Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Khóa luận tốt nghiệp đại học ngành Triết học: Ảnh hưởng của dung thông tam giáo Nho – Phật – Đạo trong lĩnh vực chính trị xã hội ở Việt Nam thời Lý Trần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.56 KB, 73 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------

CHU MAI ANH

ẢNH HƯỞNG CỦA DUNG THƠNG TAM GIÁO
ĐẾN TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM THỜI LÝ – TRẦN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X

Hà Nội - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------

CHU MAI ANH

ẢNH HƯỞNG CỦA DUNG THƠNG TAM GIÁO
ĐẾN TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
THỜI LÝ – TRẦN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy


Khóa học: QH-2015-X

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS NGUYỄN THANH BÌNH

Hà Nội - 2019


Lời cảm ơn
Trong suốt q trình làm khố luận, đã có rất nhiều cá nhân cùng cộng
đồng đã giúp đỡ, hộ trợ em. Trước tiên với tình cảm sâu sắc và chân thành
nhất, cho phép em được bày tỏ lòng biết ơn đến tất cả các cá nhân và tổ chức
đã tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu
đề tài này.
Để hồn thành khóa luận này, em xin tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS
Nguyễn Thanh Bình, đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá
trình viết Khoá luận tốt nghiệp.
Em chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong khoa Triết học cùng Bộ môn
Tôn giáo học, Trường Đại học KHXH và NV đã tận tình truyền đạt kiến thức
trong những năm em học tập. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong q trình
học khơng chỉ là nền tảng cho q trình nghiên cứu khóa luận mà cịn là hành
trang q báu để em bước vào đời một cách vững chắc và tự tin.
Do kinh nghiệm thực tế còn non yếu, nên chắc chắn em còn nhiều thiếu
sót nên rất mong các thầy cơ bỏ qua. Đồng thời mong nhận được nhiều ý kiến
đóng góp từ các thầy cơ để giúp em tích lũy thêm kinh nghiệm để hoàn thiện
bài báo cáo tốt nghiệp sắp tới đạt kết quả tốt hơn. Em xin kính chúc quý thầy,
cô dồi dào sức khỏe và thành công trong sự nghiệp cao quý.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 29 tháng 4 năm 2019

Chu Mai Anh



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khố luận ......................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khoá luận ...................................... 2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 3
5. Kết cấu của khoá luận ................................................................................... 3
NỘI DUNG....................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1. ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ DUNG THÔNG TAM
GIÁO Ở VIỆT NAM THỜI LÝ – TRẦN ..................................................... 4
1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội thời Lý – Trần ................................................... 4
1.2 Những nhiệm vụ chính trị thực tiễn đặt ra ................................................ 12
1.3 Những tiền đề tư tưởng cho sự dung thông tam giáo Nho – Phật – Đạo.......... 17
1.3.1 Khái quát chung về Nho giáo ................................................................. 17
1.3.2 Khái quát chung về Phật giáo ................................................................ 28
1.3.3 Khái quát về Đạo giáo ........................................................................... 34
CHƯƠNG 2. NHỮNG ẢNH HƯỞNG NỔI BẬT CỦA DUNG THÔNG
TAM GIÁO TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI THỜI LÝ –
TRẦN.............................................................................................................. 41
2.1 Ảnh hưởng của sự dung thông tam giáo đến đường lối trị nước thời Lý –
Trần ................................................................................................................. 41
2.2 Ảnh hưởng của sự dung thông tam giáo trong việc xây dựng và phát triển
giáo dục - khoa cử ........................................................................................... 46
2.3 Ảnh hưởng của sự dung thông tam giáo đến việc xây dựng và thực thi
phát triển pháp luật .......................................................................................... 57
KẾT LUẬN .................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 66



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dung thông tam giáo ở Việt Nam thời Lý – Trần là một hướng nghiên cứu
quan trọng, ln có ý nghĩa lý luận và tính thời sự cấp thiết. Bởi vì, Nho –
Phật – Đạo là các học thuyết triết học – tôn giáo có nguồn gốc từ Trung Quốc
và Ấn Độ, chúng đã sớm du nhập vào nước ta và dần chiếm một vị trí quan
trọng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội phong kiến Việt Nam, đã ảnh
hưởng và tác động tới nhiều mặt của đời sống xã hội. thời Lý – Trần, Nho
giáo cùng với Phật giáo và Đạo giáo trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác
động mạnh mẽ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực
chính trị. Để hiểu rõ hơn vai trị, vị trí, đánh giá những ảnh hưởng của dung
thơng tam giáo trong lĩnh vực chính trị, chúng ta phải đặt nó trong những điều
kiện kinh tế -xã hội cụ thể mà ở đó nó tồn tại và phát triển. Vì vậy, việc cần
thiết phải đi sâu vào việc nghiên cứu thời kỳ Việt Nam khôi phục nền độc lập
tự chủ, xây dựng và phát triển quốc gia Đại Việt với sự dung thơng của ba tơn
giáo chính Nho – Phật – Đạo là hướng tiếp cận quan trọng, có ý nghĩa bản lề.
Có điều, qua tìm hiểu các cơng trình nghiên cứu về dung thơng tam giáo thời
Lý – Trần tại Việt Nam chúng tôi thấy rằng, các cơng trình tìm hiểu ảnh
hưởng của dung thơng tam giáo thời Lý -Trần đến lĩnh vực chính trị cịn chưa
nhiều và có nhiều vấn đề cịn bỏ ngỏ, cần có sự nghiên cứu và xem xét sâu
hơn, tìm hiểu dung thông tam giáo Nho – Phật – Đạo ngay từ thời kỳ nó có
những bước phát triển mạnh mẽ ban đầu và trên nhiều mặt Hơn nữa, việc
nghiên cứu dung thơng tam giáo trong thời Lý -Trần cịn giúp hiểu được khí
phách tự lập trong học phong, học thuật của ông cha ta lúc bấy giờ cũng như
bản lĩnh của dân tộc Việt Nam trong việc tiếp thu các yếu tố văn hố ngoại
nhập. Từ đó, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học quý giá trong việc bảo vệ và
phát triển nền văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế.

1



Hiện nay, để phục vụ mục tiêu đổi mới và hội nhập quốc tế trong bối cảnh
tồn cầu hố thành cơng, thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước,… thì việc nghiên cứu di sản dung thông tam giáo Nho
– Phật – Đạo ở Việt Nam càng trở thành một nhu cầu thiết yếu. Việc nghiên
cứu ấy nhằm đưa ra những căn cứ để đánh giá một cách khách quan về đặc
điểm và nội dung, những ảnh hưởng và giá trị của dung thông tam gíao trong
lĩnh vực chính trị đối với lĩnh vực chính trị dân tộc thời Lý – Trần, từ đó có
thái độ và căn cứ đúng đắn trong việc tiếp thu những di sản của quá khứ để
xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Vì những lý do trên, chúng tơi lựa chọn vấn đề nghiên cứu “Ảnh hưởng
của dung thơng tam gíao Nho – Phật – Đạo trong lĩnh vực chính trị - xã hội ở
Việt Nam thời Lý -Trần” làm đề tài khố luận tốt nghiệp của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là ảnh hưởng của dung thông tam
giáo Nho – Phật – Đạo trong lĩnh vực chính trị - xã hội ở Việt Nam thời Lý –
Trần
2.2. Phạm vi nghiên cứu của khoá luận
Phạm vi nghiên cứu của khoá luận là những ảnh hưởng của dung thơng
tam giáo trong lĩnh vực chính trị - xã hội cụ thể là ở ba phương diện sau:
đường lối trị nước, giáo dục – khoa cử và pháp luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khố luận
3.1 Mục đích của khố luận
Mục đích của khố luận là trình bày một cách có hệ thống ảnh hưởng
của việc dung thông tam giáo ở Việt Nam trong lĩnh vực chính trị - xã hội
thời Lý -Trần
3.2 Nhiệm vụ của khố luận
Nhiệm vụ của khoa luận là phân tích khái quát điều kiện và tiền đề cho

sự dung thông tam giáo Nho – Phật – Đạo ở Việt Nam thời Lý – Trần.

2


Phân tích ảnh hưởng của dung thơng tam giáo Nho – Phật – Đạo trong
lĩnh vực chính trị - xã hội ở Việt Nam thời Lý – Trần.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của khoá luận là những nguyên lý cơ bản của triết học
Mác – Lênin, quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam về xã
hội và con người
4.2 Phương pháp nghiên cứu của khoá luận
Phương pháp nghiên cứu của khoá luận là phương pháp biện chứng
duy vật của Triết học Mác – Lênin, phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học
và kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khoa học như : phân tích –
tổng hợp, logic – lịch sử, đối chiếu – so sánh,…
5. Kết cấu của khố luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung khoá luận gồm hai chương :
Chương 1 : Điều kiện và tiền đề cho sự dung thông tam giáo thời Lý – Trần
Chương 2 : Những ảnh hưởng nổi bật của dung thơng tam giáo đền lĩnh vực
chính trị - xã hội thời Lý – Trần

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ DUNG THÔNG TAM
GIÁO Ở VIỆT NAM THỜI LÝ – TRẦN

1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội thời Lý – Trần
Sau hơn một nghìn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, với chiến
thắng Bạch Đằng năm 938, nước ta đã bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên
độc lập dân tộc. Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV là thời kỳ đất nước ta đạt được
sự ổn định về kinh tế, chính trị, văn hố và thống nhất dân tộc - những tiền đề
quan trọng tạo nên sự phát triển rực rỡ trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội, thể hiện sức sống của dân tộc trong thời kỳ Lý - Trần.
Trong thời kỳ này, vấn đề phát triển kinh tế được nhà nước phong kiến
đặc biệt quan tâm, vì đó là cơ sở để ổn định tình hình chính trị - xã hội.
Về kinh tế, bằng các chính sách khác nhau, nơng nghiệp được đưa lên vị
trí hàng đầu. Nông nghiệp phát triển kéo theo sự phát triển của thủ công
nghiệp, nhiều nghề của nước ta được hình thành và phát triển, như đồ gốm,
dệt gấm, kiến trúc... Kinh tế Đại Việt vốn là nền kinh tế nông nghiệp lúa nước
cho nên triều Lý Trần thực hiện chính sách trọng nơng, khuyến nơng rất mạnh
mẽ. Nhà nước phong kiến Việt Nam thời Lý - Trần đã dùng nhiều biện pháp
nhằm phát triển nơng nghiệp, tăng diện tích ruộng đất. Các vua còn thân
chinh xuống ruộng tịch điền cày mẫu để khuyến khích sản xuất nơng nghiệp.
Triều Trần cịn lập Ty khuyến nơng, đặt các chức quan Hà đê chánh phó sứ.
Các vua Trần thường xuyên đi thăm việc đắp đê. Bên cạnh đó, nhà nước cịn
thực hiện chính sách “ngụ binh ư nơng” nhằm kết hợp phát triển kinh tế với
bảo vệ an ninh, quốc phòng.
Thời Lý - Trần mở đầu cho nền văn minh Đại Việt, vì vậy kinh tế - xã
hội nói chung, thủ cơng nghiệp nói riêng, có bước phát triển đáng kể so với
trước đó. Kỹ thuật thủ cơng nghiệp góp phần đảm bảo mọi nhu cầu thiết yếu

4


của đời sống xã hội: ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, sinh hoạt....Thời kỳ này, sản
phẩm của nghề dệt cũng tạo nên nét văn hóa đặc sắc của ĐạiViệt. Nghề dệt

vốn đã nổi tiếng với những sản phẩm: tơ tằm, lông sợi, tơ chuối, đay gai.
Làng Nghi Tàm nổi tiếng với nghề dâu tằm, có cơng chúa Quỳnh Hoa (con
vua Lý Thần Tông) làm tổ sư nghề dệt. Công chúa xin vua cha ra tu ở chùa
Đống Long (tức chùa Kim Liên) và tại đây, Công chúa đã dạy cho dân làng
biết nghề tằm tang canh cửi. Thời kỳ này, nghề gốm đã sản xuất được khá
nhiều loại hình sản phẩm phục vụ đắc lực cho công cuộc kiến thiết đất nước,
tư liệu sinh hoạt, trang trí xa xỉ, xây dựng chùa chiền... Thời ấy, các làng gốm
đã nổi tiếng như: Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội)... Có thể nói, gốm Lý - Trần
là đỉnh cao của nghệ thuật gốm trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Nghệ
thuật đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc khắc hoạ nghệ thuật của các cơng
trình Phật giáo. Dưới thời Lý Trần, các nghề thủ công mỹ nghệ đã tiến một
bước khá dài. Nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Đại Việt được phong
kiến nước ngoài coi là báu vật. Khắp nơng thơn miền xi, đâu cũng có thợ
rèn, thợ đúc... Ở miền núi, nghề khai mỏ rất phát đạt, hiện tượng mua bán
nhân công cũng đã xuất hiện. Một sử gia Trung Quốc viết: “Giao Chỉ có cái
lợi mỏ vàng, mới mua dân về làm nô.”
Các nghề mộc, nề, khắc chạm, sơn thếp cũng phát triển đáp ứng cho nhu
cầu xây dựng nhiều chùa chiền của nhà nước và nhân dân. Ngồi ra, nước ta
lúc đó cịn có nghề in giấy, in bản gỗ đã ra đời. Sau khi Lý Công Uẩn dời đô
về Thăng Long, nhiều làng nghề làm giấy đã xuất hiện ở kinh thành như làng
Yên Thái, n Hồ (làng giấy), làng Hồ, làng Nghè (Nghĩa Đơ)... Sản phẩm
đó phục vụ cho học hành, thi cử và để viết kinh Phật.
Từ đó, hình thành những trung tâm bn bán lớn trong nước và ngồi
nước, như Thăng Long, Vân Đồn.
Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của sản xuất và trao đổi, mạng lưới
giao thông thuỷ, bộ, hệ thống trạm dịch trong thời Lý – Trần cũng được mở

5



mang thêm. Từ Thăng Long toả đi các nơi có cả các hệ thống đường thuỷ, bộ;
nhất là trên các đường sơng và ven biển đã có nhiều thuyền lớn đi lại tấp nập.
Trong giai đoạn này, "có thể nói, bộ mặt kinh tế của nước Đại Việt đã
phát triển với một sinh lực dồi dào và đạt đến trình độ khá cao”[26, 134].
Vấn đề ruộng đất là vấn đề quan trọng bậc nhất khơng chỉ trong thời kì
này mà ở các thời kỳ sau này của xã hội phong kiến Việt Nam. Đối với quốc
gia phong kiến như Đại Việt thời Lý Trần có nền kinh tế là nơng nghiệp lúa
nước thì cơ sở tạo nên chế độ kinh tế đó chính là chế độ sở hữu ruộng đất.
Đặc điểm của quan hệ sản xuất của chế độ phong kiến Việt Nam nói chung và
của thời kỳ Lý – Trần nói riêng là chế độ sở hữu ruộng đất của nhà nước.
Những hình thức chia ruộng gồm có các loại ruộng công làng xã, điền trang
thái ấp, ruộng tư và ruộng của nhà chùa; nhưng hình thái tư hữu về ruộng đất
cũng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong chế độ sở hữu lúc bấy giờ.
Chế độ sở hữu ruộng đất thuộc về nhà nước có liên quan trực tiếp tới chế
độ canh tác dựa trên cơ sở thuỷ lợi. Dân tộc Việt Nam từ trước đều gắn với
nền nông nghiệp lúa nước. Nhận biết được sự cần thiết của vấn đề thuỷ lợi,
nhà Lý vào năm 1108 đã huy động nhân dân đắp đê Cơ Xá và đặc biệt là
cơng trình đắp đê Đỉnh Nhĩ hay cịn gọi là đê Quai vạc dưới thời Trần.
Chính hình thức sở hữu ruộng đất của nhà nước đã quy định địa vị và quan
hệ qua lại của các tầng lớp xã hội trong sản xuất , quy định hình thức phân
phối sản phẩm của xã hội trong xã hội phong kiến. Hay nói cách khác, chế độ
này khiến cho sự phân hố giai cấp hình thành nhưng sự hình thành của giai
cấp địa chủ chưa thực sự mạnh mẽ như dưới thời Trần. Đầu thời Trần , chế độ
tư hữu về ruộng đất càng ngày càng gia tăng. Thời kỳ này, nhà nước cho phép
bán ruộng đất công thành ruộng đất tư. Thích hợp với quan hệ kinh tế đó là
một xã hội có kết cấu giai cấp cịn tương ứng. Giai cấp phong kiến thống trị là
tầng lớp quý tộc và quan liêu, đại biểu là vua nắm quyền hành trong triều đình
và xã hội. Tiếp đó là tầng lớp địa chủ lúc đầu cịn ít nhưng về sau tăng dần lên.

6



Tăng lữ cũng là tầng lớp xã hội đáng kể và là lực lượng đông đảo từ cuối Bắc
thuộc đến đầu thời Trần. Nhà nước đã dùng tầng lớp này và tầng lớp Nho sĩ
mới xuất hiện để duy trì sự ổn định xã hội và củng cố quyền lực triều đình.
Xuất hiện tầng lớp trí thức, chủ yếu bao gồm nhà sư và nhà Nho. Nhà sư
trưởng thành từ hai dịng thiền Tinida lưu chi và Vơ ngơn thơng. Nhà Nho
trưởng thành từ giáo dục – khoa cử Nho học và trong đó có nhiều người tham
gia bộ máy hành chính của nhà nước phong kiến quân chủ. Các nhà sư còn
học cả các kinh sách của Nho giáo, của Đạo gia.
Đông đảo quần chúng nhân dân bị thống trị bao gồm nông dân các làng xã
lĩnh canh công điền, công thổ hoặc ruộng của địa chủ , nông nô, nô tỳ, thợ thủ
công, lái buôn,...
Một điều đáng chú ý ở thời kỳ này là sự trưởng thành của tầng lớp địa chủ
và tầng lớp nho sĩ. Sự trưởng thành này diễn ra trên cơ sở chế độ đại điền
trang dần dần nhường bước cho chế độ tư hữu ruộng đất. Nó làm cho cơ cấu
bộ máy nhà nước phong kiến từ thời Lý tới Trần có nhiều thay đổi lớn. Nho sĩ
dần dần thay thế những chức vụ quan trọng của nhà nước mà trước đó do tầng
lớp quý tộc nắm giữ. Đến cuối thời Trần, tầng lớp nho sĩ quan liêu cũng đã trở
thành chỗ dựa cho nhà vua trong việc trị nước.
Xã hội Đại Việt từ thế kỷ X trở đi, nhất là thời Lý - Trần, kinh tế thương
nghiệp phát triển lên một bước đáng kể,có những thành tựu rực rỡ. Tiền tệ
xuất hiện và sử dụng rộng rãi. Giao thông vận tải luôn được cải tạo và mở
rộng, góp phần tích cực cho ngoại thương phát triển.
Từ trước, thuyền buôn các nước phương Nam và phương Tây như Diệp
Điều (Gia va), Thiện (Miến Điện), Thiên Túc (Ấn Độ), An Tức (I răng), Đại
Tấn (Đông La Mã) đều đã qua lại buôn bán trên vùng biển nước ta. Đến thời
Lý - Trần, thuyền buôn các nước khơng những chỉ có qua lại ghé đậu mà cịn
thực sự bn bán trực tiếp với nước ta [29, 185]. Buôn bán giữa Đại Việt và
các nước khác lúc đó khơng chỉ là sự giao lưu kinh tế, mà kéo theo đó là giao


7


lưu văn hóa, tơn giáo. Chắc chắn Đại Việt lúc đó phải có sự giao lưu Phật
giáo trong nước và khu vực, đặc biệt với các nước láng giềng: Trung Quốc,
Chiêm Thành và xa hơn nữa là: Tây Vực, Miến Điện, Gia va, Ấn Độ... Năm
1187, “Có nhà sư Tây Vực đến. Vua xuống chiếu hỏi vua ấy có tài năng gì,
trả lời có tài sai bảo được hổ. Bảo thử tài, không hiệu nghiệm "[5, 878]. Năm
1311, “Lấy con gái của sư người Hồ là Chu Di Bà Lam vào cung. Nhà sư này
đời Nhân Tôn đã sang nước ta...” [5,526].
Dưới thời Trần, Tá Thánh thái sư Chiêu Văn Vương Nhật Duật là người
rất giỏi, thường giao lưu với nước ngồi, am hiểu phong tục các nước, lại nói
được tiếng các nước: Lại đến chơi chùa Tường Phù, nói chuyện với sư người
Tống, ngủ lại rồi về. Phàm là người nước ngoài đến kinh sư, thường kéo đến
chơi nhà, nếu là người Tống thì ngồi nghế đối nhau, đàm luận suốt ngày, là
người Chiêm hay người Man khác đều theo quốc tục của họ mà tiếp đãi [5,
558].
Đặc biệt, quan hệ ngoại giao giữa Đại Việt và Tống đã tạo điều kiện để du
nhập kinh Phật từ Trung Quốc, làm cho Phật pháp phát triển. Các nhà sư Đại
Việt lúc đó cũng chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng thiền Tông Trung Quốc.
Chẳng hạn như phái thiền Vô Ngôn Thông thời Lý, phái Thảo Đường, phái
Trúc Lâm Yên Tử là những phái chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Trung Hoa.
Cùng với nền chính trị độc lập nêu cao ý chí tự lực tự cường, nền kinh tế
có bước phát triển đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, Đại Việt có một nền văn
hố phát triển tương thích. Văn hố Đại Việt thời Lý - Trần để lại một dấu ấn
khá đậm trong tiến trình phát triển lịch sử dân tộc. Như Lê Quý Đôn đã nhận
định “Nước Nam ở hai triều Lý - Trần nổi tiếng là văn minh.”
Nền giáo dục Nho học có tính chất thế tục do nhà nước phong kiến quản lý
đã xuất hiện, khác hẳn với nền giáo dục của nhà chùa. Điều này có tác động

trực tiếp vào sự hình thành của đội ngũ trí thức dân tộc và sự tuyển lựa nhân
lực cho bộ máy quan liêu; ảnh hưởng cả đến thế giới quan và những quy phạm

8


chính trị, đạo đức con người và hơn thế là phong cách tư duy trong sáng tác
văn học , nghệ thuật.
Thời kỳ này giáo dục được chú ý phát triển, thi cử được tiến hành để tuyển
người tài bổ sung vào hàng ngũ quan lại giúp việc cho triều đình .
Trên lĩnh vực văn học, nhiều áng thơ văn đặc sắc đã xuất hiện. Bên cạnh
những bài thơ và văn bia xoay quanh các chủ đề của đạo Phật là những áng
văn chính luận nổi tiếng phản ánh cơng cuộc dựng nước và giữ nước của dân
tộc. Trong đó, tiêu biểu là bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn. Đến thời Trần,
hoạt động thơ văn diễn ra rất sôi nổi, đặc biệt thời kỳ này chữ Nôm đã được
vận dụng rộng rãi. Chủ đề thơ văn thời kỳ này không những xoay quanh
những vấn đề của đạo Phật mà còn cả của đạo Nho và nhất là của đời sống
hiện thực. Chữ Nôm được đưa vào sử dụng đồng thời với chữ Hán tạo nên sự
phong phú trong các sáng tác đương thời, đạo Phật cũng nhờ đó mà phát triển
và ảnh hươngr rộng rãi vào trong nhân dân. Chữ Hán không thoả mãn được
nhu cầu quảng đại của quần chúng nhân dân. Chữ Nơm xuất hiện (có thể đã
được dùng khá phổ biến thời Trần) để ghi âm tiếng nói dân tộc, giảm bớt sự
phức tạp của chữ Hán và cùng chữ Hán đáp ứng rộng rãi hơn nữa nhu cầu của
xã hội. Tác phẩm Khoá hư lục của Trần Thái Tơng được ít người biết đến bởi
sáng tác bằng chữ Hán, sau này Tuệ Tĩnh phải giải nghĩa bộ Kinh này bằng
quốc âm để phổ biến rộng rãi trong tín đồ của đạo Phật. Tác phẩm Cư trần lạc
đạo của Trần Nhân Tông được viết bằng chữ Nôm nên phổ biến rộng rãi, giúp
cho tư tưởng Phật giáo đến gần với quảng đại quần chúng.
Mặt khác, sự ra đời và sử dụng phổ biến chữ Nôm thể hiện tinh thần tự
chủ của dân tộc Đại Việt. Chữ Nơm là sản phẩm của văn hố Đại Việt nhằm

phục vụ cho văn hóa Đại Việt. Khơng giống như chữ Hán được truyền bá từ
phương Bắc và ban đầu nó mang tính chất áp đặt, do người Hán sang xâm
lược đem theo.
Thời kỳ này, văn học nghệ thuật đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Do sự
phát triển chữ Nôm, bên cạnh ngôn ngữ vay mượn là chữ Hán nên văn học

9


thời Lý - Trần đã có nhiều tác phẩm có giá trị. Các tác phẩm văn học thời kỳ
này phản ánh tinh thần dân tộc, phát huy cao độ tính độc lập, tự chủ, tự cường
của một thời được gọi là “hào khí Đơng A”. Có những tác phẩm tiêu biểu như:
bài “Nam quốc sơn hà" được xem là tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước;
“Hịch tướng sĩ”, bài “Phú sông Bạch Đằng”... với các tác giả lớn như: Trần
Quang Khải,Trần Quốc Tuấn, Trương Hán Siêu...Bên cạnh nêu cao tư tưởng
yêu nước, tự hào dân tộc, thơ văn Lý - Trần còn ca ngợi cảnh thiên nhiên giàu
đẹp như:
Sáng dậy mở cửa sổ
Xn đi nào có hay
Một đơi bươm bướm trắng
Phất phơ lướt hoa bay
(Dịch thơ Trần Nhân Tơng)
Một bộ phận khơng nhỏ đóng góp cho văn thơ Lý Trần là lực lượng
những tác gia là các nhà sư. Làm những bài kệ hầu như là sở thích, thói quen
của các nhà sư thời kỳ này. Thậm chí, đối đáp nhau họ còn dùng thơ. Trong
Thiền uyển tập anh, hầu như nhà sư nào trước khi thoát xác, họ cũng đọc một
bài kệ để lại cho đệ tử của mình. Nội dung chủ yếu của các bài kệ mang đậm
màu sắc Phật giáo. Các tác phẩm ấy cũng không tách khỏi tinh thần của thời
đại.Thời Lý - Trần cũng để lại nhiều văn bia dài, nhiều bài phú hay như: Đông
hồ bút, Trảm xà kiếm, Ngọc tỉnh liên, Thiên Hưng trấn...Ngoài ra, thể loại

truyện cũng ra đời như Báo cực truyện, Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái,
Nam ông mộng lục..Hai tác phẩm “Việt điện u linh”, “Lĩnh Nam chích quái”
hiện nay trở thành tư liệu quý để chúng ta tìm hiểu về tơn giáo, tín ngưỡng
Việt Nam giai đoạn này.
Thời kỳ này, các ngành nghệ thuật sân khấu, ca vũ nhạc cũng có những
tiến bộ đáng kể, đã xuất hiện một số loại hình ca kịch như ả đào, chèo, tuồng,..
Đặc biệt là thành tựu về kiến trúc và điêu khắc. Tiêu biểu là Văn Miếu, chùa

10


Một Cột, chùa Keo,… của thời Lý; đến nhà Trần, có cổ tháp Bình Sơn, chùa
Phật Tích, tháp Báo Thiên,…
Ngồi ra, thời kì này cịn đánh dấu sự xuất hiện của sử học. Đáng chú ý
nhất là bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu
Một số ngành như thiên văn, lịch pháp, y học của dân tộc đã xuất hiện và
có những thành tích đáng chú ý với đại biểu như Đặng Lộ và Trần Nguyên
Đán trong lĩnh vực lịch pháp; hay nhà y học và dược học lỗi lạc là Tuệ Tĩnh.
Chúng ta còn biết khoa học kĩ thuật thời Trần đã chế tạo súng thần
công.Hồ Nguyên Trừng là người nắm vững kĩ thuật đó. Theo Trần Quốc
Vượng - Hà Văn Tấn:
Ngày nay, chúng ta còn được đọc những điều ghi chép về các máy tự
động thời Lý. Bia Sùng thiện diên linh ở núi Đọi (Hà Nam, dựng năm 1121)
có chép về máy Kim Ngao:
“Ngày trung thu và ngày Tết, vua (Nhân Tông) ngự ở điện Linh Quang
trên bờ sơng Lơ. Dưới sơng hàng nghìn thuyền gióng trống đua bơi. Ở giữa
sông, một con rùa vàng nổi, lưng đội ba hòn núi. Rùa lội lờ đờ trên mặt nước,
lộ vân trên vỏ và soải bốn chân. Chuyển mắt nhìn lên bờ, miệng thì phun
nước lên bến. Quay đầu hướng tới ngai vua mà cúi chào”. Bia Sùng thiện diên
linh còn tả máy đèn quay và người máy đánh chuông. Lý Nhân Tông đặt hội

đèn Quảng Chiếu:“dựng đèn Quảng Chiếu ngoảnh ra cửa Đoan Môn. Giữa
nêu một cột, ngoài đặt 7 tầng. Rồng uốn mà nở toà sen vàng, rèm lồng mà che
đèn sáng rực. Có máy dấu kín dưới đất, làm đài quay như bánh xe. Lại có 2
tồ lầu hoa. Treo quả chng đồng, tạc chú tiểu mặc áo cà sa, vặn mày kín thì
giơ dùi đánh. Nghe tiếng sáo liền quay mặt lại. Trơng bóng vua lại biết cúi
đầu. Tựa như có trí khơn, biết khi động, khi tĩnh” [35, 334-335]
Tóm lại, những lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hoá tinh thần thời kỳ Lý –
Trần bị chi phối sâu sắc bởi cả Nho giáo, Phật gíao và Đạo giáo.

11


1.2 Những nhiệm vụ chính trị thực tiễn đặt ra
Từ năm 938, chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng đã chấm
dứt hàng ngàn năm thời Bắc thuộc và mở ra kỷ nguyên độc lập, tự chủ của dân
tộc. Trong thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo được đưa vào nước ta chủ yếu là theo
vó ngựa quân xâm lược, đóng vai trị là cơng cụ của giai cấp thống trị nhà Hán
trong âm mưu đồng hoá dân tộc ta, cho nên thái độ nhân dân ta là phản ứng lại
Nho giáo nhằm bảo vệ, khẳng định nền độc lập và chủ quyền đất nước, bảo
tồn nịi giống, tín ngưỡng, phong tục và di sản văn hoá cổ truyền của dân tộc.
Trong thời gian đó, Phật giáo được du nhập và được nhân dân tiếp nhận rộng
rãi, nó góp phần vào việc khôi phục chủ quyền đất nước. Điều này lý giải vai
trò nổi bật của Phật giáo trong ba triều đại: Ngô - Đinh - Tiền Lê (thế kỷ X XI). Tuy nhiên, Phật giáo được vận dụng vào cai trị đất nước khó lịng thiết
lập trật tự, kỷ cương một cách có hiệu quả, vì vậy, từ khi đất nước độc lập, đặc
biệt là từ thời Lý, Nho giáo dần được nhà nước phong kiến Việt Nam thừa
nhận và chú trọng phát triển. Đó khơng phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà
nó xuất phát từ những nhu cầu tổ chức, quản lý xã hội đặt ra lúc bấy giờ, đó
là:
Trước hết, việc chú trọng phát triển Nho giáo xuất phát từ nhu cầu xây
dựng và phát triển bộ máy chính quyền nhà nước quân chủ quý tộc lớn mạnh

và nhu cầu thiết lập trật tự kỷ cương xã hội, ổn định đời sống nhân dân, đảm
bảo nền độc lập dân tộc Ngay từ khi được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột
của chính quyền đơ hộ vào thế kỷ thứ X, việc xây dựng nhà nước phong kiến
tập quyền đã được đặt ra. Bộ máy hành chính đơ hộ cũ bị xố bỏ, được thay
thế bằng bộ máy chính quyền độc lập, tự chủ đối với phương Bắc và được
hoàn thiện dần. Khác với họ Khúc, họ Dương, Ngô Quyền đã lập ra một nhà
nước riêng biệt mà tính chất căn bản của Nhà nước đó là một nhà nước phong
kiến trung ương tập quyền.

12


Tuy nhiên, dưới các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, cơng việc đó mới chỉ
làm được những bước đầu tiên và chưa được đẩy mạnh. Những gì mà các
vương triều đạt được trong thời gian này cũng chỉ như một bước đi đầu tiền
cho sự phục hưng quốc gia Đại Việt, nền văn hoá dân tộc đạt được cũng chỉ
dừng lại ở những yếu tố mang tính chất khởi động, bản lề. Mặt khác, chế độ
phong kiến ấy chưa hoàn tồn vững chắc, trong lịng nó cịn chứa đựng nhiều
mầm mống, nguy cơ làm cho chế độ đó suy yếu và tan rã. Cung cách cai trị,
quản lý xã hội của các ông vua trong thời kỳ này là khá tuỳ hứng, mang vóc
dáng của một thủ lĩnh hữu dũng mà chưa thấy ở họ những mưu tính, những kế
sách lâu dài cho dân tộc, chưa có ở họ tầm vóc của một vị Hồng đế và một
triều đại với điển chế hồn bị. Khơng những thế, qua Đại Việt sử ký toàn thư,
các ơng vua thời kỳ này cịn tuỳ ý sử dụng hình phạt hết sức tàn khốc trong
việc cai trị và bảo vệ ngai vàng. Ở họ, thiếu hẳn đi một đường lối, một lý luận
cai trị làm nền, làm cái căn bản. Chế độ sở hữu ruộng đất - cơ sở kinh tế của
chế độ phong kiến, ít nhiều chứa đựng trong bản thân nó những yếu tố phân
tán và đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng rối loạn, đe doạ sự ổn
định xã hội và sự thống nhất đất nước. Nạn 12 sứ quân cát cứ các vùng diễn
ra sau thời Ngô, nạn phế lập liên tục xảy ra trong các triều đại ấy là những

minh chứng cho điều này. Trong khi đó, nạn lũ lụt ở đồng bằng sơng Hồng,
thiên tai diễn ra hàng năm đe doạ đến sản xuất và đời sống địi hỏi phải tập
hợp trí tuệ và lực lượng của dân tộc để khắc phục.
Ngoài ra, mặc dù đất nước đã được độc lập, nhưng nạn ngoại xâm vẫn
thường xuyên xảy ra đe doạ nền độc lập và chủ quyền quốc gia, địi hỏi phải
tập hợp, đồn kết và động viên sức mạnh của toàn dân tộc để đối phó thành
cơng. Tình hình trên đặt ra một u cầu khách quan là phải xây dựng, củng cố
và phát triển chế độ phong kiến trung ương tập quyền, phải tập trung và thống
nhất quyền lực chính trị vào một dịng họ có thế lực, có sức mạnh. Nhưng để
xây dựng và phát triển chế độ phong kiến trung ương tập quyền mạnh mẽ, duy

13


trì sự ổn định và phát triển đất nước, đè bẹp những hành động xâm lược từ bên
ngồi, khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của giai cấp phong kiến thống
trị, vào tâm lý và nguyện vọng chủ quan của con người. Muốn thực hiện được
những yêu cầu và địi hỏi khách quan đó, trước hết và chủ yếu là phải có một
học thuyết, một lý luận soi đường. Các triều đại phong kiến cần phải tìm ra cho
mình một hệ tư tưởng làm chỗ dựa trong việc cai trị, quản lý xã hội để đưa đất
nước từng bước vững chắc trên con đường phát triển. Yêu cầu và địi hỏi khách
quan đó đã tạo tiền đề kinh tế - xã hội thuận lợi cho không chỉ Phật giáo mà
chủ yếu là Nho giáo có vị trí lớn hơn so với các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê.
Nho giáo với tư tưởng thiên mệnh, tôn quân quyền, với thuyết tam cương - ngũ
thường, đường lối đức trị... cùng nhiều bài học kinh nghiệm được đúc rút ra từ
thực tiễn cai trị và quản lý xã hội lại đáp ứng được những u cầu và địi hỏi
trên. Vì vậy mà, các triều đại phong kiến Lý - Trần và cả các triều đại phong
kiến về sau đã chọn Nho giáo với tư cách là học thuyết chính trị - xã hội làm
chỗ dựa tư tưởng trong việc cai trị, quản lý xã hội, trong việc kiến tạo, duy trì
và phát triển chế độ phong kiến về mọi mặt.

* Đến cuối thế kỷ X đầu thế kỷ XI, để củng cố và phát triển đất nước
về mọi mặt, một trong những điều kiện có ý nghĩa quyết định là triều đại phải
thiết lập và duy trì xã hội có trật tự kỷ cương, ổn định. Có như vậy mới tạo ra
những động lực, tạo đà để phát triển. Muốn thực hiện và đáp ứng được địi hỏi
này khơng thể khơng dựa vào một hình thái tư tưởng nhất định làm căn cứ
cho sự định hướng và chỉ đạo. Như trên đã nói, cùng với Nho giáo, Phật giáo
và Đạo giáo cũng sớm du nhập vào Việt Nam. Đặc biệt, đến thời Lý -Trần,
Phật giáo đã có sự phát triển khá thịnh, được nhà nước phong kiến suy tôn,
chọn làm quốc giáo. Nhưng trong bản chất và nội dung học thuyết của nó,
Phật giáo và Đạo giáo chủ yếu khơng phải là đạo trị nước. Với những quan
niệm về sinh, lão, bệnh, tử, luân hồi, nghiệp báo... của Phật giáo; với phương
pháp tu luyện trường sinh bất tử và thuật phù thuỷ đầy tính chất mê tín, dị

14


đoan của Đạo giáo khó có một vai trị đáng kể trong việc tổ chức, duy trì và
phát triển bộ máy Nhà nước phong kiến, duy trì trật tự, kỷ cương và ổn định
xã hội, cai trị, quản lý xã hội và xây dựng, phát triển đất nước...
Trong khi đó, Nho giáo với tư cách là một học thuyết chính trị -xã hội,
đã trở thành công cụ hữu hiệu để giải quyết những vấn đề thiết thân của việc
xây dựng củng cố nhà nước phong kiến như vấn đề tôn quân quyền, sử dụng
bề tôi, những quy định, các điển chương lễ chế và cơ cấu hành chính từ triều
đình trung ương cho đến địa phương... Nho giáo chủ trương quyền hành phải
thống nhất, tập trung vào thiên tử, bảo vệ sự chính thống mà trên thực tế là
bảo vệ các vương triều với quyền lợi của dòng họ thống trị và các địa vị tơn
q của nó. Đồng thời, nó cịn đưa ra những quy tắc, chuẩn mực đạo đức cho
hành vi ứng xử của con người, những yêu cầu đối với các mối quan hệ vua tôi, cha - con, chồng - vợ, đối với việc tu thân... có tác dụng to lớn trong việc
giúp các triều đại củng cố sự thống trị giai cấp, sự thống nhất đất nước vào
chính quyền trung ương, ổn định trật tự xã hội. Nhìn chung, nội dung học

thuyết Nho giáo với tư tưởng bảo vệ vương quyền, sự liên kết gia đình, dịng
họ, bảo vệ sự liên kết giữa cá nhân và xã hội xung quanh triều đình, duy trì sự
phân chia đẳng cấp xã hội theo danh phận; với khả năng dung hợp sự phân
chia và liên kết này trên nền tảng đạo đức, luân lý, chính trị mà cơ sở của nó
nằm ở những nguyên tắc về lễ, pháp hồ lẫn nhau và được thần thánh hố là
thiên mệnh, trung hiếu, tam cương ngũ thường đã phục vụ đắc lực cho yêu
cầu của giai cấp thống trị đương thời.
Nhà nghiên cứu Quang Đạm khi đánh giá vai trò của Nho giáo, đã đưa
ra ý kiến rằng, “ít có một thứ đạo nào làm được tỉ mỉ chu đáo, chặt chẽ như
thế để giữ bệ ngọc ngai vàng cho các vua chúa. Lễ giáo của Khổng - Mạnh,
Trình - Chu là một công cụ mạnh mẽ của các triều đại đặt kỷ cương chặt chẽ
trên toàn bộ đất nước” [6, 246]. Chính vì vậy, dưới thời Lý -Trần,nhà cầm
quyền tuy theo Phật giáo, nhưng dần dần nhận thức ra khả năng là bệ đỡ

15


chính trị cho nhà nước của Nho giáo, và vì vậy Nho giáo ngày càng được
trọng dụng và có điều kiện mở rộng tầm ảnh hưởng.
Cùng với khả năng đáp ứng yêu cầu về tổ chức quản lý xã hội và tổ
chức bộ máy hành chính nhà nước, sự phát triển của Nho giáo còn gắn với
nhu cầu phát triển văn hoá, giáo dục. Khi chế độ phong kiến tập quyền đã bắt
đầu ổn định và triển khai theo quy mơ lớn thì u cầu về việc xây dựng và
phát triển một nền văn hoá và giáo dục độc lập, tự chủ được đặt ra. Để nắm
quyền quản lý đất nước, các triều đại Lý -Trần đã quan tâm đến việc nâng cao
tri thức. Đồng thời, do yêu cầu củng cố và phát triển của nhà nước phong
kiến, nên việc bổ nhiệm quan lại bằng con đường cũ - con đường “nhiệm tử”
và “thủ sĩ” không đáp ứng được, mà cần phải có một quy trình, phương thức
đào tạo và tuyển lựa quan lại mới để bổ sung vào đó. Phương thức này chỉ có
thể thực hiện được bằng việc phát triển một nền giáo dục mới, với chế độ thi

cử để tuyển lựa nhân tài.
Với yêu cầu như vậy, hệ thống đào tạo, giáo dục theo Phật giáo không
thể đáp ứng được nhu cầu này, mà chỉ có Nho giáo, với hệ thống lý thuyết
đầy đủ về nội dung giáo dục và khoa cử, mới có thể đảm đương được nhiệm
vụ lịch sử đó. Thực tế lịch sử đã khẳng định điều này. Thời kỳ đầu nhà Lý
đến đầu nhà Trần còn tổ chức các kỳ thi Tam giáo, nhưng cuối thời Trần, giáo
dục Nho học dần dần chiếm ưu thế. Từ đây, Nho giáo có cơ hội bám rễ sâu
vào đời sống chính trị - xã hội của nước ta. Bởi lẽ, theo con đường phát triển
của giáo dục - khoa cử, Nho giáo không những tác động trực tiếp vào sự hình
thành đội ngũ trí thức của dân tộc và sự tuyển lựa nhân tài cho bộ máy nhà
nước, mà nó cịn tác động tồn diện đến thế giới quan, nhân sinh quan, đến
những quy phạm chính trị và những chuẩn mực đạo đức của con người. Hơn
thế nữa, nó cịn dẫn đến những biến đổi căn bản trong phong cách tư duy,
sáng tác văn học, nghệ thuật và ngay cả trong nhu cầu, thị hiếu của xã hội...

16


1.3 Những tiền đề tư tưởng cho sự dung thông tam giáo Nho – Phật – Đạo
1.3.1 Khái quát chung về Nho giáo
Nho giáo hay còn gọi là Khổng giáo, do Khổng Tử (Khổng Khâu: 551479 trước công nguyên), nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc cổ đại sáng lập ra.
Sau Khổng Tử, các học trị của ơng đã phát triển Nho giáo theo nhiều hướng
khác nhau. Mạnh Tử (khoảng 372 - 289 trước cơng ngun) phát triển về phía
duy tâm và Tuân Tử (khoảng 325 - 238 trước công nguyên) phát triển về phía
duy vật. Nho giáo từ Khổng Tử đến Tuân Tử gọi là Nho Tiên Tần hay Nho
ngun thuỷ, đặc điểm của nó là chưa thần bí hoá và chưa khắc nghiệt nhiều.
Đến đời Hán, Đổng Trọng Thư (thế kỷ II trước công nguyên), đại biểu tư
tưởng của chế độ phong kiến trung ương tập quyền chuyên chế Hán đã phát
triển Nho giáo theo hướng duy tâm thần bí và gia tăng tính chất đẳng cấp
nghiệt ngã, gọi là Hán Nho. Thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc Triều (thế kỷ III -VI),

đạo Nho kết hợp với đạo Lão -Trang trở thành Huyền học. Đến thời Tống,
Chu Đôn Di (1017-1073), Trình Hạo (1032-1085), Trình Di (1033-1107) và
nhất là Chu Hy (1130-1200) kết hợp Nho giáo truyền thống với tư tưởng của
Phật giáo thành Nho học mới, gọi là “Tống Nho” hay “Lý học”...Trải qua các
giai đoạn phát triển ngay tại Trung Quốc, Nho giáo đã khác nhiều so với lúc
nó mới xuất hiện. Tuy nhiên, có thể nêu lên một số đặc điểm chung của Nho
giáo như sau:
Thứ nhất, đó là một học thuyết chính trị - đạo đức của giai cấp phong kiến
Trung Quốc. Nó chủ trương dùng “nhân trị”, “đức trị”, “lễ trị” để quản lý xã hội.
Thứ hai, Nho giáo, đặc biệt là Nho giáo Khổng -Mạnh, nêu lên một xã hội
lý tưởng, xã hội “đại đồng”, xem đó là mục tiêu phấn đấu của mình.
Thứ ba, Nho giáo xây dựng ý thức tôn ti trật tự trong xã hội. Thể hiện
trong các quan niệm về“lễ”, “chính danh”.
Thứ tư, Nho giáo chủ trương bất bình đẳng xã hội, dưới phải tuyệt đối
phục tùng trên, nữ phải tòng phục nam. Thể hiện qua các khái niệm: tam
cương, cương thường, trung hiếu, tiết nghĩa.

17


Thứ năm, càng về sau xu hướng Nho giáo là một học thuyết có tính chất
tơn giáo càng rõ.
Với những đặc điểm đó, buổi đầu du nhập, Nho giáo hồn tồn khơng phù
hợp với một xã hội vừa thốt thai từ thời Văn Lang -Âu Lạc, với chế độ lạc
hầu, lạc tướng như xã hội nước ta hồi đầu Bắc thuộc. Nho giáo vào nước ta
lúc đầu là do sự áp đặt của bọn thống trị Trung Quốc xâm lược. Song dần dà
một bộ phận các trí thức Nho học đã lánh nạn sang Giao Châu, một bộ phận
giai cấp thống trị bị Việt hố đã khiến tình hình đổi khác.Có thể tính dấu mốc
mà Nho giáo vào nước ta là từ thế kỷ II trước công nguyên, khi người Hán đặt
chân lên đất nước ta. Năm 179 trước công ngun, Triệu Đà, vua nước Nam

Việt, đóng đơ ở Phiên Ngung (nay thuộc Quảng Đông, Trung Quốc) sang
xâm chiếm nước Âu Lạc (Việt Nam ngày nay), chia Âu Lạc ra thành hai
quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Theo Hà Thành Hiên trong Nho học Nam
truyền sử thì Triệu Đà là “nhân vật đầu tiên mở màn cho Nho học vào Lĩnh
Nam”. Ông được xem là “từ tư tưởng đến hành động đều chịu ảnh hưởng của
Nho học”. Chính sách cai trị của ơng theo ngun tắc “dĩ hồ vi q” của Nho
giáo. Ơng rất tích cực truyền bá chữ Hán. Hai lần Giả Nghị (nhà nho đời Hán)
đến thuyết phục ông thần phục nhà Hán theo tư tưởng Nho giáo, ông đều chấp
thuận...Tuy nhiên, phải đến năm 111 trước công nguyên, khi nước Nam Việt
của Triệu Đà bị nhà Hán thơn tính, nước Việt trở thành một quận của nhà
Hán, thì quá trình xâm nhập và ảnh hưởng của văn hố Hán (trong đó có Nho
giáo) mới có thêm điều kiện thuận lợi và dần rõ nét trong đời sống tinh thần
của người Việt. Còn theo Đại Việt sử ký toàn thư thì việc truyền bá Nho giáo
vào nước ta với việc “dựng học hiệu, dạy lễ nghĩa” bắt đầu từ đầu cơng
ngun, thời Tích Quang và Nhâm Diên làm thái thú ở hai quận Giao Chỉ và
Cửu Chân: Tích Quang là người quận Hán Trung, khi ở Giao Chỉ lấy lễ nghĩa
dạy dân. Sau nhà Hán lại lấy Nhâm Diên làm thái thú Cửu Chân. Diên là
người Uyển Huyện. Tục người Cửu Chân chỉ làm nghề đánh cá đi săn, không

18


biết cày cấy. Diên mới dạy dân khai khẩn ruộng đất, hàng năm cày trồng,
trăm họ no đủ. Dân nghèo khơng có sính lễ thì Diên bảo các trưởng lại trở
xuống bớt bổng lộc ra để giúp đỡ, cùng một lúc lấy vợ có đến 2000 người.
Diên coi việc 4 năm thì bị gọi về. Người Cửu Chân làm đền thờ. Những
người đẻ con đều đặt tên là Nhâm. Phong hoá văn minh của đất Lĩnh Nam bắt
đầu từ hai thái thú ấy[5, 108-109].
Đến cuối thế kỷ II, khi Sĩ Nhiếp làm thái thú Giao Chỉ thì việc học Nho ở
nước ta đã tương đối phổ biến. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Sử thần

Ngô Sĩ Liên bàn: Nước ta được thông thi thư, tập lễ nhạc làm một nước văn
hiến là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy khơng những chỉ ở đương thời mà
có thể truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao?” [24, 126].
Như vậy, có thể thấy rằng, buổi đầu du nhập Nho giáo vào Việt Nam
chủ yếu theo “con đường của vó ngựa xâm lược”. Chính quyền Hán muốn
núp dưới chiêu bài “khai hóa” để nơ dịch nhân dân ta. Mục đích của việc
truyền bá Nho giáo ở nước ta lúc bấy giờ là để đào tạo nên những người
làm việc cho chính quyền đơ hộ, để đồng hố dân tộc Việt. Nói như Lê Sỹ
Thắng thì khi đó ở nước ta, Nho giáo “làm thêm chức năng là công cụ tinh
thần của giặc ngoại xâm” [9, 109].
Thời kỳ đầu, khi mới du nhập vào nước ta, Nho giáo vấp phải sự phản
kháng mãnh liệt của nhân dân với tư tưởng và nếp sống truyền thống của
người Việt. Bởi vì, Nho giáo với tư tưởng Tam cương, Ngũ thường, tư tưởng
Thiên mệnh hết sức khắc nghiệt và phản động đã được quân xâm lược phương
Bắc sử dụng như một công cụ chủ yếu để thống trị, nô dịch nhân dân ta. Đồng
thời, Nho giáo cịn đóng vai trị thiết yếu trong q trình hợp thức hố chế độ
Bắc thuộc và biến nước ta thành quận, huyện của Trung Quốc, biến văn hoá
nước ta phụ thuộc và là một bộ phận của văn hố Hán. Vì vậy, ngay từ đầu,
nhân dân ta đã căm ghét, xa lánh Nho giáo. Cũng vì vậy mà, chống Nho giáo,
chống Hán hoá đã trở thành một bộ phận, một mục tiêu quan trọng trong sự

19


nghiệp đấu tranh chống quân xâm lược phương Bắc, bảo vệ sự sống còn của
dân tộc ta trong suốt thời kỳ Bắc thuộc. Với ý thức về một nền văn hoá riêng,
lâu đời và phát triển khá cao (từ trước khi bị thuộc Bắc) cùng ý chí quật
cường, hành động dũng cảm của những người Việt yêu nước quyết tâm bảo vệ
nền văn hố riêng của mình, khơi phục chủ quyền dân tộc đã đẩy lùi được
chiều hướng tư tưởng bị áp đặt bởi kẻ xâm lược.

Nho giáo gặp trở ngại nên rất khó bám rễ được vào đời sống của nhân dân
ta, nó đã thất bại trong nhiệm vụ chiến lược là thực hiện chính sách “đồng
hố” mà chính quyền đơ hộ giao cho, nó chỉ có thể ảnh hưởng ở những nơi mà
giai cấp phong kiến phương Bắc đặt ách thống trị. Hơn nữa, do vị thế ở ngã ba
các đường lan truyền, giao thoa kinh tế, văn hố mà tại Việt Nam khơng chỉ
có Nho giáo mà nhiều dòng tư tưởng khác cũng được du nhập vào như Phật
giáo, Đạo giáo...trong đó Phật giáo với nội dung và đặc tính từ bi, bình đẳng
cho nên ngay từ đầu, Phật giáo đã có ưu thế hơn Nho giáo rất nhiều.
Trong khi Nho giáo chỉ dừng lại ở tầng lớp trên xung quanh chính quyền
ngoại bang, bào chữa cho sự xâm lược của chúng, thuyết phục nhân dân ta
quy thuận sự thống trị của phương Bắc, thần phục nhà vua của nước lớn, gị
bó con người vào trật tự chính trị đương thời...thì Phật giáo lại thuận lợi trong
việc thâm nhập vào các tầng lớp nhân dân, đứng về phía những người đau
khổ. Phật giáo khơng hồn tồn là cơng cụ của kẻ xâm lược. Với tư tưởng
bình đẳng bác ái, Phật giáo đã đóng vai trị là vũ khí tinh thần để đồn kết
nhân dân lao động, khuyến khích tinh thần chiến đấu chống lại ách đơ hộ của
phong kiến Trung Hoa. Nhiều tư tưởng của đạo Phật khá gần gũi với những
tập quán, tín ngưỡng dân gian của người Việt, nên nó nhanh chóng được
người Việt chấp nhận, phát triển khá nhanh mà hầu như không gặp phải sự
phản ứng và chống đối gay gắt từ phía nhân dân. Bên cạnh đó, cũng giai đoạn
này, Đạo giáo mà nhất là Đạo giáo phù thuỷ gần với tín ngưỡng ma thuật của
người Việt cổ cũng được tiếp nhận và ảnh hưởng khá sâu rộng trong nhân dân.

20


Như vậy, trong giai đoạn đầu, Nho giáo chưa vào sâu được trong dân gian.
Trong đời sống tinh thần, ưu thế vẫn thuộc về Phật giáo và Đạo giáo.
Ở buổi đầu, ý thức về vai trò của Nho giáo đối với việc cai trị, hai thái thú
Tích Quang và Nhâm Diên, một số quan lại Trung Quốc đã “dựng học hiệu để

dạy lễ nghĩa” ở Giao Chỉ và Cửu Chân. Tuy nhiên, các sách kinh điển của
Khổng giáo được dùng chủ yếu để giảng dạy cho con em quan lại địa chủ Hán
tộc. Ngồi ra, cũng có một số là con em tầng lớp trên của xã hội Việt Nam
tham gia học. Nhưng số người học hành đỗ đạt còn ít và đều được tuyển lựa
vào bộ máy cai trị, một số được đưa về Trung Quốc sử dụng. Để đạt mục tiêu
bóc lột và đồng hố nhân dân ta, nhà Đơng Hán đã củng cố và hồn thiện
chính quyền đơ hộ ở Giao Chỉ, muốn xố bỏ lối “dùng tục cũ mà cai trị”, áp
dụng pháp luật Hán ở Giao Chỉ để trói buộc nhân dân và hạn chế quyền hành
của Lạc tướng (thời Tích Quang và Nhâm Diên làm thái thú ở Giao Chỉ và
Cửu Chân vẫn để cho các lạc tướng làm chủ trong các lạc ấp của họ). Thái thú
Giao Chỉ Tơ Định thay thế Tích Quang, là kẻ tàn bạo, tham lam. Hắn ra sức
vơ vét thuế khoá, khống chế, đè nén các lạc tướng và con cháu họ, khiến cho
cả quý tộc cũ và nhân dân đều ốn hận chính quyền đơ hộ. Hành vi bạo ngược
của Tô Định đã dẫn tới phong trào nổi dậy của nhân dân trên toàn đất nước ta
mà đỉnh cao nhất là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Cuộc khởi nghĩa đó
thể hiện sự phản kháng của người Việt trước ách đơ hộ ngoại xâm, cũng qua
đó mà phản kháng công cụ tinh thần mà nhà Hán sử dụng. Sự phản kháng này
là tự nhiên và tất yếu của một cộng đồng tự trị. Tuy nhiên, không lâu sau, khi
Mã Viện đem quân sang xâm lược nước ta, đàn áp nghĩa quân của Hai Bà
Trưng, đất nước ta lại mất quyền độc lập. Sự thất bại của khởi nghĩa Hai Bà
Trưng cho thấy, mơ hình chính trị -văn hố thời các Vua Hùng mà Hai Bà
khơi phục lại đã trở nên bất cập trước đòi hỏi của lịch sử. Đồng thời, sự thất
bại đó cũng đem lại một bài học lớn: trước một kẻ thù hùng mạnh gấp nhiều
lần cả về quân sự và văn hoá là đế quốc Trung Hoa, dân tộc ta cần có một thời

21


×