Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN SO SÁNH TRIẾT học CHÍNH TRỊ xã hội PHẬT GIÁO với các QUAN điểm TRIẾT học CHÍNH TRỊ xã hội PHƯƠNG ĐÔNG và PHƯƠNG tây, sự KHÁC BIỆT và TƯƠNG ĐỒNG GIỮA TRIẾT học PHƯƠNG tây và PHƯƠNG ĐÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.67 KB, 23 trang )

SO SÁNH TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI PHẬT GIÁO VỚI
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI PHƯƠNG ĐƠNG
VÀ PHƯƠNG TÂY
Đặt vấn đề:
Tư tưởng về chính trị - xã hội là một trong những nội dung cơ bản mà các
trào lưu triết học nói chung, triết học Phật giáo nói riêng đều tập trung giải
quyết. Tuy nhiên, ở mỗi thời đại lịch sử vấn đề đó được đặt ra và giải quyết
trong những bối cảnh và nội dung khác nhau tuỳ thuộc vào thế giới quan và
nhân sinh quan của các nhà triết học. Những tư tưởng triết học chính trị xã hội
Phật giáo có nhiều điểm tương đồng với các quan điểm triết học chính trị xã hội
của các nhà triết học phương Đông và phương Tây thời kỳ cổ đại đến nay. Tuy
vậy, Giáo lý của Phật giáo cũng có nhiều nét riêng, khơng dựa trên một triết lý
chính trị nào cả. So sánh triết học chính trị xã hội Phật giáo trong mối tương
quan với Triết học Chính trị - xã hội Phương Đơng, Phương Tây chính là cơ sở
để khẳng định những giá trị cốt lõi của triết học Phật giáo đối với xã hội đương
thời ngày xưa và đương đại ngày nay.
1. Những điểm tương đồng giữa triết học chính trị xã hội Phật giáo với
chính trị xã hội phương Đơng, phương Tây
Về sự ra đời:
Triết học Phương Đông và Phương Tây đều được hình thành, phát triển
trong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm, và duy vật, giữa phương pháp siêu
hình và phương pháp biện chứng. Thực chất cuộc đấu tranh này là một phần
cuộc đấu tranh tư tưởng của những giai cấp đối kháng trong xã hội.
Triết học Phật giáo cũng ra đời trong bối cảnh chính trị xã hội ấy. Xã hội
Ấn Độ cổ đại bắt đầu khoảng thế kỷ thứ XXV TCN đó xuất hiện nền văn minh
đầu tiên là văn minh sông Ấn. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế - xã hội Ấn Độ
cổ là sự tồn tại rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế - xã hội theo mơ hình
“Cơng xã nông thôn” mà đặc trưng của kết cấu này là ruộng đất thuộc quyền sở
hữu của Nhà nước của các Đế Vương, gắn liền với nó là sự bần cùng hóa của
người dân trong cơng xã. Xã hội thời kỳ này được phân chia thành 4 đẳng cấp
lớn là: Tăng lữ, Q tộc, Bình dân tự do, Nơ lệ cung đình. Sự phân chia đẳng


cấp đó làm cho xã hội xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt dẫn đến cuộc đấu
1


tranh giai cấp giữa các đẳng cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy, nhiều tôn
giáo và trường phái triết học đó ra đời, trong đó có Phật giáo.
Phật giáo ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bà-la-môn và
chế độ đẳng cấp. Phật giáo lý giải căn nguyên nỗi khổ và tìm đường giải thoát
cho con người khỏi nỗi khổ triền miên, đè nặng trong xã hội nô lệ Ấn Độ.
* Quan điểm về con người và xã hội
Một trong những đặc điểm nổi bật của triết Phật là lấy đối tượng con
người và xã hội làm trung tâm cho sự nghiên cứu, có xu hướng chung là giải
quyết các vấn đề thực tiễn nhằm cải thiện đời sống nhân sinh ngày một tốt
đẹp hơn.
Các trào lưu triết học Phương Đông cũng như Phương Tây đều tập trung
xoay quanh trả lời câu hỏi: Thế giới bắt đầu từ đâu, thế giới sẽ đi đến đâu? Bản
chất của thế giới là gì? Điều này cho thấy, các nhà triết học đều mong muốn
vượt qua ảnh hưởng của thế giới quan thần thoại để giải đáp những gì diễn ra
xung quanh và tác động lên đời sống con người. Việc các nhà triết học quan tâm
đến tự nhiên theo Aristote khơng phải vì bản thân tự nhiên mà vì chính con
người, vì sự khẳng định vị trí con người trong thế giới.
Triết học Phương Đơng và Phương Tây bàn đến vấn đề con người ở
những khía cạnh khác nhau, mức độ đậm nhạt khác nhau và qua những thời kỳ
lịch sử khác nhau đều có cách đánh giá khác nhau về con người. Các học thuyết
triết học ở Phương Đơng hay Phương Tây đều có khuynh hướng chung là xâm
nhập lẫn nhau, vừa có sự kế thừa giữa các học thuyết, hoặc trong sự phát triển
của học thuyết đó, vừa có sự đào thải, lọc bỏ những quan niệm lạc hậu, hoặc
những quan niệm không phù hợp với những quan điểm của giai cấp thống trị
Nhìn chung, triết học Phật giáo nói riêng và triết học phương Đơng nói
chung chịu ảnh hưởng bởi “Phương thức sản xuất châu á”. Những vấn đề đạo

đức, luận lý và tơn giáo được coi là dịng chảy chủ đạo. Triết học phương Đơng
nhìn chung gắn với con người, lấy con người làm gốc. Đứng trước một xã hội
loạn lạc, nhiễu nhương, đầy rẫy khổ đau, vấn đề cấp bách lúc này đặt ra cho các
nhà tư tưởng lớn của phương Đơng là phải tìm cách ổn định trật tự xã hội, giữ
gìn nề nếp, kỷ cương, đạo lý và giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ trầm luân.
2


2. Điểm khác nhau giữa triết học chính trị xã hội phật giáo với các
quang điểm triết học chính trị xã hội phương Đơng và phương Tây
Có thể khái qt một số mặt khác biệt trong quan niệm chính về chính trị xã hội của
triết học phật giáo so với triết học phương Đơng, phương Tây đó là:

Nội dung so Quan

điểm

triết

sánh
CTXH Phật giáo
Nguồn gốc của Nguồn
gốc
Nhà nước

học Quan điểm triết học CTXH

phương Đơng, Phương Tây
của lồi Nhà nước được hình thành từ lực


người và nguồn gốc hình lượng siêu tự nhiên như thần
thành Quốc

gia đều xuất linh , thượng đế, mệnh trời(nho

phát từ lòng dục: “Do lòng giáo) ý niệm, ý niệm tuyệt đối…
dục sinh khởi quá mạnh mà ( Hê ghen: Nhà nước là “hiện
có quốc gia. Quốc gia hay thực của ý niệm đạo đức”, là “
chính phủ là quyền thống hình ảnh và hiện thực của lí trí”,
trị được quy định bởi kết quốc gia được cấu thành bởi các
quả của dân ước, trong đó bản tính của những con người
mỗi người dân đều muốn đang ở trong nó (Platon)...nhà
được bảo vệ quyền lợi và tài nước đại diện cho quyền lực của
sản tư hữu của mình” (Kinh giai cấp thống trị
Thế

kỷ,

Phẩm Thế bản

duyên, (Trường A Hàm,
Về pháp trị

quyển 22).
Chủ trương

khơng

làm


Nhấn mạnh trên sự tự tu

chính trị, nhưng quan niệm: dưỡng đức hạnh cá nhân, cai trị
Một người lãnh đạo tốt đất nước bằng đạo đức: Người
phải biết cư xử công bằng quân tử phải tu thân, tề gia, trị
khơng thiên vị bất cứ người quốc, bình thiên hạ. Chính phủ
nào.

Người lãnh

đạo tốt tốt nhất là chính phủ cai trị

khơng bao giờ đem lịng thù bằng "Lễ nghĩa" và đạo đức tự
hận trong dân chúng nghèo nhiên của con người, chứ không
khổ, không bao giờ ngần phải bằng vũ lực và mua chuộc
ngại áp

dụng luật

pháp
3

(Khổng Tử - Phương Đông), trị


khi cần thiết.

nước phải theo giáo hóa của Lễ,

Người lãnhđạo tốt


phải Nghĩa. Đó là cơ sở, nền tảng của

thơng hiểu một cách rõ chính trị của một đất nước, cịn
ràng luật pháp mỗi khi áp là vấn đề then chốt để trị loạn,
dụng. Luật

pháp phải áp bình thiên hạ, mang tính hưng

dụng hợp tình và hợp lý.

vong của một đất nước (Tuân tử
- Phương Đông)
Triết học Phương Tây cho rằng,
con người qua khế ước xã hội đã
từ bỏ những quyền tự do của
mình để được hưởng trật tự của
xã hội văn minh và sự an tồn,
ủng hộ chính quyền chun chế,
coi nhà nước phong kiến là nhà
nước vĩ đại.... Thể chế chính trị
điều hành và quản lý xã hội về
ba phương diện: lập pháp, hành
chính và phân xử.

Quan điểm về Phật giáo đề cao bình Giaicấp thống trị khơng được
dân chủ, bình đẳng, một thể chế chính trị canthiệp đến đời sống của nhân
đẳng

nào


cũng



một giới dân lao động , thu thuế không

hạn trong sự bảo vệ quyền quá nhiều, không ăn chơi xa đọa,
lợi,

hạnh

phúc,

bình Vua quan phải học Đạo mà trị

đẳng và sung túc của người nước, nếu dùng trí, dùng thuật
dân trong thể chế đó

mà trị nước là làm hại nước, hại

Khuyến khích tinh thần dân (Lão Tử- Phương Đơng)
tham vấn về tiến trình dân Chính con người sẽ cần đến xã
chủ.Điều này được thể hiện hội, vì xã hội là một thực tại giá
rõ qua cộng đồng tăng ni, trị đạo đức, pháp luật, nảy sinh
tăng sĩ và thể hiện trong vấn từ những yêu cầu thiết yếu của
đề hội họp, trong đó mỗi con người. Quyền cơng dân chỉ
4



thành

viên

quyền quyết

đều

có dành cho tầng lớp trên, thượng

định về

các lưu. Ngược lại. tầng lớp thấp hèn

vấn đề chung.

thì buộc phải lao động mà khơng
có một cơ hội để đạt đến hạnh

Các

vấn

phúc(Aristốtle – Phương Tây)
đề Tinh thần Bồ tát nhập thế để Chưa quan tâm nhiều đến các

phúc lợi xã hội mang lại lợi ích cho con vấn đề thực hành để bảo đảm
người:

(Sau


khi đức phúc lợi xã hội, mà chỉ nêu ra

Phật thành đạo, ngoại trừ ba các quan điểm, lấy của người
tháng an

cư mùa

mưa, giàu chia cho người nghèo, gắn

khơng ra ngồi, hầu như liền với các quan điểm chính trị
mọi ngày ngài hướng dẫn xã hội của nhà nước đương thời.
các đệ

tử du

hoá, thuyết

pháp, quan tâm đến khổ đau
của nhân loại, dạy cho con
người con đường thoát khỏi
khổ, khuyên họ phát tâm để
làm lợi ích mọi người)
Như vậy, qua sự so sánh, chúng ta thấy được, so với các quan điểm triết
học chính trị xã hội phương Đơng và phương Tây, Phật Giáo hướng vào xây
dựng thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận mà ông tập trung tìm con đường
giải thốt, cứu khổ cho chúng sinh. Từ mục đích ấy, Buddha đưa ra những
biện pháp, những con đường cứu khổ, đó là “bát chính đạo”, nghĩa là tám con
đường chính, đúng đắn để giải thốt nỗi khổ cho chúng sinh khỏi bể khổ trầm
luân. Cũng có môn đồ hỏi đức Phật về một số vấn đề siêu hình, trừu tượng,

tuy nhiên Buddha khơng trả lời. Bởi vì, triết lý nhân sinh của ơng là: nếu một
người đi đường bị một mũi tên tẩm độc bắn trúng, vấn đề cấp bách ở đây là
rút mũi tên có thuốc độc ra, rồi nhanh chóng chữa chạy đã, chứ không phải cứ
đứng đấy mà hỏi, mà luận bàn xem bản thể của mũi tên là gì? nó được làm
bằng gì? làm như thế nào?... Phật giáo Đạo phật vốn khơng có chủ trương làm
5


chính trị, mà chủ trương giải quyết vấn đề khổ đau, hướng đến giải thoát sanh
tử luân hồi của kiếp nhân sinh.
Tóm lại, Quan điểm triết học chính trị xã hội Phật giáo có nhiều nét tương
đồng với các quan điểm triết học chính trị xã hội khác, đều vì sự tiến bộ của loài
người và hạnh phúc cho quảng đại quần chúng. Tuy nhiên, quan điểm chính trị
xã hội Phật giáo có những nét riêng, đi sâu vào thế giới nội tâm con người,
hướng thiện, từ bi hỷ xả, khun con người tu tâm tích đức để bình thiên hạ.
Qua những vấn đề cơ bản trong triết học chính trị xã hội Phật giáo trong
mối tương quan với triết học chính trị - xã hội phương Đơng, phương Tây, chúng
ta thấy rằng tất cả giáo lý Phật là nền tảng cho việc xây dựng con người vị tha và
coi cuộc sống vị tha là lý tưởng cao quý nhất, tiến tới con người từ, bi, hỷ, xả, con
người Phật. Giáo thuyết của Đức Phật không dựa trên một “Triết lý Chính trị”
nào cả. Giáo thuyết nầy khơng khuyến khích con người đi vào con đường hành
lạc vật chất mà vạch ra con đường đưa đến giải thoát tối hậu, là Niết Bàn. Nói
một cách khác, mục tiêu tối hậu ấy là đoạn diệt lòng tham ái vốn đã cột chặt con
người trong vòng trầm luân, khổ ải. Quan tâm đến chinh trị xã hội khơng có
nghĩa là làm chính trị mà đó là sự nói năng như chánh pháp, yên lặng như chánh
pháp, làm việc trong chánh pháp Phật giáo nhập thế khơng có nghĩa là thế
tục hóa mà bằng các phương pháp tu tập, trì giới, bố thí, dấn thân vào đời
giúp nhân loại đề cao những phẩm chất tốt đẹp mà không bị cuốn trôi vào các ái
nhiễm, tham, sân của theo dịng thế tục.
Ngồi những đặc điểm đã trình bày ở trên, đương nhiên sẽ cịn nhiều điểm

tương đồng và khác biệt nữa giữa triết học chính trị xã hội phật giáo các quan
điểm triết học chính trị xã hội của hai nền triết học Đơng - Tây mà do nhận thức
của tác giả còn hạn chế, cũng như trong khuôn khổ bài tiểu luận chưa thể nêu
hết ra được. Ở đây, tác giả bước đầu mới so sánh góp phần rất nhỏ để làm rõ
tính đặc thù cũng như những giá trị của của triết học chính trị xã hội Phật giáo.
Chủ đề: Điểm khác biệt cơ bản của triết học phương đông - phương tây
và ý nghĩa nghiên cứu nó hiện nay

6


Bàn về vị trí, vai trị của triết học phương đơng và triết học phương tây
hiện nay đang có nhiều quan điểm khác nhau, cả các trường phái duy vật và các
trường phái duy tâm. Sự khác biệt đó do chính điều kiện lịch sử cụ thể của các
dân tộc quy định. Song sự khác biệt đó như thế nào, thì mỗi trường phái triết học
khi ra đời đều có những đóng góp nhất định, vào dịng chảy chung của nhân loại
và sự phát triển của triết học. Tuy nhiên, có những quan niệm sai lầm coi thường
triết học phương Đông, đề cao triết học phương Tây. Họ cho rằng, tư tưởng triết
học của các dân tộc phương Đông đều mang tính thần bí - tơn giáo, xa lạ với
khoa học và văn minh phương Tây. Thực tiễn phát triển của lịch sử nhân loại đã
chứng minh tính sai lầm đó. Với một thái độ khoa học và khách quan, chúng ta
phải coi trọng thành quả tư duy của nhân loại, khơng chỉ có ở phương Tây mà
cịn cả ở phương Đơng đều có những đóng góp vào kho tàng tri thức chung của
nhân loại, vào sự phát triển, tiến bộ của xã hội và phát triển của lịch sử triết học.
Thơng qua đó để thấy được những ưu điểm, khuyết điểm của các nền triết
học ấy, nhằm nhận thức đúng đắn, khoa học và thực sự khách quan, để học hỏi
và phát huy những ưu điểm, đồng thời khắc phục những hạn chế, thiếu sót của
từng nền triết học trong quá trình phát triển đi lên của cách mạng Việt Nam hiện
nay.
Phần 1: Một số điểm khác biệt giữa hai nền triết học phương Đông và

phương Tây
Trước khi vào làm rõ một số điểm khác biệt giữa hai nền triết học phương
Đông - phương Tây, chúng ta cần làm rõ một vài điểm sau:
Về khái niệm phương Đông, phương Tây cũng chỉ mới xuất hiện khoảng
vài thế kỷ gần đây. Phương đông dùng để chỉ các nước nằm ở phía đơng, chỉ các
nước Châu á và chỉ các nền văn minh sơng Nin, sơng Hằng và sơng Hồng Hà…
Nói đến triết học phương Đơng, chủ yếu chúng ta nói tới Ai Cập (hiện nay chủ
yếu là chỉ các nước ả Rập), Trung Quốc và ấn Độ. Còn phương Tây khơng là chỉ
các nước cịn lại. Nói đến phương Tây và triết học phương Tây chủ yếu là chúng
ta nói đến triết học của các nước Tây Âu, mà tiêu biểu như: Anh, Pháp, Đức, ý,
áo, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…thậm chí hiện nay, người ta cịn gộp cả Mỹ vào
7


phương Tây. (do đó cần phải có thời gian và cơng sức của nhiều người, thì mới
có thể đề cập hết được những vấn đề khác biệt của hai nền triết học).
Triết học Mác - Lênin đã chỉ rõ, triết học cũng như ý thức triết học thuộc
kiến trúc thượng tầng, bị quy định bởi cơ sở hạ tầng, bởi chính tồn tại xã hội ấy.
Như vậy, tồn tại xã hội như thế nào thì ý thức xã hội sẽ tương ứng như thế đó.
Tồn tại xã hội, cơ sở xã hội của phương Đơng khác với phương Tây. Chính sự
khác nhau này, đã quy định sự khác biệt giưa hai nền triết học phương Đơng và
phương Tây.
Nói đến cơ sở xã hội của phương Đông, ở đây chúng ta cơ bản, chủ yếu
chỉ nói tới hai trung tâm tư tưởng và văn hoá lớn của thế giới thời cổ đại - đó là
ấn Độ và Trung Quốc. Về điều kiện kinh xã hội ở phương Đơng nói chung và ở
ấn Độ nói riêng, chúng ta khơng thể khơng nhắc tới sự tồn tại rất sớm và lâu dài
của kết cấu kinh tế - xã hội theo kiểu mơ hình “công xã nông thôn” và phương
thức sản xuất Châu á. ở mơ hình này, quan hệ làng xã là phổ biến, hình thức
cơng đồng người lúc này vẫn là thị tộc, đứng đầu có xã trưởng và các bộ phận
giúp việc cho xã trưởng. Nền kinh tế ở ấn Độ nói riêng cũng như ở Châu á thời

kỳ này là nền kinh tế tiểu nông kết hợp kinh tế giai đình, nó mang tính tự cung,
tự túc, khơng có sự trao đổi giữa các làng xã. Chính nét đặc thù này đã làm
chậm, kìm hãm sự phát triển của xã hội ấn Độ nói riêng cũng như ở phương
Đơng nói chung. Các làng xã đó lại chịu sự thống trị của một nhà nước quân chủ
chuyên chế, đất đai, của cải của xã hội do nhà nước trung ương tập quyền quản
lý. Đó cũng là những đặc điểm làm cho tư tưởng triết học của phương Đông
khác với phương Tây. Khi nghiên cứu sự thống trị của Anh và ấn Độ C.Mác đã
chỉ ra những điểm đặc trưng đó và cho rằng chính cái xã hội truyền thống đó đã
quy định tính thụ động, qn bình, ít thay đổi kéo dài suốt đến thập niên đầu của
thế kỷ 19 ở ấn Độ nói riêng và ơ phương Đơng nói chung. C.Mác đã dùng
những khái niệm “bất động”, “tĩnh” để chỉ xã hội phương Đơng.
Đồng thời, khi C.Mác và Ph.Ăngghen nghiªn cứu, phân tích
một xà hội ở phơng Tây, các ông cho rằng xà hội phơng Tây
còn nhiều bất cập, thậm chÝ cã khi cµng sÊu xa, nhng dï sao nã
8


cũng là những hình thức t hữu về ruộng đất, cái mà xà hội phơng Đông đang khát khao. C.Mỏc cho rằng: cơ sở của tất cả những hiện
tượng ở phương Đơng đó là khơng có chế độ tư hữu v rng t. Cũn
Ph.ngghen khẳng định: việc không có chế độ t hữu về
ruộng đất quả thật là chĩa khoá để hiểu toàn bộ phơng Đông.
ú l c s ca tồn bộ lịch sử chính tại và tơn giáo của phương đông”1.
Từ phương pháp tiếp cận như vậy, chúng ta nghiên cứu một số điểm khác
biệt căn bản giữa hai nền triết học phương Đông và phương Tây.
Thứ nhất; nếu như triết học phương Đông tập trung nghiên cứu nhân
sinh quan, rồi mới tiếp cận với thế giới quan thì ngược lại, triết học phương
Tây ngay từ đầu đã nghiên cứu về thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận
rồi đến nhân sinh quan.
Đây là điểm khác biệt căn bản nhất của hai nền triết học phương Đông phương Tây. Chính điểm khác biệt này đã quy định tồn bộ các điểm khác biệt
khác của hai nền triết học, khi nó đi sâu vào nhận thức, khám phá thế giới xung

quanh.
Khi tìm cách trả lời cho câu hỏi vậy thế giới ra đời từ đâu? cái gì vật đầu
tiên to ra th gii ny?...thì các nhà triết học Hy Lạp- La MÃ cổ đại
nh: Talét (khoảng 625 - 547 tr.CN) cho là nớc; Anaximen
(khoảng 588 - 525 tr.CN) cho là không khí; Hêraclít (khoảng
544 - 483 tr.CN) cho là lửa hoặc Pitago (khoảng nửa cuối thế kỷ
thứ VI tr.CN) cho là con sốlà yếu tố đầu tiên cấu tạo nªn thÕ
giíi. Trái ngược với các nhà triết học học Hy Lạp - La Mã cổ đại, các nhà triết
học phương Đông mà tiêu biểu là Khổng Tử và Buddha thì lại khơng đi tìm
những yếu tố đầu tiên ấy.
Thời đại mà Khổng tử sống (551 - 479 tr.CN) là thời đại mà: “Vương đạo
suy vi”, “Bá đạo trị vì”, trật tự, lễ nghi phép tắc bị đảo lộn. Thời đại mà như
Khổng Tử “Vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi, cha không phải đạo
cha, con không phải đạo con”. Trước cảnh xã hội loạn lạc ấy, Khng T cú hoi
1

C.Mác - Ăngghen, toàn tập, t28.Nxb CTQG,H. 1996,tr.339.

9


bão chính trị muốn kế thừa sự nghiệp của văn vương, Chu Công, lập lại trật tự
kỷ cương nhà Tây Chu. Để thực hiện hồi bão lớn lao đó, Khổng Tử xây dựng
nên học thuyết về Nhân - Lễ- Chính danh và chủ trương dùng đường lối đức trị
để ổn định trật tự xã hội lúc bấy giờ. Có thể nói, tồn bộ cuộc đời, tâm huyết và
nghị lực của Khổng Tử đều dồn vào nghiên cứu về chính trị xã hội. Có lẽ, cũng
vì điều đó mà nhiều người cho rằng học thuyết của Khổng Tử là học thuyết về
chính trị - xã hội, đạo đức chứ khơng phải là học thuyết triết học. Họ cho rằng,
trong học thuyết ấy khơng có chỗ cho bản thể luận và vũ trụ luận. Sau Khổng Tử
đến Mạnh Kha (371 - 289 tr.CN), người đời sau tôn xưng là Mạnh Tử. Mạnh tử

là học trò của Tử tư (tên là Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử), còn Tử Tư lại
là học trò của Tăng Tử (Tăng Sâm). Tăng Sâm là học trị của Khổng Tử. Có thể
nói, tư tưởng của Mạnh Tử là sự kế thừa trực tiếp tư tưởng của Tử tư và Tăng
Sâm. Nhưng Mạnh Tử lại có một vị trí đặc biệt trong bảo vệ Nho giáo, bảo về
học thuyết củ Khổng Tử, mặc dù ông cơ bản chỉ khuyếch đại mặt hạn chế, phát
triển mặt duy tâm của Khổng Tử giống như các bậc tiền bối của mình, khơng
chủ trương “hành” mà lại đi sâu vào “nội tỉnh”, tự suy nghĩ. Chính vì vậy, mà
khi nhắc đến Nho giáo, người ta thường nhắc tới dòng Nho gia Khổng - Mạnh.
Tuy nhiên, so với Khổng tử, Mạnh Tử cũng chưa có gì tiến bộ hơn, thậm chí có
chỗ cịn thụt lùi. Ơng cũng khơng tập trung bàn về vũ trụ quan, bản thể luận.
Cho mãi đến đời Tống sau này (khoảng 960 - 1279), điểm hạn chế này mới dần
được khắc phục. Những yếu tố về thế giới quan, vũ trụ quan được bàn tới thông
qua các phạm trù trung tâm của các nhà Nho thời Tống, như phạm trù “Lý”,
“Khí”.
Tư tưởng của Phật giáo cũng vậy, Phật là tên ghi âm Hán Việt của
Buddha, người sáng lập Phật giáo. Buddha có nghĩa là “giác ngộ”. Về năm sinh
của Buddha, cũng có nhiều tài liệu nói khác nhau, nhưng theo truyền thống Phật
giáo, ông được coi là sinh vào năm 624 và mất năm 544 trước công nguyên. Sau
này ơng được mọi người tơn kính gọi là Sakya-muni (Trung Quốc dịch là Thích
ca mầu ni), có nghĩa là “nhà hiền triết của xứ Sakya”.

10


Bản thân Buddha vốn là thái tử, con vua Tịnh Phạn, chính vì vậy ơng sống
trong nhung lụa, giầu sang, quyền quý. Sau một lần lén vua cha đi ra ngồi cổng
thành, ơng mục kích cảnh khổ đau và nỗi khốn cùng của người dân lao động, vì
vậy ơng quyết định rời bỏ cuộc sống nhung lụa, rời bỏ gia định, đi tu, để tìm
cách giải thốt cho chúng sinh khỏi sự khổ đau trong vịng ln hồi.
Vì vậy, đầu tiên, không phải Buddha hướng vào xây dựng thế giới

quan, vũ trụ quan, bản thể luận mà ông tập trung tìm con đường giải thốt,
cứu khổ cho chúng sinh. Từ mục đích ấy, Buddha đưa ra những biện pháp,
những con đường cứu khổ, đó là “bát chính đạo”, nghĩa là tám con đường
chính, đúng đắn để giải thốt nỗi khổ cho chúng sinh khỏi bể khổ trầm ln.
Cũng có mơn đồ hỏi đức Phật về một số vấn đề siêu hình, trừu tượng, tuy
nhiên Buddha khơng trả lời. Bởi vì, triết lý nhân sinh của ông là: nếu một
người đi đường bị một mũi tên tẩm độc bắn trúng, vấn đề cấp bách ở đây là
rút mũi tên có thuốc độc ra, rồi nhanh chóng chữa chạy đã, chứ khơng phải cứ
đứng đấy mà hỏi, mà luận bàn xem bản thể của mũi tên là gì? nó được làm
bằng gì? làm như thế nào?...
Từ phân tích một số điểm ở trên, từ những học thuyết, trường phái tiêu
biểu, chúng ta thấy rõ sự khác biệt cơ bản giữa hai trường phái, hai nền triết
học phương Đông - Phương tây. Nếu như phương Đông đi từ nhân sinh quan
đến thế giới quan thì ngược lại, phương Tây lại đi từ thế giới quan, bản thể
luận rồi mới đến nhân sinh quan. Có quan điểm nghiên cứu cho rằng, như vậy
triết học phương Tây chủ yếu đi từ gốc lên ngọn, còn triết học phương Đông
hầu như lại đi từ ngọn xuống gốc.
Như ở phần trước chúng ta đã bàn tới, chính tồn tại xã hội đã quy định
sự khác biệt của hai nền triết học Đông - Tây. Theo các nhà nghiên cứu, ở
phương Đơng khơng có chế độ nơ lệ đại quy mơ điển hình như ở Hy Lạp - La
Mã cổ dại. Xét trong xã hội Trung Quốc cổ đại, chế độ nơ lệ đã manh nha
hình thành từ nhà Ân. Nhưng nhà nước chiếm hữu nô lệ (thời Tây Chu 1027 770 tr.CN) khơng thật điển hình, hơn nữa lúc này ở Trung Quốc lại chưa có
sắt, chưa phát hiện ra sắt, vì vậy lực lượng sản xuất xã hội vẫn còn rất thấp
11


kém, chậm phát triển. Trong khi đó ở Hy Lạp và La mã cổ đại, lúc này sắt đã
xuất hiện. Chính nhờ có sắt, đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh
chóng, chế độ thị tộc, bộ lạc nhanh chóng bị xố bỏ, quan hệ sản xuất mới ra
đời và trên đó hình thành nhà nước. Chúng ta thấy rõ ràng là, nếu ở phương

Tây cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, thì ở phương Đơng hình
như chính sự ra đời của kiến trúc thượng tầng đã thúc đẩy sự phát triển của cơ
sở hạ tầng. Chính điều đó đã lý giải tại sao phương Tây đi từ thế giới quan
đến nhân sinh quan, còn phương Đơng thì ngược lại, đi từ nhân sinh quan đến
thế giới quan.
Thứ hai; là về đối tượng nghiên cáu của triết học
Đối tượng nghiên cứu của triết học phương Tây rất rộng, bao gồm toàn bộ
giới tự nhiên, xã hội và tư duy, nhưng cơ bản phương Tây lấy giới tự nhiên làm
gốc, làm cơ sở. Ngay từ khi bước vào nghiên cứu, triết học phương Tây đã tập
trung bàn tới những vấn đề cơ bản như bản thể luận, vũ trụ luận, tri thức luận,
nhận thức luận…Giới tự nhiên bao la xung quanh, trong đó có cả con người và
xã hội lồi người, chính là đối tượng nghiên cứu của triết học phương Tây.
Chính vì đối tượng nghiên cứu rộng, bao hàm nhiều lĩnh vực như vậy nên phạm
vi tri thức mà nó mang lại cũng rất rộng, bao quát mọi lĩnh vực. Do ngay từ đầu
ở phương Tây đã xác định lấy giới tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu của mình,
nên khuynh hướng chung, khuynh hướng trội của nó là hướng ngoại, lấy cái bên
ngồi để giải thích cho cái bên trong và nhìn chung hơi ngả về duy vật.
Chúng ta nói như vậy khơng có nghĩa là ở phương Tây khơng có khuynh
hướng nội, duy tâm. Tuy nhiên những khuynh hướng nội, duy tâm ở phương
Tây là không nhiều, không nổi trội, cả về lượng và chất, mặc dù ngay cả đến bây
giờ cuộc đấu tranh giữa duy tâm và duy vật, giữa vô thần - hữu thần, giữa biện
chứng - siêu hình vẫn cịn diễn ra hết sức gay gắt. Nhiều quốc gia, nhiều dân tộc,
mặc dù theo tư tưởng duy tâm, tôn giáo, nhưng để phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển xã hội vẫn phải ngấn ngầm sử dụng thế giới quan duy vật và phương
pháp biện chứng của Mác - Lênin. Cũng vì ngay từ đầu đã lấy giới tự nhiên làm
12


đối tượng nghiên cứu nên triết học phương Tây thường gắn với những thành tự
khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Các nhà triết học phương Tây đồng thời

cũng là các nhà khoa học, nhà bác học. Điều này đã lý giải tại sao nền khoa học
nói chung, khoa học tự nhiên nói riêng ở phương Tây lại phát triển nhanh chóng,
thu được nhiều thành tựu như vậy, trong khi đó ở phương Tây bước vào lịch sử
xã hội lồi người sau phương Đơng. Chính sự phát triển như vũ bão của khoa
học - kỹ thuật và công nghệ, đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh
chóng, của cải xã hội làm ra dồi dào, xã hội phát triển nhanh hơn ở phương
Đông.
Khác với phương Tây, đối tượng nghiên cứu của triết học phương Đông
lại là chính trị - xã hội, đạo đức, luận lý (như triết học Trung Quốc) và tôn giáo
(như triết học ấn Độ). Triết học phương Đơng nhìn chung gắn với con người, lấy
con người làm gốc. Đứng trước một xã hội loạn lạc, nhiễu nhương, đầy rẫy khổ
đau, vấn đề cấp bách lúc này đặt ra cho các nhà tư tưởng lớn của phương Đơng
là phải tìm cách ổn định trật tự xã hội, giữ gìn nề nếp, kỷ cương, đạo lý (như ở
Trung Quốc) và giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ trầm ln (như ở ấn Độ). Họ
khơng có thời gian để bàn tới vũ trụ luận, thế giới quan, bản thể luận (Phật giáo
có bàn tới bản thể luận, song đó khơng phải là vấn đề trọng tâm, cốt lõi của Phật
giáo hướng tới). Đúng như quan niệm của Phật giáo, vấn đề rút mũi tên độc và
cứu chữa đã, chứ không phải loay hoay mà luận bàn bản thể của mũi tên. Do đối
tương nghiên cứu hẹp như vậy, nên tri thức mà triết học phương Đông có được
chủ yếu là về chính trị - xã hội, đạo đức, tâm linh. Điều này cũng đã quy định
khuynh hướng trội của triết học phương Đông là hướng nội, lấy cái bên trong để
đi giải thích cái bên ngồi và nhìn chung hơi ngả về duy tâm.
Khác với Hy Lạp, La Mã cổ đại (trong bẩy trường phái thì có năm là duy
vật, chỉ có hai trường phái duy tâm là Pitago và Platôn), ở đây phương Đông lại
chủ yếu là duy tâm. ở Trung Quốc về cơ bản là các trường phái duy tâm thống
trị hệ tư tưởng xã hội. Còn ở ấn Độ cũng vậy, trong triết học ấn Độ cổ đại có
chín trường phái, cả chính thống và tà giáo, thì có đến tám trường phái là duy

13



tâm, chỉ có một trường phái duy nhất đó là trường phái Lokayata (cịn gọi là
Carvaka hay Barhaspatya).
Cũng chính vì đối tượng nghiên cứu không nhiều nên triết học phương
Đông có điều kiện tập trung bàn kỹ hơn, sâu hơn về chính trị - xã hội, đạo đức
và tâm linh. Nếu như các nhà triết học phương Tây thường là các nhà khoa học,
bác học thì ở phương Đơng, các nhà triết học được coi là người hiền, nhà hiền
triết, minh triết. Nếu như ở phương Tây, các nhà triết học thường hướng vào
nhận thức, cải tạo tự nhiên, phát triển khoa học và kinh tế thì trái lại ở phương
Đông, các nhà hiền triết chủ yếu lo giữ ổn định xã hội, giữ cương thường đạo lý,
an ủi tâm linh, tìm con đường cứu khổ, cứu nạn. Chính vì vậy, nó đã lý giải cho
chúng ta tại sao khoa học tự nhiên nói riêng, khoa học - cơng nghệ ở phương
Tây lại phát triển nhanh hơn ở phương Đông, mặc dù cái nôi của nền văn minh
nhân loại đầu tiên phải kể đến Trung Quốc và ấn Độ. Đồng thời nó cũng lý giải
tại sao xã hội phương Đơng lại ổn định hơn, các mối quan hệ xã hội bền vững,
thân thiện hơn phương Tây, tại sao đạo đức phương Tây lại tỷ lệ nghịch với sự
tăng trưởng của kinh tế.
Thứ ba; về phương pháp và phương tiện để nhận thức của hai nền triết
học phương Đông và phương Tây.
Trước hết, chúng ta bàn đến phương pháp và phương tiện nhận thức của
triết học phương Tây. Phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới của phương
Tây là chúng ta nói tới tư duy suy lý, sự phan tích mổ xẻ sự vật, hiện tượng
để nghiên cứu nó. Chính từ phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới này mà
nó đã làm cho khoa học, kỹ thuật phát triển, kéo theo sự phát triển nhanh
chóng của lực lượng sản xuất, của công nghiệp và công nghệ. Với thế giới
quan bao trùm là duy vật, với phương pháp tư duy coi trong lý trí, coi trọng
chân lý, triết học phương Tây đã có một phương pháp nhận thức và cải tạo
đúng đắn, cách mạng, khoa học. Với cách phân tích mổ xẻ, đầy đủ, rõ ràng về
sự vật, hiện tượng ấy.
Về phương tiện, công cụ nhận thức và cải tạo của triết học phương Tây

đó là nhưng khái niệm, những phạm trù, quy luật. Nhờ có những khái niệm,
14


phạm trù, quy luật có được thơng qua q trình tư duy lý tính mà nó đã cho
việc phân tích, mô tả, nhận thức và cải tạo đối tượng được rõ ràng, sâu sắc và
hiệu quả hơn. Chính vì vậy mà các nước phương Tây, nhìn chung, có nền
khoa học công nghệ phát triển hơn ở phương Đông. Tuy nhiên, phương pháp
nhận thức của triết học phương Tây cũng có những hạn chế và yếu điểm của
nó. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra con đường biện chứng của q trình
nhận thức chan lý khách quan đó là đi từ trực quan sinh động (giai đoạn nhận
thức cảm tính) đến tư duy trừu tượng (giai đoạn nhận thức lý tính) rồi đến
thực tiễn. Teo chủ nghĩa Mác - Lênin, để nhận thức được đúng đắn một sự
vật, hiện tượng thì trước hết, ta phải dùng các giác quan để cảm nhận đối
tượng, sau đó ta tiến hành tri giác rồi hình thành biểu tượng về đối tượng đó.
Khi đã có biểu tượng đầy đủ về đối tượng, chúng ta bắt đầu tư duy để hình
thành nên những khái niệm, phán đốn, suy lý… về đối tượng đó. Khi dã có
được những suy lý tương đối đầy đủ, bản chất về đối tượng, ta đem lý luận đó
áp dụng vào thực tiễn đối tượng. Nếu nó thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát
triển, tức là lý luận của chúng ta phù hợp; cịn nếu nó khơng phù hợp, nó sẽ
cản trở, kìm hãm sự phát triển của sự vật, hiện tượng, khi đó thì chúng ta lại
phải nhận thức lại đối tượng để bổ sung, hoàn thiện lý luận đã có cho phong
phú, đầy đủ, chính xác hơn.
Khi bàn đến khả năng nhận thức của con người, Lênin cũng khẳng định:
khơng có cái gì mà con người khơng thể biết, chỉ có cái con người chưa biết mà
thơi.. Và theo Lênin, nhận thức của con người đi từ bản chất cấp một, đến bản
chất cấp hai, cấp ba…, bản chất cấp n. Q trình nhận thức này là vơ tận, bởi
thực tiễn luôn vận động, biến đổi không ngừng, cứ mỗi một cấp độ lại là một
nấc thang trong quá trình nhận thức, cứ như vậy, con người ngày càng tiệm cận
tới chân lý khách quan, tới chân lý tuyệt đối.

ở phương Tây, các nhà triết học luôn muốn vươn tới cái cuối cùng, cái
chân lý tối hậu, tuyệt đích, song họ không hiểu rằng con người, cùng với cuộc
đời và nhận thức của họ thì lại có hạn. Hơn nữa thực tiễn luôn vận động, biến
đổi không ngừng, cái hơn nay là chân lý có thể ngày mai khơng còn phù hợp
15


nữa. Đem cái có hạn để vươn tới cái vơ hạn, cái tuyệt đối cuối cùng, đó chính là
mâu thuẫn của phương pháp nhận thức ở triết học phương Tây. Mâu thuẫn này
chỉ có thể hố giải được khi triết học Mác - Lênin ra đời.
Bên cạnh đó phương pháp phân tích, mổ xẻ vấn đề để nghiên cứu của triết
học phương Tây, bên cạnh những ưu điểm như đã trình bày ở trên, đồng thời nó
cũng bộc lộ những hạn chế, thiếu sót nhất định của nó. Ví như trên tay các nhà
triết học phương Tây có một quả cam, để hiểu được quả cam đó, các nhà triết học
này sẽ khơng ngần ngại mà bổ nó ra để sờ, nắn, ngửi, nếm…Rồi sau khi đã tìm
hiểu cơ bản về nó, họ tiến hành lắp ghép quả cam lại. Rõ ràng là ta thấy, quả cam
bây giờ đã “chết”. Như vậy, để hiểu được quả cam, người ta phải giết chết quả
cam; cũng như, để tìm hiểu cuộc sống, người ta đã làm thui chột cuộc sống, làm
đơn giản hố, thơ thiển hố, cơ lập hố nó. Việc đi sâu vào phân tích, chia nhỏ
giới tự nhiên ra thành những mảnh riêng biệt, cố định để nghiên cứu, một mặt đã
đưa đến những thành tựu vĩ đại về nhận thức, mặt khác nó lại để lại di chứng hậu
hoạ khơn lường, đó là thói quen xem xét sự vật một cách siêu hình, cứng nhắc.
Nhận xét về vấn đề ny, C.Mỏc - Ph.ngghen cho rằng: chỉ nhìn thấy
những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại
giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự
vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh, phát triểntiêu vong
của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những
sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ
nhìn thấy cây mà không nhìn thấy rừng2.
Cựng vi những hạn chế về phương pháp nhận thức, công cụ, phương tiện

nhận thức của triết học phương Tây cũng có điểm bất cập. Do không hiểu,
không thấy được thực tiễn và vai trò to lớn của thực tiễn đối với nhận thức, nên
các nhà triết học phương Tây thường đề cao giai đoạn nhận thức lý tính, đề cao
khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy lý…Việc tuyệt đối hoá nhận thức lý tính,
tuyệt đối hố khái niệm, phạm trù, phán oỏns d dn n hin tng giỏo

2

Mác - Ăngghen, toàn tËp,t20,Nxb. TCQG,sù thËt,H.1994,tr.37.

16


điều, áp đặt, chụp mũ, thoát ly hiện thực, bảo thủ, trì trệ, thậm chí rất nguy hiểm
nếu lý luận đó là phản động.
Trái với phương Tây, phương pháp và phương tiện công cụ nhận thức thế
giới của triết học phương Đông lại là trực giác và những công cụ để nhận thức
như so sánh, ẩn dụ, liên tưởng, hình ảnh, ngụ ngôn…Theo nghĩa tiếng Hán, trực
là thẳng, giác là hiểu biết, trực giác có nghĩa là hiểu biết thẳng vào bản chất sâu
thẳm của đối tượng, mà mức độ thấp của nó gần với giác quan thứ sáu. Như là
khi ta gặp một người, một vật nào đó lần đầu tiên, tự nhiên ta có nhưng linh
cảm, linh tính nào đó mách bảo. Mà thường những linh cảm , linh tính trực giác
đó lại tương đối chính xác. Có rất nhiều sự việc đã thành công mĩ mãn, đem lại
những kết quả bất ngờ nhờ sự mách bảo của trực giác.
Như vậy, chúng ta thấy rằng trực giác đóng một vai trị hết sức quan trọng
trong q trình nhận thức thế giới của các nhà triết học phương Đông. Nó là
phương pháp nhận thức phù hợp giúp các nhà triết học phương Đơng có thể
nhận thức được đối với những đối tượng vận động, điều mà cái phương pháp tư
duy duy lý, phân tích, mổ xẻ của các nhà triết học phương Tây khơng bao giờ có
thể đạt tới. Tuy nhiên, với lối tư duy trực quan này, dù có những điểm mạnh nhất

định, song nó cũng khơng thể tránh khỏi những hạn chế, sai lầm. Việc đề cao
phương pháp tư duy trực giác, cụ thể, đối tượng nhận thức chủ yếu là chính trị xã hội và tâm linh con người, trong khi lại chưa thấy được vai trò to lớn của hoạt
động thực tiễn của con người trong nhận thức, cải tạo thế giới, cho nên, những
tri thức mà triết học phương Đông đem lại chủ yếu hướng vào lĩnh vực giữ ổn
định trật tự xã hội - chính trị, vấn đề đạo đức, luân lý và tâm linh con người.
Với những công cụ, phương tiện để nhận thức như so sánh, ẩn dụ, liên
tưởng, hình ảnh, ngụ ngơn…những tri thức mà nó đem lại mới chỉ dừng lại ở
mức độ tri thức kinh nghiệm nên khó có thể tạo ra những cuộc cách mạng trong
lĩnh vực triết học. Điều này đã góp phần lý giải tại sao khoa học kỹ thuật và
công nghệ ở phương Đông kém phát triển hơn phương Tây. Hơn nữa, chúng ta
thấy rằng khơng phải bất cứ ai cũng có trực giác và không phải bất cứ trực giác
nào cũng đều đúng. Để có trực giác đúng nó rất cần có vai trị tích cực, chủ
17


động, nhạy bén, sáng tạo và sự đòi hỏi rèn luyện tư duy khoa học thường xuyên,
kiên trì và liên tục của chính chủ thể nhận thức.
Thứ tư; tính đấu tranh, phê phán trong sự phát triển của triết học
Triết học phương Đơng trong suốt q trình ra đời, hình thành, phát triển
của mình hầu như khơng diễn ra một cuộc cách mạng tư tưởng nào. các học
thuyết ra đời sau đều lấy học thuyết của thầy làm cơ sở xuất phát, nhằm luận
giải cho các vấn đề thực tiễn nảy sinh. Nó hầu như chỉ là sự mở rộng, làm giầu
có, phong phú và phát triển thêm các tư tưởng trước đó, ít có sự đấu tranh, phê
phán, bút chiến.
Như ở trung Quốc, với tư tưởng chủ đạo: “tôn sự trọng đạo”, “nhất tự vi
sư, bán tự vi sư” (một chữ là thầy, nữa chữ cũng là thầy), cho nên việc phê phán
thầy, việc phản thầy được xem như là một tội trọng, không phải là đức của người
quân tử. Chính vì vậy mà ở xã hội Trung Quốc, cách mạng xã hội có nổ ra thì hệ
tư tưởng cơ bản của xã hội vẫn khơng có gì thay đổi. Ví như đạo nho của Khổng
Tử (được coi là Nho nguyên thuỷ, Nho tiền tần), rồi đến Hán Nho, Tuỳ Nho,

Tống Nho, Minh Nho…
Còn ở ấn Độ, người ta cũng không thể tách triết học ấn Độ cổ đại thành
triết học thời kỳ chiếm hữu nô lệ và triết học thời kỳ phong kiến được. Nền triết
học ấn Độ cổ đại là một nền triết học phát triển liên tục nhưng từ từ, chậm chạp
trong một bối cảnh xã hội như C. Mác nhận xét là tính chất “phương thức sản
xuất châu á” điểm hình.
Trong khi đó ở phương tây, tình hình này lại hồn tồn khác hẳn. Nếu ở
phương Đông, tư tưởng truyền thống là “tôn sư trọng đạo”, thì ở phương Tây họ
lại quan niệm “thầy là đáng kính trọng, nhưng tri thức chân lý cịn quan trọng
hơn”. Chính tư tưởng này đã làm cho tính đấu tranh, phê phán, bút chiến ở
phương Tây diễn ra hết sức gay gắt và quyết liệt. Và chính nhờ sự đấu tranh
không khoan nhượng này mà triết học phương Tây đã gặt hái được rất nhiều
thành tựu rực rỡ. ở phương Tây, cứ sau mỗi cuộc cách mạng xa hội, một hình
thái kinh tế - xã hội mới ra đời và tương ứng với nó là một loại hình triết học.
Khác với phương Đơng, ở phương Tây người ta có thể dễ ràng phân chia niên
18


đại, thời kỳ của triết học. ở phương Tây có triết học chiếm hữu nô lệ, triết học
phong kiến, triết học tiền tư bản…
Ngoài những đặc điểm khác biệt đã trình bày ở trên, đương nhiên sẽ cịn
nhiều điểm khác biệt nữa giữa hai nền triết học Đông - Tây mà do nhận thức của
tác giả còn hạn chế, cũng như trong khuôn khổ bài viết này chưa thể nêu hết ra
được. Như phần đầu bài viết đã trình bày, ở đây, tác giả bước đầu mới chỉ ra một
số điểm khác biệt giữa hai nền triết học ấy, góp phần rất nhỏ để làm rõ tính đặc
thù cũng như những đóng góp, hạn chế của hai nền triết học phương Đông và
phương Tây (chủ yếu là cổ - trung đại) trong lịch sử.
Phần 2: Một số vấn đề rút ra khi nghiên cứu điểm khác biệt giữa hai
nền triết học Đông - Tây
Lịch sử tư tưởng nhân loại phát triển liên tục, khơng ngừng như một dịng

chảy. Mỗi tư tưởng, trường phái, học thuyết ra đời đều ít nhiều có những đóng
góp chung vào sự phát triển của dịng suối lịch sử tư tưởng nhân loại đó. Nghiên
cứu sự khác biệt giữa hai nền triết học phương Đông - phương Tây, tác giả rút ra
một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất: phải có phương pháp tiếp cận đúng đắn, khách quan, khoa
học khi nghiên cứu, đánh giá sự khác biệt của hai nền triết học phương Đông
- phương Tây.
Đây là một vấn đề có tính ngun tắc địi hỏi chúng ta phải tuân thủ triệt
để khi nghiên cứu lịch sử triết học nói chung, nghiên cứu từng vấn đề cụ thể của
lịch sử triết học nói riêng. Mỗi một quốc gia dân tộc, mỗi một nền văn hố đều
có những sắc thái riêng, nét đặc thù riêng do điều kiện lịch sử cụ thể của nó quy
định. Khoa học lịch sử triết học chân chính địi hỏi phải khẳng định vai trò và ý
nghĩa to lớn của những điều kiện, đặc điểm dân tộc trong sự phát triển của tư
tưởng triết học ở các nước riêng lẻ, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại xu
hướng tuyệt đối hoá các đặc điểm dân tộc, điều kiện dân tộc, mọi biểu hiện của
chủ nghĩa dân tộc tư sản. Thái độ đề cao nhà triết học, nền triết học của dân tộc
này, hạ thấp nhà triết học, nền triết học của dân tộc khác, đề cao triết học

19


phương Tây, hạ thấp triết học phương Đông đều là những biểu hiện sai lầm, võ
đoán của chủ nghĩa dân tộc tư sản hiện nay.
Đặc điểm và phong cách của triết học phương Đông khác với triết học
phương Tây, sự đóng góp của hai nền triết học ấy đối với lịch sử tư tưởng nhân
loại, lịch sử triết học là khác nhau, điều đó chúng ta khơng phủ nhận. Song có
một điều mà triết học phương tây khơng thể chối cãi, đó là sự phát triển của triết
học phương Đơng cổ đại, đặc biệt là ấn Độ và Trung Quốc, thực sự là chiếc nôi
cho sự phát triển của triết học, khơng chỉ ở phương Đơng mà cịn cả ở phương
Tây.

Hiện nay, những tư tưởng triết học phương Đông vẫn luôn là nguồn lực
mạnh mẽ để tạo nên những biến đổi nhanh chóng của một phương Đơng đã thức
tỉnh và đầy sức sống. Hơn nữa, những giá trị về chính trị - xã hội, đạo đức, luân
lý, tâm linh con người của xã hội truyền thống phương Đông cũng đang là
những giá trị mà phương Tây mong muốn hướng tới.
Thứ hai: cần khắc phục những hạn chế, thiếu sót, phát huy ưu điểm và
thế mạnh của hai nền triết học phương Đơng - Phương Tây trong q trình
đi lên của cách mạng Việt Nam hiện nay.
Như đã phân tích ở trên, mỗi nền triết học, trong từng nội dung cụ thể,
đều có những điểm mạnh, điểm yếu khác nhau. Trong quá trình đi lên của
cách mạng Việt Nam hiện nay, chúng ta cần học hỏi những điểm phù hợp,
khắc phục những mặt hạn chế, sai lầm, thiếu sót của hai nền triết học triết học
ấy. Muốn vậy, chúng ta cần phải làm tốt một số điểm sau:
Một là, kiên định với lập trường duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Như chúng ta đã thấy rất rõ là ở nước ta cũng
như ở phương Đơng nói chung, nền kinh tế khoa học, kỹ thuật và công nghệ
chậm phát triển, ngày càng thụt hậu xa hơn so với các nước phương Tây,
trong đó có rất nhiều nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân cốt tử, đó là, ở
phương Đơng cổ đại, thế giới quan bao trùm là duy tâm, tơn giáo. Chính vì
vậy, mà khi đi vào nhận thức thế giới, ở phương Đông thường hướng vào
những vấn đề xã hội, nhân sinh chứ ít bàn tới bản thể luận, vũ trụ luận, không
20


hướng vào giới tự nhiên để nhận thức và cải tạo như ở phương Tây. Ngay cả ở
phương Tây, cứ khi nào mà thế giới quan duy tâm, tôn giáo thống trị, thì khi
đó xã hội chậm phát triển. Trong lịch sử phát triển của mình, “Đêm trường
trung cổ” vẫn luôn là bài học quý báu của triết học phương Tây. Chỉ có đứng
vững trên lập trường duy vật biện chứng, cách mạng, cách mạng Việt Nam
mới có thể vững bước đi lên trong qúa trình hội nhập và phát triển hiện nay.

Hai là, phải tiếp thu, kết hợp hài hoà hai phương pháp trội khi nhận
thức à cải tạo thế giới của hai nền triết học phương Đông - phương Tây. Đó là
phương pháp tư duy suy lý, phân tích, mổ xẻ và phương pháp tư duy trực
giác. Như đã trình bày ở phần trước, cả hai phương pháp tư duy này đều có
những mạnh - yếu của nó. Tuy là hai phương pháp tư duy khác nhau, song
chúng lại có mối liên hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ và bổ sung, hồn thiện lẫn
nhau. Nếu khơng phân tích, mổ xẻ vấn đề thì chúng ta khơng thể hiểu kỹ càng
sự vật, hiện tượng được. Tuy nhiên, đối với nhiều lĩnh vực, phương pháp phân
tích này lại tỏ ra yếu ớt, hạn chế, lúng túng trong khi đó phương pháp trực
giác lại tỏ ra khá hữu hiệu. Vì vậy, tuỳ từng lĩnh vực, từng đối tượng mà
chúng ta sử dụng phương pháp nào cho phù hợp. Tuy nhiên chúng ta cần phải
kết hợp chặt chẽ hai phương pháp này, cũng như các phương pháp khác nữa,
có như vậy nhận thức mới chính xác, tránh được những sai lầm đáng tiếc có
thể sảy ra.
Ba là, tạo động lực mạnh mẽ để phát triển nhanh chóng về khoa học và
cơng nghệ, đưa nước ta đi lên hoà nhập với khu vực và quốc tế.
Lênin đã từng nhắc nhở chúng ta, chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thắng lợi
được chủ nghĩa tư bản, khi nó tạo ra của cải xã hội nhiều hơn gấp trăm lần,
gấp nghìn lần của cải của xã hội tư bản. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ
một nước nông nghiệp lạc hậu kinh tế chậm phát triển, lại phải trải qua liên
miên chiến tranh, hậu quả để lại còn rất nặng nề, mức sống của người dân lao
động càn thấp.
Để việt Nam có thể sánh vai cùng các cường quốc năm châu, như Chủ
tịch Hồ Chí Minh hằng mong mỏi, địi hỏi chúng ta phải nhanh chóng phát
21


triển khoa học, kỹ thuật và công nghệ, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao
năng xuất lao động xã hội, không ngừng cải thiện đời sống vật chất, tinh thần
cho nhân dân. Là một nước có nền khoa học chậm phát triển, một mặt chúng

ta phải đẩy nhanh tốc độ nghiên cứu khoa học, phát huy nguồn lực trong
nghiên cứu, sáng tạo, sáng kiến, cải tiến khoa học kỹ thuật; mặt khác phải đi
tắt, đón đầu tiếp thu những thành tựu khoa học - công nghệ để phục vụ cho sự
nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta hiện nay, thực hiện
mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Thứ ba: phải tiếp tục tích cực nghiên cứu, chỉ rõ nhưng ưu, nhược
điểm của hai nền triết học phương Đông - phương Tây.
ăngghen đã từng nhận xét; một dan tộc sẽ không thể thông minh được
nếu không nghiên cứu lịch sử triết học. Chúng ta tiếp tục nghiên cứu sự khác
biệt giữa hai nền triết học Đông - Tây để tiếp cận tri thức lịch sử của nhân
loại trên lĩnh vực triết học; thơng qua đó để kế thừa và tiếp thu nhưng tinh
hoa trong lịch sử nhằm giải quyết có hiệu quả những vấn đề thực tiễn hiện
nay; phát triển những tư tưởng ấy trong thời đại mới để con người vươn lên
làm chủ tư nhiên, làm chủ vận mệnh của mình.
Đồng thời, qua việc nghiên cứu đó giúp chúng ta có thể đánh giá một
cách đúng đắn, khách quan, khoa học các trường phái lý luận hiện nay, đặc
biệt là các quan điểm, tư tưởng trái ngược, tích cực đấu tranh phê phán các
quan điểm sai lầm đè cao hoặc xem nhẹ một trường phái, một nền triết học
nào đó.
Cả hai nền triết học đều có khuynh hướng trội của mình. Việc nghiên
cứu sự khác biệt của hai nền triết học phương Đông - phương Tây giúp chúng
ta thấy được nhưng khuynh hướng trội ấy, trên cơ sở đó để kế thừa, tiếp thu
những khuynh hướng phù hợp, lọc bỏ, phê phán những khuynh hướng không
phù hợp, giúp cho cách mạng Việt Nam phát triển nhanh chóng, bền vững.
Tóm lại, việc nghiên cứu sự khác biệt giữa hai nền triết học phương
Đông - phương Tây là một vấn đề lớn và phức tạp, địi hỏi cơng sức và trí tuệ
của nhiều người. Trong bài viết này, tác giả bước đầu mới chỉ đưa ra một vài
22



điểm khác biệt đó, mong muốn góp phần nhỏ bé để làm rõ hơn nét độc đáo,
đặc thù của các nền triết học lớn trong lịch sử.

23



×