Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN tâm lý học học THUYẾT NHU cầu của ABRAHAM MASLOW và ý NGHĨA vận DỤNG TRONG QUẢN lý GIÁO dục bộ đội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.03 KB, 18 trang )

1


HỌC THUYẾT NHU CẦU CỦA ABRAHAM MASLOW VÀ Ý NGHĨA
VẬN DỤNG TRONG QUẢN LÝ - GIÁO DỤC BỘ ĐỘI HIỆN NAY

MỞ ĐẦU
Nhu cầu là một trong những hiện tượng tâm lý quan trọng nhất của
con người, là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và
tinh thần để tồn tại và phát triển, nó là nguồn gốc tạo nên tính tích cực trong
hoạt động của mỗi cá nhân. Việc săn bắn, hái lượm của con người ngay từ
thời tiền sử cũng nhắm đến mục đích thỏa mãn nhu cầu sinh tồn. Nhu cầu và
tìm cách thỏa mãn nhu cầu là một trong bản năng cội rễ sâu nhất của con
người. Mọi tổ chức, đoàn thể xã hội muốn tồn tại và phát triển đều phải hiểu
được nhu cầu và thỏa mãn được nhu cầu của các thành viên trong đó.
Tùy theo trình độ nhận thức, điều kiện, môi trường sống, những đặc
điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác nhau. Trong giai đoạn
hiện nay, cùng với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế - xã hội, nhu
cầu của mỗi cá nhân cũng có sự biến đổi và phát triển. Ngồi những mong
muốn và nguyện vọng chung về những vấn đề vĩ mơ, mỗi người đều có những
khát khao và mong muốn cho riêng bản thân. Biết khai thác những khía cạnh
này, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy ở các đơn vị bộ đội có thể tạo ra động lực to lớn
cho mỗi quân nhân và tập thể quân nhân, phát huy hết sở trường và tính sáng
tạo của họ hướng vào xây dựng đơn vị chính quy, vững mạnh tồn diện. Nói
cách khác, nắm bắt tâm lý và nhu cầu của qn nhân, trên cơ sở đó tìm ra
những giải pháp đáp ứng những nhu cầu, tạo ra động cơ cho họ cống hiến hết
mình vì nhiệm vụ (Đắc nhân tâm) là một trong những việc quan trọng nhất
đối với người lãnh đạo, chỉ huy ở đơn vị cơ sở hiện nay.
Theo nhà tâm lý học A.Maslow, nhu cầu của con người khá phong
phú và đa đạng, được chia ra thành 5 cung bậc cơ bản trong mơ hình “Tháp
2




nhu cầu” của ông theo thứ tự từ dưới lên : nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn,
nhu cầu xã hội (hội nhập), nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu tự hoàn thiện,
tự khẳng định bản thân.
Học thuyết của ông được thừa nhận và ứng dụng rộng rãi trong quản
lý tại các nước tiên tiến, tuy nhiên tại Việt Nam học thuyết này cịn khá mới
mẻ, và ít người biết tới.
Việc nghiên cứu, phân tích và hiểu rõ học thuyết nhu cầu của
A.Maslow và vận dụng, phát huy những ưu điểm của thuyết nhu cầu trong
lãnh đạo, quản lý, giáo dục bộ đội là có ý nghĩa rất to lớn đối với người lãnh
đạo chỉ huy bộ đội cũng như đối với những nhà nghiên cứu, người giảng viên
trong các nhà trường quân đội hiện nay.
Xuất phát từ cơ sở trên đây, trong phạm vi bài thu hoạch này tác giả sẽ
làm rõ: "Học thuyết nhu cầu của A.Maslow và ý nghĩa vận dụng trong
quản lý - giáo dục bộ đội hiện nay".

3


NỘI DUNG
Nhà tâm lý học Abraham Maslow (1908-1970) được xem như một
trong những người tiên phong trong trường phái Tâm lý học nhân văn
(humanistic psychology), trường phái này được xem là thế lực thứ 3 (the
Third Force) khi thế giới lúc ấy đang biết đến 2 trường phái tâm lý chính:
Phân tâm học (Psychoanalysis) và Chủ nghĩa hành vi (Behaviorism).
Năm 1943, ông đã phát triển một trong các lý thuyết mà tầm ảnh
hưởng của nó được thừa nhận rộng rãi và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực
khác nhau, bao gồm cả lĩnh vực giáo dục. Đó là lý thuyết về Thang bậc nhu
cầu (Hierarchy of Needs) của con người. Trong lý thuyết này, ông sắp xếp các

nhu cầu của con người theo một hệ thống trật tự cấp bậc, trong đó, các nhu
cầu ở mức độ cao hơn muốn xuất hiện thì các nhu cầu ở mức độ thấp hơn phải
được thỏa mãn trước.
1. Tổng quan về lý thuyết Thang bậc nhu cầu của Maslow
(Maslow’s Hierarchy of Needs)
* Trong thời điểm đầu tiên của lý thuyết, Maslow đã sắp xếp các
nhu cầu của con người theo 5 cấp bậc:
Nhu cầu cơ bản (basic needs)
Nhu cầu về an toàn (safety needs)
Nhu cầu về xã hội (social needs)
Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs)
Nhu cầu được thể hiện mình, tự khẳng định mình (self-actualizing needs)

4


* Sau đó, vào những năm 1970 và 1990, sự phân cấp này đã được
Maslow hiệu chỉnh thành 7 bậc và cuối cùng là 8 bậc:
Nhu cầu về sinh lý (Physiology): thức ăn, nước uống, quần áo, nơi ở,
tình dục.
Nhu cầu về an tồn (Safety): cảm giác n tâm, khơng phải lo lắng, sợ hãi.
Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc (Belongingness and
love): muốn được thuộc về một nhóm, muốn có gia đình, bạn bè thân hữu tin cậy.
Nhu cầu được quý trọng, kính mến (Esteem): cảm thấy được thăng
tiến trong đời, được công nhận, khen thưởng và nể phục.
Nhu cầu về nhận thức, hiểu biết (Cognition): Học hỏi, tiếp thu để hiểu
biết, đóng góp cho Xã Hội, giúp ích cho người khác.
Nhu cầu về thẩm mỹ (Aesthetics): Muốn ăn ngon, mặc đẹp, thưởng
thức, hưởng thụ, du lịch.
Nhu cầu về tự thể hiện bản thân (Self-actualization): biết chính xác

bản thân mình là ai, đang làm gì, mình muốn gì và cần gì. Một trạng thái của
sự thành đạt.
Nhu cầu về tự tôn bản ngã (Self-transcendence): hướng đến trực giác
siêu nhiên, lòng vị tha, hòa hợp bác ái (tâm linh).

5


Hệ thống cấp bậc nhu cầu của Maslow thường được thể hiện dưới
dạng một hình kim tự tháp, các nhu cầu ở bậc thấp thì càng xếp phía dưới.
2. Phân tích thang nhu cầu A.Maslow
Trong bài thu hoạch này, tác giả sử dụng phiên bản 5 bậc để phân tích
và giải thích nhu cầu của con người trong các lĩnh vực đời sống thực tiễn.

2.1. Nhu cầu cơ bản (basic needs):
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu của cơ thể (body needs) hoặc
nhu cầu sinh lý (physiological needs), bao gồm các nhu cầu cơ bản của con
người như ăn, uống, ngủ, khơng khí để thở, tình dục, các nhu cầu làm cho con
người thoải mái,…đây là những nhu cầu cơ bản nhất và mạnh nhất của con
người. Trong hình kim tự tháp, chúng ta thấy những nhu cầu này được xếp
vào bậc thấp nhất: bậc cơ bản nhất.

6


Maslow cho rằng, những nhu cầu ở mức độ cao hơn sẽ không xuất
hiện trừ khi những nhu cầu cơ bản này được thỏa mãn và những nhu cầu cơ
bản này sẽ chế ngự, hối thúc, giục giã một người hành động khi nhu cầu cơ
bản này chưa đạt được.
Ông cũng đã sớm nhận ra điều này khi cho rằng: “Có thực mới vực

được đạo”, cần phải được ăn uống, đáp ứng nhu cầu cơ bản để có thể hoạt
động, vươn tới nhu cầu cao hơn.
Chúng ta có thể kiểm chứng dễ dàng điều này khi cơ thể không khỏe
mạnh, đói khát hoặc bệnh tật, lúc ấy, các nhu cầu khác chỉ còn là thứ yếu.
2.2. Nhu cầu về an toàn, an ninh (safety, security needs):
Khi con người đã được đáp ứng các nhu cầu cơ bản, tức các nhu cầu
này khơng cịn điều khiển suy nghĩ và hành động của họ nữa, họ sẽ cần gì tiếp
theo? Khi đó các nhu cầu về an toàn, an ninh sẽ bắt đầu được kích hoạt. Nhu
cầu an tồn và an ninh này thể hiện trong cả thể chất lẫn tinh thần.
Con người mong muốn có sự bảo vệ cho sự sống cịn của mình khỏi
các nguy hiểm. Nhu cầu này sẽ trở thành động cơ hoạt động trong các trường
hợp khẩn cấp, nguy khốn đến tính mạng như chiến tranh, thiên tai, gặp thú dữ,
…Trẻ con thường hay biểu lộ sự thiếu cảm giác an tồn khi bứt rứt, khóc địi
cha mẹ, mong muốn được vỗ về.
Nhu cầu này cũng thường được khẳng định thông qua các mong muốn
về sự ổn định trong cuộc sống, được sống trong các khu phố an ninh, sống
trong xã hội có pháp luật, có nhà cửa để ở,…Nhiều người tìm đến sự che chở
bởi các niềm tin tôn giáo, triết học cũng là do nhu cầu an tồn này, đây chính
là việc tìm kiếm sự an toàn về mặt tinh thần.
Các chế độ bảo hiểm xã hội, các chế độ khi về hưu, các kế hoạch để
dành tiết kiệm, …cũng chính là thể hiện sự đáp ứng nhu cầu an toàn này.

7


* Thông qua việc nghiên cứu 2 cấp bậc nhu cầu trên chúng ta có thể
rút ra nhiều kết luận thú vị:
Muốn kìm hãm hay chặn đứng sự phát triển của một người nào đó,
cách cơ bản nhất là tấn công vào các nhu cầu bậc thấp của họ. Nhiều người
làm việc chịu đựng các địi hỏi vơ lý, các bất cơng, vì họ sợ bị mất việc làm,

khơng có tiền ni bản thân và gia đình, họ muốn được yên thân,…
Muốn một người phát triển ở mức độ cao thì phải đáp ứng các nhu cầu
bậc thấp của họ trước: đồng lương tốt, chế độ đãi ngộ hợp lý, nhà cửa ổn định,
…Chẳng phải ông bà chúng ta đã nói: “An cư mới lạc nghiệp” hay sao?
Một đứa trẻ đói khát cùng cực thì khơng thể học tốt, một đứa trẻ bị
stress thì khơng thể học hành, một đứa trẻ bị sợ hãi, bị đe dọa thì càng khơng
thể học. Lúc này, các nhu cầu cơ bản, an toàn, an ninh được kích hoạt và nó
chiếm quyền ưu tiên so với các nhu cầu học hành. Các nghiên cứu về não bộ
cho thấy, trong các trường hợp bị sợ hãi, bị đe doạ về mặt tinh thần và thể xác,
não người tiết ra các hóa chất ngăn cản các quá trình suy nghĩ, học tập.
2.3. Nhu cầu về xã hội (social needs):
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu mong muốn thuộc về một bộ
phận, một tổ chức nào đó (belonging needs) hoặc nhu cầu về tình cảm, tình
thương (needs of love). Nhu cầu này thể hiện qua quá trình giao tiếp như việc
tìm kiếm, kết bạn, tìm người yêu, lập gia đình, tham gia một cộng đồng nào
đó, đi làm việc, đi chơi picnic, tham gia các câu lạc bộ, làm việc nhóm, …
Nhu cầu này là một dấu vết của bản chất sống theo bầy đàn của lồi
người chúng ta từ buổi bình minh của nhân loại. Mặc dù, Maslow xếp nhu cầu
này sau 2 nhu cầu phía trên, nhưng ơng nhấn mạnh rằng nếu nhu cầu này
khơng được thoả mãn, đáp ứng, nó có thể gây ra các bệnh trầm trọng về tinh
thần, thần kinh. Nhiều nghiên cứu gần đây cũng cho thấy, những người sống
độc thân thường hay mắc các bệnh về tiêu hóa, thần kinh, hơ hấp hơn những
người sống với gia đình. Chúng ta cũng biết rõ rằng: sự cơ đơn có thể dễ dàng
8


giết chết con người. Nhiều em ở độ tuổi mới lớn đã lựa chọn con đường từ bỏ
thế giới này với lý do: “Những người xung quanh, khơng có ai hiểu con!”.

Để đáp ứng cấp bậc nhu cầu thứ 3 này, trong giáo dục cũng như trong

lao động xã hội, nhà trường thường cho trẻ cùng chơi chung các trò chơi tập
thể, nhà trường áp dụng các phương pháp làm việc theo nhóm, các phương
pháp giảng dạy dựa trên vấn đề, các tổ chức Đoàn, Đội trong nhà trường được
giao trách nhiệm tập hợp các em, định hướng các em vào những hoạt động bổ
ích. Các kết quả cho thấy: các hoạt động chung, hoạt động ngoài trời đem lại
kết quả tốt cho tinh thần và hiệu suất cho công việc được nâng cao.
Kinh nghiệm giảng dạy của nhiều giáo viên cũng đưa đến kết luận:
phần lớn các em học sinh sống trong các gia đình hay bất hịa, vợ chồng lục
đục, thiếu quan tâm, tình thương của gia đình thường có kết quả học tập
khơng cao như các em học sinh khác.
2.4. Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs):
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu tự trọng (self esteem needs) vì
nó thể hiện 2 cấp độ: nhu cầu được người khác quý mến, nể trọng thông qua
9


các thành quả của bản thân, và nhu cầu cảm nhận, q trọng chính bản thân,
danh tiếng của mình, có lòng tự trọng, sự tự tin vào khả năng của bản thân. Sự
đáp ứng và đạt được nhu cầu này có thể khiến cho một đứa trẻ học tập tích
cực hơn, một người trưởng thành cảm thấy tự do hơn.
Chúng ta thường thấy trong công việc hoặc cuộc sống, khi một người
được khích lệ, tưởng thưởng về thành quả lao động của mình, họ sẵn sàng làm
việc hăng say hơn, hiệu quả hơn. Nhu cầu này được xếp sau nhu cầu “thuộc
về một tổ chức”, nhu cầu xã hội phía trên. Sau khi đã gia nhập một tổ chức,
một đội nhóm, chúng ta ln muốn được mọi người trong nhóm nể trọng, quý
mến, đồng thời chúng ta cũng phấn đấu để cảm thấy mình có “vị trí” trong
nhóm đó.
Kinh nghiệm giáo dục cũng chỉ ra rằng: các hành động bêu xấu học
sinh trước lớp, cho các học sinh khác “lêu lêu” một em học sinh bị phạm lỗi,
… chỉ dẫn đến những hậu quả tồi tệ hơn về mặt giáo dục, tâm lý.

Nhà sư phạm lỗi lạc Makarenko trong suốt cuộc đời dạy dỗ trẻ em hư,
khi được hỏi bí quyết nào để sửa trị các em, ơng nói “Tơi chỉ đúc kết trong
một công thức ngắn gọn: Tôn trọng và yêu cầu cao”. Bản chất tâm lý con
người ai cũng muốn được tơn trọng, chạm đến lịng tự trọng là chạm đến điều
sâu và đau nhất, là điểm tử huyệt nhất của con người (cho dù đó là đứa trẻ
khó dạy, chưa ngoan).
Chỉ tơn trọng mà khơng u cầu là không ổn. Khi được tôn trọng là đã
cho con người ở đúng vị trí “Người” nhất của mình. Do vậy, cần có trách
nhiệm buộc phải sống và hành xử đúng đắn với sự tơn trọng đó.
2.5. Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs):
Khi nghe về nhu cầu này: “thể hiện mình” chúng ta khoan vội gán cho
nó ý nghĩa tiêu cực. Không phải ngẫu nhiên mà nhu cầu này được xếp đặt ở
mức độ cao nhất. “Thể hiện mình” khơng đơn giản có nghĩa là nhuộm tóc lịe
lẹt, hút thuốc phì phèo, “xổ nho” khắp nơi, nói năng khệnh khạng, …
10


Maslow mô tả nhu cầu này như sau: “self-actualization as a person's
need to be and do that which the person was “born to do” (nhu cầu của một cá
nhân mong muốn được là chính mình, được làm những cái mà mình “sinh ra
để làm”). Nói một cách đơn giản hơn, đây chính là nhu cầu được sử dụng hết
khả năng, tiềm năng của mình để tự khẳng định mình, để làm việc, đạt các
thành quả trong xã hội.
Chúng ta có thể thấy nhiều người xung quanh mình, khi đã đi đến đoạn
cuối của sự nghiệp thì lại ln hối tiếc vì mình đã khơng được làm việc đúng
như khả năng, mong ước của mình. Hoặc có nhiều trường hợp, một người đang
giữ một vị trí lương cao trong một cơng ty, lại vẫn dứt áo ra đi vì muốn thực
hiện các cơng việc mà mình mong muốn, cái cơng việc mà Maslow đã nói
“born to do”. Đó chính là việc đi tìm kiếm các cách thức mà năng lực, trí tuệ,
khả năng của mình được phát huy và mình cảm thấy hài lịng về nó.

Nhu cầu này cũng chính là mục tiêu cao nhất mà giáo dục hiện đại
nhắm đến. Trong báo cáo của Unesco Learning: the Treasure Within, vấn đề
học tập đã được mô tả qua 4 trụ cột của giáo dục (The Four Pillars of
Education):
- Learning to know: Học để biết.
- Learning to do: Học để làm.
- Learning to live together: Học để chung sống.
- Learning to be: Học để tự khẳng định mình.

11


3. Những hạn chế

khi vận dụng lý thuyết thuyết nhu cầu

A.Maslow.
Lý thuyết cấp bậc nhu cầu của Maslow được các nhà quản trị vận
dụng rộng rãi trong các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục v.v... đặc
biệt là trong quản trị nguồn nhân lực. Tuy nhiên, việc vận dụng thuyết cấp bậc
nhu cầu của Maslow có một số hạn chế nhất định:
Thứ nhất, nhu cầu của con người rất đa dạng và rất khó phân biệt
một cách rõ ràng theo các cấp bậc nhu cầu.
Nhu cầu của mỗi cá nhân rất đa dạng, phong phú. Nhiều nghiên cứu
đã chỉ ra rằng khơng có tồn tại phân cấp nhu cầu. Con người có thể có nhu
cầu ở nhiều cấp bậc khác nhau cùng một lúc. Ví dụ, khi uống một ly cà phê,
người ta có nhu cầu sinh lý là được tỉnh táo, đã khát nhưng họ cũng có nhu
cầu về an tồn như uống vào khơng bị bồn chồn, khó chịu và thậm chí họ
cũng khơng đi uống một mình mà uống chung với bạn bè thì đây là nhu cầu
về xã hội. Hoặc trong tập thể quân nhân, mỗi quân nhân sẽ có nhu cầu đồng

thời ở nhiều cấp bậc khác nhau như nhu cầu về sinh lý: phụ cấp, tiền lương,
tiền thưởng; nhu cầu về an toàn: bảo đảm sức khỏe, cuộc sống ổn định; nhu
cầu về xã hội: môi trường làm việc lành mạnh, cống hiến hết mình vì tập thể;
nhu cầu về tự trọng: được tôn trọng; nhu cầu tự thể hiện: cơ hội phát triển cá
nhân. Chính vì vậy việc áp dụng phân cấp nhu cầu theo tháp nhu cầu của
Maslow rất khó thực hiện trong thực tế.
Thứ hai, nhu cầu con người không gia tăng từ thấp đến cao, nhà
lãnh đạo, quản lý sẽ mắc sai lầm nếu tìm cách thỏa mãn nhu cầu con
người từ thấp đến cao.
Theo mơ hình này, con người ta sẽ bước lên nhu cầu ở thang bậc cao
hơn khi và chỉ khi các nhu cầu ở bậc thấp hơn đã được thỏa mãn. Tuy nhiên,
trong thực tế nhiều người sẵn sàng hy sinh những nhu cầu bậc thấp để thỏa
mãn như cầu bậc cao hơn. Ví dụ, các nhà lãnh đạo các cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc họ sẵn sàng hy sinh nhu cầu về sinh lý, nhu cầu an toàn để thỏa
12


mãn nhu cầu cầu xã hội, nhu cầu tự khẳng định. Họ hy vọng việc thỏa mãn
nhu cầu ở cấp cao trong tương lai sẽ thỏa mãn nhu cầu ở cấp thấp. Ở nước ta,
rất nhiều người lao động sẵn sàng bỏ công việc ở công ty liên doanh hoặc có
vốn đầu tư nước ngồi với mức lương cao để về làm việc cho các cơ quan,
doanh nghiệp trong nước với mức lương thấp hơn, thăng tiến chậm hơn.
Người quân nhân trong quân đội nhân dân Việt Nam, sẵn sàng bỏ qua nhu cầu
an toàn, nhu cầu sinh lý để đạt đến nhu cầu xã hội: "sẵn sàng hy sinh vì độc
lập tự do của Tổ quốc, vì Chủ nghĩa Xã hội...". Vì vậy, việc vận dụng lý
thuyết cấp bậc nhu cầu Maslow để thỏa mãn nhu cầu từ thấp đến cao sẽ bị hạn
chế.
Thứ ba, sắc thái văn hóa ảnh hưởng tới xuất hiện nhu cầu và trật
tự cấp bậc nhu cầu nhưng lý thuyết cấp bậc nhu cầu của Maslow chưa đề
cập đến yếu tố này.

Nhu cầu của con người gắn liền với điều kiện môi trường và văn hóa
đặc trưng bản địa. Văn hóa là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên
chúng ta tạm thời có thể hiểu văn hóa là một hệ thống các giá trị chung cho
mọi thành viên của xã hội hay cộng đồng. Tùy theo dân tộc khác nhau mà văn
hóa khác nhau. Văn hóa sẽ ảnh hưởng đến lối sống và hành vi tiêu dùng. Điều
này có nghĩa văn hóa sẽ tác động đến nhu cầu của con người. Người lãnh đạo,
chỉ huy sẽ thất bại nếu không chú ý đến yếu tố văn hóa bản địa. GS. Hellmut
Schutte cho rằng nhu cầu tự thể hiện mình sẽ khó được chấp nhận trong các
xã hội châu Á. Ví dụ trong văn hóa Việt Nam thái độ khiêm tốn, tự xóa bỏ bản
thân, nhún nhường được xem là một giá trị tích cực; nhưng trong văn hóa
phương Tây, thái độ tự khẳng định thường được đề cao hơn, được xem là một
giá trị tích cực. Theo lời kể của giáo sư Edward Baker, trong một cuộc phỏng
vấn, thấy một người trình bày ý kiến rất hay, ông hỏi: "Nếu tôi đề nghị với
viện cấp học bổng cho anh học luôn lên tới tiến sĩ thì anh nghĩ sao?". Anh
chàng ứng viên này "khiêm tốn" trả lời: "Dạ... Tơi sợ mình khơng đủ khả
năng". Kết quả anh ta không nhận được học bổng nào cả. Như vậy trong
13


trường hợp này việc ứng xử được xem là phù hợp với các giá trị văn hóa Việt
Nam lại khơng đưa đến một kết quả mong muốn ở môi trường văn hóa khác.
Một vấn đề khác biệt của văn hóa Việt Nam với các nền văn hóa phương Tây
là mối quan hệ xã hội, gia đình, huyết tộc đóng vai trị quan trọng. Con người
Việt Nam có thể theo đuổi để thỏa nhu cầu xã hội trước khi thỏa mãn nhu cầu
về sinh lý và an toàn. Đối với họ tiền lương, tiền thưởng chưa phải là điều
quan trọng để giữ chân họ lại. Chính vì vậy việc vận dụng lý thuyết cấp bậc
nhu cầu của Maslow trong những nền văn hóa khác nhau cịn hạn chế.
Tóm lại, lý thuyết cấp bậc nhu cầu của Maslow đã lý giải nhiều vấn đề
liên quan đến nhu cầu con người. Tuy nhiên việc vận dụng lý thuyết này trong
thực tế còn một số hạn chế nhất định. Chính vì vậy, khi vận dụng lý thuyết

này trong các lĩnh vực đời sống thực tiễn cần phải chú ý vận dụng một cách
phù hợp.
4. Ý nghĩa vận dụng học thuyết nhu cầu của A.Maslow đối với
người lãnh đạo, chỉ huy trong quản lý, giáo dục bộ đội hiện nay.
Con người cá nhân hay con người trong tổ chức đều hành động theo
nhu cầu. Chính sự thỏa mãn nhu cầu làm họ hài lòng và khuyến khích họ
hành động. Đồng thời việc nhu cầu được thỏa mãn và thỏa mãn tối đa là mục
đích hành động của con người. Theo cách xem xét đó, nhu cầu trở thành động
lực quan trọng và việc tác động vào nhu cầu cá nhân sẽ thay đổi được hành vi
của con người. Nói cách khác, người lãnh đạo hoặc quản lý có thể điều khiển
được hành vi của nhân viên bằng cách dùng các công cụ hoặc biện pháp để
tác động vào nhu cầu hoặc kỳ vọng của họ làm cho họ hăng hái và chăm chỉ
hơn với công việc được giao, phấn chấn hơn khi thực hiện nhiệm vụ và tận
tụy hơn với nhiệm vụ đảm nhận. Trong trường hợp ngược lại việc không giao
trọng trách cho nhân viên là cách thức giảm dần nhiệt huyết của họ và cũng là
cách thức để nhân viên tự hiểu là mình cần tìm việc ở một nơi khác khi làm
việc là một nhu cầu của người đó.
14


Để đáp ứng những nhu cầu cơ bản của quân nhân cần được thực hiện
thông qua việc tổ chức tốt và quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của
họ, bảo đảm các khoản phúc lợi khác như khen thưởng theo danh hiệu thi đua,
thưởng khi lập công hay phát minh sáng kiến...
Để đáp ứng nhu cầu an toàn, lãnh đạo, chỉ huy cần bảo đảm điều kiện
làm việc thuận lợi, bảo đảm cơng việc được duy trì ổn định và đối xử công
bằng đối với mọi quân nhân.
Để bảo đảm đáp ứng nhu cầu quan hệ, cần tạo điều kiện cho quân
nhân làm việc theo tổ, nhóm, được tạo cơ hội để mở rộng giao lưu giữa các
đơn vị, kết nghĩa với các đoàn thể, tổ chức trên đại bàn đóng qn..., khuyến

khích mọi người cùng tham gia ý kiến nhằm mục đích chung xây dựng cơ
quan, tổ chức, đơn vị. Cũng để đáp ứng nhu cầu phát triển quan hệ, cơ quan,
đơn vị cần có các hoạt động vui chơi, giải trí, văn hóa văn nghệ, thể dục thể
thao nhân các ngày nghỉ, dịp kỷ niệm hoặc các ngày lễ lớn.
Để thỏa mãn nhu cầu được tôn trọng, lãnh đạo, chỉ huy cần có cách
quản lý, ứng xử phụ hợp, tôn trọng về nhân cách, phẩm chất qn nhân. Cần
có cơ chế và chính sách khen ngợi, tôn vinh sự thành công và phổ biến kết
quả đạt được của cá nhân thành viên một cách rộng rãi. Đồng thời, nquân
nhân cũng cần được cung cấp kịp thời thơng tin phản hồi, và sử dụng vào
những vị trí cơng việc mới có mức độ và phạm vi ảnh hưởng lớn hơn.
Đối với nhu cầu tự khẳng định, tự hoàn thiện bản thân, lãnh đạo chỉ
huy đươn vị cần công khai, công bằng trong giao nhiệm vụ, tạo cơ hội tốt nhất
để mỗi quân nhân phát triển những thế mạnh cá nhân. Đồng thời, quân nhân
cần được phát hiện năng khiếu, năng lực, sở trường để đưa đi đào tạo và phát
triển, cần được khuyến khích tham gia vào q trình phát huy sáng kiến trong
cơng việc và được tạo điều kiện để họ tự phát triển nghề nghiệp.
Như vậy để có thể tác động hợp lý vào nhu cầu của quân nhân tạo ra
động lực phấn đấu tốt nhất cho họ, đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy đơn vị cần
nghiên cứu và tìm hiểu cụ thể nhu cầu của tập thể cũng như của mỗi quân
15


nhân và có biện pháp hữu hiệu để đáp ứng, nghĩa là họ cần biết “chiều” họ
một cách hợp lý hướng đến sự cống hiến tốt nhất của họ trong thực hiện chức
trách nhiệm vụ nhằm không ngừng phát triển, hồn thiện, khẳng định bản
thân, và đó cũng chính là quá trình họ phấn đấu, cống hiện cao nhất để xây
dựng cơ quan đơn vị.

16



KẾT LUẬN
Giống như bao lý thuyết khác, lý thuyết nhu cầu A.Maslow khơng
phải là một sự tuyệt đối hóa và tồn vẹn, bản thân lý thuyết cịn có những
điểm hạn chế nhất định và cũng nhận được nhiều ý kiến trái ngược và phản
bác. Song trong gần 70 năm qua, Học thuyết nhu cầu A.Maslow đã được
nghiên cứu phổ biến và được vận dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội, đặc biệt là trong quản trị học. Học thuyết củ a chủ yếu đi sâu tìm
hiểu tâm lý con người, tìm ra các điều kiện giú p họ thoả mãn nhu cầu của bản
thân để làm động lực trong công việc. Đây là thuyết đạt đến đỉnh cao của việc
nhận dạng nhu cầu tự nhiên của con người mà hiện nay chưa có thuyết nào
thay thế.
Thơng qua lý thuyết về Thang bậc nhu cầu được đề xướng bởi nhà tâm
lý học Abraham Maslow, mỗi chúng ta có thể rút ra nhiều điều thú vị về
những nhu cầu, giá trị trong cuộc sống. Đặc biệt, qua việc nghiên cứu lý
thuyết này, giúp cho nhà giáo dục: người giáo viên, người lãnh đạo, chỉ huy
đơn vị biết nhận diện nhu cầu và biết cách tác động nhằm thỏa mãn nhu cầu
của mỗi quân nhân và tập thể quân nhân, tạo động lực để họ phấn đấu nhằm
tự khẳng định bản thân và xây dựng đơn vị, xây dựng tập thể.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Trọng Ngọ (chủ biên), Các lý thuyết phát triển tâm lý người,
Nxb ĐHSP, H.2003.
2. Đặng Phương Kiệt, Cơ sở Tâm lý học ứng dụng, Nxb ĐHQG,
H.2001.
3. Phạm Minh Hạc, Tuyển tập Tâm lý học, Nxb GD, H.2002.
4.

5.
6.
7. />8. ... /tuel.html
9. ... _needs.htm
10. />11.
12. />13. />14. />
18



×