
Đảng ta cũng xác định: để bảo đảm chất lượng GD phải giải quyết tốt vấn

đề thầy giáo, và để có sự chuyển biến căn bản trong đội ngũ thầy giáo phải thực
hiện chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần đối với GV, khuyến khích
người giỏi làm nghề dạy học, ..., phải đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng đội
ngũ GV và cán bộ quản lí GD, sử dụng GV đúng năng lực, đãi ngộ đúng công
sức và tài năng, với tinh thần ưu đãi và tôn vinh nghề dạy học [16].


12

Đảng ta khẳng định: “Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lí giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ
về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống,
lương tâm, tay nghề của nhà giáo, thơng qua việc quản lí, phát triển đúng định
hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước.” [1]
Như vậy, vị trí, vai trị, giá trị của người giáo viên luôn được xã hội tôn
vinh. Đứng trước nhiệm vụ lớn lao của ngành giáo dục đào tạo của nước ta hiện
nay thì sứ mệnh lịch sử của người giáo viên trong việc thực hiện yêu cầu nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài đáp ứng cho sự nghiệp CNH,
HĐH, tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh là rất nặng nề nhưng cũng rất vẻ vang.
1.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của giáo viên.
Nhiệm vụ
Giáo viên có những nhiệm vụ sau đây:
- Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy đủ
và có chất lượng chương trình giáo dục;
- Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và
điều lệ nhà trường;
- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách của

người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích chính
đáng của người học;
- Khơng ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu gương
tốt cho người học;
- Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật [21].


13

Quyền của giáo viên.
Giáo viên có những quyền sau đây:
- Được giảng dạy theo chuyên ngành đào tạo;
- Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chun mơn, nghiệp vụ;
- Được hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học ở các trường, cơ sở
giáo dục khác và cơ sở nghiên cứu khoa học với điều kiện bảo đảm thực hiện
đầy đủ nhiệm vụ nơi mình cơng tác;
- Được bảo vệ nhân phẩm, danh dự;
- Được nghỉ hè, nghỉ Tết âm lịch, nghỉ học kỳ theo quy định của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo và các ngày nghỉ khác theo quy định của Bộ luật lao
động [21].
1.2.3. Phẩm chất của giáo viên.
Phẩm chất của nhà giáo là những nét tâm lý đặc trưng của nhà giáo thể
hiện trong các mối quan hệ với công tác giáo dục, với học sinh, với đồng nghiệp
và các lực lượng giáo dục.
Nhà giáo cần có những phẩm chất sau đây:
+ Phải là một cơng dân mẫu mực, có lập trường chính trị, tư tưởng vững
vàng, có thế giới quan khoa học và có ý thức pháp luật tốt.
+ Có tư cách, đạo đức, có lối sống lành mạnh, gương mẫu, trung thực,
công bằng, nhân ái với mọi người để học sinh noi theo.

+ Yêu nghề, mến trẻ, có lương tâm nghề nghiệp, nhiệt tình, tận tuỵ với sự
nghiệp giáo dục trước yêu cầu mới của đất nước và thời đại, để dìu dắt thế hệ trẻ
bước vào cuộc sống lao động sáng tạo. [21].
1.2.4. Năng lực sư phạm của giáo viên.
Năng lực sư phạm của nhà giáo là tổ hợp những thuộc tính tâm lý đặc
trưng của nhà giáo phù hợp với yêu cầu của hoạt động sư phạm và đảm bảo sự
thành công của các hoạt động sư phạm.


14

Năng lực sư phạm của nhà giáo là khả năng thực hiện các hoạt động dạy
học- giáo dục với chất lượng cao. Năng lực bộc lộ trong hoạt động và gắn liền
với một số kỹ năng tương ứng.
Có thể trình bày các nhóm năng lực sư phạm cơ bản của giáo viên một
cách khái quát như sau:
+ Năng lực chẩn đoán nhu cầu và đặc điểm đối tượng dạy học- giáo dục.
+ Năng lực thiết kế kế hoạch dạy học- giáo dục.
+ Năng lực tổ chức thực hiện kế hoạch dạy học- giáo dục.
+ Năng lực giám sát, đánh giá kết quả các hoạt động dạy học- giáo dục.
+ Năng lực giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn dạy học- giáo
dục.
Về cụ thể, năng lực sư phạm của nhà giáo thể hiện ở các mặt sau đây:
+ Nắm vững mục tiêu, nguyên lý giáo dục, chương trình, nội dung mơn
học và các đặc điểm tâm lí học sinh.
+ Hiểu được tâm lí, trình độ, năng lực học tập, dự đoán được triển vọng
phát triển của học sinh để có những phương pháp giáo dục có hiệu quả.
+ Có kiến thức sâu về chuyên ngành, rộng về liên ngành, có hiểu biết thực
tiễn phong phú, có kinh nghiệm giáo dục.
+ Có phương pháp tự học, tự nghiên cứu, biết ngoại ngữ để mở rộng kiến

thức chuyên môn và nâng cao trình độ nghiệp vụ sư phạm.
+ Có khả năng phát triển chương trình, thiết kế bài giảng.
+ Có khả năng tổ chức các hoạt động giáo dục và dạy học bằng phương
pháp tích cực.
+ Biết sử dụng các thiết bị kĩ thuật dạy học, đặc biệt là ứng dụng cơng
nghệ thơng tin vào q trình giảng dạy mơn học.
+ Linh hoạt, tế nhị trong giao tiếp, ứng xử sư phạm và cảm hoá học sinh.


15

+ Biết phối hợp các lực lượng giáo dục, trước yêu cầu mới của đất nước
và thời đại.
+ Biết ngoại ngữ để có thể tự học, tự nghiên cứu, giúp đỡ học sinh học tập
và có thể giao tiếp với người nước ngoài, học tập kinh nghiệm quốc tế [21].
Những yêu cầu mới đối với giáo viên.
Trong thời đại ngày nay, GV có vai trị xã hội rộng hơn nhiều so với chức
năng truyền đạt tri thức. GV trước hết phải là nhà giáo dục, bằng chính nhân
cách của mình tác động tích cực đến sự hình thành nhân cách học sinh. GV phải
có tính tích cực cơng dân, có ý thức trách nhiệm xã hội, hăng hái tham gia sự
phát triển cộng đồng. GV là nhân vật chủ yếu góp phần hình thành bầu khơng
khí dân chủ trong nhà trường, có lịng u trẻ và có khả năng hợp tác với trẻ. GV
phải được đào tạo ở trình độ cao về học vấn, nhất là GV trung học, không phải
chỉ yêu cầu cao về khoa học tự nhiên, các khoa học ứng dụng, kĩ thuật và cơng
nghệ mà cịn phải được chú trọng đào tạo về khoa học nhân văn, khoa học xã
hội. Người giáo viên phải có nhu cầu và năng lực khơng ngừng hồn thiện, phát
huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo trong hoạt động sư phạm cũng như biết
phối hợp nhịp nhàng với tập thể sư phạm nhà trường trong việc thực hiện mục
tiêu giáo dục [16].
1.2.5. Đánh giá chất lượng giáo viên THPT.

1.2.5.1. Khái niệm đánh giá
“Đánh giá là nhận định, bình phẩm về giá trị” [28]
Thuật ngữ đánh giá (Evaluation) là đưa ra nhận định tổng hợp về các dữ
kiện đo lường được qua các kỳ kiểm tra/ lượng giá (assessment) trong quá và
khi kết thúc bằng cách đối chiếu, so sánh với nhũng tiêu chuẩn đã được xác định
rõ ràng trước đó trong các mục tiêu. [19]
Như vậy, nội hàm của đánh giá có thể hiểu là:


16

Đánh giá là q trình thu thập, xử lý thơng tin để lượng định tình hình và
kết quả cơng việc giúp quá trình lập kế hoạch, quyết định và hành động có kết
quả.
Đánh giá là q trình mà qua đó ta gán (quy) cho đối tượng một giá trị nào
đó.
Đánh giá là một hoạt động nhằm nhận định, xác nhận giá trị thực trạng ở
thời điểm hiện tại đang xét so với mục tiêu hay chuẩn mực đã được xác lập [20].
1.2.5.2. Đánh giá giáo viên
Nội dung đánh giá giáo viên bao gồm: Trình độ nghiệp vụ; thực hiện quy
chế chuyên môn; kết quả giảng dạy, giáo dục; việc thực hiện các công tác khác
được phân công.
Căn cứ vào đặc điểm lao động sư phạm của giáo viên; căn cứ vào nội
dung cần đánh giá (theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo) đối với giáo viên
ở các bậc học.
Có thể nêu ra chuẩn đánh giá giáo viên theo các tiêu chí sau:
+ Trình độ kiến thức: đảm bảo nội dung giảng dạy chính xác, khơng sai sót
kiến thức, khắc sâu được kiến thức cơ bản, mở rộng được kiến thức.
+ Trình độ phương pháp: Giảng dạy học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, phát huy
được tính tích cực nhận thức của học sinh trong học tập; vận dụng và thể hiện tốt

phương pháp đặc trưng của bộ môn; tổ chức lớp tốt, bao quát lớp đầy đủ; điều
khiển tối ưu hoạt động học tập trên lớp của học sinh.
+ Kết quả giảng dạy: Kết quả học tập của học sinh.
+ Thái độ: Có tinh thần trách nhiệm cao, tơn trọng quy chế, có ý thức trau
dồi nghề nghiệp; thương u và tận tình giúp đỡ học sinh; tơn trọng, học hỏi và
sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp; là một công dân tốt, thầy giáo tốt, quan hệ tốt với
các lực lượng giáo dục khác ngoài xã hội.[19].


17

1.3. Đội ngũ giáo viên
Đội ngũ giáo viên: Là tập thể người có cùng chức năng, nghề nghiệp “dạy
học” cấu thành trong một tổ chức và là nguồn nhân lực quan trọngcủa tổ chức
đó.
1.4. Chất lượng đội ngũ giáo viên
Khái niệm chất lượng.
Khái niệm về chất lượng hiện nay còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau:
Chất lượng là mức hoàn thiện, là đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt đối,
dấu hiệu đặc thù, các dữ kiện, các thông số cơ bản [28].
Chất lượng là tổng thể những tính chất, thuộc tính cơ bản của sự vật (sự
việc) này phân biệt với sự vật (sự việc) khác.
Chất lượng là tiềm năng của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thoả mãn
nhu cầu người sử dụng.
Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho
thực thể (đối tượng) đó khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra, hoặc nhu
cầu tiềm ẩn.
Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, sự vật, hiện
tượng.
Chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu (mục tiêu ở đây được hiểu một cách

rộng rãi, bao gồm các sứ mạng, các mục đích…, cịn sự phù hợp với mục tiêu có
thể là đáp ứng mong muốn của những người quan tâm, là đạt được hay vượt qua
các tiêu chuẩn đặt ra [5].
Tóm lại: “Thuật ngữ “chất lượng” phản ánh thuộc tính đặc trưng, giá trị,
bản chất của sự vật và tạo nên sự khác biệt (về chất) giữa sự vật này và sự vật
khác. Theo quan điểm triết học, chất lượng hay sự biến đổi về chất là kết quả
của q trình tích luỹ về lượng (q trình tích luỹ, biến đổi) tạo nên những bước
nhảy vọt về chất của sự vật hiện tượng” [5].


18

Chất lượng giáo viên.
Chất lượng giáo viên là tập hợp các yếu tố: bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên mơn đảm bảo cho
giáo viên đáp ứng địi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong công cuộc
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.[21, Tr 22]
Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng giáo viên.
- Quá trình đào tạo, đặc biệt quá trình sử dụng và bồi dưỡng giáo viên:
Q trình đào tạo (chính sách, chất lượng tuyển sinh sư phạm, chương trình,
phương pháp tổ chức đào tạo, kiểm tra, đánh giá) tạo ra những cơ sở ban đầu về
phẩm chất, năng lực của người GV. Những phẩm chất, năng lực biểu hiện rõ nét
dần trong thời gian thời gian tập sự, tiếp tục được củng cố, phát triển trong suốt
những năm lao động nghề nghiệp.
Chính sách, cơ chế quản lý sử dụng GV, bồi dưỡng trong quá trình sử
dụng, vị thế xã hội của người GV, lương và các khoản phụ cấp, đời sống vật
chất và tinh thần...không những ảnh hưởng tới sự phấn đấu nâng cao chất lượng
của những GV đang dạy học mà còn ảnh hưởng tới chất lượng đầu vào và đầu ra
của các trường sư phạm.
Sức lao động của GV thể hiện nhiều ở trí tuệ, nên sự tái sản xuất giản

đơn sức lao động trong q trình sử dụng khơng chỉ biểu thị bằng sự phục hồi
sức khoẻ cơ bắp mà còn là sự phục hồi năng lực hoạt động trí tuệ. Yếu tố bổ
sung trí tuệ, chống lão hố trí tuệ rất quan trọng, người sử dụng GV đặc biệt chú
ý. Tính thành thạo tay nghề, tinh thông nghề nghiệp không chỉ đạt bằng sự lặp đi
lặp lại nhiều lần những hoạt động giống nhau trong dạy học mà cịn phải thơng
qua việc bổ sung kiến thức, kĩ năng trong bồi dưỡng, đồ tạo lại thì mới đáp ứng
được sự phát triển GD theo yêu cầu của xã hội.


19

- Hoàn cảnh, điều kiện lao động sư phạm của người giáo viên.
Năng lực chỉ biểu hiện trong hoạt động, mà chất lượng hoạt động lại phụ
thuộc khá nhiều vào hoàn cảnh, điều kiện lao động (chế độ lao động, môi trường
lao động, điều kiện sống và làm việc...). Được dạy học trong một mơi trường sư
phạm tốt, có đủ điều kiện cần thiết để không những phát huy mà cịn nâng cao,
hồn thiện các năng lực hiện có là một hạnh phúc lớn của người GV có tâm
huyết với nghề. Có một người quản lý sắc sảo, hiểu rõ lao động sư phạm, biết tổ
chức hợp lí lao động của đội ngũ giáo viên là điều mong muốn của mỗi GV;
đồng thời, có một tập thể sư phạm gần gũi trong tổ, trong trường, đoàn kết thân
ái, say sưa với nghề nghiệp, hăng hái học hỏi giúp đỡ nhau là những yếu tố tinh
thần có ý nghĩa cao hơn những điều kiện vật chất.
- Ý chí, thói quen và năng lực tự học của người GV.
Sự phát triển nhanh của xã hội đòi hỏi GD nhà trường phải chuyển từ kiểu
dạy thông báo- đồng loạt, học tập thụ động sang kiểu dạy hoạt động- phân hố,
học tập tích cực. Muốn vậy, GV phải là người có năng lực tự học, trên cơ sở đó
biết dạy phương pháp tự học cho học sinh của mình.
Nếu các GV tương lai trong các trường sư phạm đều được rèn luyện tốt về
năng lực tự học thì chắc chắn chất lượng dạy học- giáo dục của các GV ở trường
phổ thông sẽ không ngừng được nâng cao.[21]

1.4.4. Chất lượng đội ngũ giáo viên
1.4.4.1. Khái niệm
Chất lượng đội ngũ giáo viên là vấn đề khá phức tạp khi xem xét cả trình
độ chun mơn, nhận thức chính trị, thái độ cơng dân, năng lực vi tính, năng lực
ngoại ngữ, thể lực, v.v... Hiện nay Bộ Giáo dục đã ban hành chuẩn nghề nghiệp
để đánh giá chất lượng đội ngũ giáo viên.
Xuất phát từ những quan niệm về chất lượng như đã nêu ở trên ta có thể
hiểu: Chất lượng đội ngũ giáo viên là tồn bộ thuộc tính (yếu), những đặc điểm


20

cấu trúc (cơ cấu) của đội ngũ giáo viên. Những thuộc tính cấu trúc này gắn bó
với nhau trong một tổng thể thống nhất tạo nên giá trị và sự tồn tại của đội ngũ
và làm cho đội ngũ giáo viên khác với đội ngũ khác [24].
Chất lượng đội ngũ giáo viên được thơng qua các thuộc tính bản chất sau:
- Số lượng thành viên trong đội ngũ
- Cơ cấu đội ngũ
- Phẩm chất của đội ngũ
- Trình độ của đội ngũ (chuyên môn, nghiệp vụ...)
- Năng lực của đội ngũ
Trên đây là năm yếu tố cơ bản biểu hiện chất lượng của đội ngũ, có thể
biểu hiện theo sơ đồ sau [14]:
Phẩm chất
Trình độ

Năng lực
Số lượng

Cơ cấu


Trước những vấn đề liên quan sâu rộng đến mọi mặt của đời sống
xã hội như chất lượng giáo dục thì rất khó có thể theo đuổi một sự thống nhất
tuyệt đối mà phải chấp nhận trạng thái có được nhận thức giống nhau ở mức độ
thích hợp trên những vấn đề cơ bản.
Nâng cao chất lượng giáo dục là một quá trình, phải hoàn thiện từng bước.
Những phương án thay đổi, cải cách trong giáo dục phải được thực tiễn kiểm
chứng, làm cho phong phú và phát triển, khơng có trường hợp ngoại lệ.
Con đường tiến bộ của tri thức và của giáo dục cần được suy xét ít nhất từ
hai cực đối ngẫu hướng với nhau: vĩ mô và vi mô.
Cả cộng đồng quốc tế cũng như mỗi quốc gia, mỗi cơ sở giáo dục đào tạo
đang quan tâm, đang bàn thảo nhiều đến chất lượng giáo dục. Chiến lược chung


21

(vĩ mô) và năng lực mỗi nhà giáo (vi mô) là hai thành tố hướng tới nhau, ràng
buộc nhau làm cơ sở cho các phương án nâng cao chất lượng giáo dục.
1.4.4.2. Nội dung các yếu tố của chất lượng đội ngũ giáo viên
- Số lượng thành viên của đội ngũ giáo viên:
Số lượng cũng là tính qui định của vật thể, nhưng nó chỉ nói lên đặc điểm
của vật thể như độ to, nhỏ, thể tích lớn, bé... số lượng là ranh giới của vật thể. Vì
thế sự thay đổi ranh giới đạt đến một giới hạn nào đó cũng sẽ làm bản chất của
sự vật thay đổi: Điều này đã được chứng minh qua “Quy luật chuyển hoá từ
những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại”.
Đội ngũ giáo viên là một biểu hiện (tổ chức) xã hội vì thế số lượng của đội
ngũ giáo viên là biểu thị về mặt định lượng của đội ngũ, nó phản ánh quy mơ
lớn bé, to nhỏ của đội ngũ.
Số lượng đội ngũ giáo viên phụ thuộc vào việc phân chia về tổ chức. Ví dụ
như số lượng giáo viên của ngành giáo dục đào tạo, số lượng giáo viên của

ngành mẫu giáo, phổ thông, chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, hoặc số lượng
giáo viên cụ thể từng trường, từng bộ môn...
Số lượng đội ngũ giáo viên của một nhà trường phụ thuộc vào nhu cầu đào
tạo, quy mô phát triển của nhà trường và các yếu tố khách quan tác động như:
Chỉ tiêu biên chế cơng chức của trường, chế độ chính sách đối với giáo viên...
Song dù điều kiện nào chăng nữa muốn tạo nên chất lượng của đội ngũ
giáo viên, người quản lý phải quan tâm giữ vững sự cân bằng động về số lượng
của đội ngũ với nhu cầu đào tạo quy mô phát triển của nhà trường. Nếu phá vỡ
hoặc không đảm bảo sự cân bằng này sẽ tác động tiêu cực đến chất lương đội
ngũ.
- Phẩm chất của đội ngũ giáo viên:
Phẩm chất đội ngũ là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định
chất lượng đội ngũ giáo viên. Hồ Chủ Tịch đã từng nói: Chính trị là linh hồn,


22

chun mơn là cái xác, có chun mơn mà khơng có chính trị thì chỉ là cái xác
khơng hồn. Phải có chính trị trước rồi mới có chun mơn...Nói tóm lại chính trị
là đức, chun mơn là tài, có tài khơng có đức là hỏng.” [13].
Như vậy ta có thể khẳng định, phẩm chất của đội ngũ giáo viên là cái tạo
ra linh hồn của đội ngũ, cái làm cho sức mạnh đội ngũ được trường tồn và ngày
càng phát triển.
Phẩm chất của đội ngũ giáo viên trước hết được biểu hiện ở sự thống nhất,
giác ngộ XHCN với lý tưởng nghề nghiệp. Đó là người giáo viên phải hiểu biết
hệ thống học thuyết Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm
đường lối cách mạng và những quan điểm đường lối giáo dục của Đảng và nhà
nước ta.
Phải gắn niềm tin cách mạng với niềm tin nghề nghiệp, nhờ nó người giáo
viên mới gắn bó cuộc đời mình với sự nghiệp đào tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ, thế

hệ cách mạng cho đời sau.
Bên cạnh việc giác ngộ XHCN với niềm tin yêu nghề nghiệp, người giáo
viên cần phải có tình cảm trong sáng, cao thượng, u nghề dạy học, yêu con
người, phải đạt được sự thống nhất hữu cơ của lòng yêu nghề và lòng yêu người.
Tình cảm trong sáng và cao thượng của người giáo viên sẽ tạo nên sức mạnh
làm bùng lên ngọn lửa nhiệt tình “tất cả vì học sinh thân yêu”.
Cùng với những phẩm chất nêu trên người giáo viên cần phải có một loạt
phẩm chất khác đó là sự thống nhất giữa tính mục đích và tính kế hoạch trong
thiết kế và tổ chức hoạt động sư phạm; giữa tính tổ chức, kỷ luật và tinh thần
trách nhiệm với tính tự chủ, nguyên tắc, sáng tạo, mềm dẻo, chín chắn, tính
nghiêm khắc, lòng vị tha, yêu thương nhẫn nại với đối tượng giáo dục...
Qua đó ta thấy phẩm chất của đội ngũ giáo viên là sự thống nhất tổng hợp
hữu cơ của nhiều yếu tố như phẩm chất về chính trị, xã hội (thế giới quan, niềm
tin, lý tưởng, thái độ nghề nghiệp...), phẩm chất về tư cách đạo đức (lối sống,


23

thói quen, tình cảm...), phẩm chất ý chí (tính kỷ luật, tự chủ, sáng tạo, biết phê
phán...) cùng với các yếu tố khác và trình độ năng lực, nó tạo nên nhân cách và
chất lượng của đội ngũ giáo viên nói chung.
- Trình độ của đội ngũ giáo viên
Trong từ điển Tiếng Việt, trình độ được hiểu là “Mức độ về sự hiểu biết
về kỹ năng được xác định hoặc đánh giá theo một tiêu chuẩn nhất định nào đó”
[28].
Theo các nhà giáo dục học: Trình độ của đội ngũ giáo viên, trước hết phải
nói đến hệ thống tri thức mà giáo viên cần nắm; Đó là những tri thức liên quan
đến môn học mà người giáo viên phụ trách giảng dạy. Hơn nữa trong điều kiện
cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật đang diễn ra sôi động tạo ra sự thâm nhập
lẫn nhau giữa các khoa học do đó người giáo viên cần có những hiểu biết của

mình cùng các tri thức công cụ như ngoại ngữ, tin học, phương pháp luận và
phương pháp nghiên cứu khoa học, lô gíc học...nhằm hình thành những kỹ năng
để chiếm lĩnh tri thức khoa học chuyên môn và sư phạm.
Theo quy định của Luật giáo dục năm 2005 thì trình độ chuẩn được đào tạo
của các nhà giáo là [22]:
+ Có bằng tốt nghiệp Trung cấp sư phạm đối với giáo viên mầm non, giáo
viên tiểu học.
+ Có bằng tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm hoặc có bằng tốt nghiệp Cao đẳng
và chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm đối với giáo viên THCS.
+ Có bằng tốt nghiệp Đại học sư phạm hoặc có bằng tốt nghiệp Đại học và
có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm đối với giáo viên THPT.
+ Có bằng tốt nghiệp Trung cấp nghề, Cao đẳng nghề hoặc là nghệ nhân,
cơng nhân kỹ thuật có tay nghề cao đối với giáo viên hướng dẫn thực hành ở cơ
sở dạy nghề.


24

+ Có bằng tốt nghiệp Đại học sư phạm hoặc bằng tốt nghiệp Đại học khác
và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm đối với giáo viên Trung học
chuyên nghiệp.
+ Có bằng tốt nghiệp Đại học trở lên và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ
sư phạm đối với nhà giáo giảng dạy cao đẳng, đại học. Bằng thạc sĩ trở lên đối
với nhà giáo giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luận văn thạc sĩ. Có bằng tiến sĩ
đối với nhà giáo giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luận án tiến sĩ. [13].
- Năng lực của đội ngũ giáo viên
Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực
hiện một hoạt động nào đó, hoặc là phẩm chất, tâm lý tạo cho con người khả
năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó.
Đối với đội ngũ giáo viên năng lực được hiểu là trên cơ sở hệ thống những

tri thức được trang bị người giáo viên phải hình thành và nắm vững hệ thống,
các kỹ năng để tiến hành hoạt động sư phạm có hiệu quả. Kỹ năng của người
giáo viên được hiểu là “khả năng vận dụng những kiến thức thu được vào trong
hoạt động sư phạm và biến nó thành kỹ xảo. Kỹ xảo là khả năng đạt tới mức
thành thục”. [28].
- Cơ cấu đội ngũ giáo viên:
Cơ cấu, như từ điển Tiếng Việt xác định: “Là cách tổ chức các thành phần
nhằm thực hiện chức năng của chỉnh thể” [28]. Cơ cấu đội ngũ giáo viên có thể
hiểu đó là cấu trúc bên trong của đội ngũ, là một thể hoàn chỉnh, thống nhất thể
hiện ở các cơ cấu thành phần sau:
+ Cơ cấu chuyên môn:
Là xác định tỷ lệ giáo viên hợp lý giữa các tổ chức (hội khoa học, bộ môn)
chuyên môn với quy mô, nhiệm vụ từng chuyên ngành đào tạo của trường.
+ Cơ cấu lứa tuổi:


25

Là đảm bảo sự cân đối giữa các thế hệ già, trẻ, trung niên của đội ngũ để có
thể vừa phát huy được tính hăng hái, năng động của tuổi trẻ vừa khai thác được
vốn kinh nghiệm của tuổi già.
+ Cơ cấu giới tính:
Là đảm bảo tỷ lệ thích ứng giữa giáo viên nam và giáo viên nữ phù hợp
từng ngành nghề đào tạo.
Những cơ cấu trên chính là thể hiện cấu trúc bên trong của đội ngũ và giữa
chúng bao giờ cũng phải đảm bảo sự cân đối. Nếu phá vỡ sự cân đối này sẽ làm
ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ.
Tóm lại: Chất lượng đội ngũ giáo viên phải được hiểu bao gồm năm yếu tố
nêu trên. Mỗi yếu tố đều có vị trí tầm quan trọng đặc biệt và giữa chúng có mối
quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau, nương tựa vào nhau hợp thành một

hệ thống hoàn chỉnh giúp cho đội ngũ giáo viên tồn tại, phát triển và có thể hồn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
1.5. Quản lý.
Có nhiều khái niệm về quản lý, trong phạm vi đề tài này tác giả chỉ chọn
và làm rõ một số khái niệm liên quan đến nội dung của đề tài như:
- Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể
(người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng quản lý).
- Quản lý thể hiện việc tổ chức, điều hành tập hợp người, cơng cụ, phương
tiện tài chính…để kết hợp các yếu tố đó với nhau nhằm đạt mục tiêu định trước.
- Chủ thể muốn kết hợp để các hoạt động của đối tượng theo một định
hướng quản lý đặt ra phải tạo ra được “quyền uy” buộc đối tượng phải tuân thủ.
- Các nhà quản lý quốc tế như Prederich Wiliam Taylor (1856 - 1915) Mỹ;
Henry Faylor (1841 - 1925) Pháp; Max Webor (1864 - 1920) Đức đã khẳng
định: Quản lý là khoa học và đồng thời là nghệ thuật thúc đẩy sự phát triển xã


×