Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Một số đặc điểm của thi pháp truyền thuyết qua truyện kể dân gian về lê lợi và khởi nghĩa lam sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (780.78 KB, 56 trang )

Lời nói đầu
Hiện nay, nghiên cứu văn học từ góc độ thi pháp
đang là hướng nghiên cứu có nhiều triển vọng và được giới
nghiên cứu văn học rất quan tâm. Đối với những hiện
tượng văn học còn chưa được định hình rõ ràng thì việc
nghiên cứu nó theo hướng thi pháp học là rầ cần thiết. Thể
loại truyền thuyết dân gian Việt Nam là một hiện tượng văn
học như vậy.
Là một thể loại văn học dân gian, truyền thuyết cũng
có những đặc trưng thi pháp riêng. Song cho đến nay
chúng ta vẫn chưa có một quan niệm thống nhất về đặc
trưng thi pháp truyền thuyết . Bởi vậy ở khoá luận này,
bằng việc khảo sát phân tích bộ phận truyện kể dân gian
về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn chúng tơi muốn tìm ra
một số đặc trưng thi pháp chung của thể loại truyền thuyết
.
Để hồn thành khố luận này chúng tơi đã nhận được
sự hướng dẫn tận tình, cụ thể của thầy giáo Hoàng Minh
Đạo, tiếp thu những luận điểm quý báu về truyền thuyết
của thầy giáo Nguyễn Xuân Đức và sự giúp đỡ nhiệt tình
của các thầy cô giáo trong tổ văn học Việt Nam I khoa
Ngữ văn Trường đại học Vinh. Qua đây cho phép chúng tơi
bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo.
Vinh, ngày 1 tháng 5 năm 2002
Ngƣời viết:

1


Nguyễn Việt Hùng


Phần I :

Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu:
Trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam có một bộ phận
truyện đã và đang gây tranh cãi trong giới nghiên cứu về đặc trưng thể
loại . Đó là thể loại truyền thuyết. Thể loại này tồn tại trên thực tế có phải
với tư cách là thể loại có tính đặc thù hay khơng ? Thuật ngữ truyền
thuyết phải chăng chỉ bao hàm giới thuyết về lĩnh vực lịch sử mà không
bao hàm giới thuyết về một thể loại văn học ? Mặc dù các ý kiến tranh
luận xoay quanh các vấn đề đó cho đến nay chưa có sự thống nhất nhưng
xu hướng chung là nhiều người đã thừa nhận thể loại truyền thuyết trên
cơ sở phân tích, lý giải các truyện đã được sưu tầm, công bố sớm và so
sánh chúng với các thể loại khác trong loại hình tự sự dân gian. Xuất phát
từ tình hình thực tế đó và để góp phần làm sáng tỏ đặc trưng của thể loại
này từ góc độ thi pháp học, trong khn khổ một Luận văn tốt nghiệp,
chúng tơi đi sâu tìm hiểuvấn đề : " Một số đặc điểm của thi pháp truyền
thuyết qua truyện kể dân gian về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn".
Sở dĩ chúng tôi chọn một chùm truyện kể về một nhân vật Lịch sử là
Lê Lợi gắn với một sự kiện lịch sử là khởi nghĩa Lam Sơn để xem xét thi
pháp của một thể loại văn học dân gian là do : Chùm truyện này tuy đã
được sưu tầm, chỉnh lý và công bố thành một hệ thống khá hoàn chỉnh
nhưng việc nghiên cứu chúng từ phương diện thi pháp thể loại thì cịn ít
được quan tâm (thực tế này sẽ được trình bày ở phần "Lịch sử vấn đề"
trong chương I của Luận văn) . Hơn nữa, tìm hiểu thi pháp của một thể loại
văn học dân gian nếu như chỉ dừng lại ở những truyện đã được sưu tầm,
công bố sớm như truyện Họ Hồng Bàng, truyện Thánh Gióng, An Dương

2



Vương .v.v… thì chưa đủ bởi vì truyền thuyết là một thể loại luôn theo sát
chiềudài lịch sử dân tộc và không ngừng nảy sinh, phát triển . Những
truyện mới được giới thiệu gần đây cũng là nguồn tư liệu quý để giúp
chúng ta hiểu rõ thêm đặc trưng của truyền thuyết trong quá trình sinh
thành và biến diễn của nó.
Hiện tại ở nước ta, việc nghiên cứu văn học từ góc độ thi pháp học
đang giấy lên mạnh mẽ kể cả ở văn học dân gian và văn học viết. Vì thế,
tìm hiểu thi pháp truyền thuyết qua " truyện kể dân gian về Lê Lợi và khởi
nghĩa Lam Sơn" cũng nằm trong trào lưu chung đó. Trong chương trình
mơn Văn ở trường trung học (THCS và THPT) , có một số truyện thuộc
thể loại truyền thuyết được đưa vào giảng dạy, trong đó có cả truyện kể về
Lê Lợi như "Sự tích Hồ Gươm". Dạy văn nói chung và dạy văn học dân
gian nói riêng phải đảm bảo nguyên tắc theo đặc trưng thể loại . Do đó,
vấn đề mà chúng tơi quan tâm giải quyết sẽ có tác dụng thiết thực đối với
người giáo viên khi tiếp cận các tác phẩm thuộc thể loại truyền thuyết .
2. Phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu :
2.1 : Phạm vi nghiên cứu :
Dựa trên sự hiểu biết về lĩnh vực thi pháp và thi pháp học và trên cơ
sở đi sâu khảo sát, phân tích sự kiện chùm truyện kể về Lê Lợi và khởi
nghĩa Lam Sơn . Luận văn này sẽ đề cập tới các phương diện của thi pháp
truyền thuyết qua chùm truyện cụ thể đó .
Nguồn tư liệu được chúng tôi sử dụng để xem xét vấn đề bao gồm :
- Tập " Sáng tác dân gian về LêLợi và khởi nghĩa Lam Sơn" của
nhiều tác giả do SởVăn hố thơng tin Thanh Hố xuất bản năm 1985 .
- Mười lăm truyện kể về nhân vật lịch sử này đã được đưa vào
"Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam " tập I - Nhà xuất bản giáo dục H, 2001.
Trong đó, nguồn tư liệu chính vẫn là tập truyện do Sở Văn hố
thơng tin Thanh Hố xuất bản. Bởi vì mười lăm truyện đưa vào tuyển tập
đại bộ phận đã có trong cuốn sách của Thanh Hố cơng bố năm 1985.

2.2 : Phƣơng pháp nghiên cứu :

3


Để giải quyết vấn đề, chúng tôi vận dụng phương pháp khảo sát,
thống kê, phân tích và so sánh. Việc so sánh được tiến hành trong cùng
một chủng loại là Văn học dân gian và giữa các truyện trong thể loại
truyền thuyết. Trong các phương pháp đó, phương pháp được vận dụng
chủ yếu là khảo sát và phân tích chùm truyện kể về Lê Lợi và khởi nghĩa
Lam Sơn trong cái nhìn hệ thống.
Phần II.
NỘI DUNG
CHƢƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG.

Để tạo tiền đề về mặt lý thuyết cho việc đi sâu xem xét các phương
diện của thi pháp truyền thuyết được thể hiện như thế nào trong truyện kể
về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn, ở chương này, chúng tơi trình bày một
số vấn đề giới thuyết chung của đề tài.
1. Một số khái niệm có liên quan tới đề tài:
1.1: Thi pháp và thi pháp học :
Với cơng trình " Nghệ thuật thi ca" ra đời cách đây 24 thế kỷ nhà
triết học Hy Lạp cổ đại Arixtos đã trở thành ông tổ của một ngành khoa
học mà ngày nay chúng ta gọi là " thi pháp học". Từ đó đến nay thi pháp
học đã tồn tại và phát triển qua nhiều bước thăng trầm khác nhau.
Có thể hình dung lịch sử phát triển của thi pháp học qua hai giai
đoạn lớn trước và sau thế kỷ XX.
Trước thế kỷ XX các nhà thi pháp học chủ yếu đi sâu vào thể loại,
ngôn ngữ để từ đó đề ta những quy tắc, chỉ dẫn cho việc sáng tác như Horace,
Boa lô, Lessing, Lưu Hiệp ( Văn Tâm Điêu Long) … do đó người ta gọi thi

pháp học giai đoạn này là thi pháp học sáng tác (thi pháp học cổ truyền ).
Bước sang thế kỷ XX, thi pháp học phát triển một cách rầm rộ với
nhiều trường phái khác nhau: Trường phái hình thức Nga ( Jakobson,
ScơLơpxky), Trường phái phê bình mới Anh, Mỹ ( Richards, Eliơt); Trường
phái hiện tượng học ( Husserl); Trường phái cấu trúc ký hiệu học (

4


Jakobson, Tư nha nôp); trường phái thi pháp học lịch sử ( M.B. khơ rap
chenkô) ..v.v. Mỗi một trường phái tiếp cận thi pháp ở những góc độ khác
nhau, thậm chí đối lập nhau. Song họ đều xem xét văn học với tư cách là
một nghệ thuật ngôn từ. Đi sâu khám phá hình thức nghệ thuật của văn bản
ngơn từ để tìm ra những nội dung ẩn chứa trong đó. Do vậy người ta cịn gọi
là thi pháp học tiếp nhận văn học ( thi pháp học hiện đại). Họ tiếp nhận thi
pháp học cổ truyền như một cấp độ nhận thức.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tơi khơng có điều kiện
để kiến giải một cách đầy đủ, thấu đáo về các vấn đề của thi pháp và thi
pháp học mà chỉ đề cập đến một cách hiểu về chúng như là những định
hướng khoa học trong quá trình triển khai đề tài.
1.1.1: Khái niệm thi pháp:
Hiện nay, trên thế giới nói chung và nước ta nói riêng vẫn cịn tồn
tại những cách hiểu khác nhau về thi pháp. Có thể nói, có bao nhiêu người
làm thi pháp thì có bấy nhiêu khái niệm thi pháp. Tuy nhiên sự khác nhau
giữa các khái niệm không phải ở những vấn đề cơ bản, cốt yếu mà là ở các
phương diện chuyên sâu các khía cạnh mở rộng của khái niệm. Vậy thi
pháp là gì ?
Trên cơ sở các khái niệm đã có về thi pháp được nhiều người chấp
nhận chúng tơi thấy rằng: Thi pháp chính là tồn bộ hình thức nghệ thuật
của tác phẩm văn học. Nó bao hàm các phương thức, phương pháp, các

cách, kiểu chiếm lĩnh nghệ thuật của con người đối với cuộc sống. Khái
niệm hình thức ở đây phải được hiểu là cách nhìn, cách đánh giá của nhà
văn chứ khơng đơn thuần là sự thể hiện cách nhìn, cách đánh giá ấy. Bản
thân hình thức nghệ thuật là nội dung, là tư tưởng. Đó là hình thức mang
tính nội dung, mang tính quan niệm. " Tính quan niệm của hình thức cho
thấy, thi pháp không đơn giản chỉ là hệ thống các phương thức, phương
tiện miêu tả nghệ thuật mà còn là hệ thống các nguyên tắc cảm nhận đời
sống một cách thẩm mỹ" [ 17, 35 ].
Hình thức của tác phẩm văn học mang tính chỉnh thể. Các yếu tố
hình thức liên kết với nhau một cách chặt chẽ theo nguyên tắc cộng hưởng.
Do vậy khi nghiên cứu, phân tích một tác phẩm văn học theo quan điểm

5


của thi pháp khơng thể tách một yếu tố hình thức ra để phân tích một cách
cơ lập, mà phải đặt nó trong cái nhìn hệ thống, trong sự nâng đỡ, hỗ trợ,
cộng hưởng của các yếu tố khác, thậm chí yếu tố này góp phần giải thích
yếu tố kia.
Hình thức nghệ thuật cịn mang tính lịch sử nữa. nghiên cứu hình
thức phải đặt nó vào trong hồn cảnh lịch sử cụ thể.
1.1.2: Thi pháp học và một số phạm trù cơ bản của thi pháp học :
Từ khái niệm thi pháp nêu trên, có thể hiểu thi pháp học là một
khoa học nghiên cứu hệ thống hình thức của tác phẩm nghệ thuật. Thi
pháp học cung cấp những khái niệm những công cụ, phương pháp,
nguyên tắc, những thủ pháp và con đường tiếp cận tác phẩm văn học
như là một nghệ thuật.
Viện sỹ người Nga V.Vinogrdốp định nghĩa: " Thi pháp học là khoa
học về các hình thức, dạng thức, các phương tiện, phươngthức tổ chức tác
phẩm của sáng tác ngôn từ, về các kiểu cấu trúc, và các thể loại tác phẩm

văn học. Nó muốn bao qn khơng chỉ là các hiện tượng của các ngôn từ
thơ mà cịn là cả các khía cạnh khác nhau nhất của tác phẩm văn học và
sáng tác dân gian " ( Dẫn theo [ 17, 5 ] ).
Tóm lại, " Thi pháp học là khoa học nghiên cứu văn học với tư cách
là một nghệ thuật, đối tượng của thi pháp học là tồn bộ hệ thống hình thức
nghệ thuật trong tính tồn vẹn nghệ thuật của nó ".
Nếu mục đích của lý luận văn học là xác định các phạm trù chung
phản ánh các yếu tố phổ quát của cấu trúc văn học thì nhiệm vụ của thi
pháp học là phát hiện, miêu tả các phạm trù thi pháp cụ thể của các chỉnh
thể văn học với nội dung độc đáo, không lặp lại của chúng.
Trong phạm vi nghiên cức của đề tài này, chúng tơi sẽ tập trung tìm hiểu
một số phạm trù thi pháp cơ bản như: Cốt truyện, thời gian nghệ thuật, không
gian nghệ thuật, nhân vật của một chỉnh thể văn học đó là thể loại văn học.
1.1.2.1: Cốt truyện:
Theo nghĩa thơng thường có thể hiểu cốt truyện chính là cái phần
khung, lõi của truyện. Tuy nhiên để hiểu cốt truyện với tư cách là một
phạm trù của thi pháp học thì lại là một vấn đề khá phức tạp. Giáo sư Trần
6


Đình Sử trong cuốn giáo trình dẫn luận thi pháp [ 17 ] đã dành một chương
để bàn về " cốt truyện tự nhiên và cốt truyện nghệ thuật " của tác phẩm văn
học. Tác giả đã chỉ ra sự khác nhau cơ bản của cốt truyện tự nhiên và cốt
truyên nghệ thuật ông nhấn mạnh: " Cốt truyện nghệ thuật là hệ thống các
biến cố trong trật tự nghệ thuật đã được chọn lọc sắp xếp" [ 17, 133 ]. Hơn
nữa ơng cịn đề cập đến lý thuyết mơ típ và lý thuyết cấu trúc trong việc
nghiên cứu thi pháp cốt truyện. Từ đó ơng đề xuất cách tiếp cận chỉnh thể,
tổng hợp đối với cốt truyện nghệ thuật .
Trong cuốn " Những vấn đề thi pháp của truyện" tác giả Nguyễn Thái
Hoà cũng bàn khá kỹ về vấn đề cốt truyện. Theo ông " cốt truyện được xây

dựng bằng những tình tiết. Những tình tiết này có tính bền vững, nếu thay đổi
tình tiết hoặc lược bỏ đi thì khơng cịn cốt truyện nữa". [ 12, 15 ]. Thơng qua
việc phân tích truyện " Cây khế" ơng cịn chỉ ra rằng: " Cốt truyện dân gian
rất chú trọng đến tình tiết phát triển thành sự kiện" [ 12, 16 ] và " những
truyện đơn giản như truyện kể dân gian thì cốt truyện và tình tiết giao nhau
một cách đơn giản [ 12, 17 ]…
Như vậy, có thể thấy rằng, dù đi theo hướng nào thì các nhà nghiên
cứu đều thống nhất với nhau ở những điểm cơ bản của thi pháp cốt truyện.
Cốt truyện của tác phẩm văn học là một yếu tố cấu thành chỉnh thể nghệ
thuật của tác phẩm, là một sáng tạo độc đáo của tác giả thể hiện một quan
điểm nào đó về cuộc đời về con người . Chính vì vậy cốt truyện của tác
phẩm văn học là sự nhào nặn, sắp xếp các sự kiện, biến cố của đời sống
theo một ý đồ nghệ thuật nhất định. Do đó nghiên cứu thi pháp cốt truyện
là nghiên cứu quan niệm của tác giả bộc lộ qua cốt truyện đó chứ khơng
phải dừng lại ở việc xác lập cấu trúc của cốt truyện . Ngoài ra cốt truyện ở
các thể loại khác nhau cũng không giống nhau cho nên nghiên cứu thi pháp
cốt truyện còn phải chỉ ra đặc trưng thể loại của nó nữa.
1.1.2.2: Thời gian nghệ thuật:
Văn học được xem như là loại hình nghệ thuật thời gian . Văn học
khơng chỉ phản ánh thời gian mà còn sử dụng thời gian để phản ánh đời
sống. " Thời gian là đối tượng, là chủ thể, là công cụ miêu tả, là ý thức và
cảm giác về sự vận động và đổi thay của thế giới trong các hình thức đa
dạng của thời gian xuyên suốt toàn bộ văn học " [ 17, 63 ]. Thời gian nghệ
7


thuật là một phạm trù rất quan trọng của thi pháp học. Nó khơng phải là
thời gian ở dạng thuần vật lý mà là thời gian trong quan niệm của người
sáng tác.
Thời gian nghệ thuật là một sáng tạo của nghệ sỹ nhằm thể hiện

một ý đồ nghệ thuật nhất định. Do vậy, thời gian trong tác phẩm văn
chương không tồn tại độc lập, khách quan mà tồn tại trong ý đồ chủ
quan của người nghệ sỹ. Thời gian ở đây đã được xử lý, sắp xếp theo
một trình tự riêng. Thời gian là yếu tố hư cấu đầu tiên trong tác phẩm.
Cùng với thời gian mà các lớp sự kiện, tình tiết, hình tượng được mở ra
trước mắt độc giả. Do vậy thời gian trở thành nhân tố rất quan trọng của
một tác phẩm văn chương.
Thời gian trong thần thoại là một thứ thời gian của thuở hồng hoang,
thời gian của sự khởi nguyên cho nên cách thể hiện thời gian rất mông
lung, mơ hồ. Thời gian trong ca dao thì lại là thời gian gắn với người thể
hiện, người tiếp nhận cho nên ta ln có cảm giác của thời hiện tại…Đối
với truyền thuyết, thời gian nghệ thuật cũng có đặc trưng riêng biệt. Đó là
thời gian của q khứ tuyệt đối nhưng có tính xác định. Về thời gian nghệ
thuật của truyền thuyết, chúng tơi sẽ trình bày rõ ở phần sau.
1.1.2.3: Không gian nghệ thuật :
Không gian và thời gian là hai chiều tồn tại của bất cứ một sự vật
nào trong thế giới, không gian là mơi trường tồn tại của sự vật. Hình tượng
văn học bao giờ cũng tồn tại, vận động trong một khơng gian xác định nào
đó. Như vậy có thể qua khơng gian mà nhìn thấy hình tượng, thấy con
người và thế giới. Không gian thực tế khách quan khi đi vào tác phẩm
nghệ thuật thì trở thành cái nhìn nghệ thuật cuả nhà văn để diễn tả hình
tượng. Giữa khơng gian thực tế khách quan và không gian nghệ thuật có
một khoảng cách nhất định, khoảng cách đó chính là sự sáng tạo của nghệ
sĩ, mang dấu ấn riêng. do đó khơng gian nghệ thuật cũng là khơng gian
mang tính quan niệm. Nó gắn liền với chủ quan của người nghệ sĩ.
" Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm
biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống.
Do đó khơng thể quy nó vào khơng gian địa lý, vật chất " [ 117, 89 ] .

8



Như vậy có nghĩa là bản thân khơng gian địa lý, vật chất hiện hữu trong
tác phẩm chưa phải là khơng gian nghệ thuật . Nó chỉ trở thành khơng
gian nghệ thuật khi nó phát biểu được những quan niệm của nhà văn về
con người, về cuộc sống .
Không gian nghệ thuật được biểu hiện ở rất nhiều dạng khác nhau
tuỳ theo những tiêu chí khác nhau. Có thể khơng gian điểm, khơng gian
tuyến, có thể là khơng gian bên trong, khơng gian bên ngồi, có thể là
khơng gian cõi tiên, cõi tục, cõi âm …
Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật có mối tương quan
rất chặt chẽ với nhau. Nhiều khi chúng xuyên thấm vào nhau, do đó
nhiều khi có hiện tượng khơng gian hố thời gian . Đối với văn học dân
gian thì giữa khơng gian và thời gian nghệ thuật tồn tại như một cặp đơi.
Giữa chúng ln có sự tương ứng hài hồ thể hiện quan niệm nghệ thuật
của tác giả dân gian.
Với tư cách là một phạm trù nghệ thuật của một tác phẩm văn học
cho nên ở mỗi tác giả, tác phẩm, mỗi trường phái, mỗi thể loại khác nhau
thì đặc điểm về không gian nghệ thuật cũng khác nhau. Trong văn học đã
từng trải qua nhiều mơ hình khơng gian khác nhau tuỳ theo loại hình sáng
tác. Khơng gian nghệ thuật trong thần thoại, không gian nghệ thuật trong
truyền thuyết, trong cổ tích, trong văn học viết Trung đại ..v..v
" Tóm lại, khơng gian nghệ thuật là mơ hình khơng gian của thế giới
nghệ thuật sự đối lập và liên hệ của các yếu tố không gian, các miền,
phương vị các chiều… tạo thành các ngôn ngữ nghệ thuật để biểu hiện thế
giới quan nịêm của tác phẩm " [ 17, 93 ]
1.1.2.4: Quan nịêm nghệ thuật về con ngƣời, kiểu nhân vật:
Chúng ta biết rằng văn học là nhân học, là nghệ thuật miêu tả biểu
hiện con người, phản ánh con người và phục vụ cho con người . Nhân vật
là hình thức cơ bản để miêu tả con người trong văn học. Hình tượng con

người trong văn học mang những nét độc đáo, đặc thù. Khác với các hình
thái ý thức xã hội khác như triết học, pháp luật, đạo đức chỉ khám phá con
người ở những khía cạnh riêng biệt, chuyên biệt, nghệ thuật khám phá con
người đến tận cùng sự phức tạp và phong phú của nó. " Quan niệm nghệ

9


thuật về con người là sự lý giải cắt nghĩa sự cảm thấy con người đã được
hoá thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người
trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng
nhân vật " [ 17, 41 ], do vậy con người được thể hiện trong văn học luôn là
sự sáng tạo của nhà văn, gắn liền với quan niệm của nhà văn.
Quan niệm nghệ thuật về con người được hiện hình trên các kiểu
nhân vật và ở mỗi loại hình văn học, loại thể văn học khác nhau thì có các
kiểu nhân vật khác nhau tương ứng với các quan niệm nghệ thuật khác nhau
về con người.
Quan niệm nghệ thuật về con người hướng người ta khám phá cách
cảm thụ và biểu hiện của chủ thể sáng tạo về con người thông qua các kiểu
nhân vật, các mơ hình về con người tác giả.
1.2: Thi pháp văn học dân gian:
Thi pháp văn học dân gian có mối quan hệ chủng loại với thi pháp
văn học viết. Điểm tương đồng của chúng làm nên những đặc trưng chung
của thi pháp văn học. Nói như vậy cũng có nghĩa là thi pháp văn học dân
gian ngoài những đặc điểm chung về mặt chủng loại nó cịn có những đặc
điểm riêng làm nên tính đặc thù của loại hình truyền miệng.
Theo Chu Xuân Diên: " Thi pháp văn học dân gian là tồn bộ các
đặc điểm về hình thức nghệ thuật, về phương thức và thư pháp miêu tả
biểu hiện về cách cấu tạo đề tài, cốt truyện mà phương pháp xây dựng hình
thức con người … Việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian bao gồm từ

việc khảo sát những yếu tố thi pháp như phép so sánh thơ ca, các biểu
tượng và luật thơ, các mô típ và cách cấu tạo cốt truyện, cách mơ tả diện
mạo bên ngoài và tâm lý bên trong của nhân vật v.v… Đến việc khảo sát
những đặc điểm thi pháp chung của từng thể loại và những đặc điểm dân
tộc của thi pháp văn học dân gian nói chung. Nghiên cứu thi pháp văn học
dân gian còn bao gồm cả việc khảo sát những đặc điểm phong cách cá
nhân của người sáng tạo và diễn xướng trong mối quan hệ với những đặc
điểm thi pháp truyền thống " [7, 81 ].
Theo chúng tôi đây là một định nghĩa tương đối chuẩn và bao quát
được toàn bộ thi pháp của văn học dân gian. Tuy nhiên có một vài chi tiết

10


đi vào cụ thể, chi tiết quá làm cho nhiều người hiểu nhầm như một vấn đề
chung. Chẳng hạn như tác giả đã đặt bên cạnh nhau " phép so sánh thơ ca,
các biểu tượng và luật thơ, các mô típ và cấu tạo cốt truyện, cách mơ tả
diện mạo bên ngoài và tâm lý bên trong nhân vật … " làm cho nhiều người
thắc mắc là những dấu hiệu mà tác giả nêu trên có khi chỉ thuộc về thể loại
này chứ không thuộc về thể loại khác mà thi pháp văn học dân gian chủ
yếu là thi pháp của những thể loại văn học dân gian.
Nhìn chung thi pháp văn học dân gian là một vấn đề rộng như đã
nêu ở định nghĩa trên. Vậy nên trong khi vận dụng khái niệm thi pháp văn
học dân gian vào những nghiên cứu cụ thể, chúng ta không được máy móc
mà cần bám chắc vào tình hình cụ thể, thực tế của từng vấn đề nghiên cứu.
Chẳng hạn như khi nghiên cứu thi pháp truyền thuyết về Lê Lợi và khởi
nghĩa Lam Sơn thì phải bám chắc vào tình hình thực tế của thể loại truyền
thuyết và tình hình thực tế của bộ phận truyện kể về Lê Lợi và khởi nghĩa
Lam Sơn.
Trên đây là những vấn đề lý thuyết thi pháp cơ bản có tính chất định

hướng cho chúng tôi trong khi khảo sát thi pháp truyện kể về Lê Lợi và
khởi nghĩa Lam Sơn.
1.3 : Khái niệm truyền thuyết:
1.3.1: Vấn đề phân truyền thuyết thành thể loại trong loại hình tự sự
dân gian
Nhà nghiên cứu Trần Thị An trong bài viết " Nghiên cứu truyền
thuyết những vấn đề đặt ra "đăng trên tạp chí văn học số 7 năm 1994 sau
khi điểm qua tình hình nghiên cứu truyền thuyết đã viết: " Thậm chí, vấn
đề tiên quyết là có tồn tại một thể loại truyền thuyết hay khơng có xác định
được đặc trưng thể loại của nó hay khơng vẫn cịn được đặt ra " [ 2 ]. Như
vậy, ít nhất là cho đến năm 1994, thuật ngữ truyền thuyết vẫn còn là một
vấn đề chưa được thống nhất thậm chí chưa được cơng nhận với tư cách là
một thể loại của loại hình tự sự dân gian .
Trong lịch sử nghiên cứu truyền thuyết luôn tồn tại rất nhiều quan
điểm khác nhau dựa trên những tiêu chí, phương diện khác nhau. Các quan

11


điểm về truyền thuyết nhìn chung là khơng thống nhất thậm chí đối lập
nhau. Về cơ bản có thể qui về hai phái :
Phái thứ nhất cho rằng truyền thuyết không phải là một thể loại văn
học dân gian, chỉ có thể gộp nó lại trong thể loại thần thoại. Họ cho rằng
danh từ " truyền thuyết" hay " dã sử" không bao hàm đặc trưng trong một
thể loại văn học. Đại diện phái này là giáo sư Đinh Gia Khánh trong cuốn "
văn học dân gian Việt Nam " [ 14 ] .
Phái thứ hai lại cho rằng cần phải tách truyền thuyết ra làm một thể
loại riêng, độc lập với thần thoại. Bởi vì truyền thuyết tồn tại trong thực tế
như một thể loại có những đặc điểm đặc thù. Đại diện cho quan điểm này
là cố giáo sư Hoàng Tiến Tựu " Mấy vấn đề văn học dân gian " [ 18 ]. Và

đây cũng là quan niệm được nhiều người tán thành.
Chúng tơi cũng đồng tình với quan điểm thứ hai, truyền thuyết là
một thể loại, nằm trong hệ thống loại hình tự sự dân gian. Nó có đời
sống độc lập với các thể loại khác và có thể xác định được đặc trưng thể
loại của nó.
1.3.2: Khái niệm truyền thuyết :
Với việc phân tách truyền thuyết thành một thể loại văn học dân
gian, đã xuất hiện rất nhiều định nghĩa khác nhau về truyền thuyết .
Giáo sư Nguyễn Đổng Chi định nghĩa: " Truyền thuyết thường dùng
để chỉ những câu chuyện cũ, những sự việc lịch sử cịn được quần chúng
truyền lại nhưng khơng đảm bảo về mặt chính xác ( Có thể do truyền rộng
mà sai lạc, cũng có thể do sự tưởng tượng của quần chúng phụ hoạ mà
càng sai lạc hơn ) và truyền thuyết phần nhiều chưa được xây dựng thành
truyện. Nó mới chỉ là những mẫu chuyện, nếu nó phát triển tới mức hồn
chỉnh thì tuỳ nội dung nó có thể trở thành cổ tích hay thần thoại " [ 5, 12 ]
" truyền thuyết là một khái niệm chỉ những sự việc lịch sử được kể lại do
truyền tụng, khơng đảm bảo về phần chính xác " [ 4, 20].
Như vậy, là tác giả cho rằng có khái niệm truyền thuyết , nhưng lại
chưa công nhận đặc trưng thể loại của nó.
Nhìn chung các khái niệm về truyền thuyết những năm 60 về trước
về cơ bản mới chú ý đến tính lịch sử, đến giá trị nhận thức lịch sử của nó

12


mà chưa chỉ ra được những đặc trưng nghệ thuật riêng biệt của thể loại
truyền thuyết , thậm chí lại vơ tình phủ nhận sự tồn tại của nó.
Năm 1969, trên báo nhân dân, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đưa ra
một ý kiến về truyền thuyết : " Những truyền thuyết dân gian thường có
một cái lõi là sự thực lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lý tưởng

hố, gửi gắm vào đó tâm tình thiết tha của mình cùng với thơ và mộng,
chắp đơi cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuật dân gian làm nên tác
phẩm văn hoá mà đời đời con người ưa thích ". [ 8 ].
Có thể nói rằng quan niệm trên của cố Thủ tướng " Phạm Văn
Đồng" đã đưa thể loại truyền thuyết lên một vị trí xứng đáng trong nền văn
học dân tộc. Điều quan trọng là ông đã chỉ ra được tính chất kết hợp vừa
văn, vừa sử của truyền thuyết và quá trình xây dựng, hình thành của truyền
thuyết . Rõ ràng đến đây, thể loại truyền thuyết đã được xác định với đầy
đủ đăch tính cơ bản của một thể loại văn học. Kể từ đây tất cả các cơng
trình nghiên cứu về truyền thuyết đều lấy định nghĩa của Thủ tướng Phạm
Văn Đồng làm kim chỉ nam cho việc nghiên cứu .
Trên cơ sở đó, trong bài viết " Truyền thuyết anh hùng trong thời kỳ
phong kiến" tác giả Kiều Thu Hoạch đã đưa ra một định nghĩa tương đối
hoàn chỉnh về truyền thuyết như sau:
" Truyền thuyết là một thể tài truyện kể truyền miệng
nằm trong loại hình tự sự dân gian, nội dung cốt truyện của
nó là kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử, hoặc giải thích
nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm của
nhân dân ;biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa
trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng những yếu tố
hư ảo thần kỳ như cổ tích và thần thoại; nó khác cổ tích ở chỗ
khơng nhằm phản ánh xung đột gia đình sinh hoạt xã hội và
số phận cá nhân mà thường phản ánh những vấn đề thuộc
phạm vi quốc gia dân tộc rộng lớn; nó khác thần thoại ở chỗ
nhào nặn tự nhiên và xã hội trên cơ sở sự thật lịch sử cụ thể
chứ khơng phải hồn tồn trong trí tưởng tượng và bằng trí
tưởng tượng".

[24, 139].


Đây là một định nghĩa theo chúng tơi là khá thuyết phục vì đã chỉ ra
được đặc điểm nội dung và phương thức phản ánh, chỉ ra được chức năng

13


xã hội, đối tượng và phạm vi phản ánh của thể loại. Định nghĩa này sẽ là
định hướng khoa học cho chúng tơi trong q trình triển khai đề tài .
2. Lịch sử vấn đề :
2.1 : Việc nghiên cứu thi pháp truyền thuyết nói chung .
Ở nước ta vấn đề nghiên cứu thi pháp truyền thuyết vẫn còn chưa được
quan tâm đúng mức. Vấn đề này có căn nguyên từ quan niệm về sự phân chia
truyền thuyết thành thể loại độc lập trong loại hình tự sự dân gian. Chính vì có
sự nhập nhằng giữa các quan niệm về thể loại truyền thuyết mà vấn đề nghiên
cứu truyền thuyết nói chung, thi pháp truyền thuyết nói riêng vẫn cịn nhiều
khoảng trống.
Nhìn chung, chúng ta chưa có được một cái khung lý thuyết chung
và thi pháp truyền thuyết . Do vậy để xác định được nội hàm của thi pháp
truyền thuyết thì cịn phải chờ đợi ở tương lai.
Trên thực tế chúng ta mới được tiếp xúc với một số vấn đề cụ thể,
đơn lẻ của thi pháp truyền thuyết như : Bùi Quang Thanh - tìm hiểu kết
cấu của dạng truyền thuyết anh hùng [19], Kiều Thu Hoạch trong bài
"Truyền thuyết anh hùng thời kỳ phong kiến" [ 22 ]. Quy mơ hơn cả là
cơng trình " Người anh hùng làng Gióng " của cố giáo sư Cao Huy Đỉnh
[9] . Tất cả các cơng trình này đều đã đề cập đến một số vấn đề thuộc thi
pháp truyền thuyết như kết cấu của dạng truyền thuyết anh hùng [19], [22].
Cốt truyện và các mơ típ cấu tạo của truyện [9] …
Phải đến năm 2000, ông Lê Trường Phát, trong cuốn bài giảng
chuyên đề về " Thi pháp văn học dân gian" [16] mới có một bài tương đối
khái quát về thi pháp truyền thuyết: " Những đặc điểm thi pháp của truyền

thuyết lịch sử". Trong bài này ông đã trình bày những đặc điểm chính về
thi pháp nhân vật, xung đột, kết cấu, lời kể của truyền thuyết lịch sử, một
tiểu loại tiêu biểu cho thể loại truyền thuyết . Tuy nhiên ông lại chưa đề
cập đến đặc điểm thi pháp thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật .
2.2 : Việc nghiên cứu truyện kể về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn
với thi pháp truyền thuyết .

14


Từ trước đến nay, chưa có một cơng trình nghiên cứu nào lấy
truyện kể về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn làm đối tượng chính để khảo
sát các phương diện của thi pháp truyền thuyết . Chúng tôi chỉ thấy một
số cơng trình có điểm qua những truyện kể này như những dẫn chứng
khoa học mà thơi. Đó là cuốn "Tìm hiểu tiến trình Văn học dân gian Việt
Nam " của Giáo sư Cao Huy Đỉnh. Nhà xuất bản khoa học xã hội - 1976 .
Đó là cuốn " Lòng yêu nước trong văn học dân gian Việt Nam " của Giáo
sư Nguyễn Nghĩa Dân - Nhà xuất bản hội nhà Văn - 2001 . Bài viết " Tục
ngữ với truyền thuyết anh hùng " của Trần Đức Các đăng trên tạp chí văn
học số 1 - 1974 . Đó là bài viết " Tìm hiểu kết cấu của dạng truyền thuyết
anh hùng" của Bùi Quang Thanh đăng trên tạp chí văn học số 3 - 1981 .
Đó cịn là bài viết " Bước đầu tìm hiểu truyền thống chống giặc phương
Bắc trong truyện dân gian vùng Nghệ Tĩnh" của Thạc sỹ Hoàng Minh
Đạo đăng trong kỷ yếu hội nghị Văn học dân gian miền Trung lần thứ
nhất và hội nghị văn học dân gian Nghệ Tĩnh - Đại học Sư phạm Vinh 1985. Đặc biệt là cuốn giáo trình " Thi pháp Văn học dân gian " của ông
Lê Trường Phát bài 2 " Những đặc điểm thi pháp của truyền thuyết lịch
sử" đã lấy những truyện kể về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn làm thí dụ
minh hoạ cho những vấn đề thi pháp truyền thuyết lịch sử mà ông nêu ra .
Trong bài viết này ông đã chỉ ra và phân tích một số đặc điểm cơ bản của
truyền thuyết lịch sử như: Đặc điểm về nhân vật, đặc điểm về kết cấu, đặc

điểm về lời văn nghệ thuật …
Cụ thể hơn, trực tiếp hơn đó là thơng báo khoa học trường Đại học
Sư phạm Vinh của Thạc sỹ Hoàng Minh Đạo : " Từ nguồn truyện dân
gian Nghệ Tĩnh góp phần xác định sự hình thành và phát triển của thể
loại truyền thuyết ". [11] . Trong cơng trình này ơng đã lấy chùm truyện
kể về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn làm đối tượng chính để khảo sát
cùng với cụm truyện về An Dương Vương .
Như vậy, tất cả các cơng trình nêu trên chưa có cơng trình nào
nghiên cứu truyện kể về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn một cách độc lập,
hay một đề tài cụ thể.
Truyện kể về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn là một chùm truyện
tương đối lớn rải rộng suốt từ Nghệ Tĩnh đến Lạng Sơn. Năm 1985 Sở
15


Văn hố thơng tin Thanh Hố đã xuất bản cuốn "Sáng tác dân gian về
Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn " . Trong đó phần lớn là truyện kể dân
gian ( 100 truyện) .
Trong phần hai của cuốn sách đã đăng hai bài viết có tính chất giới
thiệu và bước đầu nghiên cứu về chùm truyện này. Đó là bài " Bước đầu
tìm hiểu sáng tác dân gian về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn " của cố Giáo
sư Hồng Tiến Tựu . Và bài " Hình tượng Lê Lợi trong truyện kể dân gian"
của Hoàng Anh Nhân .
Bài viết của giáo sư Hoàng Tiến Tựu đã đưa đến một cái nhìn khái
quát về những sáng tác dân gian đã công bố ở phần một của cuốn sách .
Trong đó ơng đã nêu lên những đặc điểm lớn của các sáng tác (chủ yếu là
truyện kể) và phương pháp nhận thức, thưởng thức nó. Đây là một bài viết
có ý nghĩa định hướng rất lớn đối với cơng tác nghiên cứu tiếp cận và
thưởng thức hệ thống truyện kể phong phú này .
Bài của Hoàng Anh Nhân tập trung nghiên cứu hình tượng Lê

Lợi, hình tượng trung tâm của các truyện kể dân gian. Ông đã lý giải
một cách hệ thống mối quan hệ giữa Lê Lợi với nhân dân từ đó đi đến
kết luận : " Hình tƣợngLê Lợi là hình tƣợng ngƣời anh hùng nhân
dân ". Bài viết này cũng nêu được nhiều vấn đề có tính chất đặc điểm
về hệ thống truyện kể này như : Mối quan hệ giữa hiện thực và hư cấu,
đặc điểm về kết cấu, các mơ típ và cách xây dựng nhân vật, xây dựng
cốt truyện …
Từ thực tế trên đây chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu cho
khố luận của mình là : " Một số đặc điểm của thi pháp truyền thuyết
qua truyện kể về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn ", một vấn đề cịn
chưa có cơng trình nào đề cập tới một cách nhất qn . Với đề tài này
chúng tơi muốn góp phần thiết thực vào việc tiếp cận những truyện kể dân
gian về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn từ góc độ thi pháp học đồng thời
nêu lên một số vấn đề chung của thi pháp truyền thuyết.

CHƢƠNG II:

16


MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA THI PHÁP TRUYỀN THUYẾT QUA TRUYỆN
KỂ DÂN GIAN VỀ LÊ LỢI VÀ KHỞI NGHĨA LAM SƠN.

1. Đặc điểm cốt truyện :
Nhà nghiên cứu Trần Thị An cho rằng " Truyền thuyết có cốt truyện
đơn giản, bao gồm trong đó tồn những đột khởi, trên trục chính của cuộc
đời nhân vật. Những đột khởi đó là :
- Sự ra đời kỳ lạ nhuốm màu sắc hoang đường, thường có sự giao
hồ giữa người và thần.
- Cơng trạng hiển hách kỳ diệu mà nhân tố chiến thắng là sức mạnh

của con người được phóng đại lên cùng với sự giúp đỡ của Thần thánh
(các lực lượng tự nhiên và sự âm phủ của tổ tiên) .
- Cái chết bất tử, " Hố" vào núi sơng đất trời.
Các truyền thuyết thường triển khai cốt truyện trên một trục chung
như thế, do đó có sự trùng lặp các mơ típ ở nhiều truyện khác nhau. Ngồi
ba sự kiện trên, hầu như truyền thuyết khơng phát triển thêm những tình
tiết rườm rà vào cốt truyện " [2; 37] .
Trong cuốn "Lòng yêu nước trong Văn học dân gian Việt Nam " tác
giả Nguyễn Nghĩa Dân viết : " Truyền thuyết lịch sử về chống ngoại bang
xâm lược nước ta thường là một chuỗi truyền thuyết nói lên khơng chỉ hành
động, tài năng của các bậc anh hùng cứu nước mà cịn nói lên khá đầy đủ về
nhiều nhân vật lịch sử khác có liên quan, về vai trị của quần chúng nhân
dân … "[6, 189].
Cố giáo sư Cao Huy Đỉnh trong cuốn " Tìm hiểu tiến trình Văn học
dân gian Việt Nam " lại viết : " Những câu " Lê Lợi vi quân Nguyễn Trãi
vi Thần" hay " Hăm mốt Lê Lai hăm hai Lê Lợi" và hàng loạt truyện đã
gắn sự tích những người anh hùng này với nhau từ rú Thành ( Nghệ An)
đến Chi Lăng (Lạng Sơn) " [ 10 ] …
Từ những định hướng quý báu đó, chúng tơi mạnh đi vào khảo sát
cốt truyện trong truyện kể về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn với hai
đặctính cơ bản của cốt truyện truyền thuyết : Đó là tính chất chùm chuỗi và
kéo theo là tính chất ngắn gọn.
1.1 : Tính chất chùm chuỗi :
17


Cốt truyện truyền thuyết thường có cấu tạo chùm chuỗi . Tức là một
tập hợp truyện xoay quanh một nhân vật, một sự kiện lịch sử. Chẳng hạn
như : Chùm truyền thuyết về An Dương Vương, chùm truyền thuyết về hai
bà Trưng, chùm truyền thuyết về Đinh Bộ Lĩnh, chùm truyền thuyết về

Quang Trung Nguyễn Huệ và khởi nghĩa Tây Sơn … cũng vậy, cốt truyện
trong truyền thuyết về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn tính chất chùm chuỗi
được thể hiện rất rõ. Đó là một tập hợp các truyện kể dân gian xoay quanh
nhân vật trung tâm là người anh hùng dân tộc Lê Lợi và sự kiện trung tâm
là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vĩ đại.
Trong cuốn tuyển tập " Sáng tác dân gian về Lê Lợi và khởi nghĩa
Lam Sơn" do Sở Văn hố thơng tin Thanh Hố xuất bản năm 1985, đối
tượng mà chúng tơi tiến hành khảo sát và nghiên cứu; các tác giả đã chia
làm ba loại truyện kể :
1. Truyền thuyết - cổ tích
( 30 truyện) .
2. Giai thoại
( 60 truyện) .
3. Thần tích - thần phả
( 10 truyện) .
Tuy nhiên sự phân chia như vậy theo chúng tôi cũng chỉ là tương
đối. Thực ra chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau cả về nội dung và hình
thức thể hiện. Cũng cần phải nói thêm rằng những truyện được cơng bố
trong cuốn sách này chỉ là một phần cơ bản, trên thực tế chắc chắn còn
tồn tại rất nhiều truyện kể lý thú về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn mà
chúng ta chưa sưu tầm được . Song với những truyện kể hiện có cũng đủ
để chúng ta có thể hình dung những đặc trưng cơ bản của hệ thống
truyện kể phong phú này.
Qua khảo sát chúng tôi thấy rằng : hệ thống cốt truyện trong truyện kể
về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn rất phong phú . Về mặt số lượng đã lên
tới hàng trăm đơn vị truyện. Mỗi truyện kể đều có một cốt truyện riêng song
giữa các truyện lại có một mối quan hệ ngầm rất chặt chẽ, xâu chuỗi với
nhau tạo thành một chùm truyện thống nhất phản ánh một cách sinh động và
toàn diện quan niệm của quần chúng nhân dân đối với Lê Lợi và cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn.

Có thể nhận thấy tính chất chùm chuỗi trước hết ở đề tài và đối
tượng phản ánh của nó . Tất cả các cốt truyện trong truyện kể về Lê Lợi
18


và khởi nghĩa Lam Sơn đều lấy những sự việc có liên quan đến cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn và Lê Lợi làm đề tài có thể đó là những truyện rất
xa nhau, khơng liên quan ràng buộc gì với nhau chẳng hạn như truyện
về ơng Nguyễn Trãi đi " Tìm minh chủ", truyện ông Lê Văn Linh làm
"Bài văn đuổi hổ "… là những truyện hoàn toàn độc lập với nhau, cốt
truyện rất khác nhau song đều nhằm thể hiện quan niệm của nhân dân về
người anh hùng Lê Lợi. Tất cả hào kiệt bốn phương, núi sông, đất trời đều
hướng về với Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nếu chỉ là một truyện
thì ý nghĩa đó sẽ nhạt đi rất nhiều .
Nếu như đề tài làm nên chùm truyện lớn của truyện kể về Lê Lợi và
khởi nghĩa Lam Sơn thì chủ đề lại lập thành những chùm truyện nhỏ trong
hệ thống đó. Chúng tơi nhận thấy có rất nhiều những truyện kể có chung
một kiểu cốt truyện gắn với những chủ đề nhất định.
* Chùm truyện về gƣơm Thần tiêu biểu là các truyện:
1. Gươm thần Lê Lợi
2. Lịch sử Hồ gươm
3. Ngọn gươm thần của ông Lê Lợi
4. Sự tích núi Mục
Hai truyện đầu thực chất là một, chúng chỉ là những dị bản khác
nhau kể lại sự tích gươm thần gắn liền với việc Lê Lợi đánh tan quân Minh
giải phóng dân tộc và việc trả gươm ở hồ Tả Vọng.
Hai truyện sau kể về công dụng phi thường của thanh gươm thần
gắn liền với uy dũng của vị chủ tướng Lê Lợi.
Như vậy, ở chùm truyện này có một cốt truyện cơ bản mà tác giả
dân gian đã sáng tạo ra để xây dựng hình tượng vị chủ sối Lê Lợi và

khẳng định sự thắng lợi của cuộc khởi nghĩa là tất yếu: Lê Lợi được trời
ban cho gươm Thần, thanh gươm ấy có một sức mạnh kỳ diệu giúp Lê Lợi
đánh tan quân xâm lược nhà Minh.
* Chùm truyện để đi tìm minh chủ gồm có các truyện:
1. Tìm minh chủ
2. Nguyễn Trãi đi tìm minh chủ
3. Nguyễn Trãi đến với Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn

19


4. Lưu Trung, Lưu Nhân Chú, Phạm Cuống Phù Lê Lợi…
Cốt truyện cơ bản của chùm truyện này là hào kiện bốn phương
được Thần thánh báo mộng cho đi theo Lê Lợi để dựng nghiệp lớn. Nhân
dân đã một lòng hướng về dưới ngọn cờ đại nghĩa của Lê Lợi, tên tuổi của
Lê Lợi đã vang vọng khắp non sông đất nước, trời đất đã giao phó trọng
trách minh chủ cho ơng. Với cốt truyện cơ bản đó chùm truyện đã thể hiện
được tinh thần đoàn kết, một sức mạnh vô địch quật ngã kẻ thù. Từ đấy
nước Nam đã có minh chủ, có người cầm đầu lãnh đạo, ý thức chủ quyền
của nhân dân cũng được thể hiện rõ nét ở chùm truyện này.
* Chùm truyện về sự đùm bọc, che chở, cưu mang và lòng biết ơn
ngưỡng mộ của nhân dân đối với Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn. Đây là
chùm truyện có số lượng lớn nhất ( 33 truyện), chiếm đa số các giai thoại
về Lê Lợi và khởi nghiã Lam Sơn. Có thể nêu ra đây một số truyện tiêu
biểu sau:
1. Bàn tay ông Lê Lợi
2. Cánh đồng mẫu hậu
3. Ngôi đền Quốc mẫu
4. Sông Cầu Chày chó lội đứt đi.
5. Làng Quỳ Chứ

6. Làng Tâu làng Tó
7. Làng Đong…
Gắn với chùm truyện này là sự giải thích của nhân dân về các di tích
như tên làng, tên núi, tên sông, tên bãi… cốt truyện cơ bản được triển khai
ở chùm truyện này: Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn gặp nạn được nhân dân
giúp đỡ thóat nạn. Lê Lợi tưởng nhớ đến cơng ơn của nhân dân bằng việc
đặt tên, phong tặng tước hiệu, lập đền, miếu thờ… với chùm truyện này
nhân dân đã thể hiện được mối quan hệ gần gũi gắn bó và tấm lòng ưu ái,
ngưỡng mộ của nhân dân đối với Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn, đồng
thời phản ánh quan niệm của nhân dân về vai trò lịch sử của quần chúng
trước vận mệnh của nước nhà .
* Chùm truyện về sự âm phủ của tổ tiên, thần thánh:
1. Cánh đồng ao voi
2. Sự tích Bạch Y Thần nữ, Bạch Hổ Thần nữ và
Dung Thụ đại vương.

20


3. Bến Hị lơ
4. Ngàn tiên
5. Thành Hồng Nam Ngạn
6. Âm thần thuỷ tộc là vương….
Các truyện trong chùm truyện này triển khai cốt truyện theo một mơ
hình: Lê Lợi và nghĩa quân gặp nạn được thần linh phù hộ thốt nạn. Lê
Lợi ghi nhớ cơng ơn lập đền thờ, sắc phong.
* Chùm truyện về các tƣớng lĩnh của nghĩa quân Lam Sơn:
1. Hăm mốt Lê Lai hăm hai Lê Lợi
2. Ba văn đuổi hổ
3. Người anh hùng đánh Két

4. Dạy chó diệt thù, dạy chim đánh trận
5. Chuyện bà Nguyễn Thị Bành đánh giặc….
Trên đây chúng tôi đã dẫn ra một số chùm truyện trong chuỗi truyện
kể về Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn. Tuy vậy xuất phát từ các điểm nhìn
khác nhau thì kết quả phân chia cũng sẽ khác nhau. Thực chất sự phân chia
thành các chùm truyện như trên là tìm ra mối liên hệ ngầm trong mạch cốt
truyện . Từ đó chúng tơi muốn nói lên một đặc trưng cơ bản tron cốt truyện
của truyện kể về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn là tính chất chùm chuỗi.
Tác giả dân gian đã xây dựng rất nhiều cốt truyện khác nhau để qua đó
phản ánh được một cách toàn diện diện mạo của một thời kỳ lịch sử gian
lao mà hào hùng của dân tộc. Do đặc trưng truyền miệng, do yêu cầu phản
ánh lịch sử một cách toàn diện mà truyền thuyết thực chất lại chỉ là những
lời đồn đại cho nên cốt truyện của truyền thuyết thường có kết cấu chuỗi
chùm như vậy.
Từ đó đối chiếu với cốt truyện của các thể loại tự sự dân gian khác
như thần thoại, cổ tích chúng tơi thấy rằng chỉ có ở truyền thuyết thì cốt
truyện mới có chùm như vậy. Đặc biệt là trong cốt truyện truyền thuyết
thỉnh thoảng có lồng vào những mẫu thần thoại, cổ tích rất xinh động hấp
dẫn. Ví dụ như ở truyện: " Cánh đồng ao voi" được lồng vào một cốt
truyện thần thoại rất ly kỳ về ông khổng lồ. Hay ở truyện " Hang Ta Lới"
thì cốt truyện lại được lồng vào một huyền thoại rất nên thơ về một cô gái

21


xinh đẹp trẻ mãi không già ở vùng Luồng Lũng. Có truyện lại triển khai
cốt truyện theo kiểu truyện cổ tích như " người anh hùng đánh Két".
Nhưng dù có biến đổi như thế nào thì chúng cũng chỉ có ý nghĩa khi đặt
trong chùm, chuỗi, nếu đứng riêng lẻ thì mờ nghĩa dễ nhầm thành cổ tích
hay thần thoại. Như vậy đến đây, một lần nữa chúng tôi khẳng định rằng

truyện kể về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn nói riêng, truyền thuyết nói
chung, về mặt cốt truyện có cấu tạo thành chùm.
1.2: Tính ngắn gọn:
Nếu như tính chất chùm chuỗi là đặc trưng chung của cốt truyện
truyền thuyết thì tính ngắn gọn lại là đặc trưng riêng của truyện kể về Lê
Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn . Cố giáo sư Hoàng Tiến Tựu trong bài nghiên
cứu đăng ở phần hai của cuốn sách sáng tác dân gian về Lê Lợi và khởi
nghĩa Lam Sơn đã nhận xét: " Truyền thuyết thời kỳ này không phải là
những tác phẩm hoàn chỉnh và dài hơn như truyền thuyết thời kỳ Văn
Lang - Âu Lạc (truyện Thánh Gióng , truyện An Dương Vương … ) cũng
không giống như truyện cổ tích thần kỳ( Như Tấm Cám, Thạch Sanh, Chử
đồng tử… ) mà gần với các thể giai thoại ( Hay cũng có thể gọi là truyện
ngắn truyền miệng ". [ 23 ] ).
Qua khảo sát, chúng tôi thấy hầu hết các truyện kể về Lê Lợi và khởi
nghĩa Lam Sơn đều có cốt truyện rất ngắn ngọn, như là những mẫu truyện
nhỏ có kết cấu đơn giản và đặc biệt là có sự trùng lặp, với tần số cao các
mơ típ và kiểu cấu tạo cốt truyện. Đặc điểm này là do tính chất địa phương
của các truyện kể quy định . Phần lớn các truyện kể là truyện của một
chịm, một làng, một huyện … Chính vì vậy mà nó chưa có sự bao qt
tồn diện mà chỉ dừng lại ở những sự kiện cụ thể, những tình tiết đơn giản
phát triển thành cốt truyện , cốt truyện được xây dựng như một cách ghi
dấu ấn địa phương vào công cuộc chống ngoại xâm vĩ đại của Lê Lợi và
nghĩa quân Lam Sơn. Do đó như trên chúng tơi đã nói, nếu tách riêng các
truyện này ra khỏi chùm truyện chung thì ý nghĩa của nó giảm đi rất nhiều.
Ngay cả ở những truyện được xem là có tính chất quốc gia, được
lưu truyền rộng rãi, phổ biến trên cả nước như: " Lịch sử Hồ Gươm", "
Hăm mốt Lê Lai hăm hai Lê Lợi… " thì cốt truyện cũng rất đơn giản,

22



ngắn gọn, truyện " Lịch sử Hồ Gươm" thì cốt truyện chủ yếu xoay
quanh ba sự kiện chính:
1. Lê Lợi được trao gươm báu
2. Lê Lợi đánh tan giặc Minh
3. Lê Lợi trả gươm.
Về mặt thời gian và diễn biến của truyện thì có thể xem đây là
truyện chính vì nó đã bao qt được tồn bộ diễn biến của cuộc khởi nghĩa.
Nhưng xét về mặt nội dung, tư tưởng, về ý nghĩa của truyện thì truyện
cũng chỉ mới đề cập được một khía cạnh nhỏ trong quan niệm của nhân
dân về người anh hùng Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn . Các truyện
có tính chất địa phương thì tính chất ngắn gọn của cốt truyện lại càng rõ
hơn. Bởi vậy người ta thường gọi chúng là giai thoại. Đó là sự giải thích
của nhân dân về một hiện tượng tự nhiên ( Hòn đá ngồi, hòn đá mài mực,
cây lim bến Chủa, bụi nứa mọc ngược… ) . Đó là sự tích về tên làng, tên
núi, tên sơng… ( Sự tích làng Đong, làng Quỳ Chử, Sự tích Núi
Mục…)v.v.. Tất cả các truyện này làm nên những phiến đoạn khác nhau,
phản ánh một cách chi tiết ( theo quan niệm của nhân dân ) về cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn .
Theo chúng tơi, có thể lý giải tính chất ngắn gọn của cốt truyện
trong hệ thống truyện kể này bằng mấy lý do sau đây:
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi đứng đầu là một cuộc trường
kỳ khởi nghĩa ( 10 năm ), trải qua bao nhiêu gian khổ khó khăn với nhiều
biến cố phức tạp. Địa bàn hoạt động lại luôn phải thay đổi. Quan trọng
hơn đây là một cuộc khởi nghĩa của toàn dân, gắn bó máu thịt với nhân
dân có ý nghĩa trọng đại đối với Quốc gia dân tộc. Do vậy để thể hiện nó
vào trong truyền thuyết ( một thể loại truyền miệng) thì khơng thể dùng
một truyện mà có thể bao quát hết được . Trong quan niệm của nhân dân
thì tất cả những gì đã xẩy ra đều có một ý nghĩa rất lớn. Từ bụi nứa, hòn
đá đến con sông ngọn núi… đều ghi dấu những tháng ngày gian lao cực

khổ mà rất đỗi hào hùng ấy. Có lột tả hết những truyện nhỏ nhắt ấy thì
mới thấy được ý nghĩa to lớn của chiến thắng, mới biết quý giá giữ gìn và
bảo vệ nó. Tính ngắn gọn đơn giản của cốt truyện đảm bảo cho sự lưu
truyền từ đời này sang đời khác mà vẫn giữ được tính hoàn chỉnh của
23


truyện. Tuy nhiên gắn liền với đặc tính truyền miệng là đặc tính dị bản.
Truyện kể về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn có rất nhiều dị bản khác
nhau. Cốt truyện ở mỗi bản khác nhau có những biến đổi nhất định song
đều nằm trong mối liên hệ mật thiết với chùm chuỗi.
Cốt truyện trong truyện kể về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn dù có
ngắn gọn, đơn giản đến đâu thì vẫn đảm bảo tính chỉnh thể cuả nó. Chúng
tơi khơng phủ nhận tính hồn chỉnh về mặt nghệ thuật của cốt truyện
truyền thuyết về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn như quan niệm cuả một số
nhà nghiên cứu .
Tuy là những mẩu truyện nhỏ nhưng truyện nào cũng có xuất xứ, có
mở có đóng, " có đầu, có đi" và đều nhằm một dụng ý nghệ thuật nhất
định. Có vậy nó mới có thể vượt qua thời gian, trường tồn mãi với cuộc
đời
1.2.3: Các mô típ thƣờng gặp và cách cấu tạo cốt truyện:
Mơ típ được sử dụng rất phổ biến trong việc nghiên cứu truyện
dân gian, là yếu tố đặc trưng của truyện cổ dân gian. Mơ típ được hiểu
là " những cơng thức trả lời cho các vấn đề mà giới tự nhiên đặt ra cho
con người từ những thuở nguyên sơ, khắp mọi nơi, hoặc là những ấn
tượng về hiện thực được đúc kết nổi bật hoặc tỏ ra quan trọng và được
lặp đi lặp lại ( A.N. Vexêlopxky) dẫn theo Trần Đình Sử [ 17, 133 ].
Mơ típ chính là các đơn vị nhỏ cấu thành cốt truyện khi đi vào các cốt
truyện khác nhau thì mơ típ đã có sự biến đổi hình hài nhất định.
Trong truyện kể về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn tác giả dân gian

đã sử dụng rất nhiều những mơ típ quen thuộc để xây dựng cốt truyện
trong đó có những mơ típ truyền thống, phổ biến của cốt truyện truyền
thuyết như : Mô típ rùa vàng, mơ típ bà hàng nước, mơ típ vũ khí thần, mơ
típ chém rụng đầu giữ đầu đi hỏi bà già rồi mới chết… " ngồi ra cịn có
một loạt những mơ típ riêng được lặp đi lặp lại nhiều lần ở các truyện kể
khác nhau làm nên nét riêng biệt độc đáo của chùm truyện này.
Chúng tôi chỉ đưa ra đây một số mơ típ cơ bản nhất, đặc trưng nhất
và có ý nghĩa nổi bật trong việc thể hiện quan niệm của nhân dân về người
anh hùng Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn .

24


* Mơ típ thanh gươm thần (vũ khí thần) đây là mơ típ rất quan trọng
xuất hiện trong rất nhiều truyền thuyết người Việt cũng như truyền thuyết
nhiều nước trên thế giới. Trong hệ thống truyền thuyết người Việt ta đã từng
gặp mơ típ này trong truyền thuyết về An Dương Vương dưới hình hài là một
cây nỏ thần bắn một phát chết ngàn người. Về sau này trong truyền thuyết về
cuộc khởi nghĩa Tây Sơn ta lại gặp lại mơ típ thanh gươm thần … mơ típ thanh
gươm thần khi đi vào truyền thuyết về Lê Lợi đã có nét độc đáo riêng. Đó là
một thanh gươm mà phải trải qua thử thách mới về tay Lê Lợi. Thanh gươm
này cũng khơng hiện ngun hình ngay mà mỗi phần của nó nằm ở một nơi.
Lưỡi gươm thì ở dưới lịng sơng, chi gươm thì ở trong lịng đất, vỏ gươm lại
ở trên ngọn cây. Như vậy thanh gươm thần ở đây là sự quy tụ của khí thiêng
sơng núi , là khát vọng của toàn dân tộc kết thành sức mạnh vơ biên . Đó là
thanh gươm "Thuận thiên" hay cũng chính là thuận lịng người vậy. Đến đây
chúng tôi lại liên tưởng đến câu chuyện về " Thanh gươm ông Tú" trong tiểu
thuyết " Đất nước đứng lên" của nhà văn Ngun Ngọc. Thì ra với mơ típ
thanh gươm thần tác giả dân gian cịn muốn nói lên tinh thần đồn kết, thống
nhất một lịng của tồn dân tộc hướng về dưới ngọn cờ đại nghĩa của Vua Lê.

Một khí phách như thế thì kẻ thù nào cũng phải bại vong .
* Mơ típ giấc mộng thần : Mơ típ này lặp đi lặp lại nhiều lần trong
chùm truyện kể về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn : Khi thì Nguyễn Trãi
được báo mộng, khi thì Trần Nguyên Hãn được báo mộng, khi thì Lưu
Trung, Lưu Nhân Chú , Phạm Cuống được báo mộng … với mô típ này tác
giả dân gian muốn khẳng định vai trị minh chủ của Lê Lợi và nhằm linh
thiêng hoá nhân vật này. Hào kiệt bốn phương đều đi theo Lê Lợi nhờ sự
báo mộng của thần linh.
Nhìn chung với hai mơ típ đó và nhiều mơ típ khác như mơ típ sự
thuận phục, sự sinh sơi … tác giả dân gian đã thể hiện ý thức chủ quyền
của dân tộc. Nước Nam từ đây đã có chủ và như vậy cái chân lý đã được
khẳng định trong bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt lại vang dậy trong lòng
người. Lũ giặc tất yếu sẽ bại vong vì chúng đã vi phạm vào một đất nước
có chủ quyền. Chủ quyền đó đã được định đoạt ở thiên thư (mơ típ cuộc
họp thiên đình) .

25


×