Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Đánh giá khả năng kháng khuẩn của dịch ép một số loại thảo dược đối với vi khuẩn streptococcus sp gây bệnh xuất huyết trên cá rô phi vằn ( oreochromis niloticus) luận văn thạc sĩ sinh học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 87 trang )

1
MỞ ĐẦU
Cá Rô phi là đối tượng nuôi thủy sản có nguồn gốc từ Châu Phi. Nhưng
ngày nay cá Rơ phi không những được nuôi ở Châu Phi mà đã được phát tán
và nuôi ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở các nước nhiệt đới và cận
nhiệt đới. Trong vài chục năm trở lại đây chúng đã thực sự trở thành lồi cá
ni cơng nghiệp, có sản lượng lớn và giá trị kinh tế cao. Trong đó lồi được
ni phổ biến là cá Rơ phi vằn (Oreochromis niloticus), có đặc điểm thịt
trắng, chất lượng thơm ngon, năng suất cao, dễ ni, ít dịch bệnh, có thể ni
ở nhiều điều kiện mơi trường với nhiều hình thức ni khác nhau. Ở nước ta
nghề nuôi cá Rô phi đang phát triển mạnh mẽ ở nhiều địa phương và trong
tương lai Việt Nam có thể trở thành một quốc gia xuất khẩu cá Rô phi chủ
lực, hướng tới những thị trường khó tính như: Mỹ, Nhật Bản và một số nước
Châu Âu. Dự kiến đến năm 2015, sản lượng cá rơ phi đạt 150.000 tấn, tăng
trưởng trung bình 7,9%/năm [46], [54].
Cá rơ phi tuy có sức đề kháng tốt nhưng khi ni với hình thức thâm
canh hoặc bán thâm canh, với mật độ ao ni cao cùng với đó là tình trạng
nước trong ao bị ơ nhiễm và thiếu ơxi nên cá thường mắc bệnh xuất huyết do
vi khuẩn Streptococcus sp gây ra. Năm 2009, trên địa bàn các tỉnh Hải
Dương, Quảng Ninh, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Nội đã xuất hiện
hiện tượng cá chết hàng loạt. Tại tỉnh Hải Dương tiến hành xét nghiệm mẫu
bệnh phẩm của cá thấy 7/7 mẫu bệnh phẩm nhiễm vi khuẩn Streptococcus sp.
Tuy là một loại bệnh thông thường, nhưng do tâm lí chủ quan của người dân
nên vẫn gây ra những thiệt hại lớn [32], [51].
Sử dụng kháng sinh, hoá chất được xem là phương pháp truyền thống
để điều trị bệnh xuất huyết do vi khuẩn. Tuy nhiên phương pháp này có
nhược điểm là người ni thuỷ sản khơng tính được lượng thuốc hợp lí cần
cho cá nên thường cho hoặc nhiều quá hoặc ít quá, dẫn đến vi khuẩn bị nhờn
thuốc. Mặt khác hiện nay đã có nhiều cảnh báo trong việc sử dụng thuốc



2
kháng sinh để điều trị bệnh thuỷ sản, do tác hại lâu dài của nó đối với sức
khoẻ con người, vật ni và mơi trường xung quanh.
Trước tình hình đó địi hỏi phải có những giải pháp mới trong phịng và
trị bệnh trên động vật thuỷ sản nói chung, cá rơ phi vằn nói riêng nhằm thay
thế các loại hố chất, kháng sinh đang được sử dụng. Trong đó hướng nghiên
cứu và sử dụng thảo dược đang được nhiều người quan tâm. Việc sử dụng
thảo dược để phòng và trị bệnh cho thuỷ sản có nhiều ưu điểm như: giá thành
rẻ, dễ sử dụng, an toàn đối với thuỷ sản, con người và môi trường xung
quanh. Trên thế giới, một số nước như: Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh,
Thái lan, Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã có những nghiên cứu thử nghiệm tác dụng của
một số loại thảo dược đối với một số tác nhân gây bệnh trên một số loại thủy
sản. Ở nước ta, trong những năm gần đây các nhà khoa học cũng đã có một số
nghiên cứu và thử nghiệm ở các mức độ khác nhau về tác dụng của một số
loại thảo dược như: lá trầu không, hẹ, tỏi, lá xoan, lá húng, … trong phòng và
trị bệnh trên cá chép, tôm sú, cá trắm cỏ, cá rô phi vằn,… Tuy nhiên có nhiều
loại thảo dược chưa được nghiên cứu đối với nhiều tác nhân gây bệnh trên
nhiều đối tượng khác nhau. Trong đó có cá rơ phi vằn với loại bệnh thường
gặp là bệnh xuất huyết do vi khuẩn Streptococcus sp gây nên.
Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến hành đề tài “Đánh giá khả năng kháng
khuẩn của dịch ép một số loại thảo dược đối với vi khuẩn Streptococcus
sp gây bệnh xuất huyết trên cá rô phi vằn (Oreochromis niloticus) ”
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá, so sánh khả năng kháng vi khuẩn Streptococcus sp của dịch
ép giữa một số loại thảo dược thông dụng và giữa thảo dược với các loại
thuốc kháng sinh thường dùng. Từ đó góp phần đẩy mạnh việc sử dụng thảo
dược và hạn chế sử dụng thuốc kháng sinh trong phòng và trị bệnh cho thuỷ
sản.



3
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN
1.1. VÀI NÉT VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1.1.1. Chủng vi khuẩn Streptococcus sp
Theo hệ thống phân loại của Bergey (1974) [3], chủng vi khuẩn
Streptococcus sp thuộc nhóm phân loại như sau:
Giới Sinh vật nhân nguyên thủy (Procaryota)
Ngành Vi khuẩn (Bacteria)
Nhóm Mycoplasma (tế bào khơng có dạng xoắn, khơng có thành tế
bào)
Lớp Mollieutes
Bộ Chlamydiales
Họ Streptococcaceae
Giống Streptococcus
- Đặc điểm sinh học:
Streptococcus sp là tên gọi chung cho các loài vi khuẩn thuộc giống
Streptococcus chưa được định danh, có dạng hình cầu hoặc hình trứng, đường
kính khoảng 1 m , tạo thành dạng chuỗi ngắn hoặc dạng song cầu khuẩn. Là
vi khuẩn Gram dương, phần lớn Streptococcus là yếm khí không bắt buộc.
Trong thạch sâu vi khuẩn mọc ở tất cả chiều cao của ống môi trường [4], [38].
- Đặc tính gây bệnh:
Giống Streptococcus gồm nhiều nhóm khác nhau, có khả năng gây
bệnh ở người, động vật và một số loài cá. Ở người, 90% bệnh nhiễm khuẩn do
Streptococcus, như: bệnh tinh hồng nhiệt, viêm họng, viêm thận, bệnh viêm
màng não của trẻ sơ sinh,…v.v. Ở động vật, Streptococcus gây bệnh viêm vú
bò, nhiễm liên cầu khuẩn,…v.v [4]. Vi khuẩn Streptococcus sp là tác nhân
chủ yếu gây bệnh xuất huyết cho nhiều loại cá khác nhau (cá Diêu hồng, cá
Rô phi,…). Chúng có khả năng xâm nhập và làm tổn thương não cá, rồi theo
máu đến làm tổn thương thận và tỳ tạng. Khi quan sát tiêu bản tươi mô gan,
thận, tỳ tạng của cá bệnh sẽ thấy chúng nằm rải rác hoặc tập trung thành từng



4
đám trên vùng mơ phết kính bên cạnh các tế bào biến dạng, cấu trúc rời rạc.
Mô thận và tỳ tạng cá bệnh có dấu hiệu xung huyết, xuất huyết và hoại tử
[27].
1.1.2. Cá rô phi vằn (Oreochromis niloticus)
- Vị trí phân loại như sau:
Lớp cá Xương (Actinopterygii)
Bộ cá Vược (Perciformes)
Họ cá Rơ phi vằn (Cichlidae)
Lồi Rơ phi vằn (Oreochromis niloticus)
- Đặc điểm:
Cá rô phi vằn được nuôi ở nhiều nước trên thế giới đặc biệt là ở các
nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Chúng có thể sống ở nhiều môi trường nước
khác nhau như: nước mặn, nước ngọt và nước lợ; có biên độ nhiệt khá rộng;
có thể sống trong mơi trường có biên độ pH rất rộng từ 5-11, nhưng thích hợp
nhất là từ 6,5-8,5; có thể sống được trong mơi trường thiếu ơxi và có hàm
lượng amoniac khá cao,… [50], [52]. Thức ăn của cá rô phi vằn khá đa dạng
và phong phú, từ các loại thức ăn tự nhiên như: phù du, mùn bã hữu cơ, tảo,
côn trùng,… cho đến các loại thức ăn công nghiệp đã chế biến hoặc chưa chế
biến như: các loại cám, phụ phẩm công nghiệp,… [39], [51], [35]
- Dịch bệnh ở cá rơ phi vằn:
Cá rơ phi vằn là lồi sống khoẻ, ít bị dịch bệnh. Tuy nhiên trong thực tế
khi nuôi thâm canh với mật độ cao, môi trường bị ơ nhiễm và thiếu ơxi thì cá
rơ phi vằn cũng có thể bị mắc bệnh. Bệnh ở cá rơ phi vằn có thể do vi khuẩn,
vi rút, nấm và kí sinh trùng gây ra. Đặc biệt là bệnh do vi khuẩn
Streptococcus là nguyên nhân gây nên thiệt hại lớn ở cá rơ phi vằn nói riêng
và cá nước ngọt nói chung, làm ảnh hưởng đến hiệu quả của nghành nuôi
trồng thuỷ sản trên thế giới (Stoffregen et al, 1996; Shoemaker and Klesius,

1997). Ở nước ta một số dịch bệnh lớn ở cá rô phi vằn gây thiệt hại đáng kể
cho các hộ nuôi thuỷ sản đã được ghi nhận. Năm 2009 đã xảy ra dịch bệnh


5
làm cá chết hàng loạt ở 5 tỉnh phía bắc là Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh,
Hà Nội, Quảng Ninh. Theo kết luận của Trung tâm nghiên cứu, quan trắc,
cảnh báo mơi trường và phịng ngừa dịch bệnh thủy sản khu vực miền bắc thì
trong 51 mẫu cá rơ phi vằn bị bệnh lấy ở các tỉnh và xét nghiệm thấy đều có
mặt tác nhân gây bệnh là vi khuẩn Streptococcus sp. Đây là vi khuẩn đặc
trưng gây bệnh cho cá rơ phi vằn, vi khuẩn có mặt trong gan, thận thậm chí cả
trong não cá rơ phi vằn nên khi sắp chết cá thường có biểu hiện quay trên mặt
nước rồi chìm xuống đáy ao.
Năm 2010 lại xuất hiện dịch bệnh lan rộng ở nhiều huyện của tỉnh Hải
Dương làm cá rô phi vằn chết hàng loạt. Theo kết luận của Trung tâm nghiên
cứu, quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh thủy sản khu
vực miền bắc thì cá chết là do vi khuẩn Streptococcus agalactae [32], [51].
Như vậy có thể thấy rằng, hiện nay nghành cơng nghiệp ni cá rơ phi
vằn trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng đang đối mặt với một loại
bệnh nguy hiểm do vi khuẩn Streptococcus gây ra và thường được gọi là bệnh
xuất huyết. Bệnh thường gây chết cá với số lượng lớn, cá bị bệnh thường có
kích thước đã lớn, từ 100g trở lên nên thường gây hậu quả nặng nề cho người
nuôi. Triệu chứng bệnh thường gặp là cá bị xuất huyết ở da quanh miệng cá
hoặc gốc vây; các vết áp xe lớn ở vây ngực và đi, có thể có mủ; cá có hành
vi bất thường như bơi vịng quanh, bỏ ăn, khi giải phẫu thấy có hiện tượng
tích dịch trong xoang bụng, một số trường hợp cịn có dấu hiệu mắt cá lồi to.
Ngoài ra khi cá bị nhiễm bệnh nặng, cá cịn bị các vi khuẩn cơ hội khác
tấn cơng như Aeromonas sp trong nước ngọt hay Vibrio sp trong nước lợ làm
cho dịch bệnh trở nên nghiêm trọng hơn. Bệnh chủ yếu lan truyền ngang từ cá
bị bệnh sang cá khỏe hoặc từ môi trường đến cá. Dịch bệnh thường xảy ra khi

cá nuôi bị căng thẳng (stress) kéo dài, có thể do mật độ cao, hàm lượng ơxi
trong nước thấp hoặc nhiệt độ nước tăng cao [50].
1.2. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA VIỆC SỬ DỤNG THUỐC KHÁNG SINH
TRONG PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH CHO THỦY SẢN


6
Thuốc kháng sinh là tất cả những chất hóa học không kể nguồn gốc
(chiết xuất từ môi trường nuôi cấy vi sinh vật, bán tổng hợp hay tổng hợp) có
khả năng kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn hoặc tiêu diệt vi khuẩn bằng
cách tác động chuyên biệt trên một giai đoạn chuyển hóa cần thiết của vi sinh
vật [58].
Trong nghề nuôi thuỷ sản, một trong những nguy cơ mà người nuôi
thường xuyên phải đối mặt và gặp phải đó là dịch bệnh trên vật ni. Để giải
quyết tình hình này biện pháp chủ yếu thường xuyên được áp dụng hiện nay
là sử dụng thuốc kháng sinh. Hiện nay ở nước ta việc nuôi thuỷ hải sản đa
phần là mang tính chất nhỏ lẻ, manh mún do các hộ gia đình tự ni. Thuốc
kháng sinh và các hóa chất độc hại có thể xâm nhiễm thơng qua các con
đường như: môi trường (ao, hồ,…), con giống, thức ăn,… Ở những vùng có
các doanh nghiệp kinh doanh và chế biến được các công ty, doanh nghiệp thu
mua lại, sơ chế hoặc chế biến, đóng gói và tiêu thụ. Ngồi ra ở một số nơi
được các tiểu thương thu mua thì người ta có thể sử dụng các hóa chất cấm để
bảo quản sản phẩm (phân urê). Với một quy trình sản xuất và bao tiêu sản
phẩm như vậy nên việc các sản phẩm thuỷ sản có dư lượng kháng sinh và các
hố chất độc hại là điều khó tránh khỏi.
Đối với vật ni nói chung và thủy sản nói riêng, nếu sử dụng một loại
kháng sinh lặp lại trong một thời gian dài có thể gây ra những ảnh hưởng xấu
như: gây ra tác dụng phụ; giảm sức đề kháng; làm mất cân bằng hệ vi sinh vật
đường ruột, có thể tiêu diệt các vi sinh vật có ích tạo điều kiện cho vi sinh vật
có hại phát triển và gây ra những bệnh khác cho vật nuôi; làm cho vi khuẩn

kháng thuốc như: hiện tượng kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn E. ictaluri
gây bệnh gan thận mủ ở cá tra đã được cảnh báo trong nhiều năm qua [32].
Việc sử dụng thủy sản có dư lượng thuốc kháng sinh và hóa chất độc
hại có rất nhiều nguy cơ tiềm ẩn. Trong đó có việc ảnh hưởng đến sức khỏe
người tiêu dùng. Qua thực tế người tiêu dùng có thể bị ngộ độc cấp tính khi
sử dụng những sản phẩm này với những biểu hiện thường thấy ở người bị ngộ


7
độc thực phẩm như: buồn nơn, chóng mặt, nhức đầu, tiêu chảy,… Ngồi ra
người tiêu dùng cịn có thể bị ngộ độc mãn tính, phải trải qua một thời gian
tích lũy lâu dài mới biểu hiện triệu chứng bệnh. Cụ thể như:
- Chloramphenicol gây ra các triệu chứng rối loạn đường ruột, làm rối
loạn quá trình giảm phân của tế bào máu gây nên bệnh thiếu máu, chất này
làm suy thoái nghiêm trọng chức năng của tủy xương, làm suy yếu hệ xương
ở trẻ sơ sinh.
- Oxytetracyline là dư lượng kháng sinh được phép khơng q 100ppb
trong thực phẩm. Nó có thể hình thành hệ vi khuẩn kháng thuốc, ảnh hưởng
đến hệ miễn dịch của cơ thể.
- Dẫn xuất của Nitrofuran (Furaltadone, Furanzolidone, Nitrofurazone)
có thể gây ung thư
- Kháng sinh nhóm Quinolon có thể gây ung thư da khi tích lũy lâu dài
[6], [33], [35].
Mặt khác dư lượng thuốc kháng sinh và các hóa chất độc hại trong sản
phẩm thủy sản cịn gây nên một hậu quả nữa, đó là ảnh hưởng đến uy tín và
việc xuất khẩu các sản phẩm này sang các nước khác. Ở các nước như: Mỹ,
Nhật Bản, Nga, các nước EU có những quy định rất nghiêm ngặt trong việc
nhập khẩu các sản phẩm thủy sản. Ngoài các quy định cụ thể về dư lượng các
chất cho phép trong sản phẩm, quy định về các chất cấm sử dụng thì quy trình
kiểm tra các lơ hàng nhập khẩu diễn ra rất chặt chẽ. Ở từng thời điểm, trong

các lô hàng nhập khẩu sẽ tiến hành kiểm tra ngẫu nhiên một mẫu sản phẩm,
nếu phát hiện trong mẫu sản phẩm kiểm tra có dư lượng các chất độc hại vượt
mức cho phép họ sẽ cảnh báo và nâng mức kiểm soát lên cao dần. Nếu trong
các lô hàng tiếp theo vẫn tiếp tục vi phạm sẽ ngưng nhập khẩu và buộc công
ty nhập khẩu tiến hành hủy tồn bộ lơ hàng. Cụ thể: ngày 10/6/2011, Nhật
Bản đã nâng mức cảnh báo đối với mặt hàng tôm xuất khẩu của Việt Nam lên
100%; tháng 7/2011, ba nhà bán lẻ của Anh là Tesco, Asda, Morrisson quyết
định ngừng bán cá tra Việt Nam do phát hiện tạp chất tăng trọng. Điều này


8
khơng những ảnh hưởng đến uy tín các mặt hàng thủy sản xuất khẩu của nước
ta mà còn gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế cho ngành xuất khẩu thủy hải sản
và nhiều hệ lụy kéo theo đó. Và đây cũng là một thách thức không nhỏ đối
với các doanh nghiệp Việt Nam trong khi nhà nước chưa có chế tài đủ mạnh
cũng như các biện pháp mạnh tay để kiểm sốt ngay từ đầu. Bởi vì hiện nay
có một nghịch lý là trong khi các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đang lao
đao vì hàng xuất đi bị trả về do khơng đạt chuẩn thì các hóa chất độc hại vẫn
được nhập về một cách tràn lan, không hề được kiểm soát và ngăn ngừa cũng
như hạn chế. Điều này cũng dẫn đến một hậu quả nữa đó là các doanh nghiệp
xuất khẩu sau khi có hàng bị trả về do khơng đạt chuẩn thì thay vì phải hủy,
họ lại bán các phế phẩm này cho người tiêu dùng trong nước để hạn chế thiệt
hại. Việc làm đó chẳng khác gì đi đầu độc ngay chính người dân của mình.
Do vậy để tránh những điều nghịch lý như trên trong hoàn cảnh hiện nay, nhà
nước và các nhà khoa học cần phải tìm ra các biện pháp đồng bộ để từng bước
khắc phục. Một trong những biện có tính khả thi, mang tính chất bền vững lâu
dài là nghiên cứu biện pháp phòng và trị bệnh mới sử dụng các loại thảo dược
[35].
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ SỬ DỤNG THẢO DƯỢC
1.3.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng thảo dược trên thế giới

Việc sử dụng thảo dược để phòng và trị bệnh cho con người đã được
nghiên cứu và áp dụng từ rất lâu. Trên thế giới, những nước có ngành y học
cổ truyền phát triển và có truyền thống lâu đời trải qua hàng nghìn năm như:
Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ,… Tại những nước này ngành y
học cổ truyền được nghiên cứu lâu đời với nguồn kinh nghiệm được tích lũy,
chắt lọc qua nhiều thế hệ đã tạo nên một vốn kiến thức rất đồ sộ và phong
phú. Trong đó có rất nhiều phương thuốc trị được nhiều căn bệnh (từ những
bệnh đơn giản đến những bệnh nan y) ở người có sử dụng các loại thảo dược.
Trong đông y, một phương thuốc có thể sử dụng kết hợp rất nhiều vị thuốc
khác nhau. Chính sự kết hợp tài tình đó đã tạo nên hiệu quả lớn trong việc sử


9
dụng các bài thuốc đơng y để phịng và trị bệnh cứu người. Vậy thì con người
có thể xem như một lồi động vật tiến hóa cao nhất. Nếu thảo dược có thể
chữa bệnh cứu người, vậy tại sao lại khơng phịng và chữa được bệnh cho
những động vật khác?
Trong khi đó vấn đề dư lượng thuốc kháng sinh và các hóa chất độc hại
đã và đang làm ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của con người, vật nuôi, mơi
trường xung quanh, mặt khác nó cịn làm ảnh hưởng đến ngành xuất khẩu
thủy sản của các nước. Hơn thế nữa việc sử dụng kháng sinh từ thảo dược có
những lợi ích thiết thực như: chi phí thấp, dễ kiếm, dễ sử dụng, an tồn với
vật ni, khơng gây hại cho con người và thân thiện với mơi trường. Chính vì
những lợi ích như vậy, hiện nay có rất nhiều nước trên thế giới quan tâm
nghiên cứu ứng dụng thảo mộc vào trong lĩnh vực ni trồng thủy sản. Trong
đó phải kể đến những nước có ngành ni trồng thủy sản tương đối phát triển
như các nước thuộc châu Á như: Ấn Độ, Trung Quốc, Banglades, Thổ Nhĩ
Kỳ, Malaysia,…
Một số tác giả T. Rahman, MMR Akanda, MM Rahman, MBR
Chowdhury đã nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của thuốc kháng sinh và các

loại thảo dược đối với một số loại vi khuẩn gây bệnh phổ biến trên cá. Thí
nghiệm được tiến hành với 4 loại thuốc kháng sinh là: CFCIN (Cipro
floxacin), Renamycin (Oxytetracycline), Dt – 10 (Doxycycline) và Sulfatrim
(Sufadiazin + Trimethoprim) với các liều lượng 100, 75, 50 và 25 ppm; 4 loại
thảo dược là: Tỏi, Nghệ, Akand (C.gigentia) và hỗn hợp Akand + Neem (A.
indica) với các nồng độ là 2, 4, 6, 8 mg/ml. Thí nghiệm tiến hành lần lượt đối
với cá bị nhiễm 1 trong 3 chủng vi khuẩn gây bệnh phổ biến là: Aeromonas
hydrophyla, Pseudomonas fluorescens và Edwardsiella tarda và cảm nhiễm
trên cá Thái bạc (Barbonymus gonionotus). Biện pháp chữa trị là tắm, đối với
kháng sinh tắm 3-4h/lần và 2 lần/ngày; đối với thảo dược tắm với nồng độ
8mg/1ml và 2 lần/ ngày. Kết quả nhận được như sau: đối với kháng sinh hiệu
quả cao nhất (100% khỏi bệnh) là đối với CFCIN với liều lượng 75ppm. Đối


10
với thảo dược hiệu quả cao nhất (90%  2,89) là đối với tỏi với liều lượng
8mg/ml. Và kết quả này ngang hoặc cao hơn với kết quả của 3 loại kháng sinh
còn lại. Còn kết quả thấp nhất là khi sử dụng Akand (50% 2,89). Như vậy
bước đầu thí nghiệm đã cho kết quả tốt trong việc sử dụng thảo dược để chữa
bệnh trên cá [31].
Ở Thổ Nhĩ Kỳ, các tác giả Hakar Turker, Arzu Birinci Yildirim và
Fatma Pehlivan Karakas đã tiến hành thử nghiệm khả năng kháng khuẩn của
22 loại thảo dược có ở địa phương đối với một số chủng vi khuẩn phổ biến
gây bệnh trên cá như: Aeromonas hydrophyla, Yersinia ruckeri, Lactococcus
garvieae, Streptococcus agalactiae và Enterococcus faecalis. Các loại thảo
dược được chiết xuất với 2 loại dung môi là cồn và nước. Kết quả dịch chiết
các loại thảo dược cho khả năng kháng khuẩn cao nhất bao gồm: Nuphar
lutea, Nymphaea alba, Stachys annua, cây kim tước chỉ Lydia, Vinca nhỏ,
Fragaria. Kết quả này cho thấy có thể tiếp tục nghiên cứu các loại thảo dược
trên để cho ra sản phẩm thay thế dần thuốc kháng sinh hiện nay [27].

Ở Ấn Độ, một số tác giả Subramanian Velmurugan, Thavassimuthu
Citarasu đã nghiên cứu ảnh hưởng của các chiết xuất từ một số thảo dược
Murraya koenigii, Psoralea corylifolia và Quercus infectoria đối với một số
chủng vi khuẩn Pseudomonas aeruginosa, Staphylococcus aureus và các vi
khuẩn Vibrio harveyi được phân lập từ tôm trắng Ấn Độ (Fenneropenaeus
indicus) bị bệnh. Biện pháp áp dụng là nghiên cứu nồng độ ức chế tổi thiểu
của chiết xuất từ các thảo dược trên đĩa thạch nghiêng có cấy vi khuẩn sau
24h. Sau đó thử nghiệm bằng cách trộn chiết xuất từ các thảo dược vào thức
ăn và cho tôm ăn liên tục trong 30 ngày và cứ 10 ngày một lần cho tôm tắm
trong dung dịch có pha vi khuẩn gây bệnh Vibrio harveyi để theo dõi tỉ lệ mắc
bệnh và tỷ lệ sống sót giữa nhóm kiểm sốt và nhóm đối chứng. Ngồi ra thực
nghiệm cũng tiến hành kiểm tra hệ vi sinh vật đường ruột của tơm sau khi cho
ăn thức ăn có trộn thảo dược và so sánh với nhóm đối chứng. Bởi vì vi sinh
vật đường ruột cũng là những tác nhân cơ hội gây bệnh khi sức đề kháng của


11
vật chủ bị suy giảm. Kết quả cho thấy có sự thay đổi đáng kể trong các thử
nghiệm nói trên giữa các loại thảo dược và giữa nhóm kiểm sốt với nhóm đối
chứng (P < 0,05) [30].
Ngồi ra một số nước khác như Trung quốc, Thái Lan, Malaysia cũng
có những nghiên cứu về các loại thảo dược trong nước trong phịng và trị
bệnh trên thủy sản nhằm mục đích hướng tới một ngành thủy sản xanh, với
mục tiêu hạn chế dư lượng thuốc kháng sinh và các hóa chất độc hại trong các
sản phẩm thủy sản.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng thảo dược trong nước
Như vậy có thể thấy rằng vấn đề dư lượng thuốc kháng sinh trong nuôi
trồng thủy sản là một vấn đề chung trên thế giới, trong đó có nước ta. Việc
tồn dư thuốc kháng sinh và các hóa chất độc hại trong thủy sản không những
ảnh hưởng đến sức khỏe con người, vật nuôi và mơi trường xung quanh mà

cịn trực tiếp ảnh hưởng đến nền kinh tế ở trong nước, đặc biệt nước ta lại là
một nước có nền kinh tế nơng nghiệp giữ một vai trị quan trọng, trong đó
ngành ni trồng thủy sản với mục tiêu đến năm 2015, sản lượng thủy sản đạt
3,6 triệu tấn, chiếm tỷ trọng 3,5-4,0 tỷ USD và đến năm 2020 sản lượng thủy
sản sẽ đạt 4,5 triệu tấn, chiếm tỷ trọng 5,0-5,5 tỷ USD [46].
Nước ta là một trong những đất nước từ xa xưa đã có truyền thống sử
dụng thuốc đơng y để chữa bệnh cho con người. Với những danh y nổi tiếng
qua các triều đại như: Tuệ Tĩnh (đời nhà Trần), Hải Thượng Lãn Ông – Lê
Hữu Trác (đời nhà Hậu Lê), GS Đặng Văn Ngữ (1956) với cơng trình nghiên
cứu tác dụng kháng khuẩn trên 500 loài cây khác nhau,…Ngoài ra với một đất
nước có nhiều dân tộc, mỗi một dân tộc lại có kinh nghiệm sử dụng các loại
thảo dược khác nhau trong việc chữa bệnh cho người. Chính dựa trên một nền
văn hóa lâu đời và đa dạng như vậy nên để khắc phục và hạn chế việc sử dụng
thuốc kháng sinh trên thủy sản, các nhà khoa học trong nước đã có những
cơng trình nghiên cứu về các loại thảo dược trong việc phòng và trị bệnh cho
vật ni nói chung và thủy sản nói riêng.


12
Trong q trình ni các loại thủy sản với kinh nghiệm của mình các
hộ ni trồng cũng đã sử dụng một số biện pháp đơn giản và rẻ tiền nhằm hạn
chế dịch bệnh như: dùng lá xoan ngâm thả trong ao nhằm mục đích phịng và
chữa bệnh do giáp xác gây ra hoặc để hạn chế sự phát triển của trùng mặt trời
(Trichodina) kí sinh và gây bệnh trên các loài cá nước ngọt. Dùng tỏi trộn vào
thức ăn cho cá để trị bệnh viêm ruột ở cá trắm cỏ. Ngoài ra để diệt cá tạp khi
tẩy dọn ao ương nuôi tôm giống tôm thương phẩm người dân thường dùng rễ
dây thuốc cá đập dập cho ra chất nhựa trắng, sau đó ngâm trong ao có nước
sâu 15-20 cm, sau 5-10 phút cá tạp sẽ nổi lên trên.
Dựa trên nguồn kinh nghiệm dân gian, các nhà khoa học trong nước đã
lần lượt nghiên cứu các loại thảo dược sẵn có, dễ tìm và rẻ tiền trong việc

phịng và trị bệnh cho các loài thủy sản và đã cho một số kết quả nhất định.
Một số cơng trình nghiên cứu trong điều kiện phịng thí nghiệm về các
loại thảo mộc trong phòng và trị bệnh do vi khuẩn gây ra trên các loại thủy
sản đã được tiến hành. Đồn Chí Thanh và các tác giả đã nghiên cứu thử
nghiệm một số loại thảo dược trong phòng trị bệnh đốm đỏ trên cá trắm cỏ
giống (Ctenopharyngodon idellus). Thử nghiệm được tiến hành bằng cách
chiết xuất dịch chiết từ các loại thảo dược Tỏi (nước và cồn), lá Xoan, cây Cỏ
mực, Cộng sản, lá Bỏng, lá Hồn ngọc; sau đó pha lỗng ở các nồng độ khác
nhau và thử nghiệm trên đĩa có tráng vi khuẩn Aeromonas sp với mật độ
106CFU/ml. Kết quả cho thấy dịch chiết từ Tỏi có kết quả tốt nhất, còn dịch
chiết từ lá Xoan và cây Cỏ mực có kết quả thấp nhất (dựa vào đường kính
vịng vơ khuẩn) [15]. Nguyễn Anh Tuấn đã tiến hành thử nghiệm một số loại
thảo dược trong phòng trị bệnh nhiễm khuẩn trên cá trắm cỏ
(Ctenopharyngodon idellus). Thử nghiệm được tiến hành với phương pháp
như trên và sử dụng các loại thảo dược là: Tỏi, Cỏ sữa lá nhỏ, Chó đẻ răng
cưa, lá Húng, hỗn hợp lá Húng và Tỏi với các tỷ lệ khác nhau, Rau sam,
Nghệ, Cỏ bạc đầu, Sài đất. Kết quả cho thấy có 4 loại hợp chất là Tỏi, Cỏ sữa
lá nhỏ, Chó đẻ răng cưa, Tỏi + lá Húng có khả năng tiêu diệt chủng vi khuẩn


13
phân lập được (Aeromonas sp), trong đó hợp chất được phối trộn từ Tỏi và lá
Húng với tỷ lệ 50% : 50% có khả năng kháng khuẩn cao nhất và giảm dần
xuống đối với những hợp chất cịn lại [21].
Ngồi ra cịn có các nghiên cứu sâu hơn của các nhà khoa học về thành
phần các chất có trong thảo mộc. Điều này đã tạo điều kiện cho các cơ sở, các
nhà máy bào chế thảo dược dưới dạng chế phẩm hoặc thuốc, có sự kết hợp
của nhiều thành phần có cơng dụng cao hơn và thuận tiện sử dụng hơn đối với
người dân. Một số sản phẩm do Trung tâm quan trắc cảnh báo mơi trường và
phịng ngừa dịch bệnh thuỷ sản miền Bắc thuộc Viện nghiên cứu nuôi trồng

thuỷ sản I bài chế như: thuốc KN-04-12 của tác giả Hà Ký là sản phẩm thuốc
thảo dược của cấp nhà nước mã số KN-04-12 gồm các thành phần Tỏi, Sài
đất, Nhọ nồi, Cỏ sữa, Chó đẻ răng cưa phối trộn với vitamin và một số
khoáng vi lượng khác. Sản phẩm dùng để phòng và trị bệnh nhiễm khuẩn
(xuất huyết đồm đỏ, thối mang, viêm ruột). Thuốc Becanor TD1 và Becanor
TD2 là 2 sản phẩm của tác giả Phan Thị Vân, gồm thành phần chính là Tỏi
ngồi ra cịn có một số thành phần khác như: vitamin và một số khống vi
lượng khác,… Sản phẩm dùng để phịng trị bệnh lở loét, đốm đỏ cho một số
loài cá nước ngọt như: cá Trắm cỏ, cá Tra, cá Ba sa, cá Chép. Thuốc còn giúp
tăng cường sức đề kháng và phòng chống stress cho cá nuôi [47]. Hai sản
phẩm này đã được Nguyễn Viết Khuê và các cộng sự thử nghiệm để điều trị
bệnh đốm đỏ cho cá trắm cỏ tại các ao nuôi và lồng nuôi tại 2 tỉnh Bắc Ninh
và Thái Nguyên từ tháng 3/2008-10/2009. Kết quả cho thấy sau khi sử dụng 2
sản phẩm này để điều trị bệnh cho cá trắm cỏ thương phẩm thì tỷ lệ cá sống
trong các ao/lồng nuôi cao hơn so với ao/lồng nuôi đối chứng [35].
Bùi Quang Tề (2005) đã nghiên cứu chế phẩm VTS1 – C và VTS1 – T
là 2 sản phẩm phối chế từ các hoạt chất tách chiết từ tỏi, sài đất sử dụng
phòng bệnh cho cá tra và tôm sú nuôi ao hoặc nuôi lồng đạt kết quả tốt, phòng
được bệnh nhiễm khuẩn do các vi khuẩn Aeromonas hydrophyla, Edwarsiella
tarda, Hafnia alvei, Vibrio harveyi, V.alginolyticus cho tôm cá [47].


14
Nguyễn Quang Linh, Trần Quang Khánh Vân và các cộng sự đã nghiên
cứu chế phẩm Bokashi trầu, là chế phẩm được sản xuất dựa trên công nghệ
chiết xuất dịch chiết từ lá trầu và lên men với các vi sinh vật có lợi, chế phẩm
tạo nên có thành phần chủ yếu: eugenol, chavicol, estradiol, cadinen và các
hợp chất phenol khác từ dịch chiết lá trầu và các vi sinh vật chủ yếu thuộc
nhóm Lactobacillus. Chế phẩm được sử dụng bằng cách trộn vào thức ăn cho
thủy sản nuôi. Sản phẩm vừa có khả năng kháng khuẩn, vừa có khả năng tăng

cường vi sinh vật có lợi trong đường tiêu hóa của động vật thủy sản. Chế
phẩm có nguồn gốc từ thiên nhiên nên thân thiện với môi trường và nâng cao
sức đề kháng cho động vật thủy sản. Ngoài ra tơm được bổ sung chế phẩm có
màu sáng hơn và vỏ kintin cứng hơn so với tôm không được bổ sung chế
phẩm [36].
Một số sản phẩm chế xuất từ thảo dược đã nghiên cứu thành cơng và
được thương mại hóa góp phần vào việc cùng nhà nơng hướng tới quy trình
sản xuất và ni trồng thủy sản xanh, sạch và bền vững. Như: SDK, TS.01,
TS 999, TR 555, TS 1002,… Các sản phẩm này đã được kiểm nghiệm trong
thực tế và được sự chấp nhận rộng rãi của người nuôi trồng thủy sản.
Như vậy có thể thấy ở nước ta đã có những cơng trình nghiên cứu về
tác dụng của các loại thảo đối với các bệnh trên thủy sản nuôi cũng như các
nghiên cứu sâu hơn về thành phần hóa học của các loại thảo dược để chiết
xuất thảo dược dưới dạng thuốc dễ sử dụng. Tuy nhiên trong số các cơng trình
đã được cơng bố thì cơng trình nghiên cứu cề các loại thảo dược hoặc các chế
phẩm từ thảo dược để phòng và trị bệnh thường gặp trên cá Rơ phi vằn chưa
có. Vì vậy trong đề tài này chúng tôi muốn thử nghiệm tác dụng kháng khuẩn
của dịch ép một số loại thảo dược đối với vi khuẩn Streptococcus sp gây bệnh
xuất huyết trên cá Rô phi vằn.
1.3.3. Các loại thảo dược
Ở nước ta có rất nhiều loại thảo dược có khả năng chữa được bệnh. Tuy
nhiên với mục tiêu của đề tài là hướng tới các loại thảo dược rẻ tiền, dễ tìm,


15
dễ sử dụng và có hiệu quả cao đối với việc phòng và trị bệnh trên thủy sản,
nên trong đề tài này chúng tôi lựa chọn các loại thảo dược dễ tìm, quen thuộc
có mặt hàng ngày trong cuộc sống của người dân.
1.3.3.1. Tỏi Allium sativum L.
Thuộc họ Hành - Alliaceae.

- Đặc điểm:
Cây thảo sống nhiều năm. Thân thực hình trụ, phía dưới mang nhiều rễ
phụ, phía trên mang nhiều lá. Lá cứng, hình dải, thẳng dài 15-50cm, rộng 12,5cm có rãnh khía, mép lá hơi ráp. Ở mỗi nách lá phía gốc có một chồi nhỏ
sau này phát triển thành một tép Tỏi; các tép này nằm chung trong một cái
bao (do các bẹ lá trước tạo ra) thành một củ Tỏi tức là thân hành (giò) của
Tỏi. Hoa xếp thành tán ở ngọn thân trên một cán hoa dài 55cm hay hơn. Bao
hoa màu trắng hay hồng được bao bởi một cái mo dễ rụng, tận cùng thành
mũi nhọn dài.
Hoa tháng 5-7, quả tháng 9-10.
- Bộ phận dùng: Thân hành (giị) - Bulbus Allii, thường có tên là Ðại toán
- Nơi sống và thu hái: Cây của miền Trung châu Á, được gây trồng ở nhiều
nước ôn đới. Ở nước ta, cũng trồng nhiều, có những vùng trồng Tỏi có tiếng ở
Quảng Ngãi, Hà Bắc, Hải Hưng... Tỏi là gia vị rất quen thuộc trong đời sống
của nhân dân ta. Thường ta thu hoạch vào cuối đông, đầu xn; có thể dùng
tươi hay phơi khơ dùng dần.
- Tác dụng dược lý:
Trong các nghiên cứu và thử nghiệm các loại thuốc chiết xuất từ dịch
ép củ Tỏi trên người bệnh đã cho thấy Tỏi có tác dụng chữa trị nhiều căn
bệnh khác nhau. Trong tỏi tươi có chất allicin, nhờ tác dụng của men allinaza
chuyển hóa aliin có sẵn trong tỏi thành allicin, là chất chủ yếu gây tác dụng
đối với vi khuẩn. Allicin là chất kháng sinh tự nhiên có tác dụng mạnh hơn cả
penicillin. Nước tỏi pha lỗng 125.000 lần vẫn có dấu hiệu ức chế nhiều loại
vi khuẩn gram âm và gram dương như: Staphylococcus, Streptococcus,


16
samonella, V. cholerae, B. dysenteriae, Mycobacterium tuberculosis. Tỏi
cũng ức chế sự phát triển của nhiều loại siêu vi như siêu vi trái ra, bại liệt,
cúm và một số loại nấm gây bệnh ở da hoặc bộ phận sinh dục nữ như candida.
Trong Tỏi cịn có liallyl sulfide, chất này tuy khơng mạnh bằng allicin nhưng

có thể tồn tại lâu hơn và giữ nguyên được dược tính khi nấu [34]. Data (1948)
đã phân lập từ Tỏi một chất gọi là allistalin, có tính chất giống như allicin;
Machado (1948) cũng phân lập từ Tỏi chất garcin, nó là một chất kháng
khuẩn màu vàng, khơng có mùi lưu huỳnh, khơng độc, có tác dụng đến cả vi
khuẩn Gram (-) và Gram (+). Garcin có thể dễ dàng hấp thu qua thành ruột và
có thể đi tới dịch não tủy, đã ứng dụng có kết quả trong nhiễm khuẩn Shigella
hoặc do các bệnh ký sinh trùng như giun kim, giun đũa và giun tóc. Các nhà
khoa học Mỹ đã tìm thấy chất prostagladin A trong nước Tỏi, có khả năng
hạn chế bệnh nhồi máu cơ tim, hạ huyết áp, phòng bệnh xơ vữa động mạch.
Các bác sĩ Nhật Bản lại nhận xét rằng do Tỏi chứa chất allixotine nên Tỏi có
tác dụng chữa đau lưng, viêm khớp. Ngoài ra các nghiên cứu lâm sàng cũng
cho thấy Tỏi có tác dụng chữa trị được nhiều căn bệnh như: các bệnh về tai,
mũi, họng; bỏng nhiễm khuẩn và vết thương có mủ; dùng Tỏi để trị các loại
giun; dùng nước ép Tỏi để trị viêm âm đạo trùng roi; chữa các bệnh về tim
mạch [4, tr. 223-228]. Theo kinh nghiệm của người dân, có thể dùng tỏi trộn
vào thức ăn cho cá để trị bệnh viêm ruột ở cá Trắm cỏ.
1.3.3.2. Ổi Psidium guajava L.
Hay còn có tên gọi là: Phan thạch lựu, Thu quả, Kê thỉ quả,… thuộc họ
Sim – Myrtaceae
- Đặc điểm:
Cây nhỡ cao 5-10m. Vỏ nhẵn, mỏng, khi già bong từng mảng lớn. Cành
non vng, có nhiều lơng mềm, về sau hình trụ và nhẵn. Lá mọc đối, thn
hay hình trái xoan, gốc tù hay gần tròn, gân lá nổi rõ ở mặt dưới. Hoa trắng,
mọc đơn độc hay tập trung 2-3 cái thành cụm ở nách lá. Quả mọng hình cầu,
chứa rất nhiều hạt hình bầu dục. Ðài hoa tồn tại trên quả.


17
- Bộ phận dùng: Lá, quả ổi xanh - Folium et Fructus Psidu Guajavae.
- Nơi sống và thu hái: Gốc ở châu Mỹ nhiệt đới được trồng rộng rãi ở nhiều

nơi, có khi gặp ở trạng thái hoang dại. Các bộ phận của cây được thu hái
quanh năm và phơi khô.
- Tác dụng dược lý:
Đối với Ổi, một số công trình nghiên cứu về thành phần hố học cho
thấy quả và lá đều chứa sitosterol, quercetin, quaijaverin, leucocyanidin và
avicularin, trong lá Ổi non và búp non cịn có volatile oil, eugenol, 7-10%
tanin pyrogalic, khoảng 3% nhựa. Nhựa cây ổi chứa acid d-galacturonic
(72,03%), d-galactose (12,05%) và l-arabinose [36], [49].
Trong đó quercetin là một flanovid có tác dụng điều trị các rối loạn như
tiêu chảy, viêm dạ dày và các vấn đề về tiêu hóa khác. Chất tanin (chất chát)
làm kết tủa protein ở niêm mạc tạo thành màng bao che niêm mạc, có tác
dụng làm săn se niêm mạc ruột, dạ dày, giảm tiết dịch vị và dịch ruột, giảm
nhu động ruột, do đó nó có tác dụng chữa tiêu chảy. Ngồi ra tanin cịn có tác
dụng sát trùng, chữa các vết thương bị gỉ nước lâu ngày; giải độc kim loại
nặng [48]. Một số nghiên cứu khác đã chứng minh chiết xuất từ lá và vỏ cây
của cây Ổi có tác dụng kháng lại một số vi khuẩn: Bacillus, Clostridium,
E.coli, Shigella, Staphylococcus, Salmonella và Pseudomonas, ngồi ra cịn
có khả năng kháng lại một số nấm (Candia) [4, tr. 21]. Theo kinh nghiệm
của người dân Ấn Độ, họ sử dụng nước sắc từ lá và vỏ cây Ổi để chữa các
bệnh như: tiêu chảy, lị, nôn mửa, đau họng, chữa lở loét miệng, viêm âm đạo,
viêm thận, động kinh. Ngoài ra họ còn dùng các lá Ổi non nhai để chữa chảy
máu nướu răng, hơi thở hôi. Người dân ở Braxin sử dụng Ổi để làm thuốc lợi
tiểu, …[58]. Theo kinh nghiệm dân gian ở nước ta, lá và búp Ổi non có tác
dụng chữa vết thương do chấn thương hoặc do thú, trùng cắn; vết loét lâu lành
ở chân tay; đau răng hoặc vết lở ở miệng; ho, sốt, viêm họng; tiêu chảy cấp;
tiểu đường loại 2; băng huyết.


18
1.3.3.3. Cỏ lào Eupatorium odratum L.

- Cỏ lào (hay còn gọi Yến Bạch, Cỏ hôi, Cỏ Việt Minh, cây Cộng sản, cây
Lốp bốp, cây Ba bớp, cây phân xanh, Cỏ Nhật) thuộc chi Cỏ lào, họ Cúc Asteraceae.
- Đặc điểm:
Cỏ lào là một loại cây nhỏ mọc thành bụi, thân hình trụ thẳng cao tới
hơn 2 mét, có nhiều cành. Lá mọc đối, lúc non hình tam giác, dài 5-10cm,
rộng 3-6cm; khi cây trưởng thành, lá biến dạng thành hình quả trám lệch. Đầu
lá nhọn, mép có răng cưa thưa, có lơng thưa và ngắn ở cả hai mặt lá và ngọn
cành. Vị lá và cành non có mùi thơm hắc. Cụm hoa đầu, hình trụ dài 911mm, đường kính 5-6mm. Lúc mới nở, hoa màu xanh tím nhạt, sau trắng.
Quả bé, nhỏ dài, đầu có túm lơng nên có thể phát tán đi rất xa nhờ gió. Mùa
hoa tháng 11-12 dương lịch.
Ở Việt Nam, Cỏ lào phân bố nhiều nhất ở trung du, miền núi thấp, ngay
ở xã Hưng Lộc – thành phố Vinh - Nghệ An cũng thấy những bụi lớn Cỏ lào
mọc ven đường. Cây có thể sinh sản vơ tính rất mạnh, ngọn non, cành già bẻ
trụi lá, cắm xuống đất chỉ một tuần sau là mọc rễ trắng. Chặt cây sát gốc càng
đâm chồi mạnh (Dược sỹ Trần Xuân Thuyết – CTQ số 20).
- Tác dụng dược lý:
Theo kinh nghiệm dân gian, lá Cỏ lào ở dạng tươi được dùng để đắp
vết thương ngoài, giúp cầm máu và nhanh lên da non; lá non nấu nước tắm có
tác dụng chữa ghẻ; lá non Cỏ lào hãm lên pha với nước đường uống có tác
dụng chữa lỵ cấp tính và ỉa chảy; nước sắc Cỏ lào dùng uống chữa đau nhức
xương…
Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu y học quân sự (1976) thì lá,
thân, rễ Cỏ lào đều có tác dụng chống viêm nhưng lá có tác dụng mạnh hơn
cả. Nước sắc Cỏ lào có tác dụng ức chế vi khuẩn gây mủ trên vết thương và
ức chế trực khuẩn lỵ Shigella. Cũng theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu y
học quân sự (1983), ngọn non và lá bánh tẻ thu hái trong các tháng đều có


19
hiệu lực như nhau. Ngọn có nụ hiệu lực kháng khuẩn kém (điều này khác với

các dược liệu khác, khi có nụ là lúc hoạt chất cao nhất). So sánh giữa dược
liệu tươi, khô và các dung môi chiết xuất khác nhau thì dược liệu tươi chiết
bằng nước nóng 80oC ít tạp chất và có hiệu lực kháng khuẩn cao nhất, so với
dược liệu khô và dung môi cồn. Cao đặc và cao khô (chiết từ dược liệu tươi
bằng nước nóng 80oC) bảo quản được lâu (sau 1 năm khơng mốc) và giữ
nguyên hiệu lực kháng khuẩn.
Nghiên cứu kỹ thành phần hóa học của cây Cỏ lào thì trong lá, thân, rễ
Cỏ lào đều có alcaloid, tinh dầu, tanin, trong lá tinh dầu chiếm khoảng 1,5%
tính theo lá tươi (Theo Đặng Hanh Khơi, Hồng Như Mai và nhiều tác giả,
1981). Cũng theo các tác giả trên thì Cỏ lào (nước sắc từ lá) có tác dụng đối
với các vi khuẩn: Staphylococcus aureus, Salmonella typhi, Bacillus proteus,
Bacillus subtilis, Shigella shigae. Dịch chiết từ Cỏ lào được tinh chế thành
dạng cao có tên gọi là Eupolin – 12 dùng để điều trị các bệnh như: viêm
nhiễm cấp, viêm nhiễm mãn tính liên quan đến răng, lợi (thử nghiệm của
Trương Minh Kháng, 1989). Ngồi ra Nguyễn Đình Phàn, Nguyễn Chánh và
Hồng Xn Tuệ (1992) cũng đã thử nghiệm dùng cao Cỏ lào để điều trị vết
thương phần mềm và cũng cho kết quả tốt [49].
1.3.3.4. Cỏ Mực Eclipta prostrata L.
Hay còn gọi là Cỏ mực, Hạn liên thảo, Mặc hạn liên, Kim lăng thảo,
thuộc họ Cúc - Asteraceae.
- Đặc điểm:
Cây thảo 1 năm cao 10-60cm, có thân màu lục, đơi khi hơi đỏ tím, có
lơng. Lá mọc đối, hẹp, dài 3-10cm, rộng 0,5-2,5cm, có lơng ở cả hai mặt, mép
khía răng. Hoa màu trắng, tập hợp thành đầu ở nách lá hoặc đầu cành, các hoa
cái hình lưỡi ở ngồi, các hoa lưỡng tính hình ống ở giữa. Quả bế dẹt, có 3
cạnh có cánh dài 3mm. Hoa tháng 7-9, quả tháng 9-10.
- Bộ phận dùng: Phần cây trên mặt đất - Herba ecliptae


20

- Nơi sống và thu hái: Loài cây liên nhiệt đới, mọc hoang ở chỗ ẩm mát khắp
nơi. Có thể thu hái quanh năm, dùng tươi hay phơi khô [45], [49].
- Tác dụng dược lý:
Theo các tài liệu nghiên cứu về thành phần hóa học của Cỏ mực đã
được cơng bố thì trong Cỏ mực có alcaloid ecliptin, nicotine, aterthienylinethenol, a-formyl a-terthienyl; cịn có tinh dầu, tanin, chất đắng,
caroten, cumarin lacton. Còn về tác dụng kháng khuẩn của cỏ Mực, thì Cỏ
mực có tác dụng ức chế sự nảy mầm của một vài loại nấm (Fusarium nivale,
Cephalosporum sacchari) nhưng rất yếu (theo Economic Botany vol 30, 10–
12/1976, pp. 371–374) [11], [49].
Cỏ mực có độc tính thấp, thử trên chuột bạch với liều 5-80 lần liều dùng lâm
sàng không thấy triệu chứng độc. Thực tế lâm sàng đã dùng với liều 40-100g/
ngày, kéo dài trong nhiều ngày không nhận thấy dấu hiệu ngộ độc [4, tr. 5657].
1.3.3.5. Nghệ Curcuma longa L.
Hay Nghệ vàng, thuộc họ Gừng – Zingiberaceae
- Đặc điểm:
Cây thảo sống nhiều năm, cao khoảng 1m. Thân rễ phát triển thành củ
hình khối, trên đó sinh ra nhiều rễ trụ có màu vàng cam. Rễ to, mọc từ rễ củ,
đoạn cuối ln phình to ra thành hình thoi. Lá mọc so le, có bẹ, hình dải rộng.
Hoa màu vàng xếp thành bơng hình trụ ở ngọn thân; lá bắc màu lục hay màu
trắng nhạt pha hồng ở chóp lá. Quả hình cầu, có 3 ơ.
- Bộ phận dùng: Thân rễ - Rhizoma Curcumae Longae, thường gọi là Khương
hoàng.
- Nơi sống và thu hái:
Gốc ở Ấn Độ, được trồng lấy thân rễ làm gia vị và làm thuốc. Thân rễ
thường được thu hái tháng 8, tháng 9, cắt bỏ hết rễ để riêng. Muốn để lâu,
phải hấp trong 6-12 giờ, sau đó để ráo nước đem phơi nắng hay sấy khơ [45].
- Tác dụng dược lý:




×