Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

VẤN ĐỀ PHÒNG VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LIÊNQUAN TỚI TRIMs TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.41 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

CHU QUANG DUY

GI¶I QUỸT TRANH CHấP
TRONG KHUÔN KHổ HIệP ĐịNH CáC BIệN PHáP
ĐầU TƯ
LIÊN QUAN ĐếN THƯƠNG MạI (TRIMs)
Chuyờn ngnh: LUT QUC T
Mó s: 60 38 01 08

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


HÀ NỘI - 2016


Cơng trình được hồn thành tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TIẾN VINH

Phản biện 1: .........................................................................
Phản biện 2: .........................................................................

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ….. tháng ….. năm 2016

Có thể tìm hiểu luận văn tại


Trung tâm tư liệu Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội


MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRANH CHẤP VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP LIÊN QUAN TỚI TRIMs TRONG KHUÔN KHỔ WTO
...........................................................................................................................6
1.1.
Hiệp định TRIMs.............................................................................................6
1.1.1. Lịch sử ra đời...................................................................................................6
1.1.2. Nội dung của Hiệp định TRIMs.....................................................................8
1.2.
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO......................................................15
1.2.1. Phạm vi và đối tượng của các tranh chấp...................................................17
1.2.2. Các cơ quan trong quá trình giải quyết tranh chấp...................................19
1.2.3. Quy trình thủ tục giải quyết tranh chấp.....................................................22
1.2.4. Giải quyết tranh chấp không thông qua các thủ tục tố tụng.....................38
1.3.
Những vấn đề đặc thù trong giải quyết tranh chấp liên
quan tới TRIMs..........................................................................................40
1.3.1. Đặc thù về nội dung giải quyết tranh chấp.................................................40
1.3.2. Đặc thù về thủ tục..........................................................................................41

CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI WTO VÀ
KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC............................................................43
2.1.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan tới TRIMs...............................43
2.1.1. Tổng quan các vụ tranh chấp.......................................................................43
2.1.2. Những vấn đề pháp lý được đưa ra giải quyết............................................46
2.2.
Kinh nghiệm của các quốc gia trong giải quyết tranh chấp......................58
2.2.1. Kinh nghiệm liên quan tới quá trình giải quyết tranh chấp.....................58
2.2.2. Kinh nghiệm liên quan tới TRIMs...............................................................60
Chương 3: VẤN ĐỀ PHÒNG VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LIÊN
QUAN TỚI TRIMs TẠI VIỆT NAM..........................................................63
3.1.
Thực tiễn tại Việt Nam..................................................................................63
3.1.1. Thể chế pháp lý liên quan tới giải quyết tranh chấp quốc tế nói
chung và trong khn khổ WTO nói riêng.................................................63
3.1.2. Sự tham gia của Việt Nam vào cơ chế giải quyết tranh chấp....................67
3.1.3. Pháp luật Việt Nam liên quan tới TRIMs...................................................75
3.2.
Phương hướng, giải pháp phòng và giải quyết tranh chấp.......................84
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật.....................................................................84
3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện thể chế...................................................................87
KẾT LUẬN................................................................................................................92
1


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................94

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Ngày nay, tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu thế khách quan của thực
tại. Để phát triển đất nước, cũng như tăng cường vị thế của mình trên trường
quốc tế, các quốc gia trên thế giới không ngừng hợp tác, giao lưu trên mọi lĩnh
vực của đời sống như Kinh tế, Chính trị, Văn hóa – Xã hội, An ninh... Trong đó,
quan hệ Kinh tế quốc tế được hầu hết các quốc gia trên thế giới quan tâm hơn
cả. Hiện nay, trong các thiết chế Kinh tế quốc tế chúng ta cần phải nói đến Tổ
chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization - WTO), được chính
thức thành lập và đi vào hoạt động ngày 01/01/1995 là sản phẩm của vòng đàm
phán Uruguay (1986 - 1994). Tính đến 14/7/2016 WTO có tới 163 thành viên là
các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới (thành viên mới nhất là Liberia).
Việt Nam với tư cách là một quốc gia đang phát triển cũng khơng nằm
ngồi quy luật khách quan đó. Bằng chính sách mở cửa thị trường, hội nhập
kinh tế quốc tế, Việt Nam đã nộp đơn gia nhập WTO vào tháng 01 năm 1995 và
trở thành thành viên chính thức (ngày 11/01/2007) sau 12 năm đàm phán gia
nhập. Sau khi là thành viên của WTO, nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến
rõ rệt, từ một nền kinh tế Kế hoạch hóa tập chung chúng ta đã và đang xây dựng
một nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên việc hội
nhập kinh tế quốc tế nói chung và gia nhập WTO nói riêng cũng đặt ra cho
chúng ta nhiều thách thức mới trong việc phát triển đất nước. Việt Nam đang
trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế. Một mặt, cần phải khuyến khích, tạo
động lực phát triển và bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trước nhà đầu tư
nước ngoài với nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hơn chúng ta. Mặt
khác, cần phải tạo điều kiện thuận lợi, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài,
cùng với việc hướng nguồn vốn đó để phát triển kinh tế đất nước theo mục tiêu
đã đề ra. Xét về mặt trong nước, việc tạo các điều kiện thuận lợi, ưu đãi dành
riêng cho các nhà đầu tư trong nước cùng với việc áp đặt một số biện pháp hạn
chế đối với nhà đầu tư nước ngoài là việc cần thiết để bảo vệ ngành sản xuất
cịn non trẻ. Tuy vậy, chính điều này đã tạo ra sự không công bằng giữa nhà đầu
tư trong nước với nhà đầu tư nước ngồi, vì vậy có thể sẽ vi phạm các cam kết
quốc tế về Đối xử quốc gia (National Treatment), cũng như các biện pháp hạn

chế định lượng (như yêu cầu về tỉ lệ nội địa hóa; hạn ngạch về số lượng xuất
khẩu và nhập khẩu đối với các nhà đầu tư nước ngồi...). Chính vì vậy, việc xảy
ra tranh chấp liên quan đến các biện pháp đầu tư là không thể tránh khỏi. Trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài, sẽ đi vào tìm hiểu các tranh chấp trong khuôn
khổ Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (Agreement on
Trade Related Investment Measures - TRIMs) của WTO.
Trong bối cảnh Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế,
2


tuy chưa tham gia nhiều vào cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến các biện
pháp đầu tư trong khn khổ Hiệp định TRIMs, khơng có nghĩa là chúng ta sẽ
đứng ngồi các tranh chấp đó. Để phịng ngừa và nâng cao hiệu quả trong quá
trình giải quyết tranh chấp, chúng ta cần phải tìm hiểu một số vấn đề có liên
quan: Thứ nhất, Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại là
gì?; Thứ hai, đối tượng các tranh chấp liên quan đến Hiệp định?; Thứ ba, cơ chế
để giải quyết các tranh chấp đó như thế nào?; Thứ tư, thực tiễn giải quyết các
tranh chấp liên quan đến hiệp định?; Thứ năm, thực trạng pháp luật Việt Nam
đối với các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại?; thơng qua đó có thể rút
ra được bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Để trả lời những câu hỏi đặt ra trên,
tôi xin chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp định các
biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs)” làm luận văn thạc sỹ
chuyên ngành luật Quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước và sau khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới - WTO, đến nay đã có rất nhiều học giả, chuyên gia về luật quốc tế nghiên
cứu về WTO cũng như tác động của việc gia nhập tổ chức này đối với Việt Nam
trong các giáo trình, sách chuyên khảo, các đề tài nghiên cứu khoa học, các bài
viết đăng trên tạp chí. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đó chỉ đi vào tìm hiểu một
cách tổng quan về WTO, cũng như một số hiệp định có liên quan mà chưa có bài

viết nghiên cứu cụ thể về việc giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp định
Các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại - TRIMs. Để làm rõ hơn vấn đề
này tác giả sẽ đi sâu vào phân tích làm rõ các tranh chấp liên quan đến TRIMs,
kết quả của việc giải quyết tranh chấp đó. Đồng thời đưa ra một số khuyến nghị
đối với Việt Nam để phịng ngừa rủi ro và giải quyết có hiệu quả các tranh chấp.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Rút ra được những kinh nghiệm cho Việt Nam, nâng cao hiệu quả việc
giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO nói chung và các tranh chấp liên
quan tới các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Góp phần bổ sung và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giải quyết
tranh chấp trong khn khổ WTO nói chung và Hiệp định TRIMs nói riêng;
- Đánh giá kết quả việc giải quyết tranh chấp liên quan đến TRIMs;
- Rút ra những kinh nghiệm, đưa ra những giải pháp mà Việt Nam cần
làm để phòng ngừa rủi ro, giải quyết có hiệu quả các tranh chấp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quy định về các biện pháp đầu tư liên quan
đến thương mại; cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO; các vụ việc liên
quan đến các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại trong khuôn khổ
Hiệp định TRIMs – WTO.
- Phạm vi nghiên cứu: trong khuôn khổ Hiệp định các biện pháp đầu tư
3


liên quan đến thương (TRIMs) – WTO; Thời gian từ khi tổ chức thương mại thế
giới ra đời tới thời điểm hoàn thành luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam và nhà

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam liên quan đến các vấn đề nghiên
cứu. Đồng thời Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích...
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Đánh giá một cách tổng quát tình hình giải quyết tranh chấp đối với các
biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại của WTO trong thời gian qua;
- Làm rõ một số hạn chế, tác động đối với Việt Nam khi tham gia vào giải
quyết các tranh chấp;
- Một số kiến nghị mang tính giải pháp nhằm nâng cao nâng cao hiệu quả
giải quyết tranh chấp, cũng như việc phịng ngừa rủi ro có thể xảy ra khi tham
gia giải quyết các tranh chấp đối với Việt Nam.
7. Bố cục của Luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, bao
gồm 3 Chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tranh chấp và giải quyết tranh chấp
liên quan tới TRIMs trong khuôn khổ WTO.
Chương 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan tới Hiệp định
TRIMs và kinh nghiệm của các nước.
Chương 3: Vấn đề phòng và giải quyết tranh chấp liên quan tới TRIMs
tại Việt Nam.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRANH CHẤP VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP LIÊN QUAN TỚI TRIMs TRONG KHUÔN KHỔ WTO
1.1. Hiệp định TRIMs
1.1.1. Lịch sử ra đời
Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại (TRIMs) nằm
trong 4 phụ lục của Hiệp định về việc Thành lập Tổ chức thương mại thế giới
được ký kết tại Marrakesh, Maroc vào ngày 15/04/1994 (đây là kết quả của vòng
đàm phán Uruguay, đánh dấu sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới - WTO).
Sau khi xem xét các hoạt động của Hiệp định GATT liên quan đến các

biện pháp đầu tư có thể làm hạn chế hoặc bóp méo tự do hóa thương mại, các
quốc gia thành viên đồng ý rằng cần phải đàm phán, xây dựng thêm những quy
định cần thiết, thích hợp nhằm loại bỏ các biện pháp đầu tư có ảnh hưởng xấu
đến thương mại, tại Tuyên bố Punta del Este (vòng đàm phán Uruguay). Với
4


mong muốn thúc đẩy, mở rộng sự tự do hoá thương mại, tạo thuận lợi cho việc
luân chuyển nguồn vốn đầu tư qua biên giới quốc tế, với mục đích tạo ra sự
tăng trưởng kinh tế cho các thành viên, đặc biệt là các Thành viên đang phát
triển, đồng thời phải bảo đảm sự cạnh tranh tự do, công bằng. Hiệp định TRIMs
cho rằng một số biện pháp đầu tư nhất định có thể sẽ làm ảnh hưởng xấu và bóp
méo sự tự do hóa thương mại, vì vậy TRIMs quy định các thành viên không
được sử dụng các biện pháp phân biệt đối xử đối với hàng hóa nước ngoài, cũng
như việc áp đặt các biện pháp hạn chế định lượng liên quan tới hàng hóa trong
q trình ln chuyển qua biên giới. Trước khi vòng đàm phán Uruguay ra đời,
các mối liên kết giữa đầu tư và thương mại ít được quan tâm trong khn khổ
GATT. Có thể thấy rằng sự ra đời của Hiệp định TRIMs gắn liền với nhiều cuộc
tranh luận của các thành viên phát triển và thành viên đang phát triển, chủ yếu
liên quan tới những hạn chế hoặc lợi ích có được khi sử dụng TRIMs.
Tuy nhiên các thỏa thuận sau này về cơ bản đã được giới hạn trong việc
giải thích và làm rõ việc áp dụng các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại
theo quy định của GATT trong phạm vi Điều III đối xử quốc gia đối với hàng
hóa nhập khẩu và Điều XI các hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu hoặc
xuất khẩu.
1.1.2. Nội dung của Hiệp định TRIMs
Như đã trình bày ở trên, TRIMs về cơ bản là một Hiệp định nhằm mục
đích giải thích và làm rõ về việc áp dụng các biện pháp đầu tư liên quan tới
thương mại trong phạm vi Điều III và Điều XI của GATT 1994. Vì vậy, nội
dung của TRIMs khá ngắn gọn, bao gồm 09 Điều khoản quy định về việc thực

hiện TRIMs và một phụ lục bao gồm danh mục minh họa các biện pháp không
phù hợp với nguyên tắc đối xử quốc gia tại Điều III và hạn chế định lượng tại
Điều XI của GATT 1994, nằm tạo ra sự bình đẳng, khơng phân biệt đối xử đối
với nhà đầu tư nước ngoài.
Phạm vi áp dụng: Phạm vi áp dụng của TRIMs “chỉ áp dụng đối các biện
pháp đầu tư liên quan tới thương mại hàng hóa”. Vì vậy, có thể thấy rằng
TRIMs chỉ áp dụng đối với hàng hóa, khơng áp dụng cho dịch vụ.
Nguyên tắc đối xử quốc gia và quy định về hạn chế định lượng
Điều 2.1 của TRIMs quy định rằng “các quốc gia thành viên không được
sử dụng TRIMs trái với quy định tại Điều III và Điều XI của GATT 1994”. Các
biện pháp này được làm rõ thông qua một danh sách các biện pháp minh họa tại
phụ lục của TRIMs, bao gồm những biện pháp mang tính bắt buộc hoặc được
thực thi thông qua luật trong nước hoặc các quyết định mang tính hành chính
hoặc các điều kiện mà chỉ khi tuân thủ những điều kiện này mới được hưởng
một ưu đãi nào đó.
Điều III của GATT quy định về nguyên tắc đối xử quốc gia về thuế và
các quy tắc trong nước, chủ yếu đề cập tới vấn đề mua hoặc sử dụng các sản
phẩm của doanh nghiệp. Theo đó các sản phẩm nhập khẩu từ lãnh thổ của bất
kỳ một bên ký kết nào vào lãnh thổ của bất kỳ bên ký kết khác sẽ được
5


hưởng đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ dành cho sản phẩm
tương tự ở trong nước về mặt luật pháp, quy tắc và các quy định tác động đến
bán hàng, chào bán, mua, chuyên chở, phân phối hoặc sử dụng hàng trên thị
trường nội địa; bao gồm cả việc áp đặt các khoản thuế và phí cao hơn đối với
các sản phẩm tương tự trên thị trường nội địa; áp dụng một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp yêu cầu sử dụng các sản phẩm trong nước, yêu cầu đạt được tỉ
lệ nội địa hóa nhất định.
Tuy nhiên nguyên tắc này đòi hỏi cần một số yếu tố sau:

- Các sản phẩm được nhập khẩu, và có “các sản phẩm tương tự” ở trong nước;
- Các biện pháp có thể là “luật, quy định, quyết định hành chính hoặc yêu
cầu tác động đến bán hàng, chào bán, mua, vận chuyển, phân phối hoặc sử dụng”;
- Các sản phẩm nhập khẩu bị đối xử “kém thuận lợi” hơn sự đối xử dành
cho các sản phẩm nội địa.
Điều XI của GATT quy định về hạn chế định lượng, liên quan tới việc
nhập khẩu hoặc xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp, trong đó các thành viên
khơng được áp dụng các biện pháp nhằm vào việc hạn chế xuất khẩu hoặc nhập
khẩu hàng hóa từ lãnh thổ quốc gia này tới lãnh thổ quốc gia khác, ví dụ như:
cấm nhập khẩu hoặc chỉ được nhập khẩu trong những trường hợp được quy định
(Prohibition); áp dụng hạn ngạch đối với hàng hóa, có thể là: hạn ngạch tồn cầu,
hạn ngạch phân bổ theo quốc gia hoặc hạn ngạch song phương (Quota); yêu cầu
giấy phép nhập khẩu hoặc xuất khẩu không tự động (Non-automatic licensing);
áp dụng mức giá tối thiểu gây ra hạn chế về định lượng (Minimum price); yêu
cầu “tự nguyện” hạn chế xuất khẩu ("Voluntary" export restraint).
Ngoại lệ của Hiệp định TRIMs
Điều 3 của Hiệp định TRIMs quy định rằng, tất cả các trường hợp ngoại
lệ theo GATT 1994 được áp dụng một cách thích hợp với các quy định của Hiệp
định TRIMs. Ngoài những ngoại lệ quy định bởi GATT 1994, các thành viên có
thể sử dụng TRIMs trong các trường hợp quy định tại Điều 4 (quy định đối với
các nước đang phát triển) hoặc Điều 5 (trong thời kỳ quá độ, chuyển tiếp). Vì
TRIMs chỉ được áp dụng cho hàng hóa khơng áp dụng cho dịch vụ, nên một số
biện pháp không trực tiếp điều tiết hàng hóa hoặc nhập khẩu hàng hóa có thể
được sử dụng. Theo Điều 4 của TRIMs cho phép các nước đang phát triển có
thể tạm thời khơng thực hiên các nghĩa vụ của Hiệp định TRIMs, cùng với quy
định tại Điều XVIII GATT 1994 về hỗ trợ của Nhà nước cho việc phát triển
kinh tế và các quy định có liên quan của WTO về biện pháp tự vệ trong cân
bằng cán cân thanh toán.
Tham vấn giải quyết tranh chấp
Thủ tục giải quyết tranh chấp nói chung của WTO, sẽ được áp dụng đối

với các tranh chấp phát sinh từ Hiệp định.
Bảng 1.1. Danh mục minh họa các biện pháp đầu tư liên quan đến thương
mại bị cấm áp dụng (TRIMs)
Nhóm các biện pháp

Ví dụ minh họa
6


Yêu cầu doanh nghiệp phải sử dụng một tỷ lệ nhất
Những yêu cầu về hàm
định nguyên liệu đầu vào có xuất xứ trong nước hoặc
lượng nội địa
từ các nguồn nội địa
Yêu cầu một số loại sản phẩm phải được sản xuất
Những yêu cầu về sản xuất
trong nước
Yêu cầu nhà đầu tư phải cung cấp cho những thị
Những yêu cầu bắt buộc về trường nhất định một hoặc một số sản phẩm được chỉ
loại sản phẩm
định hoặc được sản xuất/cung cấp bởi một nhà sản
xuất/cung cấp nhất định
Yêu cầu phải chuyển giao bắt buộc một số loại công
nghệ nhất định (không theo các điều kiện thương mại
Những yêu cầu về chuyển
thông thường) và/hoặc yêu cầu các loại hoặc mức độ
giao công nghệ
nghiên cứu và phát triển phải được thực hiện ở nước
nhận đầu tư
Quy định buộc nhà đầu tư phải chuyển giao công nghệ

Những yêu cầu về việc
tương tự hoặc không liên quan đến công nghệ mà họ
chuyển giao quyền sử dụng
đang sử dụng tại nước đầu tư cho doanh nghiệp tại
bằng sáng chế (li-xăng)
nước nhận đầu tư
Quy định cấm doanh nghiệp không được sản xuất một
Những hạn chế về sản xuất
số sản phẩm hoặc loại sản phẩm nhất định ở nước
nhận đầu tư
Yêu cầu doanh nghiệp phải bảo đảm khối lượng hoặc
Những yêu cầu về cân đối
trị giá sản phẩm nhập khẩu tương đương với khối
thương mại
lượng, trị giá sản phẩm xuất khẩu
Yêu cầu doanh nghiệp phải bảo đảm rằng khối lượng
Những yêu cầu về tiêu thụ
hoặc trị giá sản phẩm tiêu thụ trong nước tương đương
trong nước
với sản phẩm xuất khẩu
Những yêu cầu về xuất khẩu Yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu tối thiểu
Những hạn chế về chuyển Hạn chế quyền của nhà đầu tư trong việc chuyển lợi
lợi nhuận ra nước ngoài
nhuận thu được từ đầu tư về nước
Những yêu cầu về tỷ lệ vốn ấn định một tỷ lệ nhất định vốn của doanh nghiệp phải
trong nước
do nhà đầu tư trong nước nắm giữ

(Nguồn: />1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Được hình thành trên cơ sở Nghị định thư về các nguyên tắc và thủ tục

giải quyết tranh chấp (Dispute Settlement Understanding - DSU), Phụ lục 02
Hiệp định Marrakesh thành lập WTO, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
(Dispute Settlement Mechanism - DSM) là một trong những thành cơng cơ bản
của Vịng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời của Tổ chức thương mại thế
giới WTO. Cho đến thời điểm hiện tại, hoạt động của DSM được đánh giá là
thành công của WTO. Tham gia vào DSM cho phép các nước thành viên bảo vệ
các chính sách, biện pháp và lợi ích thương mại của mình, đấu tranh chống lại
vi phạm của các nước thành viên trong WTO. Việc sử dụng hiệu quả DSM là
7


biểu hiện của sự tham gia, hội nhập đầy đủ vào hệ thống thương mại đa biên
của WTO đối với các quốc gia thành viên.
1.2.1. Phạm vi và đối tượng của các tranh chấp
Phạm vi áp dụng
DSM áp dụng cho tất cả các tranh chấp theo các hiệp định có liên quan
của WTO được liệt kê trong Phụ lục 1 của DSU. Bằng việc áp dụng chung,
thống nhất cho tất cả các hiệp định có liên quan, DSU đã loại bỏ việc các nước
tự ý thỏa thuận các quy định về giải quyết tranh chấp riêng biệt trong việc ký
kết các hiệp định. WTO là tổ chức thương mại quốc tế liên chính phủ. Vì vậy,
chủ thể tham gia vào q trình giải quyết tranh chấp phải là Chính phủ của các
nước thành viên WTO (có thể tham gia với tư cách là bên nguyên đơn hoặc bên
bị đơn hoặc là bên thứ ba trong vụ tranh chấp).
Đối tượng của tranh chấp
Cơ quan giải quyết tranh chấp có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
giữa các thành viên phát sinh từ bất kỳ Hiệp định có liên quan của WTO. Theo
nguyên tắc chung, chỉ có những biện pháp (bao gồm hành động hoặc khơng hành
động) của Chính phủ mới có thể là đối tượng của một vụ tranh chấp trong WTO.
Các biện pháp trên có thể làm phát sinh các khiếu nại quy định tại Điều XXIII. 1
của GATT 1994 như:

- Khiếu kiện có vi phạm (violation complaint): khiếu kiện phát sinh khi
một quốc gia thành viên không thực hiện các nghĩa vụ của mình theo quy định
tại Hiệp định, trong trường hợp này thiệt hại được suy đoán là đương nhiên;
- Khiếu kiện không vi phạm (non-violation complaint): là loại khiếu kiện
phát sinh khi một quốc gia ban hành một biện pháp thương mại gây thiệt hại
(làm mất hay phương hại) đến lợi ích mà quốc gia khiếu kiện có được từ Hiệp
định hoặc cản trở việc thực hiện một trong các mục tiêu của Hiệp định, điều này
không phụ thuộc vào việc biện pháp đó có vi phạm Hiệp định hay không;
- Khiếu kiện dựa trên “sự tồn tại một tình huống khác” (“situation”
complaint): trong trường hợp này, quốc gia khiếu kiện phải chứng minh về thiệt
hại mà mình phải chịu hoặc trở ngại gây ra đối với việc đạt được một mục tiêu
của Hiệp định.
1.2.2. Các cơ quan trong quá trình giải quyết tranh chấp
Thủ tục giải quyết tranh chấp trong WTO được thực hiện bởi các cơ quan
khác nhau, mỗi cơ quan có chức năng riêng biệt, tạo nên tính độc lập trong hoạt
động đánh giá, xem xét, giải thích pháp luật và thơng qua quyết định của DSM.
Cơ quan giải quyết tranh chấp (Dispute Settlement Body-DSB)
Cơ quan này thực chất là Đại Hội đồng WTO, bao gồm đại diện của tất cả
các quốc gia thành viên. DSB chịu trách nhiệm quản lý, giám sát toàn bộ q
trình giải quyết tranh chấp: có quyền thành lập Ban hội thẩm, thông qua Báo cáo
của Ban hội thẩm và của Cơ quan phúc thẩm, giám sát việc thi hành các quyết
định, khuyến nghị giải quyết tranh chấp, cho phép đình chỉ thực hiện nhượng bộ
8


và các nghĩa vụ (trả đũa) khi các thành viên không tuân thủ phán quyết.
Tổng giám đốc WTO và Ban thư ký
Tổng giám đốc WTO có vai trị như là người trung gian, hịa giải, và thực
hiện một số cơng việc cụ thể trong quá trình giải quyết tranh chấp. Các nhân
viên của Ban Thư ký WTO, có nhiệm vụ báo cáo Tổng giám đốc, hỗ trợ các

thành viên trong giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của họ.
Ban hội thẩm (Panel)
Ban Hội thẩm bao gồm từ 3 - 5 thành viên có nhiệm vụ xem xét một vấn
đề cụ thể đang tranh chấp trên cơ sở các quy định WTO được quốc gia nguyên
đơn viện dẫn. Kết quả công việc của Panel là một bản Báo cáo bao gồm các
phần mơ tả các tình tiết vụ việc, các kết luận và khuyến nghị của mình để trình
DSB thơng qua, giúp DSB đưa ra các khuyến nghị đối với các Bên tranh chấp
(chức năng của Ban hội thẩm là giúp DSB làm tròn trách nhiệm theo DSU và
các hiệp định có liên quan). Trên thực tế, đây là cơ quan trực tiếp giải quyết
tranh chấp mặc dù không nắm quyền quyết định (nhưng với nguyên tắc đồng
thuận phủ quyết mọi vấn đề về giải quyết tranh chấp khi đã đưa ra trước DSB
đều được “tự động” thông qua).
Cơ quan phúc thẩm (Appellate Body)
Cơ quan Phúc thẩm là một thiết chế mới trong cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO, cho phép báo cáo của Panel được xem xét lại (khi có u cầu), bảo đảm
tính đúng đắn của báo cáo giải quyết tranh chấp. Sự ra đời của cơ quan này cũng
cho thấy rõ hơn tính chất xem xét của thủ tục giải quyết tranh chấp mới.
1.2.3. Quy trình thủ tục giải quyết tranh chấp
Tham vấn (Consultation)
Mục đích của cơ chế giải quyết tranh chấp là bảo đảm một giải pháp tích
cực, hài hịa đối với các bên liên quan khi xảy ra tranh chấp. Một giải pháp mà
các bên có thể chấp nhận được và phù hợp với các hiệp định liên quan. Theo đó,
tham vấn song phương giữa các bên là giai đoạn đầu tiên của quá trình giải
quyết tranh chấp.
Thành lập Ban hội thẩm (Panel)
Nếu tham vấn khơng giải quyết được tranh chấp, bên khiếu nại có thể yêu
cầu thành lập Panel bất cứ lúc nào sau 60 ngày kể từ ngày bên bị đơn nhận được
yêu cầu tham vấn như đã trình bày ở trên. Hoặc có thể sớm hơn nếu các bên
đồng ý rằng tham vấn không giải quyết được tranh chấp. Giai đoạn này là khởi
đầu của quá trình tố tụng, bên nguyên đơn có thể đưa ra những bằng chứng, căn

cứ pháp lý để bảo vệ quyền lợi của mình theo các Hiệp định, và bên bị đơn có
thể đưa ra những lập luận, giải thích cho những biện pháp mà mình áp dụng
không vi phạm các Hiệp định của WTO. Cơ quan xét xử sẽ căn cứ vào đó để
xem xét vụ việc, và quyết định cuối cùng của DSB sẽ mang tính pháp lý ràng
buộc các bên (tuy nhiên trong bất kỳ giai đoạn nào một thỏa thuận đưa ra để
giải quyết tranh chấp vẫn sẽ được chấp nhận).
Quá trình xem xét của Ban hội thẩm
9


Sau khi hoàn tất việc thành lập Ban hội thẩm để xem xét vụ khiếu nại,
việc đầu tiên Ban hội thẩm cần phải làm là ấn định thời gian biểu cho hoạt động
tố tụng của mình. Thủ tục của Ban hội thẩm thường bao gồm các nội dung được
nêu tại Điều 12 và Phụ lục 3 của DSU, đồng thời có sự linh hoạt nhất định để
bảo đảm chất lượng báo cáo mà khơng làm chậm q trình tố tụng. Các Ban hội
thẩm khác nhau có thể có thời gian biểu khác nhau và thủ tục khác nhau sau khi
tham vấn ý kiến của các bên. Nhìn chung thủ tục làm việc đều thực hiện theo
Phụ lục 3, và thường áp dụng các nguyên tắc bổ sung đối với từng tranh chấp
cụ thể khi có yêu cầu. Các bên có thể thỏa thuận hoặc đệ trình về việc tổ chức
các cuộc họp. Nếu không thỏa thuận được hoặc không đệ trình thì Ban hội thẩm
sẽ quyết định lịch làm việc và thông báo cho các bên.
Việc thông qua báo cáo của Ban hội thẩm phải được đưa vào chương
trình nghị sự của DSB, nếu trong khoảng thời gian đó khơng có chương trình
nghị sự thì DSB phải tổ chức một phiên họp để thông qua báo cáo và phải thông
báo cho các thành viên trước 10 ngày. Và phải được thành viên WTO đưa ra,
nếu khơng có thành viên nào đưa nội dung thông qua báo cáo của Ban hội thẩm
trong chương trình nghị sự thì việc thơng qua báo cáo sẽ khơng được diễn ra,
mặc dù nó khơng phù hợp với Điều 16.4 DSU.
Bảng 1.2. Thời gian biểu làm việc của Ban hội thẩm
(thời gian này có thể điều chỉnh một cách hợp lý tùy thuộc vào hoàn cảnh của từng vụ

việc theo Phụ lục 3 của DSU)
Trong
STT
Nội dung làm việc
khoảng thời
gian
1
Tiếp nhận bản đệ trình của các bên
1. Bên khiếu nại
3-6 tuần
2. Bên trả lời
2-3 tuần
2
Cuộc họp chính đầu tiên với các bên; phiên thứ ba
1-2 tuần
3
Tiếp nhận đệ trình bằng văn bản của các bên
2-3 tuần
4
Cuộc họp chính thứ hai với các bên
1-2 tuần
5
Phát hành phần mơ tả tổng quan của báo cáo cho các bên
2-4 tuần
6
Tiếp nhận ý kiến của các bên trên phần mô tả của báo cáo
2 tuần
7
Phát hành báo cáo tạm thời, bao gồm cả các kết quả và kết
2-4 tuần

luận, để các bên
8
Hạn chót cho bên yêu cầu xem xét lại các phần (s) của báo cáo
1 tuần
9
Thời gian xem xét ban hội thẩm, bao gồm cả khả năng thêm có
2 tuần
cuộc họp với các bên
10 Phát hành báo cáo cuối cùng cho các bên tranh chấp
2 tuần
11 Lưu chuyển báo cáo cuối cùng tới các thành viên
3 tuần

Quy định về xem xét của cấp Phúc thẩm
DSU khơng có nhiều quy định đối với quá trình xem xét lại của cấp phúc
thẩm, ngoại trừ Điều 16.4 của DSU có tham chiếu tới việc thông báo quyết định
10


của bên đưa ra kháng cáo và Điều 17 liên quan đến tới cơ cấu, chức năng và thủ
tục của Cơ quan phúc thẩm. Tuy nhiên, một số quy định chung trong DSU được
áp dụng đối với cả giai đoạn xem xét của Panel và phúc thẩm, ví dụ Điều 1, 3,
18 và 19 của DSU. Ngoài ra, Cơ quan phúc thẩm đã thông qua Thủ tục làm việc
riêng đối với xem xét phúc thẩm trên cơ sở ủy quyền và thủ tục quy định trong
Điều 17.9 DSU.
Việc thực thi phán quyết của “bên thua kiện”
Điều 3.7 của DSU quy định rằng trong trường hợp khơng có một thỏa
thuận về giải pháp mà hai bên đạt được để giải quyết tranh chấp thì mục tiêu
đầu tiên của cơ chế giải quyết tranh chấp là nhằm bảo đảm thu hồi các biện
pháp đã vi phạm, không phù hợp với hiệp định WTO. Điều 21.1 DSU cũng cho

biết thêm rằng các bên cần phải tuân thủ đầy đủ và kịp thời các khuyến nghị
hoặc phán quyết của DSB, đây là một nhân tố cần thiết để bảo đảm tính hiệu
quả của DSM.
Giải quyết tranh chấp thơng qua mơi giới, hịa giải và trung gian: Bên
cạnh thủ tục tham vấn, DSU còn quy định các hình thức giải quyết tranh chấp
mang tính “chính trị” khác như mơi giới, trung gian, hồ giải. Đơi khi sự tham
gia của một bên độc lập, không liên quan đến các tranh chấp cũng có thể giúp
các bên tìm ra được một một giải pháp thích hợp. Các hình thức này được tiến
hành trên cơ sở tự nguyện, bí mật giữa các bên tại bất kỳ thời điểm nào sau khi
phát sinh tranh chấp (ngay cả khi Ban hội thẩm đã được thành lập và đã tiến
hành hoạt động).
1.2.4. Giải quyết tranh chấp không thông qua các thủ tục tố tụng
Sự tham gia của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm trong quá trình tố
tụng là một nhân tố quan trọng trong hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO.
Tuy nhiên, có rất nhiều cách khác để giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ
WTO mà không cần thiết phải dùng tới các thủ tục tố tụng trên. Trên thực tế,
các bên thường cố gắng tìm một giải pháp hai bên thoả thuận trong đàm phán
song phương hoặc với sự giúp đỡ của các phương thức giải quyết tranh chấp
như mơi giới, hồ giải hoặc trung gian. Ngồi ra, họ cũng có thể thoả thuận giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài viên.
1.3. Những vấn đề đặc thù trong giải quyết tranh chấp liên quan tới TRIMs
Có thể thấy giải quyết tranh chấp trong khn khổ WTO, thường có
những đặc trưng riêng gắn liền với những đặc trưng của từng Hiệp định. Hiệp
định TRIMs cũng vậy, có những đặc trưng riêng về nội dung, cũng như về thủ
tục giải quyết tranh chấp liên quan tới đầu tư và thương mại.
1.3.1. Đặc thù về nội dung giải quyết tranh chấp
Thứ nhất, TRIMs về cơ bản là một Hiệp định nhằm mục đích giải thích và
làm rõ về việc áp dụng các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại theo quy
định trong phạm vi của GATT 1994 đặc biệt là Điều III và Điều XI, vì vậy
ngồi việc viện dẫn các điều khoản của TRIMs, nội dung trong các vụ tranh

chấp thường được viện dẫn các quy định của GATT 1994 về hàng hóa, về các
11


trường hợp ngoại lệ, đặc biệt là Điều III và Điều XI;
Thứ hai, Như đã trình bày ở trên, phạm vi áp dụng của TRIMs “chỉ áp
dụng đối các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại hàng hóa”. Do vậy, có
thể thấy TRIMs chỉ áp dụng đối với hàng hóa, khơng áp dụng đối với dịch vụ
trong khn khổ WTO. Vì vậy trong các vụ tranh chấp liên quan tới TRIMs các
hiệp định quy định riêng về dịch vụ thường không được đề cập tới;
Thứ ba, chủ đề chính của TRIMs xoay quanh các biện pháp đầu tư liên quan
tới thương mại, tuy nhiên TRIMs lại không đưa ra định nghĩa cụ thể thế nào là
“biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại”. Vì vậy, trong mỗi vụ tranh chấp Panel
sẽ căn cứ vào thực tế, những tình tiết cụ thể để đưa ra nhận xét, đánh giá, giải thích
liệu các biện pháp mà các bên đưa ra có phải là “biện pháp đầu tư liên quan tới
thương mại” hay không. Điều này càng làm cho chúng ta thấy rõ hơn vai trò quan
trọng của Ban hội thẩm trong việc giải thích pháp luật đối với các vụ tranh chấp;
Thứ tư, vì bản chất của TRIMs nhằm hạn chế các biện pháp ảnh hưởng xấu
tới tự do hóa thương mại, sự luân chuyển vốn, hàng hóa qua biên giới các quốc
gia thành viên. Do vậy, nội dung của TRIMs khơng liên quan tới các khoản thuế,
phí đối với hàng hóa trong nước; cũng như các khoản trợ cấp và mua sắm của
Chính phủ các của các nước thành viên. Vì thế các quốc gia là bị đơn có thể sẽ
viện dẫn các quy định đó nhằm biện hộ cho những “hành vi” của mình.
1.3.2. Đặc thù về thủ tục
Có thể nhận thấy rằng, các vấn đề đặc trưng về nội dung nêu trên cũng sẽ
tương ứng với những đặc trưng về thủ tục trong các tranh chấp liên quan tới TRIMs.
Thứ nhất, vì TRIMs có mối quan hệ mật thiết với GATT 1994 nên các căn
cứ pháp lý trong yêu cầu tham vấn ngoài các điều khoản liên quan tới TRIMs,
bên nguyên đơn cần phải đưa ra các điều khoản quy định tại GATT, đặc biệt là
Điều III và Điều XI; cũng vì lý do này, cùng với mục đích giải thích rõ hơn quy

định tại Điều III và Điều XI GATT 1994 nên trong quá trình xem xét của mình
theo yêu cầu của bên nguyên đơn hoặc tùy thuộc vào tình tiết của các vụ việc
Ban hội thẩm có thể bỏ qua khơng xem xét việc vi phạm theo Điều 2 của
TRIMs nếu các biện pháp đó vi phạm Điều III.4 của GATT.
Thứ hai, vì TRIMs áp dụng cho hàng hóa, nên q trình giải quyết tranh
chấp liên quan tới TRIMs có thể được rút ngắn thời gian giải quyết theo quy định
đối với các loại hàng hóa rễ hư hỏng (như các mặt hàng nơng sản, thủy sản...);
Thứ ba, quá trình xem xét, đánh giá, kết luận của Ban hội thẩm liên quan
tới TRIMs luôn gắn liền với q trình “giải thích pháp luật”. Cụ thể là trong báo
cáo của Ban hội thẩm sẽ có một phần giải thích, đưa ra những đối số thực tế để
xem xét các biện pháp mà các bên đưa ra có phải là TRIMs hay khơng, thơng qua
việc giải thích các thuật ngữ “các biện pháp đầu tư”; “liên quan tới thương mại”;
Thứ tư, các biện pháp được kết luận là TRIMs được xem xét và giải thích
theo một trình tự pháp lý nhất định có liên quan tới quy định của GATT. Đầu
tiên Panel sẽ xem xét các biện pháp đó có vi phạm GATT (Điều III hoặc Điều
XI) hay khơng. Tiếp đó, sẽ đối chiếu với danh mục minh họa tại phụ lục của
TRIMs, để xác định có vi phạm TRIMs hay khơng. Nếu các biện pháp được nêu
12


ra vi phạm GATT, đồng thời có những đặc điểm mô tả giống với danh mục
minh họa tại phụ lục của TRIMs, thì Panel mới kết luận vi phạm TRIMs. Ban
hội thẩm cũng lưu ý rằng việc một biện pháp được tun là vi phạm TRIMs
khơng thích hợp để suy ra từ Danh mục minh họa của nó, mà trước hết phải dựa
trên quy định của GATT, bởi vì Danh mục minh họa đó có các đặc điểm được
đề cập tới luôn luôn vi phạm GATT.
Chương 2
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LIÊN QUAN TỚI HIỆP
ĐỊNH TRIMS VÀ KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC
2.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan tới TRIMs

2.1.1. Tổng quan các vụ tranh chấp
Kể từ khi được thành lập cho tới tháng 11/2016, hệ thống giải quyết tranh
chấp của WTO đã tiếp nhận 42 yêu cầu tham vấn giải quyết tranh chấp liên quan
tới TRIMs trong tổng số 514 vụ việc của WTO, tương ứng với tỷ lệ 8,2%, có thể
thấy đây là con số khá khiêm tốn so với tổng số 514 vụ việc. Tuy nhiên, ngoại trừ
Hiệp định GATT với 418 vụ việc chiếm 81,3%, các tranh chấp liên quan tới
TRIMs so với các hiệp định khác cũng khá tương đương nhau như: Hiệp định
chung về Thương mại dịch vụ (GATS) 24 vụ việc; Hiệp định về Hàng rào Kỹ
thuật đối với Thương mại (TBT) 52 vụ việc; Hiệp định về các khía cạnh liên
quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) 34 vụ việc (6,7%); Hiệp
định thủ tục cấp phép nhập khẩu (ILP) 46 vụ việc (8,9%); Hiệp định về các biện
pháp tự vệ (SG) 46 vụ việc (9%); Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp đối
kháng (SCM) 113 vụ việc (22%); Hiệp định về Nông nghiệp (AOA) 80 vụ việc
(15,6%). Có thể thấy rằng vấn đề về đầu tư và thương mại trong WTO không chỉ
được quy định tại TRIMs mà nó cịn được quy định tại rất nhiều các hiệp định
song phương, cũng như khu vực. Trong đó, giải quyết tranh chấp liên quan tới
đầu tư thường có những quy định riêng biệt nhằm bảo vệ nhà đầu tư nước ngồi,
cùng với đó là việc cho phép nhà đầu tư nước ngồi khởi kiện chính phủ một
nước thành viên ra cơ quan tài phán quốc tế. Như tranh chấp giữa nhà đầu tư với
Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư (tham gia công ước) được giải quyết thông
qua Trung tâm Giải quyết Tranh chấp Đầu tư Quốc tế (International Centre for
Settlement of Investment Disputes - ICSID) được thành lập theo Công ước về
việc giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế giữa các quốc gia thành viên và các
công dân của các quốc gia thành viên được ký kết tại Washington vào ngày
18/3/1965. Điều này cũng có thể lý giải về số lượng vụ việc khiêm tốn đối với
các tranh chấp liên quan tới TRIMs.
Các quốc gia là nguyên đơn
Trong số 42 vụ tranh chấp chỉ có 15 quốc gia thành viên là nguyên đơn
như: Hoa Kỳ (15 vụ việc chiếm 37%); Ecuador; Guatemala; Honduras; Mexico
13



(05 thành viên cùng một vụ kiện DS27); Liên minh Châu Âu (09 vụ việc chiếm
22%); Nhật Bản (08 vụ việc chiếm 20%); Panama; Brazil; Canada; Mexico (02
vụ việc); Argentina (02 vụ việc); Trung Quốc; Liên bang Nga; Ấn Độ.
Có thể thấy rằng, phần lớn các quốc gia có nền kinh tế phát triển thường
là nguyên đơn trong các vụ tranh chấp trong đó phải kể tới Hoa Kỳ (37%); Liên
minh Châu Âu (22%); Nhật Bản (20%); các quốc gia đang phát triển thường chỉ
tham gia hạn chế với tư cách là nguyên đơn trong 01 vụ việc liên quan tới
TRIMs duy chỉ có Mexico và Argentina là nguyên đơn của 02 vụ việc. Có thể
lý giải cho việc các thành viên phát triển (chỉ tính riêng Hoa Kỳ, EU và Nhật
Bản) chiếm tỉ lệ áp đảo 79% trong các vụ việc với tư cách là nguyên đơn là:
những thành viên này có nền kinh tế phát triển, sản phẩm của họ vươn tới tất cả
thị trường trên thế giới đặc biệt là khu vực các quốc gia đang phát triển, chính
vì vậy các quốc gia đang phát triển buộc phải sử dụng TRIMs như là một trong
những biện pháp bảo vệ ngành sản xuất trong nước, hướng các nguồn đầu tư
nước ngồi theo định hướng phát triển của mình.
Các quốc gia là bị đơn
Tỉ lệ nghịch với phần trăm (%) vụ việc với tư cách là nguyên đơn, các
quốc gia phát triển lại chiếm tỉ lệ rất ít trong số các vụ việc với tư cách là bị
đơn. Cho tới thời điểm hiện tại đã có 13 quốc gia thành viên là bị đơn trong các
vụ việc liên quan đến các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, trong đó
phải kể tới các thành viên có nền kinh tế lớn, hệ thống thương mại phát triển
như Liên minh châu Âu (06 vụ việc); Hoa Kỳ (02 vụ việc); Liên bang Nga (02
vụ việc) hầu hết các yêu cầu này đến từ các thành viên là quốc gia đang phát
triển. Tuy vậy các thành viên đang phát triển lại thường sử dụng TRIMs và là bị
đơn trong các vụ kiện như: Brazil (06 vụ việc); Trung Quốc (05 vụ việc);
Canada (04 vụ việc); Indonesia (04 vụ việc); Argentina (04 vụ việc);
Philippines (03 vụ việc); Ấn Độ (03 vụ việc); Venezuela; Cộng hịa Bolivia;
Thổ Nhĩ Kỳ. Như vậy có thể thấy rằng TRIMs thường được các quốc gia đang

phát triển sử dụng nhiều hơn so với các quốc gia phát triển, điều này cũng được
giải thích thơng qua q trình đàm phán Hiệp định với sự bất đồng về lợi ích
giữa các thành viên phát triển và thành viên đang phát triển.
Tình hình giải quyết tranh chấp
Tính tới tháng 11/2016, DSB đã thông qua báo cáo của Ban hội thẩm
cũng như báo cáo của cơ quan phúc thẩm trong 20 vụ việc (chiếm 49%) trên
tổng số 41 vụ việc liên quan tới TRIMs. Trong số 22 vụ việc còn lại thì 05 vụ
việc (chiếm 12%) đang trong quá trình xét xử; 11 vụ việc (chiếm 24%) dừng lại
ở quá trình tham vấn và khơng có thơng tin gì thêm (có thể vì một lý do nào đó
trong q trình tham vấn bên nguyên đơn đã từ bỏ, không theo đuổi vụ kiện) và
06 vụ việc (chiếm 15%) các bên đã đưa ra một giải pháp chung thống nhất
trong việc giải quyết tranh chấp. Có thể nhận thấy rằng, hầu hết các phán quyết
14


đưa ra của DSB liên quan tới TRIMs đều được các thành viên tuân thủ một cách
tự nguyện, trong đó có 16 vụ việc bên thua kiện thơng báo với DSB rằng họ đã
thực hiện đầy đủ phán quyết của DSB, còn lại 04 vụ việc đang trong giai đoạn
thực hiện.
Bảng 2.1. Tình hình giải quyết các tranh chấp liên quan tới TRIMs
Số
vụ
việc

Vụ việc mang ký hiệu số

Dừng lại ở quá trình tham vấn;
hoặc ban hội thẩm đã được thành
lập và khơng có thơng tin gì thêm


11

DS51; DS65; DS81; DS195; DS224;
DS275; DS443; DS446; DS452; DS459;
DS510

Đang trong quá trình xét xử

05

DS462; DS463; DS472; DS476; DS497

04

DS438; DS444; DS445; DS456

Tình hình vụ việc

Báo cáo đã được thông qua của
Ban hội thẩm và cơ quan phúc
thẩm (chưa thi hành)
Các bên đã đưa ra một giải pháp
chung thống nhất

DS27; DS74; DS102; DS105;
DS359
DS52; DS54; DS55; DS59;
DS139; DS142; DS146; DS175;
DS340; DS334; DS339; DS342;
DS426


06

Đã thi hành báo cáo theo thông
báo của bên thua kiện

16

Tổng số

42

DS358;
DS64;
DS276;
DS412;

(Nguồn: )
2.1.2. Những vấn đề pháp lý được đưa ra giải quyết
Những vấn đề, cáo buộc được bên nguyên đơn đưa ra
Có thể thấy rằng, các cáo buộc mà bên nguyên đơn đưa ra đều là những biện
pháp làm ảnh hưởng tới việc xuất khẩu hàng hóa của họ thơng qua các biện pháp
hạn chế nhập khẩu như áp dụng hạn ngạch thuế quan, áp dụng hệ thống cấp phép
nhập khẩu không tự động (giấy phép nhập khẩu). Các biện pháp này chủ yếu được
sử dụng trong ngành nông nghiệp, nhằm hạn chế việc nhập khẩu các mặt hàng
nông sản từ các quốc gia khác, khuyến khích sử dụng các sản phẩm trong nước.
Thơng thường các sản phẩm nhập khẩu này có giá cả cạnh tranh hơn các sản phẩm
trong nước. Vì vậy, có thể thấy các biện pháp này thường nhằm vào việc bảo hộ
các sản phẩm trong nước trước các sản phẩm nhập khẩu.
Hoặc việc hạn chế việc nhập khẩu thông qua những yêu cầu về cân đối

thương mại, yêu cầu tỉ lệ giá trị xuất nhập khẩu phải tương đương nhau, điều
này đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp muốn nhập khẩu phải thực hiện việc
sản xuất các sản phẩm ở trong nước với giá trị tương đương. Thông qua biện
pháp này nước tiếp nhận đầu tư mong muốn, các nhà đầu tư thực hiện việc
chuyển giao công nghệ, phát triển các ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên,
nếu sử dụng các biện pháp này có thể sẽ ảnh hưởng tới nguồn vốn đầu tư nước
15


ngồi, vì các nhà đầu tư sẽ chỉ thực sự muốn đầu tư vào những lĩnh vực mà họ
thu được nhiều lợi nhuận nhất. Đồng nghĩa với việc chi phí ngun vật liệu, giá
nhân cơng, và chi phí quản lý ở nước tiếp nhận đầu tư ở mức thấp, để có thể tạo
ra các sản phẩm có giá cả cạnh tranh.
Hoặc các biện pháp nhằm tạo ra sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa trong
nước đối với hàng hóa nhập khẩu, thông qua những yêu cầu về việc các sản
phẩm nhập khẩu muốn được hưởng các ưu đãi về thuế như những sản phẩm
trong nước phải đạt được một tỉ lệ nội địa hóa nhất định. Các biện pháp này
thường được các quốc gia sử dụng trong các ngành công nghiệp đặc biệt là
ngành công nghiệp ô tô và trong công nghiệp sản xuất năng lượng tái tạo và
thường được các quốc gia đang phát triển sử dụng như: Trung Quốc; Brazil;
Argentina; Indonesia; Ân Độ. Mục đích mà các quốc gia thành viên sử dụng
nhằm vừa tạo ra sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghiệp trong nước,
vừa thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài (đối tác chiến lược) vào những
ngành sản xuất được ưu tiên phát triển bằng cách tạo lợi thế cho những sản
phẩm được sản xuất trong nước, khuyến khích sử dụng các sản phẩm trong
nước thông qua yêu cầu về tỉ lệ nội địa hóa.
Những vấn đề pháp lý được cơ quan xét xử xem xét
Thông qua việc xem xét các Báo cáo của Ban hội thẩm, các biện pháp mà
các bên đã sử dụng trong ngành nông nghiệp đều liên quan tới việc áp đặt các
quy định về hạn chế định lượng, các quy định liên quan tới giấy phép nhập khẩu

nhằm mục đích hạn chế việc nhập khẩu các mặt hàng nông sản qua biên giới,
nhằm bảo hộ các sản phẩm nông sản trong nước, và được sử dụng bởi các thành
viên phát triển và đang phát triển. Trong ngành công nghiệp ô tô, thực tế cho
thấy TRIMs được sử dụng bởi các thành viên đang phát triển (như Trung Quốc,
Indonesia, Brazil, Canada, ấn Độ...), các biện pháp thường được sử dụng bao
gồm: những yêu cầu về tỉ lệ nội địa hóa để đạt được những khoản ưu đãi về
thuế, các yêu cầu về cân đối giá trị nhập khẩu và xuất khẩu... nhưng nhìn chung
những u cầu đó đều nhằm mục đích phát triển ngành sản xuất ơ tô trong nước
của các quốc gia đang phát triển, điều này là thực tại khách quan mà mọi quốc
gia đang phát triển đều muốn. Tương tự như vậy trong ngành sản xuất năng
lượng tái tạo đặc biệt được sử dụng bởi Canada và ấn Độ, cũng áp dụng những
yêu cầu về hàm lượng nội địa hóa trong các sản phẩm để nhận được một khoản
ưu đãi về thuế. Có thể thấy rằng, các biện pháp mà thành viên đang phát triển
sử dụng trong ngành công nghiệp (ô tô và năng lượng tái tạo) nhằm mục đích
vừa tạo ra được sự phát triển ngành công nghiệp trong nước (sản phẩm sản xuất
ra được tiêu thụ), vừa thu hút được nguồn vốn kỹ thuật từ các quốc gia thành
viên khác (thường là những đối tác chiến lược, cùng nhau có lợi). Đây cũng có
thể coi là một trong những mục tiêu của TRIMs: “...với mục đích tạo ra sự tăng
trưởng kinh tế cho các thành viên, đặc biệt là các Thành viên đang phát triển...”.
Phần lớn, thời gian giải quyết các tranh chấp liên quan tới TRIMs nói
riêng và trong WTO nói chung thường giao động từ 19 tháng tới 32 tháng, kể từ
16


thời điểm có yêu cầu tham vấn tới lúc DSB thông qua Báo cáo. Các Báo cáo
của Ban hội thẩm và cơ quan phúc thẩm (nếu có kháng cáo) đều được bên thua
kiện tự nguyện tuân thủ sau một khoảng thời gian được các bên thỏa thuận hoặc
do Trọng tài quyết định, khoảng thời gian này thường là từ 8 tới 15 tháng. Như
vậy có thể thấy rằng, các quốc gia đã có một khoảng thời gian sử dụng TRIMs
từ 02 tới 03 năm (hoặc có thể hơn), phần lớn các biện pháp này thường được sử

dụng với hai mục đích. Thứ nhất, bảo vệ, tạo sự thuận lợi, ưu đãi cho các sản
phẩm có sẵn trong nước (các sản phẩm thế mạnh do các doanh nghiệp trong
nước sản xuất đặc biệt trong ngành nông nghiệp). Thứ hai, với mục đích tạo
động lực phát triển một cách nhanh chóng một số ngành sản xuất trong nước
(những ngành được ưu tiên phát triển như công nghiệp ô tô, sản xuất năng
lượng tái tạo) hướng nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực ưu tiên, gắn với mục đích
này là những yêu cầu về áp dụng tỉ lệ nội địa hóa để đạt được một khoản ưu đãi
về thuế, thường được sử dụng bởi các nước đang phát triển.
Mặc dù số lượng tranh chấp liên quan tới TRIMs không nhiều, nhưng
thông qua quá trình giải quyết tranh chấp chúng ta có thể học hỏi được một số
kinh nghiệm quý báu, để áp dụng có hiệu quả trong việc phịng ngừa rủi ro và
giải quyết tranh chấp trong khn khổ WTO nói chung và trong khn khổ
Hiệp định TRIMs nói riêng.
2.2. Kinh nghiệm của các quốc gia trong giải quyết tranh chấp
2.2.1. Kinh nghiệm trong q trình giải quyết tranh chấp
Thơng qua việc phân tích, xem xét, đánh giá q trình cũng như kết quả
các vụ tranh chấp trong khuông khổ Hiệp định TRIMs chúng ta có thể rút ra
một số kinh nghiệm sau:
Giai đoạn chuẩn bị tham gia vụ tranh chấp
Ngoài những yêu cầu về thu thập chứng cứ có liên quan, điều quan trọng
khơng kém trong giai đoạn này đó là yếu tố con người, địi hỏi cần phải có
những chun gia am hiểu pháp luật quốc tế, đặc biệt trong việc áp dụng các
Hiệp định có liên quan; tiếp đến là khả năng về ngoại ngữ trong quá trình thu
thập chứng cứ từ hệ thống pháp luật của các thành viên khác, trong quá trình
chuẩn bị hồ sơ tài liệu bằng tiếng nước ngồi, trong q trình tranh tụng...
Giai đoạn xem xét vụ việc
Trong quá trình xem xét vụ việc, chúng ta cần phải chú ý tới thời gian,
thời hạn cho từng giai đoạn để không làm ảnh hưởng tới quyền lợi của mình
trong giai đoạn đó. Một vấn đề khơng kém phần quan trọng đó là việc vận
động, tranh thủ sự ủng hộ của các thành viên là bên thứ ba trong vụ tranh chấp.

Giai đoạn thực thi phán quyết
Hầu hết các phán quyết của DSB trong các vụ việc liên quan tới TRIMs
đều được các bên liên quan thực hiện một cách tự nguyện. Vì vậy, chúng ta cần
phải có sự chuẩn bị trước về mặt thể chế pháp lý cho các vấn đề có liên quan,
để kịp thời sửa đổi các quy định theo hướng phù hợp với quy định của WTO.
2.2.2. Kinh nghiệm liên quan tới TRIMs
17


Thực tế cho thấy các biện pháp mà các bên sử dụng thường nhằm vào các
sản phẩm hàng hóa nhập khẩu, bằng việc áp dụng những biện pháp đối xử kém
thuận lợi hơn đối với các sản phẩm tương tự trong nước bằng việc áp đặt những
điều kiện cụ thể nào đó gắn với yêu cầu trong nước để nhận được một khoản lợi
ích về thuế (vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia về thuế), thường thì những
biện pháp này chỉ áp dụng cho những loại hàng hóa đã nhập khẩu vào lãnh thổ
của quốc gia thành viên; hoặc bằng cách áp dụng các biện pháp hạn chế định
lượng, các biện pháp làm ảnh hưởng tới việc nhập khẩu hàng hóa qua biên giới
như áp dụng hạn ngạch, các yêu cầu về cân đối thương mại.
Có thể thấy rằng, TRIMs được sử dụng để tạo ra lợi thế đối với các sản
phẩm trong nước khi và chỉ khi tại quốc gia thành viên đó có các sản phẩm
được sản xuất và được hưởng ưu đãi nhiều hơn (về thuế) so với các sản phẩm
tương tự được nhập khẩu từ quốc gia thành viên khác. Điều đó cho thấy rằng,
khi thị trường trong nước khơng có các sản phẩm tương tự giống với các sản
phẩm nhập khẩu thì việc sử dụng TRIMs khơng cịn ý nghĩa, khơng gây ra thiệt
hại về lợi ích (khơng tạo ra sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa sản xuất trong
nước và hàng hóa nhập khẩu).
Thực tế qua quá trình nghiên cứu các vụ việc liên quan tới TRIMs cho
thấy, tính tới thời điểm hiện tại mặc dù theo quy định không được sử dụng
TRIMs nhưng nó đã được sử dụng và vẫn đang được sử dụng tại một số quốc
gia thành viên, đặc biệt là các nước đang phát triển.

Xét thấy, trong quá trình hội nhập quốc tế cùng với đường lối phát triển
của Đảng và Nhà nước. Để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nền công nghiệp tiên tiến hiện đại. Một mặt, chúng ta cần
thiết phải tạo điều kiện thu hút nguồn đầu tư nước ngồi, như: nguồn vốn, máy
móc, cơng nghệ, quản lý... Mặt khác chúng ta cần thiết phải sử dụng TRIMs để
bảo vệ, bảo đảm, ưu tiên cho một số doanh nghiệp trong nước (chủ yếu đối với
các doanh nghiệp liên doanh). Việc sử dụng TRIMs khơng có nghĩa là chúng ta
có sự phân biệt đối xử với sản phẩm của tất cả thành viên, mà cần thiết phải sử
dụng TRIMs hướng tới tạo điều kiện cho sản phẩm của một số thành viên là đối
tác chiến lược (ví dụ các cơng ty liên doanh với doanh nghiệp nước ngồi)
nhằm tạo điều kiện phát triển cho một ngành hàng nào đó trong một khoảng
thời gian nhất định (theo định hướng phát triển). Ngoài ra cần phải áp dụng
TRIMs linh hoạt với một số ngoại lệ trong các Hiệp định có liên quan để
TRIMs thực hiện có hiệu quả hơn, đồng thời cần phải cân nhắc thực hiện một
cách cẩn trọng, có tính tới lợi ích thương mại của các thành viên có liên quan.
Chương 3
VẤN ĐỀ PHỊNG VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LIÊN QUAN
TỚI TRIMs TẠI VIỆT NAM
3.1. Thực tiễn tại Việt Nam
18


3.1.1. Thể chế pháp lý liên quan tới giải quyết tranh chấp quốc tế nói
chung và trong khn khổ WTO nói riêng
Để có những kết quả đáng kể và tích cực trong việc sử dụng cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO, thực tế trong thời gian qua Việt Nam đã có những
chuẩn bị về mặt chính sách, cơ sở pháp lý và khung thể chế ngay từ trước khi
gia nhập WTO và khơng ngừng hồn thiện cho đến hiện nay. Bằng sự chuẩn bị
tích cực, các mặt về chính sách, cơ sở pháp lý và khung thể chế về việc chủ
động tham gia giải quyết tranh chấp quốc tế, chúng ta cũng đã có bước chuẩn bị

sẵn sàng tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế.
3.1.2. Sự tham gia của Việt Nam vào DSM
Kể từ khi gia nhập WTO cho tới tháng 12 năm 2016 Việt Nam đã tham
gia vào tổng số 27 vụ tranh chấp trong khn khổ WTO, trong đó 03 vụ việc
Việt Nam là nguyên đơn trong vụ kiện, 24 vụ việc tham gia với tư cách là bên
thứ ba. Tính tới tháng 11/2016 Việt Nam hiện chưa là bị đơn trong bất cứ vụ
kiện nào trong khuôn khổ WTO. Tuy vậy chúng ta mới chỉ dừng lại ở việc tham
gia với tư cách là bên nguyên đơn trong tranh chấp mà chưa có vụ việc nào
chúng ta tham gia với tư cách là bị đơn. Nói cách khác là chúng ta chưa hoàn
toàn chủ động trong giải quyết tranh chấp mà chỉ tham gia một cách bị động khi
những lợi ích thương mại của mình bị xâm hại.
Qua thực tiễn giải quyết tranh chấp của tại WTO nói chung và của Việt
Nam nói riêng, cho thấy chúng ta chưa vẫn chưa thực sự tham gia một cách chủ
động vào cơ chế giải quyết tranh chấp, bằng chứng cho thấy là Việt Nam chưa
là bị đơn trong bất cứ một vụ tranh chấp nào trong khuôn khổ WTO, chưa hề
tham gia vào các tranh chấp liên quan tới TRIMs. Điều đó cho thấy Việt Nam là
một trong những quốc gia thành viên thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, đặc
biệt là tại WTO.

Biểu đồ 3.1. Số vụ tranh chấp tại WTO theo thứ tự thời gian
từ năm 1995 tới năm 2015
19


3.1.3. Pháp luật Việt Nam liên quan tới TRIMs
Khi gia nhập WTO, các nước phải cam kết loại bỏ TRIMs, điều này đồng
nghĩa với việc các nước phải đưa các biện pháp tuân thủ các quy định của
WTO, nhưng đồng thời vẫn tạo cơ hội phát triển cho các ngành công nghiệp
trong nước. Các biện pháp Việt Nam đã sử dụng trong thời gian qua là yêu cầu
về tỷ lệ nội địa hoá, yêu cầu cân đối ngoại tệ, yêu cầu phải gắn với phát triển

nguồn nguyên liệu trong nước và yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc. Trong đó,
biện pháp được tập trung áp dụng nhiều nhất là yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá
trong các ngành sản xuất, lắp ráp ôtô và phụ tùng ôtô; sản xuất, lắp ráp xe máy
và phụ tùng xe máy; sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh và phụ tùng thuộc
ngành điện tử, cơ khí-điện. Tuy nhiên hiện nay, việc đưa ra những u cầu này
khơng nhằm mục đích để các nhà đầu tư nhận được một khoản ưu đãi về thuế
đối với các sản phẩm nhập khẩu.
Ngoài ra, đối với các dự án chế biến các sản phẩm sữa, dầu thực vật,
thuộc da, chế biến gỗ, sản xuất giấy cũng thuộc đối tượng các ngành phải thực
hiện chương trình nội địa hố nhằm phát triển nguồn ngun liệu thơ trong
nước. Song, do tính đặc thù nên phần lớn các dự án thuộc ngành này được xây
dựng với mục đích sử dụng nguồn nguyên liệu rẻ, sẵn có trong nước. Do vậy,
các nhà đầu tư sẽ tự nguyện thực hiện chính sách nội địa hố, kể cả trong
trường hợp khơng được khuyến khích hoặc ưu đãi.
Có thể thấy rằng, kể từ khi gia nhập WTO cho tới thời điểm hiện tại
chúng ta là một trong những quốc gia thành viên thực hiện Hiệp định TRIMs
một cách đầy đủ và nghiêm túc, các biện pháp về bảo đảm đầu tư được quy
định tại Luật Đầu tư năm 2005 (sau khi là thành viên của WTO) và tiếp tục thể
hiện thông qua Luật Đầu tư 2014.
Đồng nghĩa với việc loại bỏ TRIMs trong q trình hội nhập tồn cầu
chúng ta phải đối mặt với nhiều thách thức liên quan tới việc phát triển kinh tế
đất nước, phải bảo vệ và phát triển các ngành sản xuất có thế mạnh của mình.
Chính vì vậy, yêu cầu cấp thiết cần phải đặt ra trong bối cảnh tuân thủ quy định
của Hiệp định TRIMs là bắt buộc chúng ta phải nâng cao năng lực của các
doanh nghiệp trong nước không chỉ về năng lực tài chính, quy mơ hoạt động,
chất lượng sản phẩm, giá trị sản xuất mà cịn phải nâng cao trình độ quản lý để
không bị lép vế trước nhà đầu tư nước ngồi.
Qua q trình phân tích, tìm hiểu các tranh chấp liên quan tới TRIMs và
kinh nghiêm đã rút ra được từ một số nước thành viên đã sử dụng, cùng với thực
tiễn thực hiện tại Việt Nam, ngoài việc nâng cao năng lực của doanh nghiệp trong

nước trong quá trình tuân thủ TRIMs ở một số lĩnh vực thế mạnh, chúng ta cần
thiết phải sử dụng TRIMs một cách hiệu quả và hợp lý (giống với các quốc gia
thành viên đang phát triển đã và đang sử dụng) nhằm tạo ra sự phát triển mạnh mẽ,
nhanh chóng đối với một số ngành nghề quan trọng theo định hướng phát triển của
quốc gia, từng bước đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại.
20


Tuy nhiên, việc sử dụng TRIMs cần phải được cân nhắc tính tốn lợi ích có
được. Thứ nhất, cần phải tạo ra sự phát triển nhanh chóng đối với các sản phẩm,
ngành hàng được ưu tiên sản xuất và tiêu thụ trong nước. Thứ hai, chú ý tới thời
điểm áp dụng TRIMs để đạt hiệu quả cao nhất. Thứ ba, phải có sự chuẩn bị tinh
thần sẵn sàng tham vấn, sẵn sàng tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan
tới TRIMs. Thứ tư, cần có sự chuẩn bị trước về khung thể chế pháp lý liên quan
tới TRIMs nhằm kịp thời sửa đổi cho phù hợp với quy định của WTO.
Liên hệ với một số hiệp định có liên quan tới thương mại và đầu tư mà
Việt Nam đã đàm phán gia nhập
Đối với các cam kế về đầu tư, cả ở TPP (Chương 9 về đầu tư) và EVFTA
(Chương về thương mại dịch vụ, đầu tư và thương mại điện tử) đều có những
quy định liên quan tới việc bảo vệ nhà đầu tư nước ngoài, các cam kết về
nguyên tắc đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc trong đầu tư, trong đó mỗi
Bên phải dành cho nhà đầu tư của Bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn
sự đối xử dành cho nhà đầu tư của nước mình, hoặc nhà đầu tư của Bên không
phải thành viên Hiệp định. Nội dung liên quan tới đầu tư nước ngoài chủ yếu
được phát triển từ những quy định của TRIMs trong WTO, nhưng được giải
thích và quy định cụ thể hơn liên quan tới các biện pháp, yêu cầu doanh nghiệp
phải thực hiện để được phép đầu tư: những yêu cầu về xuất khẩu; những yêu
cầu về hàm lượng nội địa; những yêu cầu về tiêu thụ trong nước; những yêu cầu
về cân đối thương mại; những yêu cầu bắt buộc về loại sản phẩm; những yêu
cầu về chuyển giao công nghệ. Hoặc những yêu cầu để nhận được những khoản

ưu đãi về đầu tư: yêu cầu về hàm lượng nội địa; những yêu cầu về tiêu thụ trong
nước (phải mua, sử dụng hoặc áp dụng chế độ ưu đãi cho hàng hóa sản xuất
trong nước); những yêu cầu về cân đối thương mại.
Đối với quy định về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hiệp định nói
chung, cả TPP (Chương 28 Giải quyết tranh chấp) và EVFTA (Chương giải
quyết tranh chấp) đều có những quy định chung về vấn đề này. Hầu hết các quy
định về giải quyết tranh chấp của cả hai hiệp định này đều dựa trên nền tảng
quy định của DSU - cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO. Trong đó, khi
phát sinh tranh chấp các bên đều phải thực hiện thủ tục tham vấn giống với thủ
tục tham vấn tại WTO, nhằm hướng tới một thỏa thuận các bên cùng thống nhất
mà không cần phải dùng tới các bước tố tụng tiếp theo.
3.2. Phương hướng, giải pháp phịng và giải quyết tranh chấp
3.2.1. Hồn thiện hệ thống pháp luật
Trong quá trình hội nhập và phát triển hiện nay, một mặt chúng ta cần
phải thực hiện đầy đủ, tận tâm, thiện chí các cam kết quốc tế. Mặt khác, chúng
ta vẫn phải thực hiện công cuộc xây dựng và phát triển đất nước đồng thời thể
hiện và nâng cao quan điểm của mình trên trường quốc tế (trong q trình hợp
tác quốc tế). Việc hồn thiện hệ thống pháp luật cần phải bảo đảm thực hiện
đồng bộ đối với các Bộ, Ban, Ngành có liên quan.
21


Thứ nhất, phải thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các cam kết hội nhập kinh
tế quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và tham gia; thường xuyên rà soát các chính
sách thương mại, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
Thứ hai, tích cực tham gia đàm phán các hiệp định thương mại tự do
trong khn khổ song phương và khu vực.
Thứ ba, hồn thiện quy định cũng như tổ chức, cơ chế hoạt động và nâng
cao năng lực của các cơ quan quản lý cạnh tranh, chống trợ cấp, chống bán phá
giá, cơ quan đầu mối về giải quyết tranh chấp quốc tế.

Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nhất là các thủ tục
liên quan đến đầu tư, xuất nhập khẩu, thuế; đẩy nhanh ứng dụng công nghệ
thông tin.
Thứ năm, nâng cao trình độ và kỹ năng của cơ quan tham mưu các dự án
Luật cho Quốc hội, nâng cao trình độ lập pháp của Đại biểu Quốc hội, nâng cao
hiệu quả thực thi trong thực tế của các điều luật khi được ban hành.
Thứ sáu, Xây dựng đề án đổi mới và phát huy vai trò của các tổ chức;
hiệp hội ngành nghề; tổ chức chính trị, xã hội trong q trình xây dựng và thực
thi các chính sách về hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ bẩy, Ban hành và thực hiện chính sách nâng cao chất lượng giáo dục,
chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện thể chế
Trong đó chúng ta cần phải xác định rõ vai trị trách nhiệm của doanh
nghiệp, của cơ quan nhà nước.
Thứ nhất, cộng đồng doanh nghiệp. Cần phải xác định doanh nghiệp là
một phần quan trọng trong quá trình hội nhập và phát triển đất nước, doanh
nghiệp phát triển thì đất nước đi lên, doanh nghiệp yếu thì đất nước đi xuống.
Vì vậy, chính doanh nghiệp và cộng đồng doanh nghiệp phải ý thức được vai
trị của mình trong q trình phát triển đất nước.
Thứ hai, đối với cơ quan nhà nước: - Đối với Quốc hội, cần phải phát huy
vai trò giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước,
nghiên cứu và phê chuẩn các Điều ước quốc tế có lợi cho sự phát triển của đất
nước. Kịp thời điều chỉnh các điều luật không phù hợp với quy định của các
Điều ước quốc tế.
- Đối với Chính phủ, với vai trị tạo ra cơ chế chính sách, chiến lược phát
triển đất nước. Vì vậy, Chính phủ cần phải tạo cơ chế chính sách nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm; cải thiện môi trường đầu
tư kinh doanh; tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngồi; thực hiện tốt
chính sách ưu đãi đầu tư; nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và quản lý nợ cơng.

- Các Bộ ngành có liên quan: + Bộ Cơng thương, với vai trị đại diện lợi ích
kinh tế quốc tế của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, đề xuất phương án và
tổ chức thực hiện quyền và nghĩa vụ liên quan đến kinh tế và thương mại quốc tế,
áp dụng các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp.
22


×