Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Một số vấn đề về quản lý văn hóa đô thị hải phòng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ MINH NGỌC

GIỚI NGỮ TIẾNG ANH (với các giới ngữ chứa IN, ON, AT)
VÀ CÁC BIỂU ĐẠT TƯƠNG ĐƯƠNG TRONG
TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI – 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ MINH NGỌC

GIỚI NGỮ TIẾNG ANH (VỚI CÁC GIỚI NGỮ CHỨA IN,
ON, AT) VÀ CÁC BIỂU ĐẠT TƯƠNG ĐƯƠNG TRONG
TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ HỌC

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS ĐINH VĂN ĐỨC

HÀ NỘI – 2010



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được cơng bố trong bất kỳ một cơng trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Ngọc


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới GS.TS Đinh Văn Đức,
người đã tận tình hướng dẫn em trong suốt q trình nghiên cứu để hồn
thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngôn ngữ học –
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn em trong suốt q trình học tập tại
trường.
Tơi cũng xin được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp đã cùng chia sẻ, động viên, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện
thuận lợi để tôi hồn thành được luận văn này.
Do thời gian có hạn, Luận văn khó có thể tránh khỏi những thiếu
sót, em rất mong nhận được những đóng góp của các thầy giáo, cơ giáo và
các bạn để Luận văn được hồn thiện hơn. Qua đó, em sẽ có thêm những
kiến thức bổ ích để thực hiện tốt hơn những cơng trình nghiên cứu tiếp
theo.

Hà Nội, năm 2010

Tác giả


MỤC LỤC
Số trang
LỜI MỞ ĐẦU

4

1. Lý do chọn đề tài

4

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

6

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

6

4. Tư liệu nghiên cứu

6

5. Phương pháp nghiên cứu

6

6. Bố cục luận văn


7

Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

8
8

1.1. Khái quát chung về từ loại
1.1.1. Khái quát về từ loại trong tiếng Anh

9

1.1.1.1 Phân chia từ loại theo chức năng

1
1

1.1.1.2 Phân chia từ loại theo hình thức

1
1

1.1.2. Khái quát về từ loại trong tiếng Việt

1
2
1

1.2. Khái quát chung về hư từ

5

1

1.3. Khái quát chung về giới từ
7
1.3.1. Giới từ trong tiếng Anh

1
7

1.3.2. Giới từ trong tiếng Việt

2
3

1.3.3. Nghiên cứu giới từ trong ngôn ngữ học tri nhận

2
5

1


2

1.4. Khái quát chung về giới ngữ
7
Chương 2: GIỚI NGỮ NHÌN TỪ GĨC ĐỘ CẤU TRÚC
NGỮ PHÁP


3
3
3

2.1. Về phương diện cấu tạo
3
2.1.1. Cấu tạo của giới ngữ tiếng Anh

3
3

2.1.2.Cấu tạo của giới ngữ tiếng Việt

4
6
5

2.2. Về phương diện vị trí của giới ngữ
4

5

2.3. Giới ngữ trong mối liên hệ với phó từ
8
Chương 3: GIỚI NGỮ NHÌN TỪ GĨC ĐỘ CHỨC NĂNG
NGỮ PHÁP

6
1

6

3.1. Chức năng của giới ngữ
1
3.1.1. Giới ngữ thực hiện chức năng định ngữ (attribute) bổ
nghĩa cho danh từ

6
1

3.1.2. Giới ngữ thực hiện chức năng trạng ngữ (adverbial,
adjunct) bổ nghĩa cho câu
3.1.3.

6
2

Giới ngữ thực hiện chức năng vị ngữ trong câu (

nominal)

6
6

3.1.4. Giới ngữ thực hiện chức năng là modifiers bổ nghĩa
cho cụm từ (Phrases)

6
8


3.1.5. Giới ngữ thực hiện chức năng là complements bổ nghĩa
cho cụm từ (Phrase)

6
9

2


7

3.2. Giới ngữ từ phương diện chức năng ngữ nghĩa (với
1

những giới ngữ chứa In, On, At)
3.2.1. Ngữ nghĩa ngữ pháp của những giới ngữ chứa In, On, At

7
1

3.2.1.1. Giới ngữ chứa In, On, At chỉ thời gian

7
1

3.2.1.2. Giới ngữ chứa In, On, At chỉ vị trí

7
5


3.2.1.3. Giới ngữ chứa In, On, At và những cách dùng
khác

7
7

3.2.2. Giới ngữ chứa In, On, At và những cách biểu đạt tương
ứng trong tiếng Việt

8
2

3.2.2.1. Giới ngữ chứa In, On, At với ngữ nghĩa tương
ứng trong tiếng Việt

8
2

3.2.2.2. Giới ngữ chứa In, On, At với ngữ nghĩa không
tương ứng một đối một thuần túy với tiếng Việt

8
4

3.2.2.3. Giới ngữ chứa In, On, At với cách biểu đạt bằng
các yếu tố chỉ hướng hoặc không gian trong tiếng Việt

8
6


3.2.2.4. Giới ngữ chứa In, On, At với ngữ nghĩa không
được biểu đạt một cách cụ thể trong tiếng Việt

8
7
8

3.3. Giới ngữ và khả năng đánh dấu ngữ pháp của chúng
9

9

KẾT LUẬN
5

9

TÀI LIỆU THAM KHẢO
8

1

PHỤ LỤC
03

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Theo Lênin “ Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của lồi
người”, song sự giao tiếp ấy chỉ có thể xảy ra khi có sự hiểu biết chung ( cịn
gọi là tri thức nền) như nhau cả ở người phát lẫn người nhận. Do đó, để sử
dụng được một ngơn ngữ cần phải có những tri thức về lịch sử và văn hố của
người bản ngữ. “ Điều có ý nghĩ lớn đối với việc hiểu ngôn ngữ là những

4


người nói phải có nếp sống xã hội thống nhất, có những phong tục, đạo đức,
thói quen chung đã được tạo ra do cùng chung sống trên một lãnh thổ hạn chế
nhất định…” ( B.A. Serebrennicov). Trong những năm gần đây, khi xu hướng
tồn cầu hố đang diễn ra mạnh mẽ và các quốc gia ngày càng xích lại gần
nhau, cùng hội nhập vào nền kinh tế thế giới, quan hệ giao lưu Việt Nam với
các nước trong khu vực và các nước trên thế giới ngày càng phát triển mạnh
mẽ. Cùng với sự phát triển về kinh tế chính trị, sự giao lưu về văn hóa xã hội
cũng được quan tâm đặc biệt. Một trong những phương tiện thiết yếu, là cầu
nối quan trọng cho sự giao lưu, hợp tác văn hoá giữa Việt Nam với các nước
trong khu vực và trên thế giới là ngôn ngữ.
Hiện nay, tiếng Anh được coi là một ngôn ngữ quốc tế và được sử dụng
rộng rãi trên tồn thế giới. Chính vì vậy rất nhiều người Việt Nam cũng tích
cực học tiếng Anh như là ngơn ngữ bản địa của mình. Mặt khác, thời kỳ mở
cửa của Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cơng ty, tổ chức nước
ngồi hay cá nhân đến sinh sống, làm việc, học tập và tìm hiểu về đất nước,
con người Việt Nam. Trong quá trình tham gia giảng dạy tiếng Anh cũng như
tiếng Việt người ta đã phát hiện ra những nét tương đồng và dị biệt giữa hai
ngôn ngữ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu ngôn ngữ một cách sâu
rộng hơn, đồng thời khắc phục những lỗi cơ bản dễ mắc phải của người học
ngoại ngữ (cụ thể là người Việt Nam khi học tiếng Anh và người nước ngồi
khi học tiếng Việt).

So sánh đối chiếu giữa các ngơn ngữ vốn là một đề tài hấp dẫn và là một
nhiệm vụ thường xuyên của giới ngôn ngữ học. Xưa nay đã có rất nhiều các
cơng trình nghiên cứu, so sánh, đối chiếu giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ
khác (cùng loại hình hoặc khác loại hình) và đã thu được rất nhiều kết quả to
lớn. Kết quả của các cơng trình nghiên cứu nghiên cứu đó đã đóng góp rất
nhiều cho ngôn ngữ trên phương diện lý thuyết và ứng dụng, giúp các nhà
nghiên cứu và những người học ngoại ngữ hiểu sâu hơn về bức tranh ngôn
ngữ của người bản ngữ . Tiếp tục đi sâu nghiên cứu nội dung này, luân văn

5


này tập trung khai thác vấn đề “ Giới ngữ tiếng Anh (với các giới ngữ có
IN, ON, AT) và các biểu đạt tương đương trong tiếng Việt”. Đây là một đề
tài thuộc địa hạt ngôn ngữ học đối chiếu, cụ thể là nghiên cứu giới ngữ tiếng
Anh và thông qua đó đối chiếu với tiếng Việt. Đây là một đề tài phù hợp với
khuôn khổ luận văn thạc sỹ. Thêm nữa, chúng tôi muốn tập làm quen với các
thao tác phân tích đối chiếu so sánh thơng qua một nhóm nhỏ trong “gia tộc”
hư từ- nhóm giới từ để tiếp nối công việc của người đi trước.
Giới từ trong “đại gia đình” hư từ là một loại được đề cập đến rất nhiều
trong các sách giáo khoa bậc phổ thông và cả bậc đại học và được nghiên cứu
bởi nhiều tác giả như Đinh Văn Đức, Diệp Quang Ban, Nguyễn Thiện Giáp,
Nguyễn Chí Hịa, Lý Tồn Thắng… Tuy nhiên, phần lớn các tác giả này chỉ
tập trung nghiên cứu vào mảng giới từ với tư cách là một đối tượng độc lập
trong chức năng và mối quan hệ với các thành phần khác trong câu cũng như
trong các cụm từ mà chưa có sự đề cập hay nếu có cũng chỉ nói đến rất ít
mảng giới ngữ có liên quan. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi xin
được phép nghiên cứu giới ngữ tiếng Anh và các biểu đạt tương đương của nó
trong tiếng Việt nhằm tìm hiểu sâu hơn vai trò, cấu trúc, chức năng của giới
ngữ cũng như giới từ. Đồng thời, chúng tôi cũng muốn áp dụng những kiến

thức ngơn ngữ học mà mình tiếp thu được trong quá trình học tập và nghiên
cứu vào xử lý một vấn đề cụ thể để trau dồi thêm những kỹ năng nghiên cứu
nhằm phục vụ cho những cơng trình nghiên cứu khoa học sau này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là tìm ra những nét tương đồng
và dị biệt giữa giới ngữ tiếng Anh và các biểu đạt tương đương trong tiếng
Việt trong sự so sánh, đối chiếu giữa hai ngôn ngữ, khả năng kết hợp của các
giới từ IN, ON, AT và những cấu trúc tương đương được dùng trong những
ngữ cảnh nhất định của tiếng Việt. Ngồi ra, kết quả nghiên cứu cũng giúp ích
nhiều cho việc dạy tiếng Anh cho người Việt và dạy tiếng Việt cho người
nước ngoài.

6


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu giới ngữ tiếng Anh ( tập trung vào ba giới từ IN, ON, AT)
trong sự đối chiếu với các biểu đạt tương đương trong tiếng Việt.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn sẽ tìm hiểu những vấn đề xoay quanh
các giới ngữ trong hai ngôn ngữ Anh và Việt. Nhưng để làm bật một số đặc
trưng nào đó của giới ngữ, luận văn có thể mở rộng phạm vi xem xét các địa
hạt khác khi cần thiết.
4. Tư liệu nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng tư liệu từ các tác phẩm văn học
hoặc các giáo trình tiếng Anh và tiếng Việt… Ngồi ra cịn tham khảo và sử
dụng một số tư liệu của các nhà nghiên cứu đi trước, ngữ pháp của các dạng
câu trong tiếng Anh. Tất cả các tư liệu này đã được tập hợp trong các giáo
trình và các tài liệu này đều có nguồn gốc xuất xứ. Chúng tôi cũng sẽ sử dụng
một số ví dụ trong ngơn ngữ hàng ngày- điểm cụ thể thể hiện rõ nét nhất sự
khác biệt trong bức tranh ngôn ngữ về thế giới của mỗi dân tộc.

5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp cơ bản và được sử dụng xun suốt cơng trình nghiên cứu
này là phương pháp so sánh đối chiếu. Bên cạnh đó, chúng tơi cũng sẽ sử
dụng phương pháp thống kê, phân loại trong xử lý nguồn tư liệu. Đồng thời,
để tìm hiểu và phát hiện các đặc trưng ngữ nghĩa, chức năng của các giới ngữ
trong tiếng Anh và tiếng Việt chúng tôi sẽ áp dụng các thủ pháp phân tích khi
cần thiết.
Chúng tơi sẽ khảo sát, phân tích giới ngữ dựa trên cả bình diện cấu trúc
chức năng ngữ pháp cũng như bình diện ngữ nghĩa, ngữ dụng. Trong các câu
dịch, chúng tôi sẽ cố gắng truyền tải ý nghĩa chính xác của các đoạn văn trong
những ngữ cảnh nhất định.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn chia làm 3 chương sau:

7


Chương 1: Cơ sở lý thuyết liên quan đến đề tài
Chương 2: Giới ngữ nhìn từ góc độ cấu trúc ngữ pháp
Chương 3: Giới ngữ nhìn từ góc độ chức năng ngữ pháp

Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái quát chung về từ loại
Từ loại là một nội dung quan trọng của ngữ pháp học trong nghiên cứu
ngôn ngữ. Mỗi ngôn ngữ đều sở hữu trong bản thân nó những vốn từ vựng đa
dạng và phong phú khác nhau. Do khối lượng đồ sộ và chức năng ngữ pháp
được sử dụng khác nhau nên từ loại được phân chia theo những mục đích
khác nhau. Về mặt từ vựng, có thể phân loại từ dựa trên cơ cấu ngữ nghĩa của
từ vựng. [19] Cũng có thể chỉ dùng nguyên tắc hình thái học ( như ở thời kỳ

Alexandria và La Mã) hoặc sử dụng cách pha trộn cả hai nguyên tắc hình thái

8


học và ngữ nghĩa ( như ở Aristote và những người khắc kỷ). Đối với các từ có
biến hình, việc phân định theo hình thái học có vẻ hiển nhiên. Cịn các hư từ
khơng biến hình thì được nhận diện trên cơ sở khả năng kết hợp với các thực
từ. [5, tr. 467] Tuy nhiên những nhà ngữ pháp học khơng dựa vào đó để phân
loại từ mà dựa vào bản chất ngữ pháp của từ, kết quả là ta có các từ loại. Như
vậy, từ loại được hiểu một cách nôm na là các lớp từ trong một ngôn ngữ cụ
thể được phân chia dựa trên chức năng ngữ pháp của chúng.
Cho đến nay tồn tại một cách phổ biến hai cách phân định từ loại: phân
chia vốn từ của một ngôn ngữ ra thành hai lớp khái quát là thực từ và hư từ,
và phân chia vốn từ của một ngôn ngữ ra thành nhiều lớp cụ thể hơn với
những đặc trưng xác định hơn. Trong cách phân chia thứ nhất của ngữ pháp
truyền thống châu Âu, ứng với thực từ là tên gọi dịch ra tiếng Việt có nghĩa là
“ các bộ phận của lời”, ứng với hư từ là tên gọi thường dịch ra tiếng Việt là
“tiểu từ”; ngữ pháp châu Âu hiện đại còn gọi là lớp từ từ vựng tính (thực từ)
và lớp từ ngữ pháp tính (hư từ). [5, tr. 468] Theo Đinh Văn Đức, các lớp từ,
xét về mặt ngữ pháp có thể chia ra, trước hết, thành thực từ, hư từ và tình thái
từ. Hai lớp sau khác với lớp thứ nhất về mặt ý nghĩa và các đặc trưng ngữ
pháp, đồng thời cũng phân biệt với nhau. Vì vậy có nhiều nhà ngơn ngữ học
cho là có cơ sở để tiến hành việc phân định từ loại chỉ trong phạm vi các thực
từ. Nhưng, mặt khác, nếu xem xét các lớp từ từ quan hệ của chúng với các
phạm trù của logic thì cần phải khảo sát các lớp một cách bình đẳng. [dẫn
theo 17, tr. 23]
1.1.1. Khái niệm về từ loại trong tiếng Anh
Các khái niệm về từ loại và cấu trúc câu trong tiếng Anh có những điểm
tương đồng với tiếng Việt, song do mỗi ngôn ngữ lại có những đặc trưng

riêng của nó nên ln ln tồn tại những điểm dị biệt. Thí dụ những khái
niệm chung về động từ, tính từ, trạng từ, chủ ngữ, vị ngữ…thì giống nhau
nhưng nếu ta đi sâu vào nghiên cứu chi tiết về các mặt như cấu tạo, vị trí, vai
trị chức năng của chúng trong câu thì có thể tìm thấy vơ số những điểm khác

9


biệt. Có những khái niệm mà chỉ trong tiếng Anh mới có cịn trong tiếng Việt
lại khơng có như sở hữu cách, danh động từ, tính động từ…
Ngữ pháp tiếng Anh truyền thống – nghiên cứu từng bộ phận của ngôn
ngữ một cách riêng rẽ - chia vốn từ loại (part of speech, word classes, kinds of
words) thành hai nhóm lớn chính: nhóm hữu sinh (productive) và nhóm vơ
sinh (non- productive).
Nhóm hữu sinh bao gồm:
- Danh từ (noun)
- Động từ (verb)
- Đại từ (pronoun)
- Tính từ (adjective)
- Phó từ (adverb)
Nhóm vơ sinh bao gồm:
- Tính động từ (participle)
- Giới từ (preposition)
- Liên từ (conjunction)
- Thán từ (interjection)
- Mạo từ (article)
Theo Lê Dũng, Bùi Ý, Vũ Thanh Phương, tiếng Anh lại có 8 từ loại hay
loại từ gồm: danh từ, đại từ, tính từ, động từ, phó từ, giới từ, liên từ và thán
từ. Theo đó mỗi từ loại có những chức năng riêng:
Tên từ loại


Chức năng

Ví dụ

Danh từ (Noun)

Chỉ người, vật, sự việc hay

Girl, baby, history,

khái

freedom…

niệm
Đại từ (pronoun)

Dùng để thay thế cho danh
từ

Tính từ

Bổ nghĩa cho danh từ. Gồm

10

I, he, them, who,
which…
A good teacher, my



(adjective)

nhiều loại, kể cả mạo từ (article) first lesson, new books…
và số từ (numeral)

Động từ (verb)

Chỉ hành động hoặc trạng

To run, to say, to

thái
Phó từ (adverb)
Giới từ

feel…

Bổ nghĩa cho động từ, tính

They work very

từ hoặc phó từ khác

hard, I was too tired

Đứng trước danh từ hoặc

(preposition)


I spoke to him

đại từ
để chỉ quan hệ của chúng
với
các từ khác

Liên từ

Nối các từ, cụm từ hoặc câu

(conjunction)

với nhau

Thán từ

You and I. He will
come if you ask…

Diễn tả cảm xúc

Well! Ah! Yeah!

(interjection)
[46,tr. 12]
1.1.1.1. Phân chia từ loại theo chức năng
Phân chia từ loại theo chức năng là dựa vào chức năng cú pháp mà từ
đảm nhận trong câu. Vì một từ có thể đảm nhận nhiều cơng việc khác nhau

nên nó có thể thuộc một từ loại trong câu này nhưng lại thuộc về một từ loại
khác trong câu khác.
Ví dụ:

I have two hands ( Tơi có hai tay – hands là danh từ)
He hands me the paper ( Anh ấy đưa cho tôi tờ giấy – hand ở

đây là động từ
A round table ( Cái bàn trịn - round là tính từ)
A round of beer ( Một chầu bia – round là danh từ)

11


The Earth moves round the Sun ( Trái đất quay xung quanh
mặt trời – round là giới từ)
The police rounded them up ( Cảnh sát quây họ lại – round là
động từ)
This is his hat ( Đây là mũ của anh ấy – This là đại từ, his là
tính từ sở hữu)
This hat is his ( Cái mũ này là của anh ấy – This là tính từ,
his là đại từ sở hữu)
[46, tr.13]
1.1.1.2. Phân chia từ loại theo hình thức
Phân chia từ loại theo hình thức là dựa vào các tiếp tố (affixes) gắn với
từ, nếu có. Nhờ đó, chúng ta có thể ít nhiều đốn được một từ thuộc loại từ
nào, ví dụ:
- Danh từ với –ist, -dom, -ness, -ship, -red:
Artist


Freedom

Darkness

Hardship

(hoạ sỹ)

(tự do)

(bóng tối)

Dramatist

Wisdom

Sweetness

Friendship

(nhà soạn kịch)

(sự thơng thái)

(sự ngọt ngào)

(tình bạn)

(nỗi gian truân)


- Động từ với –ed, -ing, -en, -ize, -fy, -ate:
Changed
(đã thay đổi)
Walked
(đã đi bộ)

Weaken
(làm cho yếu)

Modernize

(hiện đại hóa) (làm cho tinh khiết)

Sweeten
(làm cho ngọt)

Purify
Simplify

Minimize

(làm cho đơn giản)

(giảm thiểu)
- Tính từ với –ous, -ed, -en, -less, -ly, -ful.
Famous

Talented

Wooden


12

Fearless


(nổi tiếng)

(có tài)

(bằng gỗ)

(khơng sợ hãi)

Continous

Learned

Woollen

Hopeless

(tiếp diễn)

(có học)

(bằng len)

(khơng hy vọng)


Người ta thường phân chia tám từ loại nêu trên thành hai nhóm lớn:
- Open word classes: (từ loại có thể nhận thêm từ mới) gồm có: danh
từ, động từ, tính từ và phó từ. Số lượng mỗi từ loại thuộc nhóm này có thể từ
một vài nghìn đến cả trăm nghìn từ. Nhóm này bao gồm các content word, là
những từ mang nghĩa nội dung hay nghĩa từ điển (lexical meaning) như home
(nhà ở, quê hương), bridge (cây cầu), slowly (chậm chạp).
- Close word classes: (từ loại có số lượng từ giới hạn) gồm đại từ, giới
từ, liên từ và thán từ. Số lượng mỗi từ loại thuộc nhóm này chỉ từ vài từ đến
vài mười từ và rất it khi nhận thêm từ mới. Nhóm này bao gồm các function
word, là những từ ít mang nghĩa nội dung nhưng lại đóng vai trị quan trọng
trong quan hệ cú pháp của câu, như on (ở trên), beside (bên cạnh), he (ông
ấy), and (và). [12, tr.6]
1.1.2. Khái niệm về từ loại trong tiếng Việt
Khái niệm từ loại xuất phát từ cứ liệu ngơn ngữ châu Âu, nó gắn với
các phạm trù hình thái học khác như giống, số, cách...Vấn đề được đặt ra là,
khi gắn từ loại với phạm trù hình thái thì, đối với tiếng Việt, có cần thiết duy
trì sự tồn tại hay khẳng định sự có mặt của phạm trù từ loại hay không? Tuy
nhiên, từ trước đến nay luôn tồn tại hai thái cực đối nghịch nhau về sự tồn tại
của từ loại trong tiếng Việt. Nhóm các tác giả phủ nhận việc tồn tại của từ loại
như Lê Quang Trinh, Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tùng cho rằng: từ (trong ngôn
ngữ đơn lập) không biến đổi hình thái do đó khơng thể phân chia từ loại một
cách chính xác. Tác giả Hồ Hữu Tùng cho rằng: tiếng Việt cơ cấu theo một
lối khác hẳn so với các ngơn ngữ phương Tây (khơng có sự biến đổi hình
thái) do đó khơng có từ loại, mà, tuỳ thuộc vào vị trí trong câu mà có tính chất

13


(thuộc tính) nhất định, một từ có thể có nhiều thuộc tính khác nhau. Ở vào thế
đối lập là các tác giả thừa nhận sự tồn tại của từ loại, tuy nhiên, trong nhóm

này có những khác biệt trong việc nhận định, phân loại. Họ thừa nhận sự có
mặt của phạm trù từ loại trong tiếng Hán, tiếng Việt... nhưng tiêu chí phân
định khơng dựa vào đặc điểm hình thái mà là ý nghĩa ngữ pháp và/hoặc thái
độ ngữ pháp (khả năng kết hợp và chức vụ ngữ pháp). Có những tác giả phân
định từ loại chỉ thuần túy dựa vào ý nghĩa khái quát như Trần Trọng Kim, Bùi
Đức Tịnh. Theo đó từ loại là một phạm trù ngữ pháp-logic. Có những tác giả
lại dựa vào chức vụ cú pháp (một từ có thể thuộc nhiều từ loại khác nhau) mà
từ đảm nhận trong câu như Phan Khôi… hay lại dựa vào khả năng kết hợp
của từ trong câu như Lê Văn Lí, Nguyễn Tài Cẩn, Lưu Vân Lăng, trong đó tập
trung vào khả năng làm trung tâm của cụm từ, ngữ hoặc khả năng làm thành
tố phụ của ngữ.
Từ loại được Đinh Văn Đức định nghĩa như sau: “ Từ loại là những lớp
từ có cùng bản chất ngữ pháp, được phân chia theo ý nghĩa, theo khả năng kết
hợp với các từ ngữ khác trong ngữ lưu và thực hiện những chức năng ngữ
pháp nhất định”. [17, tr23] Định nghĩa này cho ta thấy rõ được cách phân định
từ loại trong trong tiếng Việt. Nghiên cứu về từ loại là nghiên cứu các lớp từ
của ngôn ngữ xét theo các đặc trưng ngữ pháp của chúng. Tiêu chí phân định
từ loại được nhiều tác giả như Đinh Văn Đức, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn
Thung… tán thành nhất là dựa vào tập hợp ba tiêu chuẩn: (1) ý nghĩa - từ
vựng ngữ pháp khái qt có tính chất phạm trù của từ, (2) khả năng kết hợp
của từ, và (3) chức năng cú pháp chủ yếu của từ. Và hệ thống từ loại tiếng
Việt có thể sắp xếp thành hai nhóm bao gồm những từ loại sau:
Nhóm 1: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ
Nhóm 2: phụ từ (định từ, phó từ); kết từ; tiểu từ (trợ từ và tình thái từ)
Danh từ, động từ, tính từ, là ba từ loại cơ bản, chiếm số lượng lớn nhất
và thể hiện tương đối đầy đủ và rõ rệt nhất các tiêu chuẩn phân loại. Về mặt ý
nghĩa, chúng có bản chất từ vựng - ngữ pháp, trực tiếp phản ánh các nội dung

14



ý nghĩa từ vựng khái qt có tính vật thể, hành động, trạng thái hoặc phẩm
chất thành các đặc trưng phân loại. Về khả năng kết hợp, chúng có thể làm
thành tố chính - trung tâm ngữ nghĩa - ngữ pháp - trong một kết hơp từ, với
các từ làm thành tố phụ đứng xung quanh. Về chức năng cú pháp, danh từ,
động từ, tính từ có khả năng tạo câu và đảm nhiệm hầu hết các thành phần ở
mọi vị trí trong cấu tạo câu. Số từ phản ánh nội dung ý nghĩa số lượng có tính
chất thực, gần gũi với danh từ, động từ, tính từ. Số từ khơng có được khả
năng kết hợp rộng rãi nhưng vẫn đảm nhiệm được đầy đủ các chức năng cú
pháp như các từ loại nói trên. Vì vậy, chúng có tư cách là thực từ, và có tác
giả đã xếp cùng nhóm với danh từ. Đại từ khơng trực tiếp phản ánh các nhân
tố ý nghĩa từ vựng như thực từ. Nhưng do chúng có chức năng thay thế các
thực từ, biểu hiện nội dung ý nghĩa của thực từ mà chúng thay thế và đảm
nhiệm các chức năng cú pháp của thực từ được thay thế, nên có thể xem là
một từ loại có vị trí trung gian trong hệ thống từ loại. Do có quan hệ chặt chẽ
với danh từ, động từ, tính từ, nên đại từ cũng được xếp vào nhóm hai. [6,
tr.77]. Từ ba tiêu chí phân định từ loại Đinh Văn Đức lại có cách phân định từ
loại thành ba tập hợp cơ bản:
- Các thực từ gồm: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ.
- Các hư từ gồm: từ phụ, từ nối.
- Các tình thái từ gồm: tiểu từ, trợ từ.
Nguyễn Hồng Cổn cũng có cách phân chia từ loại thành ba tập hợp
cơ bản theo sơ đồ sau:
Kết quả phân loại:

15


( Ngơn ngữ. Số 02/2003)
Tóm lại, việc hiểu về từ loại rất quan trọng. Mục đích chính của việc

hiểu biết từ loại là nhằm phát hiện bản chất ngữ pháp, tính quy tắc trong hoạt
động ngữ pháp và sự hành chức của các lớp từ trong quá trình thực hiện
những chức năng cơ bản của ngôn ngữ: làm công cụ để giao tiếp, để tư duy
trừu tượng. Từ đó có thể sử dụng các lớp từ cho đúng quy tắc, hợp với phong
cách và chuẩn của ngôn ngữ.
1.2.

Khái quát chung về hư từ

Khái niệm “hư từ”/ “từ trống” xuất hiện nhiều trong các ngơn ngữ Ấn –
Âu, ví như cách gọi “mots vides” (Pháp), “empty words” (Anh), “pustoe
slovo” (Nga), “leerwort” (Đức)… Ở các ngơn ngữ này, nhìn chung hư từ
được đặt ở vị thế đối lập với thực từ.
Trong tiếng Việt, hư từ được đặt trong thế đối lập với thực từ và tính thái
từ. Hư từ có thể hình thành hai tập hợp tạm gọi là các hư từ từ pháp và các hư
từ cú pháp. Các hư từ từ pháp có chức năng diễn đạt các ý nghĩa ngữ pháp của
thực từ (danh từ, động từ, tính từ, số từ). Trong quan hệ cấu trúc, chúng
chuyên dùng làm thành tố phụ trong các đoản ngữ. Các hư từ cú pháp, trái lại,
không được dùng để diễn đạt ý nghĩa ngữ pháp của thực từ này hay khác mà
dùng để diễn đạt mối quan hệ giữa thực từ với thực từ trong các phát ngôn –
nghĩa là diễn đạt mối quan hệ giữa các khái niệm trong tư duy trừu tượng. Hư
từ cú pháp, theo đó, cũng là cơng cụ diễn đạt các mối quan hệ logic, các quan
hệ trong cách thức phản ánh của người bản ngữ. Các hư từ cú pháp không làm
trung tâm và cũng không làm thành tố phụ đoản ngữ, chúng là một thứ
phương tiện liên kết “xúc tác” thành tố phụ với trung tâm đoản ngữ, các đoản
ngữ, các mệnh đề với nhau trong cấu trúc phát ngơn. [17,tr.207] Theo tác giả
Hồng Trọng Phiến [32], hư từ tiếng Việt có đặc điểm:

16



- Làm phương tiện biểu hiện của các quan hệ ngữ pháp – ngữ nghĩa khác
nhau giữa các thực từ. Nghĩa của hư từ gắn với cách thức tư duy, hành vi tư
duy. Do đó chọn lựa hư từ nào để cấu tạo câu nói mang thơng tin là xuất phát
từ nhu cầu diễn đạt của tư duy.
- Hư từ tham gia kiến tạo lập luận.
- Hư từ không làm trung tâm của cụm từ, của ngữ đoạn và không độc lập
làm thành phần câu cũng như không độc lập tạo ra câu. Hư từ và các kết cấu
hư từ đứng ngồi nịng cốt câu và có liên đới đến tồn câu nhằm diễn đạt ý
nghĩa ngữ dụng nào đó tùy theo chiến lược của người sử dụng chúng.
- Hư từ tự nó khơng có khả năng biểu hiện sắc thái nghĩa. Nó có sắc thái
nghĩa khi tham gia vào một kết cấu cú pháp nào đó, trong một ngơn cảnh nào
đó.
Trong phần “Trắc nghiệm về giới ngữ” tại cơng trình “Tiếng Việt – mấy
vấn đề ngữ âm – ngữ pháp – ngữ nghĩa” của mình, tác giả Cao Xuân Hạo đã
trực tiếp trình bày quan điểm về hư từ như sau: “Giới từ là một hư từ. Hình
như chưa ai phủ nhận hay nghi ngờ điều đó. Tuy nhiên, ranh giới giữa thực từ
và hư từ nhiều khi có phần mơ hồ hay ít nhất khơng phải là hiển nhiên. Người
ta hay nói rằng, trong khi thực từ chỉ sự vật, thì hư từ chỉ mối quan hệ giữa
các sự vật. Nhưng nếu thế thì cũng nên thừa nhận rằng hư từ khơng phải là
rỗng nghĩa, vì nó chỉ khơng có ý nghĩa sự vật mà thơi (hiểu theo một nghĩa rất
hẹp và rất ước định nào đó). Nếu nó rỗng nghĩa thật thì chính nó khơng có lý
do tồn tại trong ngôn ngữ vốn là cái công cụ truyền đạt nghĩa. Nhưng đơn vị
ngôn ngữ như giới từ, liên từ và các thứ chỉ tố này nọ không phải là rỗng
nghĩa”. [tr.394]
Ngữ pháp truyền thống gọi các hư từ cú pháp là liên từ và giới từ. Trong
tiếng Việt cũng có những thuật ngữ khác gọi chúng như các từ nối hoặc quan
hệ từ.
1.3. Khái quát chung về giới từ


17


1.3.1. Giới từ trong tiếng Anh
Trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Anh” ( A grammar of the Eng lish
language) [44] có định nghĩa về giới từ như sau: The preposition is a form
word which is used with a noun ( or pronoun) to show its relation to other
words in the sentence. As its name – preposition – shows, preposition usually
occupy a position before a noun or a noun phrase. Even in languages with a
developed case system prepositions play an important role, serving to
differentiate the relations which are often indicated only vaguely by case
inflextions. In modern English, which has lost almost all case forms,
prepositions have become a most important means of indicating the various
relations of nouns to the other words in the sentence” [tr.158]
( Giới từ là từ hình thái được sử dụng với một danh từ (hoặc đại từ) để
biểu thị mối quan hệ của nó với những từ khác trong câu. Tên gọi “giới từ”
cho thấy rằng giới từ luôn ln chiếm vị trí trước danh từ hay cụm danh từ.
Thậm chí trong một ngơn ngữ có hệ thống cách hồn thiện thì giới từ đóng vai
trị quan trọng có nhiệm vụ phân biệt những mối quan hệ thường được thể
hiện rất mờ nhạt bằng sự biến đổi hình thái cách. Trong tiếng Anh hiện đại mà
mất đi hầu hết những dạng cách thì giới từ trở thành phương tiện quan trọng
nhất chỉ ra những mối quan hệ khác nhau với những từ khác trong câu)
Lê Dũng có định nghĩa giới từ như sau: “Giới từ là từ dùng để chỉ mối
quan hệ giữa danh từ hoặc đại danh từ với một từ khác trong câu”. [12, tr.176]
Như vậy, ở hầu hết các sách ngữ pháp đều có chung định nghĩa về giới
từ với tư cách là từ nối danh từ hay đại từ với từ đứng trước.
Giới từ không nhiều lắm nhưng không nhất thiết phải biết hết tất cả.
Chúng tơi đã bỏ bớt một số giới từ ít gặp hơn trong tiếng Anh cơ bản. Các
giới từ đơn cơ bản bao gồm:
about =


về,

above =

bên trên,

across =

ngang qua, băng qua,

18


after =

sau,

against =

chống lại, vào,

along =

dọc theo,

among =

giữa (3 trở lên),


around =

quanh, vịng quanh,

at =

tại, lúc,

abroad =

ngồi

ahead =

phía trước

amid =

ở giữa, trong số

as =

như là

before =

trước

behind =


đằng sau

below =

bên dưới, dưới

beside =

bên cạnh

between =

giữa (2 trở lên)

beyond =

quá, lên trên, ra ngoài

beneath =

dưới

beyond =

xa hơn

but =

nhưng


by =

bằng, bởi

despite=

bất chấp

down =

dưới

during =

trong suốt (khoảng thời gian nào đó)

except =

ngoại trừ

excluding =

chưa kể

for =

cho, trong (khoảng thời gian)

from =


từ

following =

theo sau

forward =

phía trước

19


in =

trong, ở trong

inside=

bên trong

into =

vào

including =

bao gồm

like =


như

minus =

không tính đến

near =

gần

of =

của

off =

xa, theo sau động từ, tạo nghĩa riêng

on =

trên

onto =

lên trên

out =

ngoài


outside =

bên ngoài

over =

ở trên đầu, trên

opposite =

đối diện

past =

qua, quá

per =

mỗi

plus =

kể cả

since =

từ khi

regarding =


liên quan tới

round =

xung quanh

through =

xuyên qua, thông qua

throughout=

suốt, từ đầu đến cuối

till =

đến khi

to =

đến

toward =

phía trước

together =

cùng


under =

dưới

until =

cho đến khi

20


up =

trên, lên

upon =

theo sau động từ

via =

thông qua

with =

với

within =


trong phạm vi, trong vịng

without =

mà khơng có

Giới từ cũng có thể là một cụm từ: instead of, in front of, for the
sake of, with regard to, at the back of, in spite of, on account of…
Ví dụ : He will come instead of me
( Anh ấy sẽ đến thay cho tôi)
The teacher stood in front of the class
(Thầy giáo đứng trước lớp)
What did he say with regard to my proposals?
(Ơng ấy nói sao về những đề nghị của tơi?)
[46, tr.134]
Giới từ có thể biểu thị mối quan hệ:
1.3.1.1. của một danh từ với một danh từ ( hoặc đại từ); danh từ đứng
sau giới từ là một định ngữ (attribute) bổ sung ý nghĩa cho danh từ trước đó:
Ví dụ: The key to the golden box is lost
( Chiếc chìa khóa của cái hộp vàng đã bị mất)
He is a man of honour
(Ông ấy là một người danh giá)
1.3.1.2. của một danh từ (hoặc đại từ) với một tính từ; giới từ đứng
trước danh từ đóng vai trị làm bổ ngữ hoặc là trạng ngữ:
Ví dụ: Our country is rich in minerals
(Nước chúng ta giàu khoáng sản)
She is free from care
(Cơ ấy chả phải lo lắng gì)
This knife is good for nothing


21


×