DANH MỤC KÝ HIỆU VÀ VIẾT TẮT
BCHTƯ Ban Chấp hành Trung Ương
BCT Bộ Chính trị
CENTO Central Treaty Organization
CHDC Cộng hòa Dân chủ
CHLB Cộng hòa Liên bang
CONEFO Conference of The New Emerging Forces
CPCMLTCHMNVN Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
ĐCS Đảng Cộng sản
ĐCS&CN Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế
LĐVN (Đảng) Lao động Việt Nam
MTDTGPMNVN Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
NATO The North Atlantic Treaty Organization
NLF National Liberation Front
Nxb Nhà xuất bản
OAU Organization of African Unity
OECD Organisation for Economic Co-operation and Development
SEATO The Southeast Asia Treaty Organization
SEV Council of Mutual Economic Assistance
TBCN Tư bản chủ nghĩa
Tr. Trang
U.S The United States
UNESCO United Nations Educational Scientific and Cultural Organization
VNCH Việt Nam Cộng hòa
VNDCCH Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
XHCN Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam, chiến lược đoàn
kết quốc tế là một trong những nhân tố góp phần đưa tới thắng lợi giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước.
1
Trên lĩnh vực này, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là người vạch ra đường lối chiến
lược đoàn kết quốc tế, Người vừa trực tiếp tham gia những hoạt động thực tiễn- đối
nội và đối ngoại- nhằm từng bước kiến tạo và mở rộng mặt trận nhân dân thế giới ủng
hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược.
Thực tiễn lịch sử trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đã kiểm nghiệm trí
tuệ Hồ Chí Minh trong việc giương cao ngọn cờ chính nghĩa, thức tỉnh lương tri nhân
loại, biến điều này thành một lực lượng thực hiện đoàn kết quốc tế. “Việt Nam- Hồ
Chí Minh” đã trở thành ngọn cờ vẫy gọi tăng cường sức mạnh cho phong trào phản
chiến của các tầng lớp xã hội Mỹ nói riêng và nhân dân thế giới nói chung, sự hình
thành trên thực tế một mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ
xâm lược vì độc lập tự do của dân tộc mình và cũng vì độc lập, tự do hòa bình, dân
chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là nhịp cầu nối gắn kết
lực lượng đồng minh chiến lược và các quốc gia láng giềng với cuộc đấu tranh của
nhân dân Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng cụ
thể hóa chiến lược đoàn kết quốc tế để gánh nặng đè lên vai dân tộc Việt Nam nhẹ bớt
khi nhận được tình cảm, tấm lòng của bạn bè khắp năm châu. Bạn bè thế giới không
chỉ chi viện, giúp đỡ Việt Nam về vật chất mà còn tích cực ủng hộ phong trào chống
chiến tranh xâm lược Việt Nam về tinh thần. Từ những người lao động đến tầng lớp
thanh thiếu niên, từ những nhà lãnh đạo đến những nhân vật hoạt động chính trị, xã hội
nổi tiếng khắp nơi trên thế giới đã đứng lên phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Nam của đế quốc Mỹ. Chính sự tin tưởng, hết lòng ủng hộ của bè bạn năm châu trong
một mặt trận thống nhất như thế, đã góp phần quan trọng tới tiến trình thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của dân tộc Việt Nam.
Thêm vào đó, theo tiến trình cuộc chiến tranh, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn
kết quốc tế còn là một trong những nội dung quan trọng, xuyên suốt, quyết định tới
diễn tiến của những sự kiện tiêu biểu, có khi mang tính bước ngoặt của chiến tranh.
Chính bởi vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế sẽ là một định
hướng đúng đắn để hiểu sâu hơn về cuộc “chiến tranh Đông Dương lần thứ hai” đặt
trong diễn tiến của Chiến tranh Lạnh.
Vì vậy, để góp phần vào việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, và làm rõ
thêm tiến trình của công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc từ 1954
đến 1975, chúng tôi chọn vấn đề: “Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
2
Minh về đoàn kết quốc tế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-
1975)” làm đề tài luận văn thạc sỹ. Hy vọng rằng, những quan điểm tư tưởng chỉ đạo
cụ thể của Hồ Chí Minh để thực hiện đoàn kết quốc tế sẽ gợi mở cho công tác mở rộng
hợp tác quốc tế hiện nay cái nhìn cụ thể hơn về sự việc, sự kiện, về cách đánh giá cũng
như phương pháp xử lý các mối quan hệ phức tạp, đa chiều.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhìn một cách khái quát, các công trình có liên quan đến đề tài nghiên cứu
được phân bố theo các nhóm sau đây:
2.1. Nhóm những công trình khoa học về lịch sử Việt Nam, lịch sử Đảng của
các học giả trong nước đề cập đến công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của
dân tộc và đề tài nghiên cứu
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam ghi dấu trong lịch sử dân
tộc như một trong những thắng lợi vẻ vang nhất, đã và vẫn tiếp tục được nhận thức,
cũng như nghiên cứu chuyên sâu. Bài học về đoàn kết quốc tế, tập hợp, mở rộng mặt
trận nhân dân thế giới ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc đã được nhận
định nhất quán và đề cao ở cả tầm vóc đóng góp vào chiến thắng đã qua và tiền đề cho
những chiến thắng ngày hôm nay, mai sau của đất nước. Các học giả với những công
trình tiêu biểu có liên quan là: Lê Ngọc Ngọc Dũng, Phạm Xuân Nam, Văn Tiến
Dũng, Trần Nhâm, Trần Văn Quang, Nguyễn Đình Ước, Nguyễn Quốc Dũng, Trịnh
Vương Hồng, Phạm Khắc Lãm, Tường Hữu, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh,
Văn Tiến Dũng, Đinh Nho Liêm, Lưu Văn Lợi, Trịnh Ngọc Thái, Hồ Sơn Đài, Bùi
Đình Thanh, Nguyễn Khắc Huỳnh…
Trong số đó, nổi bật là công trình Hậu phương lớn, tiền tuyến lớn trong kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, (Nxb. Từ điển Bách Khoa Hà Nội, 2005), chủ
biên Phan Ngọc Liên. Công trình này đã dành hẳn một dung lượng thích đáng để tập
hợp những nghiên cứu của nhiều tác giả trong nước phản ánh về đề tài nghiên cứu trên
những mặt riêng lẻ và tính tới thời điểm xuất bản. Chính bởi vậy, công trình có ý nghĩa
lớn ở sự kế thừa khi triển khai nghiên cứu đề tài.
Bên cạnh đó là công trình Cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam tác động
những nhân tố quốc tế của Nguyễn Khắc Huỳnh, mặc dù trong suốt quá trình phân
tích, lập luận từ đầu tới cuối đều không chỉ đích danh chiến lược đoàn kết quốc tế của
Hồ Chí Minh, nhưng lô gíc trình bày lại toát lên đóng góp to lớn, không thể phủ nhận
của chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Ở phần kết luận, tác giả đã nhấn
3
mạnh lại ba nhân tố đưa đến sự giúp đỡ to lớn của bè bạn năm châu cho công cuộc
kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Đặc biệt, nhân tố tiên quyết đã đưa tới thắng lợi
trong cuộc chiến anh dũng của nhân dân Việt Nam, đã được khẳng định chính là
đường lối đoàn kết quốc tế và sự ứng xử khôn khéo của Trung ương Đảng LĐVN và
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cũng phải kể tới một số nghiên cứu chuyện khảo đã công bố trên các tạp chí
khoa học trong nước có nội dung phản ánh về đề tài nghiên cứu.
Phạm Hồng Tung có bài: Phong trào hòa bình, phản đối cuộc chiến tranh của
Mỹ tại Việt Nam ở CHLB Đức, đăng trên Nghiên cứu lịch sử số 11 năm 2009; và bài
“Hồ Chí Minh và cuộc chiến tranh ở Việt Nam” trong hồi tưởng của Khrushchev,
đăng trên Nghiên cứu lịch sử số 9, năm 2008. Tác giả đã từ phương pháp phân tích đa
chiều để đạt đến hiệu quả khảo sát chiều sâu, chiều rộng cũng như khía cạnh đa diện
của vấn đề nghiên cứu. Trên cơ sở này tác giả đã đưa đến những cách nhìn mới cho
một vấn đề nghiên cứu tưởng chừng đã cũ.
Bên cạnh đó còn là những chuyên luận có liên quan của các học giả: Lê Mậu
Hãn, Mai Văn Bộ, Vũ Khoan, Trịnh Vương Hồng, Nguyễn Minh Đức, Triệu Quang
Tiến, Nguyễn Trọng Phúc, Nguyễn Văn Quyến, Nguyễn Cơ Thạch…
Một phần nội dung các công trình có sơ bộ khái quát, đánh giá về hoạt động, tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mở rộng mặt trận nhân dân thế giới để thực hiện
đoàn kết quốc tế.
2.2. Những công trình nghiên cứu về chủ đề đoàn kết quốc tế, đối ngoại,
ngoại giao của Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Xin điểm lại đây tên những học giả gắn với những công trình tiêu biểu nhất: Lê
Văn Yên, Nguyễn Phúc Luân, Xuân Thuỷ, Tôn Quang Phiệt, Ung Văn Khiêm,
Nguyễn Thị Tình, Chu Đức Tính, Nguyễn Minh Hương, Nguyễn Viết Chung, Nguyễn
Duy Trinh, Mai Văn Bộ, Nguyễn Dy Niên, Hoàng Thu Giang, Nguyễn Mạnh Hùng,
Nguyễn Đình Bin, Nguyễn Xuân, Lưu Văn Lợi, Nguyễn Thị Tình, Nguyễn Thuý Đức,
Phạm Thuý Ngân, Phạm Bình Minh, Nguyễn Văn Sự, Nguyễn Ngọc Trường, Đặng
Đình Quý, Bùi Văn Hùng…
Và những luận án tiến sỹ liên quan của các học giả: Phạm Hồng Chương,
Nguyễn Xuân Thông, Trần Minh Trưởng, Lương Viết Sang, Nguyễn Văn Bạo…
Đặc biệt là luận án tiến sĩ của học giả Hoàng Trang, được bảo vệ tại Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1995, có tên: Chiến lược đại đoàn kết của Đảng
4
Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975. Tác giả
đã đề cập đến việc đoàn kết các lực lượng, các quốc gia đấu tranh cho độc lập dân tộc,
tiến bộ xã hội và ủng hộ nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Mỹ trong suốt hai
thập kỷ được điều hành bởi Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Những công trình này đã cung cấp những tổng kết, đánh giá quan trọng về vai
trò của sách lược mở rộng mặt trận nhân dân thế giới nói riêng, của chiến lược đoàn
kết quốc tế nói chung, đồng thời đề cập đến nhiều sự kiện hoạt động, chỉ đạo của Hồ
Chí Minh trên lĩnh vực nghiên cứu.
Thêm vào đó là những công trình nghiên cứu trực tiếp về Hồ Chí Minh với
công tác đối ngoại và các cuốn sách phản ánh trực tiếp những tư tưởng, tiểu sử, sự
nghiệp của Người (giai đoạn từ 1954-1969) có liên quan tới đề tài nghiên cứu: Hồ Chí
Minh: Về nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước, (Nxb. Sự thật, 1967); Hồ Chí Minh: Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công !, (Nxb. Sự thật,
1973); Hồ Chí Minh: Dân tộc Việt Nam ta là một dân tộc anh hùng, (Nxb. Sự thật,
1975); Hồ Chí Minh: Kết hợp chặt chẽ lòng yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản,
(Nxb. Sự Thật, 1978); Bộ sách: Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, 10 tập (xuất bản 2008)
và Hồ Chí Minh: Toàn tập, gồm 12 tập (xuất bản 1996) và 15 tập (xuất bản 2011) là
những công trình nghiên cứu công bố gần đây của tập thể tác giả Viện Hồ Chí Minh,
thuộc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia, đã cung cấp cho chúng tôi toàn bộ
tiến trình những sự kiện hoạt động, nội dung tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Viện Quan hệ Quốc tế: Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao, (Nxb,
Viện Quan hệ Quốc tế Hà Nội, 1990); Hồ Chí Minh- Người chiến sỹ kiên cường của
phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, (Nxb.
Thông tin Lý luận, Hà Nội, 1990); Học viện Quan hệ Quốc tế: Kỷ yếu Hội thảo khoa
học: 50 năm Ngoại giao Việt Nam, 1995…
Bên cạnh đó là những tổng kết công cuộc kháng chiến chống Mỹ nói chung, và
chiến lược đoàn kết quốc tế nói chung của những lãnh tụ, học giả lớn: Trường Chinh,
Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Khả Phiêu, Trần Văn Giàu, Phạm Văn Trà,
Trần Đình Huỳnh, Hoàng Chí Bảo, Đặng Quốc Bảo, Phùng Hữu Phú, Bùi Đình
Phong, Vũ Dương Huân, Nguyễn Khánh Bật, Phạm Ngọc Anh, Nguyễn Bá Linh,
Đặng Văn Thái, Phan Ngọc Liên…
2.3. Những công trình nghiên cứu về lịch sử quan hệ quốc tế và cuộc chiến
tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam của các học giả nước ngoài
5
Các công trình là ấn phẩm sách của học giả nước ngoài: Harry S. Ashmore,
W.C.Baggs: Misson to Hanoi, (G.P.Putnam’son, New York, 1968); Dainel S.Papp:
Vietnam: The view from Moscow-Paking-Washington, (Mc Farland, Co. INC, North
Carolina, 1981); Georges C. Herring: The secret Diplomancy of the Vietnam war: the
Negotianting Volumes of the Pentagon Papers, (University of Texas Press, Austin,
1983); Quang Zhai: China & The Vietnam wars, 1950-1975 (The University of North
Carolina Press, 1999); Mart Atwood Lawrence: The Vietnam War- A concise
internation history, (Oxford University Press, 2008); William S. Turley: The Second
Indochina war- A concise political and military history (Rowman & Littlefield
Publishers, INC, 2009)…
Và hai cuốn “The War at home: Vietnam and the American People 1964-1968”
của Thomas Powere, “The movement: A History of the American New Left, 1959-
1972” của Irwin Unfer (1974) đã giới thiệu khái quát về phong trào đấu tranh của nhân
dân Mỹ ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, phản đối sự xâm lược của
chính phủ Mỹ.
Ngoài ra, còn phải kể đến những chuyên khảo trong mảng đề tài về Chiến tranh
Lạnh, một trong những bối cảnh quốc tế tác động rất lớn đến cuộc kháng chiến chống
Mỹ của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Năm 2010, Cambridge University Press đã
tập hợp xuất bản những tư liệu quý về Cold War, trong đó, phải kể đến những bài tạp
chí liên quan tới lịch sử kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam của các học
giả: Thomas Perry Thornton, P. J. Honey, A. M. Halpern, King Chen, Jan S. Prybyla,
Kurt L. London, H. G. Nicholas, Jay Tao, W. E. Willmott, Michael Yahuda, Phan
Thien Chau, Jean Lacouture, King C.Chen…[206]. Những chuyên luận này xuất bản
trong thời điểm cuộc chiến tranh Việt Nam đang tiếp diễn, chính vì vậy, các học giả
tập trung vào quan điểm chiến lược và sách lược cách mạng của cả Việt Nam và Mỹ,
đồng thời cũng không bỏ qua sự đánh giá về những chính thể quốc tế có nhiều ít tác
động tới tình hình chiến sự trên chiến trường như Liên Xô hay Trung Quốc v.v… Từ
những nhìn nhận và đánh giá có tính thực chứng, dường như, kết cục của chiến sự đã
được dự báo trước trong một số nghiên cứu. Tính chính nghĩa của công cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam sẽ chiến thắng và những hành động xâm lược, leo thang
chiến tranh phi nghĩa của Mỹ dù có tới mức nào, nhất định cũng sẽ bị thất bại.
Khi chiến tranh đã kết thúc thì kết cục thắng-bại của cuộc chiến vẫn tiếp tục
được các thế hệ sử gia nghiên cứu với những chuyên luận của: Gareth Proter, Steve
6
Chan, Phillip B.Davidson, Ronald H. Spector, Jean Lacouture, Carlyle A. Thayer, Ilya
V.Gaiduk, Xiaoming Zhang, Ed.P.Lowe…[206]
Cũng phải kể thêm những nghiên cứu đạt kết quả trong những năm bắt đầu cho
một thế kỷ mới- thế kỷ XXI: Robert Scott: China, Russia and the United states
(Council On Foreign Relations, Inc, 2004); King C.Chen: Hanoi with Peking: Policies
and Relations- A Survey (University of California Press, 2007); Paul Ham: Vietnam:
The Australian war, (Nxb. Harper Collins, 2007); Mao Lin: China and the Escalation
of the Vietnam War The First Years of the Johnson Administration (The MIT Press,
2009); Nicholas Khoo: Breaking the Ring of Encirclement The Sino-Soviet Rift and
Chinese Policy toward Vietnam, 1964–1968 (The MIT Press, 2010)…[206]
Nhìn một cách khái quát phải khẳng định rằng những công trình chuyên khảo
trên có nội dung phản ánh “cuộc đụng đầu lịch sử” trên bán đảo Đông Dương, nơi có
thể coi là tâm điểm nóng của diễn trình cuộc Chiến tranh Lạnh. Bằng phương pháp
nghiên cứu nghiêng về sử học thực chứng và khai thác nhiều nguồn sử liệu đa dạng,
các học giả Đông, Tây đã góp thêm cái nhìn đa chiều về những khó khăn đến từ bối
cảnh khách quan, và cũng từ đó, để nhìn ra bối cảnh quốc tế rất phức tạp khi Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã tiến hành xác lập và thực thi chiến lược đoàn kết quốc tế cho cách
mạng Việt Nam. Mặc dù vậy, xét về tổng thể thì các công trình chuyên khảo của các
sử gia nước ngoài nói chung, hầu như chưa thẳng thắn thừa nhận một trong những
nguyên nhân dẫn tới sự thất bại của đế quốc Mỹ ở Việt Nam chính là sự ủng hộ, đoàn
kết của nhân dân thế giới thành một mặt trận giúp nhân dân Việt Nam chống đế quốc
xâm lược.
Thêm vào đó, không thể không kể tới một số lượng không nhỏ những cuốn sách
của học giả nước ngoài đã được dịch ra và xuất bản bằng tiếng Việt có thể liệt kê ra
đây: Ma-Đơn-len Riffô, Hăngri Kitsinggiơ, Giôdép Amtơ, Pitơ A.Pinlơ, N.Bớt sét,
Hoàng Tranh, Maicơn Máclia, Nguyễn Tiến Hưng và Giêrơn L.Sedơ, Gabrien Côncô,
Giăng Bápmit và Rốcselơ, Philíp B.Đavítsơn, Rô bớt S.Mc. Namara, Ilya V. Gaiduk,
George C.Herring, H.V. Schadler, Ron Moreau, Mark Mc Donald, Kari Huus, Craig
Thomas, Neil Sheehan, Bernard Fall, William Colby, Nguyễn Khắc Viện, Joe Allen,
Nguyễn Phú Đức…
Các ấn phẩm khoa học này cũng cung cấp thêm nhiều sự kiện và cách đánh giá
khác nhau, cũng như cảm hứng cho học viên khi nghiên cứu đề tài thuộc phạm trù hoạt
động đối ngoại của Việt Nam trong đó có liên quan gián tiếp hoặc trực tiếp đến vai trò
7
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và bối cảnh, cũng như tiến trình của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. Điển hình như những tư tưởng và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí
Minh thực hiện đoàn kết với nhân dân Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ,
XHCN ở khu vực và thế giới đã được ghi nhận thành biên niên biểu rõ ràng trong các
công trình nghiên cứu của: Hoàng Tranh: Hồ Chí Minh với Trung Quốc (Nxb. Sao
Mới Bắc Kinh, 1990) hay Ilya V. Gaiduk: Liên bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam ;
hoặc N.Bớt sét: Tam giác Trung Quốc-Campuchia-Việt Nam và Pitơ A.Pinlơ: Nước
Mỹ và Đông Dương từ Rudơven đến Níchxơn (Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986)…
Nhưng tựu chung lại, sự phản ánh của các công trình này về đề tài đang quan tâm vẫn
chưa đạt tới sự khái luận, toàn diện, mà chỉ đơn lẻ phản ánh phần nào những khía cạnh
riêng. Nhiều cách nhìn nhận vấn đề của các sử gia phương Tây còn có lúc chủ quan,
phiến diện.
Nhìn tổng thể lại lịch sử nghiên cứu của vấn đề phải khẳng định rằng các công
trình sử học trong và ngoài nước, khi tiến hành khai thác nhân tố đoàn kết quốc tế theo
tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đề cập đến những khía cạnh riêng lẻ, có thể xét trên tiêu chí
nào đó là tiêu biểu cho sự ủng hộ của nhân dân thế giới cho cuộc cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của dân tộc. Nhưng ngay cả khi đề cập về mặt trận nhân dân thế
giới, các công trình cũng chỉ đề cập chủ yếu, trọng tâm vào mặt trận nhân dân Mỹ đã
giúp đỡ, tác động tới tiến trình chiến tranh Việt Nam ra sao - phản ánh trong ngoại
diên của khái niệm “phong trào phản chiến”- mà chưa đề cập một cách khái quát, tổng
lược đến những sự ủng hộ của các thành phần khác trong mặt trận nhân dân thế giới
thực tế đã diễn ra trong lịch sử. Những công trình nghiên cứu này cũng chưa đề cập
đầy đủ, sâu sắc đến tư tưởng và những chỉ đạo, hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong quá trình xây dựng, mở rộng những ảnh hưởng tích cực của chiến lược
đoàn kết quốc tế.
Chính vì vậy, mặc dù là đề tài đã được nghiên cứu khá phổ biến, nhưng lại
thiếu một chuyên luận đề cập toàn diện và sâu sắc đến các chiều cạnh của vấn đề.
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của công trình này là nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những nội
dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong thời kỳ cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), đồng thời phân tích, đánh giá vai trò, tác động
của tư tưởng và những hoạt động của Hồ Chí Minh trong quá trình hình thành, phát
8
triển của mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết, ủng hộ nhân dân Việt Nam kháng chiến,
cứu nước.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, nghiên cứu có các nhiệm vụ sau:
- Bằng các phương pháp nghiên cứu lịch sử và các phương pháp của Hồ Chí
Minh học làm sáng tỏ tư tưởng mang tầm chiến lược, sách lược của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về đoàn kết quốc tế trong giai đoạn 1954-1975. Qua các sự kiện hoạt động của
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy phương pháp xử lý các vấn đề quốc tế có sự khái quát
về phong cách, tư tưởng, vị thế và những đóng góp của Người.
- Sưu tầm, xác minh sử liệu và trình bày một cách hệ thống các hoạt động của
Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm hoạt động trực tiếp của Người và những hoạt động đối
ngoại do Người chỉ đạo nhằm hình thành, mở rộng mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ
Việt Nam chống đế quốc Mỹ và thực hiện đoàn kết quốc tế.
- Góp phần làm sáng tỏ, phong phú, đầy đủ hơn nội dung và đóng góp của mặt
trận nhân dân toàn thế giới, từ Âu sang Á, tới Châu Phi, Mỹ Latinh…(nòng cốt là mặt
trận nhân dân Mỹ), ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.
4. Nguồn tư liệu
Những nguồn tư liệu chủ yếu được khai thác và sử dụng trong nghiên cứu gồm:
4.1. Các bài nói, bài viết phản ảnh tư tưởng và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử (10 tập), và Hồ Chí Minh toàn tập
(15 tập mới xuất bản với nhiều bài mới được bổ sung) sẽ là nguồn sử liệu gốc cho
phép đi sâu nghiên cứu về tư tưởng và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong lịch sử.
4.2. Các văn kiện của Đảng và Nhà nước Việt Nam về đường lối đối ngoại, các
thư từ trao đổi, công hàm, bị vong lục của Nhà nước và Chính phủ Việt Nam với các
đối tác nước ngoài trong thời gian diễn ra cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954-1975).
4.3. Các chuyên khảo, luận văn, các công trình nghiên cứu của các học giả
trong và ngoài nước viết về quan hệ quốc tế, công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, về chiến lược đoàn kết quốc tế, hoạt động đối ngoại, ngoại giao, về sự nghiệp,
con người và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nguồn sử liệu này sẽ được tổng hợp, xác định
mức độ tin cậy, và được sử dụng có chọn lọc trong nghiên cứu, luận văn.
9
Nhưng dù cố gắng thì việc tiếp xúc, thu thập sử liệu, tài liệu ở các phòng tư
liệu, thư viện, từ các nguồn mở trong và ngoài nước vẫn không thể đầy đủ, bởi vấn đề
nghiên cứu ở tầm vĩ mô, do vậy, chất lượng của nghiên cứu sẽ không tránh khỏi những
hạn chế nhất định.
5. Giới hạn vấn đề và phương pháp nghiên cứu
5.1. Giới hạn vấn đề
Như tên của đề tài, chúng tôi nghiên cứu về những tư tưởng chỉ đạo hoạt động
đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ 1954-1975 để thực hiện đoàn
kết quốc tế, nội dung của chiến lược này và những đóng góp của nó trong lịch sử cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam.
Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi chỉ đề cập đến những sự kiện tiêu
biểu nhất.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, trên cơ sở tuân thủ phương pháp luận mác-xít
trong nghiên cứu lịch sử, bên cạnh việc sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp
lô-gíc phù hợp với yêu cầu nghiên cứu từng vấn đề của đề tài, chúng tôi đồng thời sử
dụng phương pháp thống kê, so sánh theo lịch đại và đồng đại, kết hợp với phương
pháp nghiên cứu trong Hồ Chí Minh học nhằm làm sáng tỏ các luận điểm đưa ra lý
giải trong công trình.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của nghiên cứu
- Làm rõ những cơ sở hay nền tảng hình thành chiến lược đoàn kết quốc tế của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phân tích khoa học để rút ra kết luận: Yếu tố bên trong- chủ
quan hay bên ngoài- thuộc về khách quan đã có vai trò quyết định nổi bật tới chiến
lược đoàn kết quốc tế vào thắng lợi của công cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc
Việt Nam.
- Bằng các sự kiện lịch sử của diễn trình cuộc kháng chiến, của những sự kiện
tiêu biểu mà nhân dân thế giới ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam, nghiên cứu làm rõ nội dung
hình thành, phát triển và vai trò cũng như đóng góp của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn
kết quốc tế trong công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của dân tộc Việt Nam và
cả ngày nay.
- Tái hiện lại một cách hệ thống những tư tưởng, hoạt động thực tiễn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian 15 năm (1954-1969). Trên cơ sở này khái
luận sâu sắc hơn nữa một ghi nhận trong lịch sử rằng: lãnh tụ Hồ Chí Minh đã thực sự
10
trở thành biểu tượng quy đồng các cuộc đấu tranh liên kết thành phong trào đấu tranh
và hướng tâm tới một Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ.
- Nghiên cứu góp phần tổng hợp thêm những luận điểm cơ bản trong tư tưởng
đối ngoại thực hiện đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây cũng là những
vấn đề có ý nghĩa thiết thực, mang tính thời sự, phục vụ cho công cuộc vận động hợp
tác khu vực và quốc tế trong công cuộc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam
đặt trong bối cảnh không kém phần phức tạp của quan hệ quốc tế hiện nay.
7. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung luận văn gồm 02 chương và những tiết cụ thể.
Chương 1. Chiến lược đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong
thời kỳ (1954-1965).
Trên cơ sở khảo sát những chuyển biến trong nước và quốc tế có tác động tới
cách mạng Việt Nam nhằm khái lược sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như
những hoạt động thực tiễn của Người kiến lập đoàn kết quốc tế Việt-Xô-Trung, đoàn
kết XHCN, đoàn kết công cuộc cách mạng của ba nước Đông Dương cũng như những
hoạt động nêu cao chính nghĩa hòa bình, vận động nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam
chống đế quốc Mỹ xâm lược của Hồ Chủ tịch là những nội dung chính yếu của tư
tưởng về đoàn kết quốc tế của Hồ Chủ tịch trong một thập kỷ này.
Chương 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong thời kỳ 1965-
1975.
Tiến hành khảo sát những sự kiện lịch sử, tư tưởng chính qua hai thời kỳ 1965-
1969 và 1969-1975 làm rõ tư tưởng đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
góp phần quan trọng tranh thủ được lực lượng vật chất và tinh thần của quốc tế cũng
như đã được kế thừa và phát huy hiệu quả để dân tộc Việt Nam “đánh cho Mỹ cút,
đánh cho Ngụy nhào”, thống nhất đất nước.
NỘI DUNG
Đối ngoại là quan hệ giữa chủ thể là một nhà nước, một quốc gia, dân tộc với
một chính thể hoặc nhiều chính thể, tổ chức giữ vai trò tương đương và quan hệ đối
ngoại thể hiện trên tổng hợp nhiều vấn đề: kinh tế, chính trị, văn hóa v.v Đối ngoại
có ngoại diên rộng hơn khái niệm ngoại giao. Hay nói cách khác, ngoại giao chính là
11
sự cụ thể hóa đường lối đối ngoại đã được thể chế cho một đối tượng nhà nước, dân
tộc, tổ chức cụ thể, trong những điều kiện, bối cảnh cụ thể của lịch sử.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại là hệ thống các quan điểm về đấu tranh
ngoại giao, hoạt động ngoại giao và hợp tác phát triển, bao gồm cả đường lối chiến
lược, sách lược, phương pháp, nghệ thuật và phong cách Hồ Chí Minh
Đoàn kết quốc tế, theo đó, là một bộ phận quan trọng của đường lối đối ngoại
được thực hiện bởi một thể chế nhà nước. Đặc biệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế là một bộ phận trong tư tưởng mang tầm chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết. Theo đó, Người đã đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ bộ
phận, biện chứng với phong trào cách mạng thế giới- đấu tranh cho hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, cách mạng Việt Nam có quan hệ mật thiết với các
cuộc cách mạng phong trào đấu tranh của nhân dân tiến bộ trên khắp hành tinh. Từ đó,
sức mạnh của dân tộc Việt Nam chính là sự tranh thủ, phát huy, vận dụng, kết hợp
giữa đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế trong tiến trình cách mạng đánh đổ ngoại
xâm, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và góp phần giữ gìn hòa bình, bảo vệ
những giá trị nhân văn, nhân quyền của nhân loại.
Tư tưởng về đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh hình thành, phát triển
bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác-Lênin, truyền thống dân tộc và văn hóa nhân loại, cùng
với đó là thực tiễn Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trong tiến
trình của lịch sử dân tộc, chiến lược đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được
hoàn thiện và đưa vào thực tiễn đấu tranh cách mạng với hiệu quả cao. Chính tư tưởng
về đoàn kết quốc tế đó đã tạo ra sức mạnh đưa tới thắng lợi vẻ vang của Cách mạng
tháng Tám 1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Từ năm 1954-1975, trong bối cảnh lịch sử mới, chiến lược đoàn kết quốc tế của
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục được phát kiến và phát huy sức mạnh vĩ đại trong tiến
trình cách mạng của dân tộc Việt Nam.
CHƯƠNG 1
CHIẾN LƯỢC ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ THEO TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI KỲ 1954-1965
1.1. Bối cảnh lịch sử của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong
những năm 1954-1959
12
1.1.1. Những yếu tố trong nước tác động tới chiến lược đoàn kết quốc tế
Sau khi giành được độc lập năm 1945, Việt Nam đi ngay vào kháng chiến
chống Pháp. Chiến đấu trong vòng vây, hoàn cảnh hạn chế, Việt Nam chỉ có quan hệ
và tranh thủ sự giúp đỡ ít nhiều của Thái Lan, Miến Điện, phần nào của Ấn Độ,
Inđônêxia…và Trung Quốc (sau năm 1949). Với chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp
định Giơnevơ 1954, Việt Nam có vị trí xứng đáng trong phong trào giải phóng dân tộc
thế giới và góp phần quan trọng cổ vũ phong trào, nhất là với các xứ thuộc địa của
Pháp. Cũng từ đây, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ lịch sử mới.
Chế độ thực dân cũ của Pháp chấm dứt trên toàn Đông Dương, nhưng chế độ
thực dân mới của Mỹ lại thay Pháp thống trị miền Nam Việt Nam, âm mưu chia cắt
lâu dài Việt Nam, uy hiếp Campuchia và khống chế Lào.
Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ vừa được ký còn chưa ráo mực, Tổng thống
Mỹ Eisenhower đã tuyên bố: “Bản thân Hoa Kỳ đã không phải là một bên đương sự
trong các quyết định tại hội nghị và không bị các quyết định đó ràng buộc”[240, tr.55],
để biện minh cho hành động can thiệp của Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Với âm mưu
chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, làm căn cứ quân
sự ở Đông Nam Á, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng, lập ra chính quyền tay
sai của Mỹ.
Tiếp đó, để thoái thác vấn đề hiệp thương, tổng tuyển cử sau hai năm đình chiến
(được quy định trong Hiệp nghị Genève), chính quyền Diệm tiến hành trưng cầu dân ý
(10-1955) để bước đầu là phế truất Bảo Đại, sau đó tiến hành vận động bầu cử (3-
1956), lập ra Quốc hội bù nhìn, suy tôn Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống của Chính
phủ VNCH (10-1956). Việc Mỹ chủ mưu giật dây cho Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp
nghị Giơnevơ được thể hiện rõ ràng qua bức điện mật của Bộ trưởng Ngoại giao
Dulles, gửi đại diện cho Mỹ tại Giơnevơ là Walter Bedell Smith: “Vì chắc chắn là
tuyển cử thì cuối cùng có nghĩa là thống nhất nước Việt Nam dưới quyền ông Hồ Chí
Minh, nên điều quan trọng hơn hết là trì hoãn tuyển cử càng lâu càng tốt sau khi ký
hiệp định đình chiến là chỉ tuyển cử trong điều kiện không có sự đe dọa để tạo cho các
phần tử dân chủ có cơ hội tốt nhất”[134, tr.55]. Thực hiện mưu đồ xây dựng một
phòng tuyến chống cộng, tạo ra một “con đê ngăn làn sóng đỏ” ở khu vực Đông Nam
Á, Mỹ đã tập trung viện trợ kinh tế, quân sự, giúp Ngô Đình Diệm xây dựng đội quân
ngụy binh gồm nhiều sư đoàn chính quy, được trang bị vũ khí hiện đại.
13
Dựa vào sự ủng hộ của Washington, chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành liên
tục các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, trong thời gian 5 năm (từ 1955 đến 1960) và đã
tàn sát dã man hàng chục ngàn cán bộ nhân dân miền Nam. Chỉ tính riêng từ tháng 7-
1955 đến tháng 2-1956, số đảng viên, cán bộ cách mạng bị Mỹ-Diệm bắt bớ lên tới
hơn 800.000 người, trong đó số người bị giết chết là 93.362 người [45, tr. 35]. Các nhà
tù, trại giam, trại tập trung chật ních những người vô tội, họ bị hành hạ đánh đập, bị
xâu dây thép qua tay rồi đem phơi nắng, hoặc bị buộc đá vào cổ ném xuống sông
Ngô Đình Diệm còn sử dụng cả cách giết nguời từ thời trung cổ, đưa máy chém đi
khắp miền Nam, chém giết những người cách mạng mà chúng gọi là “xử theo luật 10-
59”. Các vụ thảm sát tập thể ở Chợ Được, Vĩnh Trinh, Duy Xuyên, Hướng Điền, Mỏ
Cày, vụ đầu độc hàng nghìn tù chính trị ở Phú Lợi v.v , là những tội ác tày trời bị cả
thế giới lên án.
Ngay khi đế quốc Mỹ tiến hành áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới vào miền
Nam Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án sự can thiệp này của Mỹ đã làm cho
xã hội miền Nam hỗn loạn: các phe nhóm chống đối, tiêu diệt lẫn nhau làm cho nhiều
thường dân chết oan, nhiều nhà cửa, xóm làng bị thiêu cháy. Người đã vạch rõ âm
mưu, hành động xâm lược của đế quốc Mỹ không chỉ gây bao tại họa cho nhân dân
Việt Nam mà nó còn “gây vạ” cho cả chính bản thân nước Mỹ:
"Khóc than khôn xiết sự tình,
Tự mình gây vạ chuốc mình vào trong”[119; tr. 2]
Đối với dân tộc Việt Nam, Người chỉ rõ: “Đấu tranh là có khó khăn, nhưng phải
nhận là có nhiều điều kiện thuận lợi, thuận lợi ở miền Nam nói riêng và ở Việt Nam
nói chung. Thuận lợi là căn bản. Cách đặt vấn đề là quan hệ. Có đồng chí nói nước ta
mất một nửa nước. Đáng lý phải thấy “nước ta mới thắng lợi một nửa nước” khác nhau
nhiều” [106, tr. 64].
Miền Bắc ở thời điểm tháng 8 năm 1956 đã có 13.774.300 người, trong đó
7.172.300 nữ (chiếm 52,07%) và 6.602.000 nam (chiếm 47,87%). Dân thành thị là
5,88%, dân nông thôn là 94,12%. Diện tích miền Bắc lúc đó là 158.750 km
2
, miền
Nam là 170.850 km
2
. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng đi lên CNXH, trở thành một
thành viên trong đại gia đình các nước XHCN [147]. Cách mạng Việt Nam phát huy
quan hệ tốt đẹp với các nước XHCN và phong trào giải phóng dân tộc.
14
Vấn đề có tính chất sống còn và cấp thiết lúc này đặt ra cho nhân dân Việt Nam
là tiếp tục đấu tranh để thực hiện tổng tuyển cử thống nhất nước nhà, đồng thời, phải
bảo vệ và xây dựng miền Bắc, góp phần giữ gìn hoà bình thế giới.
Nhưng đế quốc Mỹ càng dính líu sâu và bám chặt lấy miền Nam Việt Nam là vì
giới cầm quyền Mỹ quyết tâm chiếm bằng được miền Nam Việt Nam làm thuộc địa
kiểu mới và căn cứ quân sự. Muốn cho cuộc xâm lược được thuận lợi, đế quốc Mỹ đã
cường điệu và “khoác” cho Việt Nam một “mục tiêu chiến lược” rộng lớn hơn với
hình ảnh quãng đê xung yếu ngăn “làn sóng đỏ”. Để vào đứng chân được ở Việt Nam
làm “nhiệm vụ ngăn chặn” đó, Mỹ cần có một chiêu bài chính trị. Chiêu bài ấy, theo
lời đại tướng Mỹ Westmoreland, Mỹ vào miền Nam Việt Nam là: “Để bảo vệ thế giới
tự do, chống lại miền Bắc xâm lược miền Nam Việt Nam”[112, tr. 24].
Như thế là Mỹ đã quyết bám lấy miền Nam Việt Nam và nhân dân Việt Nam
cũng quyết giải phóng miền Nam. Mỹ phải dốc toàn lực và dùng đủ mọi loại vũ khí
hy vọng giành thắng lợi. Việt Nam cũng sẵn sàng chấp nhận hy sinh để giành độc
lập, tự do. Cuộc đấu tranh quyết liệt đó đã làm cho các mâu thuẫn của thời đại trở nên
gay gắt nhất ở Việt Nam. Do đó, cuộc đấu tranh giữa nhân dân Việt Nam và đế quốc
Mỹ đã trở thành một cuộc đụng đầu lịch sử.
Ngày 5-1-1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “ Như vậy là ở Đông Nam
châu Á, chúng tôi- Việt Nam- đã đứng ở tiền đồn của mặt trận dân chủ và hoà bình
toàn thế giới chống chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh…”[100, tr. 9]. Nhận định của
Người ở vào thời điểm đó là một nhận định đúng đắn, khách quan. Bởi vì, cuộc chiến
tranh mà nhân dân Việt Nam, dù không muốn, đã bị xô đẩy tới chỗ buộc phải dốc hết
mọi nguồn lực vật chất và tinh thần, hy sinh hàng triệu mạng sống để vượt qua, để
bảo vệ được quyền sống trong độc lập, tự do, bảo vệ sự thống nhất và quyền tự quyết
của dân tộc mình. Do vậy, cuộc đối đầu giữa hai phe TBCN và XHCN diễn ra ở Việt
Nam không chỉ biểu hiện ở mức độ quyết liệt nhất, dưới hình thức tàn khốc nhất là
chiến tranh, mà còn là sự đối đầu phức tạp nhất, không chỉ về ý thức hệ hay sự lựa
chọn chế độ chính trị - xã hội, mà còn là sự đối đầu giữa ý chí độc lập, tự chủ, tự
quyết, tự do của dân tộc Việt Nam với âm mưu nô dịch, thống trị và chi phối của các
thế lực ngoại bang.
Như thế là Việt Nam bị tạm thời chia cắt và nằm trong số những nước bị chia
cắt từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai: Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên, Đức. Hai
chế độ xã hội đối lập ở hai vùng của mỗi nước thể hiện mâu thuẫn cơ bản nhất của
15
thời đại: mâu thuẫn giữa CNXH và CNTB. Các nước bị chia cắt là hình ảnh thu nhỏ
của cuộc đấu tranh trên thế giới sau Chiến tranh thế giới II. Tuy nhiên, ở Triều Tiên,
ở Đức, ở Trung Quốc không diễn ra cuộc đụng đầu lịch sử quyết liệt giữa hai thế lực
đối lập của thời đại như ở Việt Nam, bởi sự tác động chống chéo của các quan hệ
quốc tế đối với mỗi nước là khác nhau.
1.1.2. Những yếu tố quốc tế tác động tới chiến lược đoàn kết quốc tế
Tình hình thế giới kể từ khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, nhất là từ sau
chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Nam, đã có những thay đổi lớn trên bản đồ chính
trị, kinh tế, quân sự ở từng khu vực cũng như trên phạm vi toàn cầu.
Về chính trị - quân sự, khi cuộc chiến tranh Việt Nam nổ ra, thì cũng là thời
điểm đỉnh cao của chiến tranh Lạnh giữa hai hệ thống xã hội TBCN và XHCN, biểu
hiện thông qua sự gia tăng nhanh chóng về chi phí quân sự và thành lập liên tiếp các
khối, liên minh quân sự trên nhiều khu vực thế giới.
Ngày 4-4-1949, Mỹ đứng ra thành lập khối quân sự Bắc Đại Tây Dương
(NATO), đến ngày 8-9-1954 lại lôi kéo đồng minh thành lập tổ chức Hiệp ước Đông
Nam Á (SEATO). Bước sang năm 1955, Mỹ-Anh thành lập khối Bátđa ở Trung Đông
(CENTO), cũng trong năm này, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu thành lập khối
quân sự Vácsava.
Miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phóng đi lên CNXH, trở thành một thành
viên trong đại gia đình các nước XHCN. Lúc này “đã hình thành một hệ thống XHCN
thế giới, kéo liền từ Trung Âu đến Đông Nam Á và một tiền đồn XHCN đầu tiên ở
Châu Mỹ Latinh” [74, tr. 596], “ngang dọc gần ba mươi lăm triệu cây số vuông gắn
liền thành một khối vững mạnh, một đại gia đình đoàn kết thân yêu”[74, tr. 595].“Phe
XHCN được thành lập và ngày càng lớn mạnh sẽ là nhân tố quyết định sự phát triển
của cách mạng thế giới và tương lai tươi sáng của loài người” [74, tr. 596].
Về kinh tế, cho tới cuối thập kỷ 50 đầu 60, tỷ trọng công nghiệp của các nước
XHCN chiếm khoảng 30% sản lượng công nghiệp toàn thế giới [10, tr. 138]. Nếu so
sánh về tốc độ phát triển trong cùng thời gian thì các nước thuộc Hội đồng tương trợ
kinh tế (SEV) có tốc độ phát triển tăng trung bình là 10,4%, còn các nước tư bản thuộc
khối OECD (Khối các nước Hiệp ước an ninh và hợp tác châu Âu) chỉ tăng 5,4% [10,
tr. 138]. Đáng chú ý, trong hệ thống XHCN, Liên Xô là nước trụ cột, đã có tốc độ tăng
trưởng kinh tế hàng năm rất cao và ổn định. Bên cạnh đó, các nước khác như Trung
Quốc, Ba Lan, Tiệp Khắc cũng duy trì tốt tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm, các
16
mặt hàng công nghiệp, sản phẩm nông nghiệp đủ đáp ứng nhu cầu trong nước và hỗ
trợ các nước yếu hơn theo khuôn khổ hợp tác kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở nền
kinh tế phát triển tương đối ổn định, các nước XHCN không những đủ khả năng
đương đầu với sự bao vây, phá hoại về kinh tế của chủ nghĩa đế quốc mà còn góp phần
tích cực vào việc giúp đỡ các nước mới giành được độc lập. Do đó, xét về tương quan
lực lượng trên chính trường thì phong trào cách mạng thế giới đang chiếm ưu thế, nhất
là thành công của Liên Xô trên lĩnh vực hạt nhân vào năm 1947 đã phá vỡ thế độc
quyền vũ khí nguyên tử, sau đó là sự kiện Spútnhíc, năm 1957, với việc Liên Xô chinh
phục khoảng không vũ trụ đã gây mối lo ngại đặc biệt cho Mỹ, bởi nước Mỹ từ đây sẽ
không thể yên ổn, nếu một cuộc chiến tranh mới nổ ra.
Như vậy, với sự trưởng thành và lớn mạnh nhanh chóng, phe XHCN không
những là chỗ dựa cho phong trào giải phóng dân tộc, mà còn là yếu tố căn bản ngăn đe
mưu toan áp đặt sự thống trị các dân tộc bằng chiến tranh xâm lược. Việc lập lại cân
bằng và có phần chiếm ưu thế về quân sự của phe XHCN còn làm đảo lộn chiến lược
toàn cầu của Mỹ, từ chiến lược “trả đũa ào ạt”, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược
“phản ứng linh hoạt” đầu năm 1960. Tất nhiên, còn một lý do khác nữa buộc Mỹ phải
có sự điều chỉnh về chiến lược, đó là sự bùng nổ của phong trào giải phóng dân tộc.
Cùng với sự tự khẳng định của hệ thống XHCN, sự phát triển của phong trào
giải phóng dân tộc trên khắp các lục địa Á-Phi-Mỹ Latinh đã làm tan rã từng mảng hệ
thống thuộc địa đưa nhiều quốc gia bước vào thời kỳ độc lập về chính trị và bắt đầu
cuộc đấu tranh thoát dần khỏi sự phụ thuộc vào kinh tế. Từ chiến thắng Điện Biên Phủ
của Việt Nam (1954) đến đầu những năm 60, đã có hàng chục nước noi gương Việt
Nam đứng lên phát động đấu tranh vũ trang và giành độc lập dân tộc. Ở Châu Phi đáng
chú ý có cuộc đấu tranh của nhân dân Angiêri (1954-1962), sự kiện kênh đào Xuyê
(1956), Cônggô chống Bỉ (1960), cách mạng Ănggôla (1-1961), Môzămbích chống Bồ
Đào Nha (5-1962) - năm 1960 được gọi là năm châu Phi. Ở Trung Đông, thắng lợi của
cuộc cách mạng Irắc (7-1958) làm tan vỡ khối quân sự CENTO do Anh - Mỹ dựng
lên. Đặc biệt sôi động là ở khu vực châu Mỹ Latinh, nơi mà lâu nay Mỹ coi là “sân
sau” là “ao nhà” thì hắng lợi của cách mạng Cuba (1959) lập nên nhà nước XHCN ở
Tây bán cầu, ngay sát cạnh Mỹ đã động viên, thúc đẩy phong trào đấu tranh vũ trang ở
các nước khác trong khu vực như Vênêduêla, Goatêmala, Nicaragoa, Côlômbia nổ ra
ngày càng mạnh mẽ. Điều đáng chú ý là, các dân tộc sau khi giành được độc lập, tuy
khuynh hướng phát triển xã hội có khác nhau, nhưng đều có điểm chung là định hướng
17
phát triển đất nước theo đường lối độc lập, tự chủ và ủng hộ phong trào hòa bình, tiến
bộ xã hội. Tình hình đó đã thu hẹp phạm vi ảnh hưởng của chủ nghĩa đế quốc, làm các
nước đế quốc phải căng mình ra đối phó ở khắp nơi, đồng thời buộc họ phải xác lập
những quan hệ mới với những nước thuộc địa, phụ thuộc.
Sự ra đời của các nước mới giành được độc lập trong điều kiện quốc tế lúc đó
đã dẫn đến sự ra đời của “Phong trào không liên kết”. Là một phong trào đấu tranh cho
tiến bộ xã hội, “Phong trào Không liên kết” đặc biệt dâng cao dưới tác động của cuộc
kháng chiến anh dũng của nhân dân Việt Nam. Phong trào này quy tụ được đông đảo
các quốc gia mới giành được độc lập, do đó cùng có tiếng nói chung với Việt Nam
trong cuộc đấu tranh đòi hòa bình, độc lập, dân chủ. Tuy mới ra đời (1955-1961)
[222], nhưng Phong trào Không liên kết đã sớm thể hiện vai trò quy tụ một lực lượng
kinh tế-chính trị mới: Lực lượng thế giới thứ ba. Điều đó có nghĩa là trên bản đồ chính
trị thế giới từ thời điểm này, ngoài khu vực của các nước thuộc hai hệ thống TBCN và
XHCN, còn có khu vực chính trị - kinh tế của các quốc gia mới độc lập. Cho đến
những năm 60, các quốc gia này chiếm tới 60% tài nguyên và 62 % dân cư thế giới
[208, tr. 81], nhưng lại là những nước nghèo nhất, lạc hậu nhất. Chính vì vậy, mâu
thuẫn giữa các nước trong thế giới thứ ba với các nước tư bản phát triển ngày càng gay
gắt. Bởi ngoài hậu quả bị ảnh hưởng do chính sách cai trị bóc lột thực dân họ còn chịu
tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, trong đó sự bóc lột thông qua đầu tư
công nghệ, tiền vốn làm cho sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu thêm về khoảng
cách. Để đòi lại quyền lợi của mình, lực lượng thế giới thứ ba không còn con đường
nào khác là phải đoàn kết nhau lại đấu tranh cho một trật tự thế giới mới.
Việc các nước tư bản trước đây lệ thuộc vào viện trợ Mỹ (thông qua kế hoạch
Mácsan), đến thời điểm này cũng bắt đầu ly tâm thoát khỏi vòng cương tỏa của Mỹ đã
cho thấy thế giới đang có những vận động mới. Minh chứng là các sự kiện thành lập
những liên minh kinh tế mang tính khu vực như: “Khối thị trường chung Châu Âu”
(1957); “Khối mậu dịch tự do châu Âu” (1959) để cạnh tranh với Mỹ. Sang tới năm
1958, nước Pháp đòi rút hết căn cứ quân sự của NATO ra khỏi nước này.
Như thế, đế quốc Mỹ đã lao vào chiến tranh Việt Nam trong một thế quốc tế và
quốc nội không mấy thuận lợi. Trong quan hệ quốc tế thời điểm đó, Mỹ không chỉ lo
sợ nguy cơ cộng sản tràn như “làn sóng đỏ” mà còn lo ngại nguy cơ “cộng sản đoàn”,
ở đây là đoàn kết, cho nên đã rất coi trọng đối ngoại. Trong đó, các mũi ngoại giao
quan trọng nhất mà Mỹ nhằm vào là Liên Xô và Trung Quốc, hai địch thủ lớn nhất của
18
Mỹ, hai đồng minh chủ yếu của Việt Nam. Đối với Mỹ, nhiệm vụ ngoại giao với hai
nước này là kiềm chế, giữ chân hai nước không trực tiếp can thiệp vào chiến tranh, tác
động để hai nước giảm giúp Việt Nam, lợi dụng mâu thuẫn giữa hai nước để làm suy
yếu “hậu phương quốc tế” của Việt Nam và khi cần thì vận dụng vai trò của hai nước
trong việc thực hiện các ý đồ của Mỹ.
Nhưng nói tới đoàn kết, bất phân trong phạm vi, quy mô vĩ mô hay vi mô của
một bối cảnh nhất định, người ta không thể không chú ý tới nội dung “cô đọng” nhất
của nó, đó là lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc. Quan hệ giữa các nước lớn trong công
cuộc kháng chiến chống Mỹ, ở phạm vi vươn tới của tư tưởng đoàn kết quốc tế của
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không nằm ngoài phạm trù lợi ích này.
Liên Xô, Trung Quốc, hai đồng minh chiến lược của cách mạng Việt Nam cũng
có những tính toán nhất định trong vấn đề lợi ích dân tộc, hơn nữa, họ còn là những
nước lớn cho nên vấn đề lợi ích nước lớn, lợi ích “thủ lĩnh” là một trong những điều
kiện khách quan đối với sự nghiệp đoàn kết quốc tế của cách mạng Việt Nam. Chiến
tranh Lạnh chính là cuộc chiến tranh thể hiện rõ nhất quá trình đấu tranh về mặt lợi ích
dân tộc giữa các quốc gia, đóng vị thế là các cường quốc trên thế giới ở thời điểm này.
Mà biểu hiện là trong cả những tính toán ở tầm chiến lược hay sách lược của hai nước
thì Liên Xô muốn giữ Trung Quốc trong phạm vi khống chế của mình, còn Trung
Quốc cũng muốn tách khỏi “cái bóng” của Liên Xô, có vai trò độc lập, bình đẳng và
trở thành người lãnh đạo cách mạng thế giới. Từ đó dẫn đến xung đột giữa hai nước
lớn về chính trị, hợp tác, cho đến xung đột biên giới.
Trong vấn đề Việt Nam, hai nước này cũng có những tính toán khác nhau. Liên
Xô giúp Việt Nam vì vấn đề lợi ích chiến lược, kiềm chế làm suy yếu Mỹ, tạo điều
kiện để Liên Xô cân bằng chiến lược với Mỹ. Liên Xô cũng muốn qua việc giúp Việt
Nam để đề cao vị thế đứng đầu trong phong trào cách mạng thế giới của mình. Trong
khi đó, để củng cố hòa hoãn với Mỹ, Liên Xô lại mong muốn sớm có giải pháp hòa
bình ở Việt Nam.
Trung Quốc giúp Việt Nam vì nghĩa vụ với đồng minh, cũng vì lợi ích chiến
lược, kiềm chế Mỹ, bảo đảm an ninh của Trung Quốc ở phía nam. Trung Quốc cũng
muốn nổi trội trong sự nghiệp giúp Việt Nam, muốn Việt Nam đánh Mỹ lâu dài, cho
đến lúc Mỹ thật sự suy yếu và Trung Quốc có thể có vai trò như đã từng có ở Hội nghị
Giơnevơ năm 1954. “Không thể để Mỹ tiêu diệt cách mạng Việt Nam, nhưng giúp
Việt Nam, Trung Quốc còn có những tính toán khác, hoàn toàn ích kỷ và nguy hiểm
19
cho cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam. Trung Quốc đẩy cho Mỹ và Việt
Nam đánh nhau để phá thế hai cực Xô - Mỹ hình thành từ sau chiến tranh thế giới thứ
hai và phá xu thế giảm căng thẳng giữa Liên Xô và Mỹ đã đạt được từ những năm đầu
của thập kỷ 60, Trung Quốc đã lợi dụng xu hướng cách mạng trên thế giới, dùng luận
điệu “cách mạng triệt để” nhất, hăng hái chống đế quốc Mỹ nhất, đặc biệt là muốn độc
quyền nắm cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống Mỹ, giương cao ngọn cờ
“cách mạng” vừa chống Mỹ, vừa chống Liên Xô, hòng giành quyền lãnh đạo cách
mạng thế giới. Giúp Việt Nam, Trung Quốc hy vọng nắm Việt Nam để lặp lại điều
Trung Quốc đã làm tại Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, Trung Quốc muốn đẩy Việt
Nam đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng để khi đàm phán thì Trung Quốc sẽ
đứng ra đàm phán với Mỹ, Trung Quốc sẽ lấy thế mạnh trong vấn đề Việt Nam để đàm
phán toàn bộ các vấn đề châu Á”[49, tr. 16].
Mâu thuẫn Xô-Trung như thế đã bắt đầu bộc lộ bất đồng công khai kể từ sau
chuyến thăm Bắc Kinh của N.Khơrutsốp (1954). Mặc dù những người cộng sản đã cố
gắng xóa đi mối bất hòa giữa họ bằng việc tổ chức hai hội nghị các Đảng Cộng sản và
công nhân (1957 và 1960), có tới hơn 80 đảng và tổ chức tham dự, nhưng như lời
tuyên bố của N.Khơrútsốp: “Cuộc xung đột với Trung Quốc là không thể tránh
khỏi”[199, tr. 68]. Ngoài sự rạn nứt Trung-Xô đã xấu đi từ thời I.V.Xtalin lúc này lại
càng đáng lo ngại hơn với việc Anbani công khai đứng về phía Trung Quốc để đả kích
Liên Xô, gây bất đồng sâu sắc trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Đặc biệt trong vấn đề giúp Việt Nam, hai nước Xô-Trung cũng có những chủ
trương và việc làm có tính chất chống nhau. Nói cách khác, đường lối chiến lược của
hai nước Xô-Trung đã đặt Việt Nam vào tình thế phải chịu sức ép rất lớn. Trong hoàn
cảnh vừa thiếu về thực lực, lại vừa có nhu cầu nhận viện trợ giúp đỡ toàn diện của cả
Liên Xô và Trung Quốc, Việt Nam phải xử lý “mối quan hệ tay ba” sao cho không có
sự biểu hiện thiên lệch. Nhất là khi mối quan hệ này thường xuyên bị tác động, chi
phối bởi một tác nhân có thế lực và đầy mưu mô là đế quốc Mỹ.
Trước tất cả những tác động trái chiều của quan hệ quốc tế thời điểm đó, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng chính sách từng nước, tìm ra
điểm còn khác nhau và những điểm tương đồng mà mẫu số chung lớn nhất là chống đế
quốc, bảo vệ an ninh, hòa bình, làm nghĩa vụ đối với đồng minh. Từ đó, dân tộc Việt
Nam đã vận dụng linh hoạt đường lối độc lập, tự chủ, đoàn kết quốc tế, tạm gác các
20
bất đồng, nắm chắc và phát huy “mẫu số chung” của tình đoàn kết để thực hiện công
cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Nhưng hệ thống các nước XHCN nói chung ở thời điểm này, mặc dù có cùng ý
thức hệ mà vị trí địa lý, địa chính trị khác nhau nhưng cũng đã có những suy tính khác
nhau về lợi ích chiến lược và chính sách trong vấn đề Việt Nam. Một số nước mới
giành được độc lập có khuynh hướng chính trị, xã hội khác, thậm chí trái ngược,
không ủng hộ Việt Nam mà còn đi theo Mỹ. Tình hình “ly tâm” cũng bắt đầu diễn ra
trong nội bộ ổn định, ở Ba Lan xảy ra sự kiện Pôdơnan (6-1956) làm chấn động dư
luận trong phe XHCN. Tháng 10-1956, đến lượt Hungari, những thế lực chống đối đã
lợi dụng những sai lầm của Đảng và Nhà nước để kích động nhân dân nổi dậy lật đổ
chính quyền. Phải hơn một tháng sau, với sự can thiệp trực tiếp của quân đội Liên Xô,
chính phủ Hunggari mới có thể kiểm soát được tình hình. Đó là những biểu hiện đầu
tiên về khủng hoảng chính trị nội bộ rất đáng lo ngại. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm
thực sự chính là sự bất đồng, mâu thuẫn giữa các nước XHCN với nhau, bởi nó là
nguyên nhân cơ bản làm suy yếu hệ thống XHCN.
Như thế, Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, một nước mạnh về tiềm lực, lại có
nhiều phương tiện và thủ đoạn ngoại giao để lôi kéo các nước về phía mình, đồng thời
lại dùng nhiều thủ đoạn tác động đến các đồng minh của Việt Nam, đặc biệt là lợi
dụng mâu thuẫn Xô-Trung để hạn chế hai nước ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam, tận dụng
vai trò hai nước để giúp Mỹ tìm giải pháp có lợi cho họ. Cuộc chiến tranh rất không
cân sức này còn xảy ra trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và sự chia
rẽ sâu sắc trong phong trào cách mạng thế giới. Trong tình hình đó, cuộc chiến đấu
kiên cường của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược có ý nghĩa to lớn đối
với vận mệnh của nhân dân thế giới và đối với cuộc khủng hoảng trong phong trào
cách mạng thế giới. Nếu đế quốc Mỹ đè bẹp được cuộc chiến đấu của nhân dân Việt
Nam thì số phận của hòa bình và cách mạng trên thế giới sẽ ra sao? Chưa bao giờ số
phận của một dân tộc nhỏ lại gắn chặt với số phận của nhân dân thế giới đến như thế.
Vấn đề Việt Nam với tất cả tầm vóc như vậy đã không còn bó hẹp trong phạm
vi quốc gia hay khu vực, mà đang có xu hướng bị quốc tế hóa bởi sự có mặt của các
quốc gia đại diện cho quyền lực của thế giới. Riêng đế quốc Mỹ, mưu đồ quốc tế hóa
vấn đề Việt Nam, Mỹ đã sử dụng chính sách “cây gậy và củ cà rốt”, tích cực xúc tiến
cho sự ra đời của khối Cửu Long, gồm có ba nước Campuchia, Lào, Thái Lan, mục
đích nhằm biến ba nước dọc sông Mê Kông thành những “tên lính xung kích” chống
21
lại cách mạng Việt Nam. Ngoài việc viện trợ kinh tế, quân sự ồ ạt cho Philippin, Thái
Lan, Mỹ còn bỏ một khoản tiền lớn ra thuê đất lập căn cứ quân sự ở Cò Rạt, Utapao
(Thái Lan), Cờlác (Philippin) Đối với hai nước Lào và Campuchia trên bán đảo Đông
Dương, Mỹ quyết tâm mua chuộc và dùng mọi thủ đoạn để lôi kéo, buộc chính phủ
các nước này phải tuân theo sự “giật dây” của Mỹ. Trước sự cám dỗ của Oasinhtơn,
tháng 5-1955, Chính phủ Campuchia lại ký tiếp Hiệp ước viện trợ kinh tế. Để đổi lấy
những thùng vũ khí và những đồng đôla Mỹ, chính quyền Campuchia đã cho thi hành
chính sách khủng bố đối với lực lượng kháng chiến, làm cho lực lượng cách mạng
Campuchia suy yếu nghiêm trọng.
Tuy nhận viện trợ của Mỹ, nhưng do tính hai mặt của những người lãnh đạo
Campuchia, họ lại chủ trương thân Pháp (một nước có mâu thuẫn với Mỹ trong liên
minh quân sự Bắc Đại Tây Dương - NATO). Vì lẽ đó, Mỹ đã ra lệnh cho chính quyền
Ngô Đình Diệm đánh chiếm tỉnh Stungtreng thuộc biên giới phía đông của
Campuchia. Còn ở phía tây, theo lệnh Mỹ, Chính phủ Thái Lan cũng cho quân đánh
chiếm khu vực đền Preah Vihear, gây căng thẳng về quân sự ở nhiều khu vực biên
giới. Lúc này, Campuchia đã phải tỏ rõ thái độ: tháng 2-1956, quốc vương Xihanúc
tuyên bố không gia nhập khối SEATO mà sẽ thi hành đường lối hòa bình trung lập
(tháng 9-1957, Quốc hội Campuchia thông qua đạo luật về hòa bình trung lập). Tình
thế đã bắt buộc Campuchia một mặt thắt chặt ngoại giao với Pháp, mặt khác phải mở
rộng quan hệ đối ngoại với Liên Xô, Đông Âu và Trung Quốc. Đây là nhân tố thuận
lợi cho Việt Nam và Đông Dương trong quá trình xúc tiến thành lập mặt trận đoàn kết
ba nước Đông Dương chống đế quốc Mỹ.
Tình hình ở Lào sau năm 1954 cũng có nhiều diễn biến phức tạp. Được sự hậu
thuẫn của Mỹ, Kàtày lật đổ chính quyền của Thủ tướng Phuma và lên nắm quyền (10-
1954), xây dựng nên một chính quyền thân Mỹ. Bằng viện trợ và cố vấn, Mỹ nhanh
chóng gạt ảnh hưởng của Pháp khỏi Lào, từng bước áp đặt chế độ thực dân kiểu mới
và biến Lào thành một căn cứ quân sự lý tưởng giữa Trung Quốc và Việt Nam, “một
vị trí chiến lược như con dao găm vào Đông Nam Á” [125, tr. 11-13]. Nhưng do mâu
thuẫn nội bộ giữa các phe phái trong quốc hội và chính phủ, tháng 7-1956, chính phủ
của Kàtày bị đổ, thay vào đó là sự trở lại ghế thủ tướng của Hoàng thân Xuvana
Phuma.
Thi hành chính sách hòa bình, trung lập và hòa hợp dân tộc, chính phủ Phuma
tiến hành đàm phán với Pathét Lào, (tháng 10-1957 ở Viêng Chăn), ký Hiệp định đình
22
chiến và thành lập chính phủ liên hiệp có đại diện của Pathét Lào tham gia. Điều đó
làm Mỹ không hài lòng, vì vậy, tới tháng 7-1959, lực lượng thân Mỹ đã làm đảo chính
lật đổ chính phủ liên hiệp, bắt giam Hoàng thân Suphanuvông và nhiều lãnh tụ của
Pathét Lào, đưa Phủi Sananikon lên nắm quyền. Nhưng chính phủ này cũng tồn tại
không lâu, tháng 12-1959, Mỹ lại cho bọn tay sai làm đảo chính, thay thế Sananikon
bằng một nhân vật mới là Phumi Nôxavẳn, một phần tử chống cộng cực đoan hơn.
Trước sự đàn áp, bắt bớ của chính phủ cánh hữu tay sai Mỹ, các lực lượng yêu
nước và trung lập ở Lào đã có những phản kháng mạnh mẽ. Ngày 19-5-1959, tiểu
đoàn 2 Pathét Lào đã nổ súng chống lại các lực lượng phái hữu, vượt vòng vây. Ngày
23-5-1960, lực lượng hoạt động bí mật đã giải thoát Hoàng thân Suphanuvông cùng
nhiều lãnh tụ Pathét Lào đưa về căn cứ kháng chiến an toàn. Từ đây, phong trào cách
mạng Lào bước sang giai đoạn mới, sát cánh cùng nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu
tranh chống đế quốc Mỹ.
Như thế, nhìn chung lại, từ tất cả những sự kiện chồng chéo, phức tạp của tình
hình quốc tế cũng như khu vực đã cho thấy công cuộc kháng chiến chống Mỹ mà dân
tộc Việt Nam phải thực hiện đã mang ý nghĩa quốc tế, thời đại lớn lao. Và yêu cầu tiên
quyết để công cuộc kháng chiến này tất thắng phải bắt nguồn từ việc phát huy hiệu quả
chiến lược, sách lược đoàn kết quốc tế theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bởi
đế quốc Mỹ đã lợi dụng được những yếu tố tiêu cực trong hệ thống XHCN để thực
hiện âm mưu xâm lược Việt Nam, đánh phá phong trào giải phóng dân tộc nhưng Mỹ
không thể ngăn chặn sự động viên, ủng hộ và giúp đỡ to lớn của các nước XHCN và
của phong trào giải phóng dân tộc cho cách mạng Việt Nam. Tin tưởng ở sự nghiệp
chính nghĩa của dân tộc mình, tin ở xu thế thời đại, từng bước Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã triển khai chiến lược đoàn kết quốc tế, tố cáo chính sách xâm lược, hành động phi
nghĩa của đế quốc Mỹ, đồng thời thể hiện nguyện vọng hòa bình, độc lập, tự do chính
đáng của nhân dân Việt Nam và quyền tự bảo vệ thiêng liêng của mình trước dư luận
toàn thế giới. Bằng thực tiễn cuộc đấu tranh anh hùng và chính nghĩa của mình, Chủ
tịch Hồ Chí Minh và dân tộc Việt Nam đã từng bước quy tụ, tập hợp được các lực
lượng hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới, kể cả nhân dân Mỹ ủng hộ
cuộc đấu tranh chống xâm lược của mình, cô lập cao độ đế quốc Mỹ và từng bước
giành thắng lợi.
1.2. Sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những hoạt động thực tiễn
của Người nhằm kiến lập đoàn kết quốc tế từ năm 1954 đến năm 1959
23
1.2.1. Đoàn kết Việt-Xô-Trung, đoàn kết XHCN
Đứng trước bối cảnh lịch sử trong nước và quốc tế nhiều ngổn ngang, chồng
chéo, sự chỉ đạo đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là việc xác lập những
nguyên tắc và chính sách đối ngoại mới. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để phá vỡ
thế cô lập, mở rộng quan hệ ngoại giao khu vực và quốc tế, tạo ra môi trường thuận lợi
để đón nhận sự giúp đỡ của các nước anh em, mặt khác làm tăng uy tín Việt Nam trên
trường quốc tế.
Tại Hội nghị BCHTƯ lần thứ 6 (khóa II), tháng 7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đọc một bản báo cáo quan trọng trong đó tập trung phân tích những thay đổi về tình
hình thế giới và trong nước đưa ra nhận định về kẻ thù mới và trực tiếp của nhân dân
Việt Nam là đế quốc Mỹ. Mặc dù có những biến động lớn trong quan hệ quốc tế,
Người khẳng định rằng: “Mục tiêu bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, độc lập,
thống nhất, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì
linh hoạt”[27, tr. 8].
Vận dụng sự linh hoạt này và cụ thể hóa đường lối đối ngoại hòa bình của đất
nước, tại Hội nghị BCT tháng 9-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày cụ thể hơn
chiến lược, sách lược trong chính sách ngoại giao của Nhà nước, đối với từng khu vực
và với từng đối tác. Người nhắc lại nguyên tắc chung là: “Xây dựng và phát triển quan
hệ ngoại giao với bất kỳ nước nào dựa theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi,
tôn trọng lãnh thổ, chủ quyền của nhau”[25, tr. 12]. Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh Việt
Nam phải dựa chủ yếu vào phe XHCN, bởi đây chính là lực lượng mà dân tộc Việt
Nam có thể tin cậy, trông chờ vào sự giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần.
Đường lối ngoại giao có định hướng, có trọng tâm như thế, một mặt biểu thị sự
tôn trọng và khẳng định xu hướng gắn kết với phe XHCN của nhà nước VNDCCH,
mặt khác cho thấy sự đánh giá đúng đắn về vai trò của hai nước lớn Xô-Trung. Chủ
trương này được Hồ Chí Minh khẳng định lại trong Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (3-
1955): “Củng cố không ngừng tình đoàn kết hữu nghị với Liên Xô, Trung Quốc và các
nước XHCN khác, thực hiện việc phối hợp chặt chẽ với các nước anh em trong hoạt
động quốc tế và đấu tranh ngoại giao”[25, tr. 23].
Thực hiện mục tiêu trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã tính
toán, cân nhắc rất thận trọng tất cả những nhân tố chủ quan và khách quan để định ra
chủ trương, biện pháp cách mạng sao cho vừa đáp ứng được yêu cầu cách mạng miền
24
Nam và bảo vệ được miền Bắc, vừa đoàn kết được đồng minh, nhất là Liên Xô, Trung
Quốc.
Thêm vào đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhìn ra những chia rẽ trong quan
điểm, hành động của Liên Xô và Trung Quốc bắt đầu từ những năm 50, thế kỷ XX.
Cho nên vào tháng 8 năm 1956, Người nêu rõ thêm mục đích của chiến lược đoàn kết
quốc tế, đó là cần phải củng cố và phát triển sự thống nhất tư tưởng của các đảng
Mácxít-Lêninnít trên diễn đàn quốc tế rộng rãi. Người khẳng định, mục tiêu này cũng
chính là một phần quan trọng trong đường lối quốc tế của Đảng LĐVN. Bởi vì, thực
hiện đoàn kết quốc tế ở phạm vi giai cấp vô sản quốc tế của các Đảng anh em chính là
yêu cầu của thời đại, yêu cầu của thực tiễn. Tiến hành công cuộc đoàn kết này cũng
chính là hiện thực “sự nhất trí về lợi ích giữa cuộc đấu tranh để giải phóng các dân tộc
khỏi cách đế quốc chủ nghĩa và cuộc đấu tranh giải phóng quần chúng lao động khỏi
chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa…Trong cuộc đấu tranh để thống nhất Tổ quốc, Đảng
LĐVN không bao giờ lại tự tách mình với các đảng anh em. Đảng lấy toàn bộ thực
tiễn của mình để chứng minh rằng chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời
với chủ nghĩa quốc tế vô sản, và khối liên minh anh em giữa tất cả những người đấu
tranh cho sự nghiệp chung, cho việc giải phóng loài người, cho sự xây dựng một xã
hội không có giai cấp, cho sự chung sống hoà bình và cho hoà bình bền vững là không
gì lay chuyển nổi”[81, tr. 969].
Để biến chủ trương, đường lối của Đảng thành quan điểm tương đồng, nhận
được sự ủng hộ, giúp đỡ của cả Liên Xô, Trung Quốc cũng như của bạn bè quốc tế,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiến hành hàng loạt hoạt động đối ngoại nổi bật của Đảng và
Nhà nước VNDCCH. Những chuyến công du ngoại giao của Người được thực hiện
trong thời điểm này nhằm mục đích thắt chặt thêm tình hữu nghị giữa nhân dân, Chính
phủ Việt Nam với nhân dân các nước anh em, các nước bạn.
Từ ngày 22-6 đến 18-7-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu thăm chính thức
Trung Quốc, Mông Cổ và Liên Xô để kêu gọi các đồng minh gây sức ép lên Mỹ và
Diệm. Tuy nhiên kết quả chuyến đi không được khả quan. Cả Liên Xô và Trung Quốc
đều đang tìm cách giảm căng thẳng với Mỹ và không muốn để Việt Nam trở thành trở
ngại. Để bù lại, cả hai hứa sẽ tăng viện trợ kinh tế (Trung Quốc viện trợ 200 triệu còn
Nga viện trợ 100 triệu đô), đồng thời cung cấp lương thực chống lại nạn đói đang đe
dọa miền Bắc [209, tr. 71-73]. Ngày 22-7-1955 trong bài phát biểu khi về nước, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã cảm ơn sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc, tuy nhiên, Người
25