Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Tư tưởng Hồ CHí Minh về đoàn kết lương giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.94 KB, 31 trang )

NỘI DUNG
1. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đồn kết lương giáo
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết lương giáo
Một là, tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết lương giáo được hình thành từ
sự kế thừa và phát huy những tinh hoa của truyền thống đoàn kết toàn dân trong
lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước qua
hàng nghìn năm lịch sử, với tinh thần đồng cam cộng khổ đã hun đúc thành một
truyền thống quý báu: truyền thống yêu nước, thương nịi, đồn kết dân tộc. Từ
lịch sử dân tộc và thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Sử ta dạy cho ta
bài học này: Lúc nào dân ta đồn kết mn người như một thì nước ta độc lập,
tự do. Trái lại, lúc nào dân ta khơng đồn kết thì bị nước ngồi xâm lấn”.
Việt Nam là một quốc gia đa tơn giáo, sự hình thành các tơn giáo ở nước ta,
bao gồm có cả có những tơn giáo du nhập từ bên ngồi vào như: Phật giáo, Nho
giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Tin lành... và những tôn giáo nội sinh trong nước
như Cao đài, Hồ hảo…với số lượng đồng bào theo các tơn giáo chiếm khá đông.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, các cư dân người Việt Nam, dù
khác nhau về dân tộc, tín ngưỡng, tơn giáo…nhưng đã sớm ý thức được tinh thần
đồn kết gắn bó, cố kết trong cộng đồng dân tộc để tạo nên sức mạnh chung vì sự
nghiệp tồn vong, phát triển của dân tộc và trải qua nhiều thế hệ đã hun đúc nên
truyền thống đoàn kết tốt đẹp của dân tộc ta.
Mặt khác, sự tương đồng, thống nhất về cội nguồn, quốc gia lãnh thổ,
những nguyện vọng chính đáng nhu cầu, lợi ích chung đã tạo sự gắn bó giữa mỗi
người Việt Nam. Đã là con dân nước Việt, dù đồng bào lương hay giáo, đạo Nho
hay đạo Phật…cũng đều cùng chung một cội nguồn “con Lạc, cháu Hồng”, “con
Rồng, cháu Tiên”, người chung một bọc và cùng chung vận mệnh với đất nước.
Lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc đã chứng minh: thành công trong
cuộc kháng chiến chống quân Tống (thế kỷ XI), do nhà Lý đã tranh thủ được các
tù trưởng, biết đoàn kết tập hợp được các lực lượng đồng bào các dân tộc, tín
ngưỡng, tơn giáo khác nhau ở phía Bắc và Đơng Bắc, tạo nên lực lượng mạnh
mẽ áp đảo kẻ thù, làm thất bại âm mưu xâm lược của nhà Tống.
1




Dưới sự lãnh đạo của nhà Trần (thế kỷ XIII), quân dân cả nước ta đã anh dũng
đứng lên kháng chiến chống quân Nguyên – Mông, cả ba lần đều giành thắng lợi
vang dội. Hội nghị Bình Than (1282) và Hội nghị Diên Hồng (1285) do nhà Trần
tổ chức đã thể hiện sức mạnh của cả dân tộc, ý chí đồn kết tồn dân, trong đó có
sự tham gia của đồng bào các tôn giáo với quyết tâm “quyết đánh” giặc, giữ nước
đã củng cố thêm quyết tâm đánh giặc của vua tôi nhà Trần.
Khởi nghĩa “Lam Sơn” do Lê Lợi - Nguyễn Trãi lãnh đạo (thế kỷ XV),
giành được thắng lợi, là nhờ biết quy tụ, đoàn kết tập hợp đông đảo các tầng
lớp nhân dân, bao gồm cả những quần chúng nhân dân có tín ngưỡng, tơn giáo
xung quanh ngọn cờ đại nghĩa, “coi việc nước là việc chung” đã làm nên thắng
lợi oanh liệt. Tinh thần đoàn kết tồn dân tộc, khơng phân biệt Bắc - Nam,
khơng phân biệt giáo hay lương…là cội nguồn sức mạnh giúp Tây Sơn dẹp tan
được sự phân tranh “đàng trong, đàng ngoài” và đánh tan mấy chục vạn quân
Thanh xâm lược, thống nhất đất nước.
Không chỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, mà ngay cả trong công
cuộc xây dựng đất nước, chinh phục thiên nhiên, phát triển kinh tế, tinh thần
đoàn kết cộng đồng, đoàn kết giữa các giai tầng, lực lượng, giữa đồng bào lương
và giáo...ngày càng bền chặt hơn. Đoàn kết đã thực sự trở thành nguồn sức
mạnh, nhân tố cơ bản bảo đảm cho dân tộc ta tồn tại, phát triển và vượt qua mọi
gian nan, khó khăn, thử thách. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước,
trở thành giá trị văn hoá truyền thống bền vững của dân tộc, được Hồ Chí Minh kế
thừa, phát triển hình thành nên tư tưởng của Người về đồn kết lương giáo.
Hai là, quan niệm về vai trị của quần chúng trong sự nghiệp cách mạng
của chủ nghĩa Mác- Lênin là nền tảng tư tưởng cho chiến lược đồn kết lương
giáo, hịa hợp dân tộc ở Hồ Chí Minh. Từ sự nhận thức sâu sắc về vai trò của
quần chúng trong sự nghiệp cách mạng của học thuyết Mác- Lênin, Hồ Chí
Minh đã chỉ ra rằng: “Lực lượng tồn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Khơng ai
chiến thắng được lực lượng đó”. Đồn kết tồn dân là yếu tố cơ bản đưa tới

thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
2


Tôn giáo đã từng tồn tại ở mọi quốc gia, qua nhiều thể chế chính trị. Tuy
nhiên, mỗi tơn giáo có lúc thịnh, lúc suy; vai trị và ảnh hưởng của tôn giáo đối
với đời sống xã hội trong mọi quốc gia, dân tộc khơng giống nhau, song nhìn
chung tơn giáo vẫn tồn tại suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Việc nhận thức và
đánh giá về tơn giáo, địi hỏi những người cộng sản phải có thái độ đúng đắn và
khoa học thì mới cảm hố, lơi kéo, tập hợp được họ tham gia vào sự nghiệp cách
mạng trong cách mạng vơ sản, khơng những giải phóng cho người lao động nói
chung, mà cịn giúp họ cải tạo chính bản thân mình hướng tới một xã hội văn
minh, tiến bộ hiện thực. Học thuyết Mác– Lênin, cung cấp cho ta thế giới quan
để nhận thức, giải quyết đúng đắn về vấn đề đó. Đồng thời, các nhà kinh điển
Mác – Lênin đã khẳng định: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân,
là người sáng tạo ra lịch sử, quyết định tiến trình phát triển của lịch sử; giai cấp
cơng nhân là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi
hoàn toàn…và theo các ông quần chúng nhân dân chỉ phát huy được sức mạnh
to lớn đó của mình khi được giáo dục, giác ngộ đầy đủ, đúng đắn và được tổ
chức chặt chẽ thành một khối thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của một Đảng
Mácxít chân chính.
Ba là, đồn kết còn xuất phát từ nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng Việt
Nam, đó là sự nghiệp giải phóng dân tộc, tiến hành xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân và xây dựng chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc đã
khó, xây dựng chủ nghĩa xã hội cịn khó khăn hơn. Người cho rằng, xây dựng
chủ nghĩa là sự nghiệp vĩ đại chưa hề có tiền lệ lịch sử trong nước và quốc tế, là
nhiệm vụ vô cùng lớn lao, gian khổ và lâu dài. Bởi vậy, hoàn thành sự nghiệp
nặng nề và vẻ vang ấy phải hội tụ được sức mạnh của toàn dân do Đảng Cộng
sản lãnh đạo.
Bốn là, đồn kết cịn là để chống lại âm mưu chia rẽ lương giáo của kẻ thù.

Thực dân, đế quốc ln có âm mưu chia rẽ, phá vỡ khối đoàn kết dân tộc để dễ
bề thơn tính và nơ dịch dân tộc Việt Nam. Do đó, đồn kết lương giáo cũng
nhằm chống lại âm mưu thâm độc đó.
3


Thực dân Pháp xâm lược và thống trị nước ta, biến nước ta thành thuộc địa
của chúng. Để áp bức, bóc lột và thống trị lâu dài Việt Nam, một mặt chúng giữ
nguyên chính quyền phong kiến, tay sai, phản động bản địa, mặt khác chúng áp
dụng nhiều chính sách cai trị độc ác. Đặc biệt, là chính sách “chia để trị”, “ngu để
trị” chống phá cách mạng nước ta một cách quyết liệt. Đồng thời, núp dưới cái vỏ
bọc “khai hoá văn minh”, truyền đạo vào nước ta, với mưu đồ, đầu độc làm mê
muội tinh thần nhân dân ta, từng bước xoá bỏ nền văn hoá truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, thay bằng “quốc đạo” để thực hiện nô dịch về tinh thần và thống trị
lâu dài dân tộc ta. Chúng tìm mọi cách chia rẽ đồng bào ta, chia rẽ đồng bào giữa
các dân tộc, giữa đồng bào lương và đồng bào giáo…
Đòi hỏi bức thiết của cách mạng Việt Nam; sự nghiệp giải phóng dân tộc
phải được gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người, trong đó có
giải phóng cho đồng bào tơn giáo. Cách mạng là sự nghiệp vơ cùng khó khăn,
gian khổ và ác liệt, là trách nhiệm chung của tồn dân tộc. Vì vậy, cách mạng
muốn giành thắng lợi, phải đoàn kết tất cả các lực lượng của toàn dân tộc, trong
đó tơn giáo là một bộ phận quan trọng, khơng tách rời. Mặt khác, muốn giải
phóng được đồng bào các tơn giáo, phải tham gia vào các đồn thể, tổ chức cách
mạng do Đảng lãnh đạo.
1.2. Mục tiêu của đoàn kết lương giáo
Mục tiêu đoàn kết lương giáo của Hồ Chí Minh là nhằm đạt ước vọng mà
cả cuộc đời Người nguyện hy sinh phấn đấu để thực hiện, đó là giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người thốt khỏi mọi sự nơ dịch, áp
bức và bất cơng xã hội dưới mọi hình thức. Mục tiêu của đồn kết dân tộc, trong
đó có bộ phận quan trọng là đồng bào các tôn giáo là giành độc lập dân tộc và

cơm no, áo ấm cho mọi người. Đoàn kết phải là một chiến lược lâu dài chứ
khơng phải là một thủ đoạn chính trị nhất thời. Bởi vậy, theo Hồ Chí Minh
phương châm của đoàn kết phải rộng rãi, chặt chẽ, lâu dài nhằm tập hợp lực
lượng, phát huy sức mạnh để giành thắng lợi vì mục tiêu chung. Người viết:
“Chúng ta, ai nấy đều vì quốc gia, dân tộc, chớ khơng phải vì lợi ích cá nhân.
Như vậy, bất luận thế nào, chúng ta cũng phải đồn kết. Chúng ta có thể nói
4


được rằng: đồng bào trong nước đã đoàn kết rồi; các đảng phái, các đồn thể,
tầng lớp, các tơn giáo, các dân tộc đã đoàn kết rồi. Nhờ lực lượng ấy, đã có thể
diệt được chế độ quân chủ phong kiến và sự trói buộc của đế quốc thực dân, đã
có thể dựng nên quốc gia cộng hịa, gây dựng nền tự do độc lập”. Rõ ràng, độc
lập cho dân tộc và hạnh phúc cho toàn dân là mẫu số chung để đồn kết mọi
người, khơng kể lương hay giáo, có đạo hay khơng có đạo, cũng như có tín
ngưỡng khác nhau trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Chính nhờ vậy mà Hồ
Chí Minh đã quy tụ, tập hợp được toàn dân tham gia kháng chiến và kiến quốc
thắng lợi.
1.3. Đối tượng của đoàn kết lương giáo
Từ đời Nhà Nguyễn, khái niệm lương - giáo đã xuất hiện với hàm ý:
Lương là chỉ những người Việt Nam không theo đạo Thiên Chúa (bao gồm cả
những người theo Phật giáo, Đạo giáo, Cao đài, Hòa hảo…Dần dần, theo thời
gian, Lương là khái niệm dùng chỉ những người không theo tôn giáo, cịn Giáo
là chỉ những người có tơn giáo. Hồ Chí Minh từng nói: “Phải đồn kết chặt chẽ
giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo…”. Ngày nay, khái niệm LươngGiáo ít được sử dụng mà thay vào đó là cụm từ những người có tơn giáo và
người khơng có tơn giáo.
Trước hết, theo Hồ Chí Minh, đồn kết lương giáo thể hiện là sự đoàn kết
giữa những người có tơn giáo với những người khơng theo tơn giáo, trong đó có
những người cộng sản.
Có thể thấy, là một người cộng sản chân chính Hồ Chí Minh cơng khai

bày tỏ quan điểm của mình. Người nhấn mạnh, người cộng sản muốn làm cách
mạng thắng lợi phải đoàn kết, tập hợp tất cả mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có
cả đồng bào tín đồ các tơn giáo. Tuy có sự trái ngược nhau về thế giới quan,
song khơng vì thế mà những người cộng sản và những người có tín ngưỡng tơn
giáo đối đầu, đố kị lẫn nhau. Ngược lại, họ phải đoàn kết đấu tranh chống kẻ thù
chung của dân tộc làm cho Tổ quốc độc lập, tôn giáo được tự do. Với tư cách là
những người lãnh đạo cách mạng, những người cộng sản phải là hạt nhân để quy
tụ, tập hợp, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Đồng thời, các đảng phái,
5


đoàn thể và nhân sĩ trong mặt trận cần phải đoàn kết chặt chẽ, thân ái giúp đỡ
nhau, thật thà học tập những ưu điểm và phê bình những khuyết điểm của nhau
để cùng tiến bộ…
Ngồi ra, Người cịn căn dặn đảng viên phải hiểu rõ và thực hiện đúng
chính sách của Đảng và Nhà nước về đồn kết tơn giáo, cùng nhau kháng chiến
kiến quốc: “Hiểu rõ và làm đúng chính sách của Mặt trận, của Đảng và Chính
phủ về vấn đề tơn giáo. Ra sức giải thích cho đồng bào tơn giáo hiểu chính sách
để đồn kết chặt chẽ cùng nhau kháng chiến, kiến quốc thực hiện tự do tín
ngưỡng”. Khơng chỉ đồn kết giữa những người có tơn giáo và khơng có tơn
giáo với nhau mà theo Hồ Chí Minh phải đồn kết giữa những người có tín
ngưỡng, tơn giáo khác nhau.
Xuất phát từ đặc điểm là một quốc gia đa tơn giáo, tín ngưỡng nên việc
xây dựng khối đồn kết tồn dân khơng thể bỏ qua sự đồn kết giữa các tơn giáo
ở Việt Nam. Bởi lẽ, Người cho rằng dưới chế độ thực dân phong kiến, đồng bào
các tơn giáo đều bị áp bức, bóc lột nặng nề. Khi đất nước bị ngoại bang đô hộ thì
các tơn giáo cũng khơng được tự do. Sự thật: “Dân tộc giải phóng thì tơn giáo
mới được giải phóng. Lúc này chỉ có quốc gia mà khơng phân biệt tôn giáo nữa,
mỗi người đều là công dân của nước Việt Nam và có nhiệm vụ chiến đấu cho
nền độc lập hồn tồn của Tổ quốc”. Hồ Chí Minh kêu gọi các tơn giáo hãy dẹp

bỏ hiềm khích, đồn kết cùng toàn dân lo cho nền độc lập của nước nhà “phải
đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây
dựng đời sống hòa thuận, ấm no, xây dựng Tổ quốc. Phải chấp hành đúng chính
sách, tơn trọng tự do tín ngưỡng đối với tất cả các tôn giáo”.
Nhờ nêu cao tinh thần đồn kết lương giáo, hịa hợp dân tộc nên Hồ Chí
Minh đã tập hợp xung quanh mình nhiều giáo sĩ, giáo dân hết lòng phấn đấu cho
sự nghiệp cứu nước, kiến quốc, từ đó xóa dần những định kiến, mặc cảm do lịch
sử để lại và âm mưu chia rẽ của kẻ thù.
1.4. Nội dung của đoàn kết lương giáo

6


1.4.1. Đoàn kết lương giáo là một mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng trong
chiến lược đại đoàn kết dân tộc vì nền độc lập dân tộc, tự do, ấm no, hạnh
phúc của nhân dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là đoàn kết tất cả các
tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, giai cấp, tơn giáo, đảng phái…có ý
nghĩa chiến lược quyết định thành công của cách mạng, không phải là một thủ
đoạn chính trị nhất thời. Trong đó, đồn kết lương giáo, là một nội dung, bộ phận
không thể tách rời trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, nhằm thực hiện
thắng lợi mục tiêu chung của cách mạng, vì lợi ích chung của cộng đồng dân tộc.
Khẳng định điều đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đồn kết của ta khơng những rộng rãi,
mà cịn đồn kết lâu dài. Đồn kết là một chính sách dân tộc, khơng phải là một
thủ đoạn chính trị. Ta đồn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ
quốc; ta còn phải đồn kết để xây dựng nước nhà”.
Theo Hồ Chí Minh, để thực hiện đại đồn kết dân tộc nói chung, đồn kết
lương giáo nói riêng, địi hỏi phải hiểu rõ đặc điểm tâm lý, lợi ích và nguyện
vọng chính đáng…của đồng bào ta nói chung, đồng bào các tơn giáo nói riêng.
Đồng thời, biết chủ động khơi dậy những điểm tương đồng, từng bước làm hạn

chế dần những điểm khác biệt giữa các tộc người, tín ngưỡng, tơn giáo khác
nhau. Có như vậy, đồn kết lương giáo nói riêng, đại đồn kết dân tộc nói chung
mới thực sự là đồn kết tồn dân
Đối với đồng bào các tơn giáo ở nước ta là một bộ phận của dân tộc Việt
Nam, gắn bó với nhau từ bao đời nay và đều có chung một cội nguồn “con Lạc,
cháu Hồng”, “con Rồng, cháu Tiên”, trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, cũng
như trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, đồng bào theo các tơn giáo có vai
trị rất quan trọng góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong cuộc
đấu tranh giành độc lập, tự do, xây dựng đất nước giàu mạnh. Nhận thức sâu sắc
về vấn đề đó, Hồ Chí Minh ln quan tâm, động viên đồng bào lương cũng như
đồng bào giáo cùng nhau đoàn kết, thi đua góp cơng, góp sức trong sự nghiệp
đấu tranh thực hiện hồ bình, thống nhất Tổ quốc, vì cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc của nhân dân.
7


Dưới chế độ thực dân phong kiến, nhân dân ta bị áp bức, bóc lột tàn bạo,
phải chịu cảnh “một cổ, đơi trịng”, đồng bào các tơn giáo cũng cùng chung một
cảnh ngộ bị áp bức, bóc lột nặng nề cả về thể xác và tinh thần. Bởi Tổ quốc bị
mất độc lập, thì các tơn giáo cũng khơng được tự do. Cho nên, đồng bào các tơn
giáo cần đồn kết lại cùng với toàn dân tộc đấu tranh mưu giành lại độc lập cho
Tổ quốc và tự do cho mình. Ngày 13/9/1945, trong cuộc họp với đại biểu các tơn
giáo tại Hà Nội, Hồ Chí Minh chỉ rõ, dân tộc giải phóng thì tơn giáo mới được
giải phóng. Lúc này chỉ có quốc gia chứ khơng phân biệt tơn giáo nữa, mỗi
người đều là công dân của nước Việt Nam và có nhiệm vụ chiến đấu cho nền
độc lập hồn tồn của Tổ quốc.
1.4.2. Tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo thực hiện lương giáo
hồ hợp đồng hành cùng dân tộc
Tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng là quan điểm nhất
qn về tự do tín ngưỡng, tơn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm xây dựng đồn

kết lương giáo, khơng ngừng củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc. Theo
Hồ Chí Minh, tự do tín ngưỡng, tơn giáo là một quyền cơ bản của cơng dân. Mọi
cơng dân có quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nào, những người có tín
ngưỡng tơn giáo đều được quyền ứng cử và bầu cử mà khơng hề có một sự phân
biệt, đối xử. Mặt khác, theo Hồ Chí Minh tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn
giáo cịn thể hiện ở thái độ tích cực đấu tranh với những biểu hiện vi phạm quyền
đó của cơng dân. Tín ngưỡng, tơn giáo là niềm tin thiêng liêng, giữ một vị trí rất
quan trọng trong đời sống tinh thần và chi phối tâm tư, tình cảm, hành vi của đồng
bào giáo dân. Vi phạm niềm tin tơn giáo là vi phạm tín đồ, là làm tổn hại, gây chia
rẽ đoàn kết lương giáo, là mắc vào âm mưu thâm độc của kẻ thù.
Thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo là thể hiện sự tôn trọng quyền
cơ bản của con người, tôn trọng đức tin của mỗi người. Tuy có sự khác nhau về
thế giới quan, niềm tin giữa những người có tơn giáo và những người khơng có
tơn giáo, song khơng vì vậy mà đối đầu, nghi kỵ lẫn nhau, mà phải tơn trọng
đức tin của mỗi người. Hồ Chí Minh cho rằng: “Tất cả mọi người đều có quyền
nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu Chủ nghĩa Các Mác.
8


Cách đây 2000 năm, Đức Chúa Giêsu đã nói là ta phải yêu mến các kẻ thù của
ta. Điều đó đến bây giờ vẫn chưa được thực hiện”. Người còn nhấn mạnh: Tín
đồ Phật giáo tin ở Phật, tín đồ Giatô tin ở Đức Chúa Trời; cũng như chúng ta
tin ở đạo Khổng. Đó là những vị trí tơn nên chúng ta tin tưởng.
Năm 1945, chỉ một ngày sau khi tuyên bố độc lập, trong phiên họp đầu tiên của
Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời, khi đề cập đến những nhiệm vụ cấp bách
của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Hồ Chủ tịch đã thể hiện rõ quan điểm và
lập trường của Chính phủ đối với vấn đề tơn giáo. Người nói: “…Tất cả các cơng
dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, khơng phân biệt giầu,
nghèo, tơn giáo, giịng giống”; “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ
đồng bào giáo và đồng bào lương, để dễ thống trị. Tơi đề nghị Chính phủ ta tun

bố: TÍN NGƯỠNG TỰ DO và lương giáo đoàn kết”1.
Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ Cộng hồ, ở
Điều 10 về quyền cơng dân đã ghi rõ: “Nhân dân có quyền tự do tín ngưỡng”.
Để diễn đạt nội dung khái niệm tự do tín ngưỡng, tơn giáo đầy đủ hơn, trong
Chính cương của Mặt trận liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) đã khẳng
định: Mọi người cơng dân đều có quyền tự do tín ngưỡng và tự do khơng tín
ngưỡng, khơng ai được quyền xâm phạm đến quyền tự do đó.
Trong Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam (Điều 8) cũng đã ghi:
“Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của mọi người dân”. Năm 1951,
trước những luận điệu xuyên tạc của kẻ địch về “nguy cơ cộng sản tiêu diệt tôn
giáo”, trong buổi lễ kết thúc ra mắt Đảng Lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
tun bố và nói rõ với đồng bào các tín đồ tơn giáo rằng: “Chúng tơi xin nói rõ
để tránh sự hiểu lầm: “…về vấn đề tơn giáo, thì Đảng Lao động Việt Nam hồn
tồn tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người”2.
Khi hồ bình lập lại ở miền Bắc, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định chính sách
nhất quán, lâu dài của Đảng và Nhà nước ta về quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo và
khẳng định: Chính phủ nhất định làm đúng như vậy. Ngày 14/6/1955, Chủ tịch Hồ
1
2

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb CTQG, tập 4, tr 8, H2011.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, tập 7, tr 50, H2011.

9


Chí Minh đã ký Sắc lệnh 234/SL: Về vấn đề tôn giáo, gồm: 5 chương và 16 điều rất
chi tiết, cụ thể về quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân. Sắc lệnh này được
đồng bào có đạo nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ.
Theo Hồ Chí Minh đồng bào theo các tôn giáo là một bộ phận không thể

tách rời dân tộc, là lực lượng không thể thiếu trong khối đồn kết dân tộc. Đồn
kết các tơn giáo có vai trị quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, cũng
như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhận thức sâu sắc vấn đề đó,
Hồ Chí Minh ln quan tâm, động viên đồng bào lương cũng như giáo đồn kết,
thi đua góp cơng, góp sức trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ hồ bình, thống nhất
Tổ quốc. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ rất khó khăn, gian
khổ nhưng vơ cùng vẻ vang, đó là sự nghiệp của tồn dân. Để phát huy được tối
đa sức mạnh tổng hợp của tồn dân, Hồ Chí Minh u cầu Đảng và Nhà nước
phải có chính sách đúng đắn để động viên đông đảo nhân dân tham gia vào sự
nghiệp chung của dân tộc, không phân biệt lương giáo, dân tộc đa số hay thiểu
số, miền núi, miền xuôi, dù lương hay giáo luôn hướng về cội nguồn “con Lạc,
cháu Hồng” để cùng nhau đồn kết, gắn bó trong một cộng đồng dân tộc, phấn
đấu vì một nướcViệt Nam độc lập và giàu mạnh.
Mặt khác, để xây dựng và củng cố đoàn kết lương giáo, Hồ Chí Minh yêu
cầu trong quan hệ giao tiếp, trong ứng xử hàng ngày, tuyệt đối không bao giờ
được phép có lời nói hay việc làm xúc phạm đến niềm tin tôn giáo. Bởi lẽ, đối
với các tín đồ tơn giáo, họ ln coi đức tin là điều hết sức thiêng liêng. Mọi hành
vi, thái độ thiếu tơn trọng hoặc xem thường, chế nhạo tín ngưỡng, tơn giáo là
xúc phạm đến niềm tin của đồng bào, sẽ làm tổn hại đến đoàn kết lương giáo,
cũng là trái với pháp luật của Nhà nước ta.
Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, đồng thời phải kiên quyết
nghiêm trị những kẻ lợi dụng tôn giáo để phá hoại sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta: tuyên truyền chiến tranh, phá hoại đồn kết, ngăn trở tín đồ làm
nghĩa vụ cơng dân, xâm phạm đến tự do tín ngưỡng và tự do tư tưởng của
người khác, hoặc làm những điều trái pháp luật, đội lốt tôn giáo để chống
phá cách mạng.
10


Là người cách mạng chân chính, nhưng Hồ Chí Minh ln tơn trọng quyền

tự do tín ngưỡng, tơn giáo, coi đó là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần
chúng nhân dân và là quyền công dân. Theo Hồ Chí Minh, tín ngưỡng, tơn giáo
có một số điểm tích cực phản ánh giá trị nhân văn của con người như: tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên, những người có cơng với dân tộc, đó là nhân tố hợp lý
để Người kế thừa, bổ sung làm phong phú thêm đời sống tinh thần trong nhân
dân. Hồ Chí Minh ln nhắc nhở cán bộ và nhân dân ta tuyệt đối không được
xúc phạm đến tín ngưỡng, tơn giáo của đồng bào. Đồng thời, Người giáo dục cho
cán bộ, đảng viên phải tôn trọng phong tục tập quán, tín ngưỡng của mọi người, coi
trọng và đề cao những người có cơng với dân với nước, những bậc tiên hiền, những
anh hùng liệt sĩ hy sinh vì dân, vì nước... Đó là nét đẹp của truyền thống dân tộc,
cần phải biết kế thừa, khơi dậy truyền thống và niềm tự hào, tự tôn dân tộc, phát
huy cội nguồn “con Rồng, cháu Tiên”, tình đồng chí, nghĩa đồng bào, ruột thịt, dù
khác nhau về tín ngưỡng, tơn giáo, dân tộc,... Chúng ta đều phải có trách nhiệm gìn
giữ những gì mà tổ tiên để lại.
Hồ Chí Minh khơng chỉ là người nêu ra và u cầu phải tơn trọng quyền
tự do tín ngưỡng, tơn giáo mà bản thân Người còn nêu một tấm gương sáng,
mẫu mực về tinh thần, thái độ trong xử sự, giải quyết những vấn đề về tơn
giáo và thực hiện chính sách tơn giáo. Vì vậy, mà ngay cả là người đứng đầu
chức sắc tôn giáo, Linh mục Trần Tam Tỉnh cũng phải thừa nhận, ông viết:
“Đối với giáo hội công giáo, cụ Hồ Chí Minh tỏ ra hết sức có tình, có lý…”;
“Các lời lẽ của Cụ phê phán Giáo hội khơng bao giờ chạm đến khía cạnh
Đức tin, mà chỉ nằm ở phạm vi các vấn đề cơ chế và chính trị”, “...chưa bao
nhận thấy trong các chương trình của Cụ Hồ Chí Minh một dấu vết nào dù
rất nhỏ, của sự cơng kích, đa nghi hoặc chế giễu đối với một tơn giáo bất kỳ
nào”. Điều đó chứng tỏ, chỉ trên cơ sở tơn trọng tín ngưỡng tơn giáo mới có
thể xây dựng được khối đồn kết lương giáo.
1.4.3. Quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các
tôn giáo và làm tốt công tác vận động quần chúng của Đảng
11



Đối với Hồ Chí Minh, thực hiện đồn kết lương giáo, đó khơng phải là khẩu
hiệu hơ hào, khơng chỉ lời nói sng, mà phải trở thành hành động cách mạng
thiết thực, cụ thể. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ, dưới chế độ áp bức, bóc lột
đồng bào các tơn giáo, khơng những khó khăn, thiếu thốn về vật chất, mà còn bị
áp bức, đè nén về tinh thần. Cho nên, đồng bào các tôn giáo cần phải được quan
tâm, giúp đỡ đặc biệt. Theo Hồ Chí Minh, vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu
để xây dựng và củng cố đoàn kết lương giáo, là phải quan tâm chăm lo đời sống
vật chất, tinh thần cho đồng bào các tôn giáo. Muốn vậy, phải ra sức phát triển sản
xuất, thì mới có điều kiện bảo đảm ăn, mặc, ở, đi lại…và những nhu cầu thiết yếu
hàng ngày của đồng bào và có như vậy đồng bào, mới thực sự tin tưởng vào
Đảng, Chính phủ, đồn kết lương giáo chính vì vậy, mà được củng cố vững chắc.
Người chỉ rõ: “Sản xuất ngày càng phát triển, phần xác được ấm no thì phần hồn
cũng được yên vui”.
Để đẩy mạnh phát triển sản xuất, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải có chủ
trương, chính sách đúng đắn và phải gắn với kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội ở từng vùng, từng địa phương cụ thể, để đồng bào yên tâm định canh, định
cư, không ngừng cải thiện cuộc sống, ngày càng ấm no hơn. Đặc biệt, đối với
đồng bào các tơn giáo ở những nơi khó khăn, Hồ Chí Minh đã yêu cầu các cơ
quan Trung ương phải đi sâu, đi sát để hướng dẫn và động viên, khuyến khích
tín đồ các tơn giáo, từng bước đi vào làm ăn tập thể, định cư, định canh, tham
gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, xây dựng đời sống mới. Đồng thời, Người
nhấn mạnh vai trò của hợp tác xã, là con đường tốt nhất để giúp đỡ đồng bào
thốt khỏi đói nghèo, lạc hậu. Hồ Chí Minh u cầu: “Phải ra sức giúp đỡ củng
cố và phát triển tốt các hợp tác xã của đồng bào công giáo nhằm làm cho hợp
tác xã ngày càng vững chắc. Xã viên thu nhập càng tăng, đời sống ngày càng
ấm no hơn”.
Mặt khác, để khơng ngừng củng cố, tăng cường đồn kết lương giáo, theo Hồ
Chí Minh, khơng chỉ dừng lại ở việc quan tâm, chăm lo đời sống vật chất, mà còn
phải thường xuyên chăm lo đời sống tinh thần cho đồng bào các tôn giáo; quan tâm

phát triển giáo dục, xoá nạn mù chữ và các tệ nạn lạc hậu, mê tín, dị đoan, khơng
12


ngừng nâng cao dân trí; mở trường lớp cho con em đồng bào học tập; tạo điều kiện
thuận lợi để các tín đồ tơn giáo được tự do sinh hoạt tín ngưỡng, sinh hoạt cộng đồng
theo đúng pháp luật quy định. Coi trọng và nhấn mạnh vấn đề này, Hồ Chí Minh
ln nhắc nhở mọi cán bộ, đảng viên, nếu giáo dục tốt và biết quan tâm chăm lo đến
đời sống mọi mặt của họ thì giáo dân có thể đấu tranh đến cùng “sống theo Đảng,
chết theo Chúa”.
Trong công tác vận động quần chúng của Đảng, đối với đồng bào các tôn
giáo, cần phải nắm vững nội dung thực chất của vấn đề, đó là thực hiện đồn kết
lương giáo trong xây dựng và củng cố đoàn kết dân tộc ở nước ta. Vì vậy, cùng với
việc tăng cường và kiên trì tun truyền, giải thích các chủ trương, chính sách tơn
giáo của Đảng, Nhà nước, phải khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho đồng bào tín đồ và chức sắc các tơn giáo, đồng thời phải được gắn liền với việc
tổ chức xây dựng đời sống mới, kiên quyết bài trừ mê tín, dị đoan và các thói quen
lạc hậu trong các tầng lớp nhân dân. Bởi mê tín, dị đoan, thói quen lạc hậu là vấn
đề rất phức tạp, ranh giới giữa mê tín với tín ngưỡng, tơn giáo chỉ là tương đối và
rất mong manh. Chúng có cái chung là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên, chúng
tồn tại đan xen vào nhau, có khi chuyển hố lẫn nhau. Cho nên, phải phân biệt được
những hiện tượng mê tín, dị đoan để kiên quyết xoá bỏ và Người căn dặn phải “ra
sức làm cho tốt, cho khéo để xố bỏ những cái có hại như hủ tục, mê tín dị đoan.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh rất quan tâm coi trọng đội ngũ các chức sắc tơn
giáo, vì đây là một bộ phận có vai trị rất quan trọng trong việc duy trì mọi sinh hoạt
và các hoạt động của các tôn giáo. Họ là những người rất am hiểu giáo lý, giáo luật,
kinh thánh và có uy tín cao đối với các tín đồ trong các tơn giáo. Vì thế, Người căn
dặn cần phải quan tâm đến lực lượng cốt cán, các vị chức sắc đứng đầu trong các tôn
giáo để động viên, thuyết phục, cảm hoá họ phát huy tinh thần u nước, vận động
tín đồ các tơn giáo đi theo cách mạng, thực hiện đoàn kết lương giáo, củng cố và tăng

cường khối đại đoàn kết dân tộc.
Thực tế, nhiều chức sắc tơn giáo đã được Hồ Chí Minh cảm hố và đã có đóng
góp đáng kể cho sự nghiệp cách mạng như: Giám mục Lê Hữu Từ, Ngô Tử Hạ,
Nguyễn Mạnh Hà, Hồ Ngọc Cẩn, Cao Triều Phát, Phạm Bá Trực...Đồng bào công
13


giáo đã phát huy tinh thần “kính Chúa, yêu nước” cùng toàn dân tiến hành kháng
chiến chống xâm lược giành độc lập dân tộc. Hồ Chí Minh viết: “Đồng bào Công
giáo đương đem cả lực lượng giúp vào cuộc kháng chiến và kiến quốc. Tinh thần hy
sinh phấn đấu tức là noi theo tinh thần cao thượng của đức Chúa Giêsu”. Quan tâm,
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các tôn giáo, là cơ sở có
ý nghĩa quan trọng, hướng dẫn giúp đồng bào giảm dần sự lệ thuộc vào thần
linh, thượng đế. Đồng thời, là điều kiện căn bản, cốt yếu để củng cố và tăng
cường đoàn kết lương giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.4.4. Kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện lợi dụng tín ngưỡng, tơn
giáo gây chia rẽ đồn kết giữa đồng bào lương và giáo, phá hoại khối đại
đoàn kết dân tộc
Chủ nghĩa để quốc tiến hành xâm lược, thống trị các dân tộc thuộc địa
thường sử dụng tôn giáo như một công cụ hữu hiệu để áp bức, nô dịch nhân dân
lao động ở các thuộc địa. Đối với nước ta, thực dân Pháp tiến hành xâm lược, gắn
liền với việc truyền đạo vào nước ta, để phục vụ cho mưu đồ áp bức, thống trị lâu
dài dân tộc. Mặt khác, chúng khuyến khích và tạo điều kiện cho các tôn giáo
trong nước phát triển cả về số lượng tín đồ và các loại hình tơn giáo dưới nhiều
màu sắc khác nhau, nhằm mục tiêu chống phá cách mạng, chống cộng quyết liệt.
Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã lên án mạnh mẽ
bọn thực dân Pháp câu kết với các giáo sĩ, chức sắc Công giáo để xâm lược nước
ta. Người kịch liệt tố cáo các giáo sĩ Pháp làm gián điệp, trực tiếp bắn giết đồng
bào ta cả giáo và lương, “Chính những tên giáo sĩ đã vẽ bản đồ An Nam cho quân
xâm lược. Chính bọn họ đã đưa tin cho gián điệp dẫn đường cho đội viễn chinh và

tố giác những người yêu nước”. Hồ Chí Minh đã kết luận: “Nếu có dân tộc nào
phải ơn Chúa và các giáo sĩ thì chính đó là dân tộc An Nam! Vì Chúa và các giáo
sĩ mà dân tộc này phải sa vào cảnh nô lệ như ngày nay”.
Tại Hội nghị quốc tế Nơng dân ở Mátxcơva (10/1923), Hồ Chí Minh vạch rõ
những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa thực dân lợi dụng tôn giáo để xâm lược,
nô dịch và thống trị dân tộc An Nam: “Nhà thờ (tôn giáo) là thuốc phiện của thế
giới, nhưng chúng tôi nhờ nền văn minh phương Tây mà chúng tơi có cả Nhà thờ
14


lẫn thuốc phiện…”. “Như vậy là người dân An Nam khơng phải chỉ bị trói vào
một chiếc cột như tơi đã trình bày với các đồng chí mà họ cịn bị đóng đinh câu
rút gọn bởi bốn thế lực liên hợp: Nhà nước, tên thực dân, nhà thờ và tên lái bn”.
Hồ Chí Minh coi bọn đội lốt tơn giáo để chống phá cách mạng là bọn“Việt gian
đồng thời cũng là giáo gian”, chúng là bọn bất chính, giả danh tín đồ để làm điều
xấu độc mà thơi.
Để củng cố và tăng cường đoàn kết lương giáo, nhằm thực hiện thắng lợi
mục tiêu chung của cách mạng, vì lợi ích chung của cộng đồng dân tộc, theo Hồ
Chí Minh, một mặt phải kiên trì giải thích các quan điểm, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước cho đồng bào hiểu rõ để tự giác chấp hành, thực hiện.
Mặt khác, Người yêu cầu, phải ra sức tuyên truyền, vận động và hướng dẫn
trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt đối với đồng bào các tôn giáo chấp hành
nghiêm pháp luật của Nhà nước, phải làm cho mọi người dân ý thức được đầy
đủ về quyền và nghĩa vụ cơng dân của mình đối với Tổ quốc, thực hiện mọi
cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, đó là đáp ứng nhu cầu chính
đáng của một bộ phận nhân dân, trên cơ sở quy định của pháp luật. Đồng
thời, kiên quyết xử lý những tổ chức, cá nhân có hành vi lợi dụng tự do tín
ngưỡng, tơn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ đoàn kết
lương giáo. Hồ Chí Minh chỉ rõ, dù là đồng bào lương, hay đồng bào giáo, hễ

là công dân Việt Nam, đều phải bình đẳng trước pháp luật.
Kiên trì giải thích các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta, để nhằm giúp cho chức sắc, tín đồ các tôn giáo không bị mắc mưu của
kẻ thù. Đồng thời, phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng,
kịp thời đấu tranh vạch rõ những âm mưu, thủ đoạn bịp bợm, xuyên tạc của kẻ
địch để cho nhân dân hiểu rõ và cảnh giác. Việc vạch trần mọi luận điệu xuyên
tạc của bọn đế quốc, không chỉ nhằm giải toả băn khoăn, thắc mắc, mặc cảm của
một số tín đồ, chức sắc tơn giáo, mà cịn làm cho đồng bào hiểu rõ chính sách
tơn giáo của Đảng Nhà nước ta, quyết tâm đi theo Đảng làm cách mạng.
15


Theo Hồ Chí Minh, đấu tranh kiên quyết với mọi âm mưu, thủ đoạn của
kẻ địch lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo làm cản trở việc thực hiện đồn kết
lương giáo, phủ nhận khối đại đoàn kết dân tộc là điều rất cần thiết. Nhưng
quan trọng là phải làm thấu suốt trong các tầng lớp nhân dân, nhất là đối với
đồng bào các tín đồ, chức sắc tơn giáo, phân biệt rõ giữa tín ngưỡng, tơn giáo
với âm mưu, hành động lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để hoạt động chính trị,
chống đối chính quyền, phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Đối với tín ngưỡng, tơn giáo sinh hoạt đúng đắn được hiến pháp, pháp
luật Nhà nước ta thừa nhận và bảo vệ, coi đó là một quyền cơ bản của công
dân, là nhu cầu về đời sống tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân,
đồng thời phải thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân đối với Tổ quốc.
1.5. Phương pháp thực hiện tư tưởng đồn kết lương giáo
1.5.1. Tơn trọng tự do tín ngưỡng tơn giáo - cơ sở của đồn kết lương giáo
Theo Hồ Chí Minh, vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng khối đoàn
kết lương giáo là phải tôn trọng niềm tin của quần chúng. Mọi sự xúc phạm đến
tín ngưỡng, tơn giáo dưới bất cứ hình thức nào, vì mục đích gì cũng gây nên mối
hiềm khích, đố kỵ nhau, tạo điều kiện cho sự chia rẽ lương và giáo. Vì vậy,
Người ln căn dặn cán bộ, chiến sĩ, đảng viên phải học tập, nghiên cứu về

phong tục, tín ngưỡng của nhân dân để tránh xúc phạm tới tín ngưỡng của họ.
Người nhắc: “tránh phạm đến phong tục tập qn, tín ngưỡng của dân” và nên
“tìm hiểu phong tục tập quán nghiêm túc chấp hành điều kiêng”.
1.5.2. Chống âm mưu lợi dụng tôn giáo, chia rẽ khối đoàn kết lương
giáo của các thế lực phản động
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, các thế lực đế quốc thực dân ln có âm mưu
lợi dụng tơn giáo, chia rẽ khối đoàn kết lương giáo để dễ bề thống trị và chống
lại sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Do vậy, muốn xây dựng khối đoàn kết
lương giáo thì trước hết phải chống mọi âm mưu lợi dụng tơn giáo, chia rẽ lương
giáo của chúng. Hồ Chí Minh nêu rõ quan điểm dứt khốt của mình là dù Việt
Minh là cộng sản hay khơng thì mục tiêu của những người cộng sản là lãnh đạo
toàn dân đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Người nói: “Việt Nam độc lập
16


đồng minh cốt để đoàn kết tất cả đồng bào để làm cho Tổ quốc độc lập chứ
không phải chia rẽ, phản đối tơn giáo”.
Theo Hồ Chí Minh, muốn đập tan âm mưu chia rẽ lương giáo thì phải
tích cực tuyên truyền giải thích rõ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
để đồng bào các tôn giáo hiểu và làm theo. Người căn dặn: “Phải đoàn kết chặt
chẽ, phải nâng cao chí khí chiến đấu, nâng cao lịng tin tưởng; có tính kỷ luật,
tính tổ chức, như thế chưa đủ còn phải kiên nhẫn, tức là phải chịu khó, chịu khổ,
dẻo dai…” để giác ngộ, tranh thủ được đồng bào. Đồng thời, Người cũng
khuyên đồng bào hãy cảnh giác chớ mắc mưu kẻ địch tuyên truyền lừa bịp và
hãy ra sức giúp đỡ cán bộ, hăng hái thực hiện mọi cơng tác của Chính phủ, chấp
hành đúng chính sách tơn trọng tự do tín ngưỡng…
1.5.3. Lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm mẫu số chung để thực hiện
chính sách đồn kết lương giáo, hịa hợp dân tộc
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn đồn kết tơn giáo thì phải tìm ra được những
điểm chung, những nét tương đồng của những người có tơn giáo cũng như

khơng có tơn giáo; những người có tơn giáo khác nhau và giữa những người
cộng sản với quần chúng các tôn giáo. Nghĩa là, phải tìm được một điểm chung
nhất, nó có thể vượt qua được những sự khác biệt về tư tưởng, quan điểm, chính
kiến, tơn giáo để mọi người theo hoặc khơng theo tơn giáo đều có thể chấp nhận
để đồn kết chặt chẽ với nhau nhằm phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng ấy.
1.5.4. Luôn quan tâm đến đời sống vật chất của đồng bào có đạo
Để đồn kết lương giáo, Hồ Chí Minh cịn ln nhắc nhở đồng bào và
chiến sĩ cả nước phải quan tâm, chăm sóc cho cuộc sống vật chất và tinh thần
của đồng bào các tôn giáo. Lúc nào trong tâm tưởng của Người cũng trăn trở bởi
một điều là làm sao để “các cấp ủy phải thật quan tâm đến phần đời và phần đạo
của đồng bào công giáo”3, làm thế nào để “sản xuất ngày càng phát triển, phần
xác ta được no ấm thì phần hồn cũng được yên vui”. Tuy nhiên, Người cũng lưu
ý, hoạt động tôn giáo không được cản trở sản xuất của nhân dân, khơng được
trái với chính sách, pháp luật của Nhà nước.
3

Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Sđd, t.11,tr.83.

17


1.5.5. Vận động hàng ngũ chức sắc các tôn giáo tham gia sự nghiệp
cứu nước, kiến quốc
Hồ Chí Minh ln tơn trọng và đánh giá cao vai trị, uy tín của hàng ngũ
giáo sĩ, nhà tu hành, đặc biệt là những người đứng đầu các tôn giáo đối với quần
chúng tín đồ. Người xem họ là những người lãnh đạo có khả năng và uy tín để
tập hợp, đồn kết đồng bào các tôn giáo. Biết tranh thủ và tranh thủ được hàng
ngũ chức sắc tôn giáo là một biện pháp quan trọng để thực hiện chính sách đồn
kết lương giáo, hòa hợp dân tộc.
Bằng một thái độ trân trọng, tin tưởng với tinh thần cầu thị thật sự mà Hồ

Chí Minh đã quy tụ được nhiều chức sắc tơn giáo có uy tín lớn như: giám mục
Lê Hữu Từ, linh mục Phạm Bá Trực, Lê Văn Yên…tích cực tham gia đấu tranh
bảo vệ nền độc lập dân tộc và xây dựng khối đồn kết tơn giáo. Người khun
đồng bào tín hữu hãy noi gương những vị ấy mà đồn kết đấu tranh cho mục tiêu
chung của dân tộc.
1.5.6. Khai thác các giá trị nhân bản trong các tôn giáo
Hồ Chí Minh rất coi trọng việc khai thác các giá trị nhân bản vốn có
trong các tơn giáo, coi đó là điểm tương đồng để thu hút, tập hợp và xây dựng
khối đoàn kết toàn dân. Người ca ngợi tấm lòng bác ái cao cả của Giêsu, tinh
thần đại từ bị cứu độ chúng sinh của Đức Phật Thích Ca và tấm lòng nhân nghĩa
của Đức Khổng Tử… Người chú ý khai thác những mặt tích cực có trong tơn
giáo, đặc biệt là nêu gương những người sáng lập ra các tơn giáo để xây dựng
khối đồn kết lương giáo, hịa hợp dân tộc. Đây chính là nét đặc sắc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết lương giáo trong tình
hình hiện nay ở nước ta
2.1. Thực trạng về đồn kết lương giáo ở nước ta trong q trình thực
hiện công cuộc đổi mới
2.1.1. Những kết quả đạt được về thực hiện đoàn kết lương giáo
Thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới đất nước, trước hết phải nói
đến là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đặc biệt là nhận thức sâu sắc về vai trò,
18


sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Đảng xác định rõ, đoàn kết lương giáo
là một bộ phận quan trọng, khơng thể tách rời trong khối đại đồn kết dân tộc.
Đồn kết lương giáo khơng những Đảng ta quan tâm, chăm lo bằng những hình
thức, biện pháp cụ thể, mà còn được thể hiện trong các chủ trương, chính sách
đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Chính vì vậy, những năm gần đây tình hình tơn giáo ở nước ta nhìn chung ổn

định, hầu hết các chức sắc, tín đồ trong các tơn giáo chấp hành nghiêm chỉnh
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia đóng
góp vào việc thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ kinh tế - xã hội của từng địa
phương và của cả nước; các hoạt động xã hội và sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo
lành mạnh; ý thức trách nhiệm công dân của đồng bào các tôn giáo được nâng
lên rõ rệt.
Đồng bào theo các tôn giáo ngày càng phấn khởi tin tưởng vào các chủ
trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước. Ý thức cộng đồng, tinh thần
đồn kết, gắn bó, chung sức, chung lịng của các tầng lớp nhân dân, trong đó
cả đồng bào theo các tơn giáo đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đồng bào các tôn giáo đã cùng với đồng
bào cả nước đã tích cực hưởng ứng cuộc vận động thi đua yêu nước và phong
trào: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đã đạt được những kết quả
khá tồn diện, góp phần ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và tạo được sự
đồng thuận trong mọi tầng lớp nhân dân. Nổi bật là, đồng bào các tơn giáo đã có
nhiều cố gắng, vượt qua những khó khăn, trở ngại trong cuộc sống thực hiện tốt
các phong trào do Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và chính
quyền các cấp phát động như phong trào: “người tốt, việc tốt”; “uống nước nhớ
nguồn”; “đền ơn đáp nghĩa”; “xố đói giảm nghèo”; xây dựng gia đình văn hố
mới và thực hiện tồn dân đồn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư... Từ
các phong trào đó, đã xuất hiện nhiều tấm gương điển hình của đồng bào các tơn
giáo trong các hội nghị biểu dương những cá nhân, tập thể và khu dân cư, tiêu
biểu là các tu nữ dòng Nữ tử Bác ái Vinh sơn của Đạo Thiên chúa trong việc
19


chăm sóc và điều trị bệnh nhân AISD, bệnh nhân phong ở Thừa Thiên Huế,
thành phố Hồ Chí Minh...
Tinh thần tương thân, thương ái của các chức sắc, tín đồ Đạo Cao đài, Hoà

hảo mở các “tuệ tỉnh đường” và các phịng khám chữa bệnh miễn phí cho người
nghèo và các hoạt động từ thiện khác nhằm giúp đỡ bệnh nhân nghèo, hồn cảnh
gia đình khó khăn tại các tu viện ở nhiều địa phương.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quan tâm của cấp uỷ, chính quyền các
cấp ở các địa phương, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào ta nói
chung, tơn giáo nói riêng được cải thiện rõ rệt, tất cả trẻ em đến tuổi đi học
được đến trường; trình độ nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân được nâng
lên; tình đồn kết giữa đồng bào có tơn giáo và đồng bào khơng theo tôn giáo
ngày càng thêm bền chặt; nhiều khu dân cư của đồng bào tôn giáo đã trở
thành điểm sáng về tuân thủ pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm,
phòng chống ma tuý và các tệ nạn xã hội khác, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn
của các thế lực thù địch hịng lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để lại chính quyền
địa phương gây mất ổn định xã hội. Tinh thần đoàn kết, hỗ trợ và giúp đỡ lẫn
nhau giữa đồng bào lương, đồng bào giáo ở các địa phương đã có những bước
phát triển mới, góp phần giúp đỡ đồng bào các tơn giáo đang gặp khó khăn vươn
lên, thốt khỏi đói nghèo và lạc hậu...
2.1.2. Những hạn chế, tồn tại
Trong q trình thực hiện đồn kết lương giáo trong công cuộc đổi mới đất
nước, bên cạnh những kết quả đạt được đã góp phần quan trọng trong củng cố
và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm
vụ cách mạng do Đảng đề ra. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số hạn chế, khuyết
điểm cần sớm được khắc phục đó là:
Việc ban hành các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan về
tơn giáo và chính sách tơn giáo có lúc, có nơi chưa phù hợp, chưa đồng bộ, chưa
được triển khai kịp thời, thiếu cụ thể hố và hướng dẫn để thực hiện.
Vai trị quản lý của Nhà nước về tơn giáo, nhất là chính quyền các cấp ở địa
phương chưa được coi trọng và đề cao. Một số vụ việc xảy ra về tranh chấp,
20



khiếu kiện, gây rối, mất đồn kết…xử lý cịn lúng túng, để kéo dài thiếu dứt
điểm, gây nhiều dư luận khác nhau trong xã hội.
Hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực, đặc
biệt là sự phục hồi một số hủ tục, tệ mê tín, dị đoan, một số tổ chức tôn giáo
đang hoạt động không theo đúng tơn chỉ mục đích, vi phạm pháp luật của Nhà
nước. Mặt khác một số tổ chức, cá nhân lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng,
tơn giáo của Đảng, Nhà nước, lợi dụng sự cả tin của một bộ phận nhân dân để
hành nghề mê tín trục lợi cá nhân: như giáo phái Thanh Hải vô thượng sư, Long
hoa Di lặc, Ngọc phật Hồ Chí Minh, Thiên cơ... lén lút tuyên truyền hoạt động
và phát tán nhiều kinh sách bất hợp pháp ở nhiều địa phương.
Hoạt động của tơn giáo cịn có những diễn biến phức tạp, có xu hướng gia
tăng tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp, khó phát hiện, khó quản lý. Những năm gần
đây đã xuất hiện tình trạng ngấm ngầm hoặc cơng khai tranh giành ảnh hưởng tôn
giáo, một số tôn giáo, “tà đạo”, tín ngưỡng tự phát ra đời và ngang nhiên ở một số
địa phương miền núi phía Bắc, tây nguyên, tây Nghệ An…với những dấu hiệu rất
phức tạp, gây mất ổn định, làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nhận thức của một bộ phận quần chúng nhân dân, kể cả đồng bào có tín
ngưỡng, tơn giáo và khơng có tín ngưỡng, tơn giáo cịn mơ hồ, lệnh lạc về vai trị,
tầm quan trọng của đồn kết lương giáo, nhiều tín đồ do trình độ nhận thức hạn
chế, nhẹ dạ, cả tin, bị lôi kéo, mua chuộc đã tiếp tay và tạo điều kiện cho một số
phần tử, cơ hội, cực đoan, sùng đạo…tổ chức truyền đạo trái phép và lợi dụng tín
ngưỡng, tơn giáo để hành nghề mê tín, dị đoan xuất hiện ở nhiều địa phương.
Bên cạnh đó, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, đã làm cản
trở đến quá trình thực hiện đoàn kết lương giáo. Núp dưới danh nghĩa đấu tranh
vì “quyền tự do, dân chủ”, “tín ngưỡng, tơn giáo”, “nhân quyền” một số phần tử
cực đoan, phản động trong nước tìm cách móc nối với các tổ chức phản động
lưu vong ở nước ngồi, đã khơng từ một thủ đoạn gian xảo, hịng tìm mọi cách
để xun tạc sự thật, xuyên tạc quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về
quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo.
21



Chúng đã trắng trợn phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và xuyên tạc, vu cáo nhà nước Việt Nam vi phạm “nhân quyền”, “tôn
giáo”…để lơi kéo, dụ dỗ, mua chuộc, kích động đồng bào giáo dân chống lại
Đảng cộng sản, chống đối chính quyền, chống phá đoàn kết lương giáo, phá hoại
khối đại đoàn kết dân tộc. Thực tế đó, đã tác động ảnh hưởng khơng nhỏ đến
q trình thực hiện đồn kết lương giáo ở nước ta những năm vừa qua, đặc biệt
là từ khi bước vào công cuộc đổi mới đất nước.
2.2. Một số giải pháp cơ bản tăng cường đoàn kết lương giáo ở nước ta
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.2.1. Đổi mới cơng tác tun truyền, giáo dục các quan điểm, chính sách của
Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đối với các
tín đồ, chức sắc tơn giáo
Đổi mới và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho các tầng lớp
nhân dân nói chung, đồng bào các tín đồ và chức sắc tơn giáo nói riêng phải
nhằm nâng cao trình độ nhận thức, trình độ hiểu biết về các quan điểm,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tơn giáo và cơng tác tơn
giáo trong tình hình mới.
Cơng tác giáo dục, tun truyền phải thiết thực góp phần nâng cao trình
độ dân trí nâng cao kiến thức, hiểu biết cơ bản về khoa học tự nhiên và xã
hội, nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, đặc biệt là hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của công dân đối
với Tổ quốc, gắn bó đồng hành cùng dân tộc.
Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục, tuyên truyền phù hợp với
từng đối tượng cụ thể. Coi trọng giáo dục các giá trị văn hoá, nhân văn, nhân
đạo tốt đẹp của dân tộc, khơi dậy trong mỗi người dân tinh thần yêu nước,
tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc, ý thức đoàn kết cộng đồng, tinh thần tương
thân, tương ái, khoan dung độ lượng và khơi dậy tính hướng thiện trong mỗi
con người cùng hướng về một cội nguồn của Tổ quốc. Đồng thời phải nắm

chắc đối tượng để xác định phương pháp tuyên truyền, giáo dục cho phù
hợp, đặc biệt là đối với đồng bào có đạo. Muốn tuyên truyền, giáo dục có
22


hiệu quả đối với đồng bào các tôn giáo phải có hiểu biết nhất định về kinh
sách, giáo lý, giáo luật…của các tơn giáo, biết khơi dậy những mặt tích cực,
tiến bộ trong kinh thánh, giáo lý để giáo dục, động viên giáo dân và kết hợp
chặt chẽ giữa công tác tuyên truyền, giáo dục với công tác vận động quần
chúng trong từng nội dung, trên từng địa phương, địa bàn.
Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục, tuyên truyền
phổ biến pháp luật của Nhà nước sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân để làm
cho mọi người thấy được quyền và nghĩa vụ công dân, mặt khác, động viên
hướng dẫn quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào đấu tranh chống
những hành vi, biểu hiện làm trái pháp luật của Nhà nước. Từ đó, phân biệt rõ
mục đích chính trị và những hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo làm trái
pháp luật cần phải nghiêm trị kịp thời.
Để góp phần nâng cao nhận thức cho mọi tầng lớp nhân dân, không chỉ
làm tốt công tác giáo dục đơn thuần mà chúng ta chủ động tuyên truyền, giáo
dục để nhân dân thấy được âm mưu, thủ đoạn đen tối của các thế lực thù địch
đối với sự nghiệp cách mạng của nước ta: xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng ta, thành quả sự nghiệp đổi mới đất nước, đáng chú ý nhất là sự chia
rẽ khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm
cho quần chúng nhân dân không nghe, không tin và khơng làm theo sự xúi dục,
kích động của kẻ xấu ở mọi lúc, mọi nơi.
2.2.2. Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về tôn giáo, phát huy
trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt công tác vận động quần
chúng của Đảng
Phát huy vai trò quản lý của Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo,
là làm cho mọi công dân đều phải hiểu rõ rằng, pháp luật của Nhà nước ta

không chống lại tơn giáo, mà bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
mọi công dân và được thực thi trên thực tế, nhưng đồng thời cũng kiên quyết
đấu tranh với những hành vi, biểu hiện lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo. Mọi
hành vi lợi dụng tôn giáo để làm mất trật tự an toàn xã hội, phương hại đến
nền độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đại đồn kết dân tộc, chống lại Nhà
23


nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây tổn hại đến các giá trị đạo
đức, lối sống, văn hoá của nhân dân đều bị xử lý nghiêm minh theo đúng
pháp luật.
Tăng cường quản lý của Nhà nước về tơn giáo phải bảo đảm tính tồn diện:
quản lý về tổ chức, quản lý về hoạt động, sinh hoạt của tôn giáo theo đúng pháp
luật, kể cả việc phong tước, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử trong tôn
giáo, đại hội, hội nghị của các tổ chức tôn giáo và xây dựng các cơ sở tôn giáo,
kinh doanh, xuất nhập khẩu kinh sách tôn giáo, các hoạt động mạng tính quốc tế
của các tổ chức, cá nhân về tơn giáo…
Trước hết, tăng cường quản lý của Nhà nước về quản lý tổ chức tôn giáo.
Mọi tôn giáo phải đăng ký và được chính quyền các cấp có thẩm quyền cho
phép, khi được các cấp chính quyền cho phép, phải hoạt động theo đúng
phạm vi, quyền hạn. Chú ý, mọi hoạt động không đúng với phạm vi, quyền
hạn cho phép của các cấp có thẩm quyền, dẫn đến vi phạm pháp luật Nhà
nước, phải được xử lý kiên quyết, kịp thời. Mọi hoạt động truyền bá đạo phải
tuân thủ trong phạm vi, khuôn khổ pháp luật quy định, nhằm phục vụ cho đời
sống tinh thần của nhân dân, bảo đảm “sống tốt đời, đẹp đạo”; việc phong các
chức sắc của các tôn giáo phải theo đúng thẩm quyền được Nhà nước ta chấp
thuận và cấp phép.
Tuy nhiên, vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc củng cố và
tăng cường đoàn kết lương giáo, là phải làm tốt công tác vận động quần
chúng. Công tác vận động quần chúng các tơn giáo địi hỏi trước hết là phải

nhận thức cho các chức sắc, tín đồ tơn giáo về chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là các chủ trương, chính sách về tơn giáo.
Trong công tác vận động quần chúng, cần phải coi trọng và đổi mới phương
pháp, vì đây là vấn đề rất nhạy cảm. Vì vậy, phải có phương pháp khoa học, thái
độ phải mềm dẻo, linh hoạt và tế nhị. Tiến hành vận động quần chúng nhất là
vùng có đơng đồng bào theo các tôn giáo, phải trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa
việc quán triệt, thực hiện nghiêm túc quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước với nguyện vọng chính đáng của quần chúng
24


nhân dân, lấy lợi ích chung của cộng đồng để vận động, thuyết phục, trách áp
đặt chủ quan, hoặc máy móc, thơ bạo, làm ảnh hưởng đến hiệu quả cơng tác vận
động quần chúng, gây trở ngại đến việc thực hiện đồn kết lương giáo. Vì vậy,
để làm tốt cơng tác vận động quần chúng, phải xác định đây là trách nhiệm
của tồn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Do đó, cần phải coi trọng
và phát huy vai trị của các tổ chức chính trị - xã hội như: Mặt trận Tổ quốc,
Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Tổng liên đoàn lao động.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh: “…Đại đoàn kết
dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hồ quan hệ lợi ích giữa các thành
viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc”
Kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, Đảng và Nhà nước
ta đã khẳng định: đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết lương giáo là nguồn sức mạnh
và động lực to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là sự thể
hiện bước phát triển mới trong tư duy của Đảng về xây dựng và phát huy động
lực của chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Quan điểm, tư
tưởng đó của Đảng ta xuất phát từ sự nhận thức về các giai cấp, các tầng lớp
nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo đều có lợi ích chung thống nhất vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sự tương đồng ấy sẽ là cơ

sở gạt bỏ những mâu thuẫn, bất đồng, chấp nhận những điểm khác nhau (giữa
những người có tín ngưỡng tơn giáo với những người khơng có tín ngưỡng tơn
giáo, giữa các tơn giáo khác nhau, giữa dân tộc đa số với dân tộc thiểu số),
không trái với lợi ích chung của dân tộc. Đó cũng là quan điểm nhân văn, nhân
đạo của Đảng, nhằm khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, vì tiền đồ tương lai
tươi sáng của dân tộc.
2.2.3. Quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp
nhân dân, đặc biệt là vùng có nhiều đồng bào theo đạo
Quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân,
là điều kiện, cơ sở quan trọng để không ngừng củng cố và tăng cường đoàn kết
25


×