Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Cảm hứng nhại cổ tích trong truyện ngắn hòa vang luận văn thạc sĩ ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.02 KB, 128 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
..........................

BÙI THỊ NH

CảM HứNG NHạI Cổ TíCH
TRONG TRUYệN NGắN HòA VANG

LUN VN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN, NĂM 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
..........................

BÙI THỊ NH

CảM HứNG NHạI Cổ TíCH
TRONG TRUYệN NGắN HòA VANG
Chuyờn ngnh: LÍ LUẬN VĂN HỌC
Mã số: 60. 22. 32

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:
TS. LÊ THỊ HỒ QUANG

NGHỆ AN, NĂM 2012




Nhà văn Hoà Vang


Lời cảm ơn
Để hồn thành khố luận này, chúng tơi xin được bày tỏ lòng tri ân sâu
sắc tới TS. Lê Thị Hồ Quang – người đã đồng hành và tận tình hướng dẫn
chúng tơi trong suốt q trình làm đề tài, xin chân thành cám ơn nhà phê bình
Phạm Xuân Nguyên đã cung cấp tài liệu về nhà văn Hồ Vang.
Qua đây cho phép chúng tơi gửi lời cảm ơn chân thành tới quý thầy cô
giáo trong khoa Ngữ Văn đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ chúng tơi trong
q trình học tập và nghiên cứu đề tài. Chúng tôi cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ
của gia đình và bạn bè trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!

Nghệ An, tháng 9 năm 2012
Tác giả


QUY ƯỚC VIẾT TẮT
Trong khố luận này chúng tơi sử dụng một số kí hiệu viết tắt sau:
1. [32, tr. 201]: Tài liệu số 20, trang 201
2. Nxb: Nhà xuất bản


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………….. 1

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu……………………………………………........ 2
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát……………………………….. 8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………………....... 8
5. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………...... 9
6. Đóng góp của luận văn……………………………………………………. 9
7. Cấu trúc của luận văn…………………………………………………...... 9
CHƯƠNG 1: VỊ TRÍ CỦA TRUYỆN NGẮN HỒ VANG TRONG DỊNG
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM THỜI ĐỔI MỚI…………………………... 10
1.1. Cơ sở lịch sử - thẩm mỹ của sự đổi mới truyện ngắn Việt Nam sau năm
1986………………………………………………………………………… 10
1.2. Nhìn chung về truyện ngắn Việt Nam sau năm 1986 và xu hướng “viết lại
chuyện xưa” trong truyện ngắn thời kỳ này……………………………....... 14
1.2.1. Truyện ngắn Việt Nam sau 1986 – khái lược một số đặc điểm…....... 14
1.2.2. Xu hướng “viết lại chuyện xưa” trong truyện ngắn Việt Nam sau 1986
và ý nghĩa của nó…………………………………………………………… 19
1.3. Hồ Vang – một cây bút truyện ngắn đặc sắc trong văn học Việt Nam sau
1986………………………………………………………………………… 21
1.3.1. Hoà Vang – vài nét tiểu sử…………………………………………... 21
1.3.2. Các chặng đường sáng tác của Hoà Vang…………………………… 23
1.3.3. Quan niệm về nghệ thuật của Hoà Vang…………………………….. 25
1.3.4. Nhìn chung về cảm hứng nhại cổ tích trong truyện ngắn Hoà Vang... 26


CHƯƠNG 2: SỰ CHI PHỐI CỦA CẢM HỨNG NHẠI CỔ TÍCH TỚI
CÁCH NHÌN HIỆN THỰC VÀ CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN NGẮN
HỒ VANG………………………………………………………………... 33
2.1. Cảm hứng nhại cổ tích thể hiện qua cái nhìn hiện thực trong truyện ngắn
Hồ Vang…………………………………………………………………… 33
2.1.1. Cái nhìn hiện thực mang tính đa chiều………………………………. 34
2.1.2. Cái nhìn hiện thực mang tính giải thiêng……………………………. 47

2.1.3. Cái nhìn hiện thực mang tính triết luận……………………………….55
2.2. Sự chi phối của cảm hứng nhại cổ tích tới kiểu nhân vật trong truyện
ngắn Hoà Vang……………………………………………………………... 62
2.2.1. Khái niệm nhân vật…………………………………………………... 62
2.2.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Hoà Vang……………………...
64
2.2.3. Việc xây dựng nhân vật theo hướng “nhại cổ tích” trong truyện ngắn
Hồ Vang và ý nghĩa của nó………………………………………………...
74
CHƯƠNG 3: SỰ CHI PHỐI CỦA CẢM HỨNG NHẠI CỔ TÍCH TỚI
MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN HÌNH THỨC TRONG TRUYỆN NGẮN
HỒ VANG………………………………………………………………. 81
3.1. Nghệ thuật xây dựng tình huống……………………………………….82
3.1.1. Kiểu tình huống nhận thức………………………………………….. 82
3.1.2. Kiểu tình huống tâm lý……………………………………………… 85
3.1.3. Kiểu tình huống tượng trưng………………………………………... 87
3.2. Nghệ thuật sử dụng các mơ típ trong truyện cổ………………………. 89
3.2.1. Sử dụng mơ típ kì ảo………………………………………………... 89
3.2.2. Sử dụng mơ típ mở đầu “ngày xửa ngày xưa”……………………… 92
3.2.3. Sử dụng mơ típ kết thúc có hậu……………………………………... 94


3.3. Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn, ngơn ngữ trần thuật…………………... 97
3.3.1. Nét đặc sắc trong điểm nhìn trần thuật……………………………… 97
3.3.2. Nét đặc sắc trong ngôn ngữ trần thuật……………………………... 102
KẾT LUẬN………………………………………………………………. 113
CÁC BÀI VIẾT ĐÃ CÔNG BỐ…………………………………………. 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………... 116



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Sau năm 1975, đặc biệt là sau Đổi mới 1986, xã hội Việt Nam có
nhiều biến đổi. Nhu cầu đời sống vật chất càng tăng càng địi hỏi phải có một
sự thưởng ngoạn về tinh thần cân xứng. Vì thế, từ năm 1986 trở về sau, các
loại hình nghệ thuật trong xã hội ngày càng chiếm một vị trí quan trọng và
ngày càng hồn thiện hơn. Nói đến các loại hình nghệ thuật chúng ta không
thể không nhắc đến văn học. Và thể loại truyện ngắn với những ưu thế đặc
trưng của mình đã chiếm một vị trí quan trọng trong dịng chảy văn học Việt
Nam hiện đại. Truyện ngắn với ưu thế của nó, là “tính kịp thời, là khả năng
bàn bạc, tác động của truyện ngắn vào trạng thái tâm hồn, trạng thái tinh thần,
vào quan niệm nhân sinh đang diễn biến hàng ngày hàng giờ trong con người
và trong các phạm vi đời sống xã hội” [32, tr 201], rất phù hợp để phản ánh xã
hội Việt Nam sau 1986 với vô số những biến đổi và ngổn ngang, phức tạp, bề
bộn của nó. Cũng trong thời kỳ này đã xuất hiện khá nổi bật hàng loạt những
cây bút có ý thức cách tân như Nguyễn Minh Châu, Hồ Anh Thái, Tạ Duy
Anh, Phạm Thị Hồi, Nguyễn Huy Thiệp, Hịa Vang, …với nhiều xu hướng
đổi mới khác nhau. Đi liền với những xu hướng đó là những cảm hứng sáng
tạo phong phú và đa dạng.
1.2. Sự nở rộ của phong trào viết lại chuyện xưa đang là vấn đề rất
được nhiều người quan tâm kể cả tác giả lẫn độc giả. Phải nói rằng sau năm
1986, song đề truyền thống – hiện đại trong điểm nhìn nghệ thuật với các mô
thức tự sự dân gian xâm nhập và tái sinh xuất hiện rất nhiều trong văn xuôi,
đặc biệt là trong truyện ngắn. Trong số các tác giả được xem là ngọn cờ đầu
của văn học thời Đổi mới, Hòa Vang giữ một vị trí khơng kém phần quan
trọng. Qua các trang viết, Hòa Vang muốn cùng với độc giả mở rộng biên độ



2

cái nhìn về cuộc sống, về con người một cách đa chiều, đa diện với một lối
viết thể nghiệm “nhại cổ tích” rất thành cơng. Đây cũng chính là điều làm nên
một phong cách Hòa Vang rất hiện đại nhưng cũng rất dân gian, rất cổ tích.
1.3. Với việc chọn Cảm hứng nhại cổ tích trong truyện ngắn Hịa Vang
làm đối tượng nghiên cứu, chúng tơi muốn có một cái nhìn hệ thống và hồn
chỉnh hơn về những đóng góp của Hòa Vang ở lĩnh vực truyện ngắn cả trên
phương diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Đồng thời, qua đó góp một
phần tư liệu cho việc nghiên cứu, tìm hiểu truyện ngắn sau 1986 trong dịng
chảy của văn xuôi Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong tìm hiểu của chúng tơi, cho đến nay chưa có một cơng trình
nào nghiên cứu về sáng tác của nhà văn Hịa Vang một cách có hệ thống và
hồn chỉnh. Những đặc điểm sáng tác của ông mới chỉ được điểm qua trong
một số bài viết. Cụ thể như sau:
- Ám ảnh bụi người của tác giả Vân Đinh Hùng (2005).
- Sự hồi sinh của yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam của tác giả
Bùi Thanh Truyền (4/ 2006).
- Hòa Vang – một hồn văn cổ tích của tác giả Văn Giá (2006).
- Hịa Vang – “Hạt bụi người bay ngược” dòng đời của tác giả Nguyễn
Hoàng Đức (2006).
- Song đề truyền thống - hiện đại trong điểm nhìn nghệ thuật của truyện giả
cổ tích và truyện cũ viết lại thời đổi mới của tác giả Bùi Thanh Truyền (9/
2007).
- Về dòng ý thức “phản huyền thoại” trong truyện ngắn của Hòa Vang của
tác giả Võ Văn Luyến(7/2008).
- Một ngả rẽ thú vị của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 của tác giả Trần Viết
Thiện (2010).



3

- Chuyện xưa tích cũ trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại của tác giả Nguyến
Thị Minh Tâm (2/2011).
- Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam đương đại của tác giả Thái
Phan Vàng Anh (2011).
- Sự xâm nhập và tái sinh của một số mô thức tự sự dân gian trong văn xuôi
Việt Nam từ 1986 đến nay của tác giả Hoàng Cẩm Giang (3/2011).
Trong Ám ảnh bụi người trên tác giả Vân Đinh Hùng
khi đọc 21 câu chuyện trong tập Hạt bụi người bay ngược, đã nhận xét: “Hơi
văn trong Hạt bụi người bay ngược của nhà văn Hoà Vang để lại cho bạn đọc
cảm giác ngồn ngột sau khi gập cuốn sách lại. Có một thứ xuyên suốt chạy
dọc trong xương sống của văn phong là chất lính. Chất lính đậm sệt! Gợi, pha
chút điệu đàng nảy ra lúc thảng thốt. Những thói đời, bụi đời, được dẫn diệu
khuôn thước xuôn êm. Với giọng riêng dồn dập, con chữ túa ra nhịp đôi
phách ngắn, nhanh chóng kết dính mạch truyện và những thơng điệp cần
truyền tải. Đó là những thân phận được đẩy tới cùng của sự việc. Cảm giác
người kể chuyện như có sức rướn của một trung phong chạy cánh hay cố kiễng
chân lên một chút, cố cao hơn mình một chút để cống hiến cho bạn đọc” [22].
Sự hồi sinh của yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam ở
trang web . Tác giả Bùi Thanh Truyền đã nhấn mạnh:
“Hoà Vang, cây bút từng gây được sự chú ý của độc giả với những truyện
ngắn và tiểu thuyết có cách viết và những ý tưởng mới lạ, độc đáo như Nhân
Sứ, Sự tích những ngày đẹp trời, Hiện tượng HVEYA... thì quan niệm: "Tơi cho
rằng phản ánh cái cõi đời, cõi người này mà chỉ dùng cái công cụ hiện thực
thơi thì khơng đủ". Quan niệm này gián tiếp cắt nghĩa nguyên nhân của việc
xuất hiện với tần số cao những yếu tố kì ảo, huyền thoại trong nhiều tác phẩm
gây tiếng vang trong dư luận của anh” [59]. Đồng thời, những cái kì ảo trong
văn của ơng khơng hề xa lạ gì với độc giả Việt Nam. Bởi cái hồn cốt cổ tích



4

đã thấm đẫm trên từng trang văn, mạch thở của ơng. Hơn nữa, “những truyện
kì lạ, hoang đường này cịn được nâng cánh bởi cái nhìn thế giới phi nhị
nguyên của vũ trụ luận phương Đông với một niềm tin hồn nhiên là có sự
tương thơng, tương giao giữa người sống và người chết, giữa thế giới thực tồn
và thế giới siêu nhiên” [59]. Vì thế, cái “cơng cụ hiện thực” mà nhà văn Hồ
Vang đã từng nói khơng thể tỏ tường mọi nỗi mà cần phải có một cơng cụ
khác hữu hiệu hơn - đó là phải gia tăng yếu tố kì ảo, huyền thoại vào trong
sáng tác để có thể nhìn mọi sự một cách thấu tỏ và tinh tế hơn.
Trong Hòa Vang – một hồn văn cổ tích ở http:// evan.vnexpress.net/, Văn
Giá đã đánh giá cao những tác phẩm của Hịa Vang. Ơng cho rằng thành cơng
nhất của Hòa Vang là những truyện được “gợi tứ từ huyền thoại gốc, hoặc là
từ vốn văn hóa, văn học truyền thống”, nhờ “nhất qn trong một trường nhìn
cổ tích”. Vì thế, “nếu quá khứ là một văn bản tĩnh thì Hịa Vang đọc lại văn
bản ấy với một ngữ nghĩa mới, đem lại cho văn bản một hàm nghĩa sống
động, mới mẻ” [17], những giá trị nguồn cội tưởng như đã chuẩn mực thì nay
được đánh giá lại, được khai phóng phù hợp với tư duy của con người hiện
đại. Điều này cũng giải thích vì sao văn Hịa Vang ham triết lý và kén độc giả
đến như vậy.
Nguyễn Hồng Đức trong bài viết Hịa Vang – Hạt bụi người bay ngược
dòng đời nguồn đã khẳng định: Hòa Vang là một
trong số các tác giả mà tên tuổi gắn liền với làn sóng đổi mới nền văn học
nước nhà sau năm 1986. Là “một trong số rất ít cây bút đã đốt lên ngọn lửa
nội lực để bước ra khỏi văn học bao cấp mong trở thành một ngịi bút “phi
mậu dịch”. Hồng Đức rất có lí khi cho rằng: “Hòa Vang là một cây bút viết
văn trau chuốt, tỉ mỉ, cẩn thận đến mức kính cẩn, nhưng văn của ông lại
không lọ mọ, lẩm cẩm hay hủ nho mà nó tung tăng bay nhảy. Có thể ví, Hòa

Vang viết văn theo lối túy quyền, đừng tưởng chân nam đá chân chiêu, đầu


5

vai lảo đảo mà khơng chính xác, trái lại, cho dù đối phương đánh bất cứ chỗ
nào, thì các động tác né đòn nhẹ nhàng như cơn say vậy, và nó đánh trả chính
xác như đồng hồ đo nồng độ cồn.Văn của Hịa Vang là vậy, nó phóng khống,
tung tẩy như gã say, nhưng chính xác kỹ càng như máy nấu rượu, chuẩn mực
mọi thứ từ đầu vào, thủy lực, nén hơi, đến đồng hồ đo độ. Nhưng cịn hồn
hảo hơn, tất cả những điều đó được đặt trên hiện thực - một hiện thực dường
như mạnh hơn một trăm phần trăm” [13]. Và một nhân tình thế thái, trắng
đen, phải trái lẫn lộn, tiên phật với nhân trần lẫn lộn, khó phân biệt trong văn
của ơng.
Ở bài viết Song đề truyền thống - hiện đại trong điểm nhìn nghệ thuật của
truyện

giả

cổ

tích



truyện



viết


lại

thời

đổi

mới

trên

, tác giả Bùi Thanh Truyền đã khơng ngần ngại khi
cho rằng: Sự độc đáo trong điểm nhìn nghệ thuật đã giúp nhiều nhà văn làm mới
hố cổ tích để từ đó nêu bật lên những vấn đề vĩnh cửu về cái thiện và cái ác, về số
phận... đang dằn vặt con người hiện đại, giúp họ sống nhân hậu, hạnh phúc hơn,
trong số các tác giả đó phải kể đến nhà văn Hoà Vang . Nổi bật nhất trong hệ thống
nghệ thuật của ơng là “điểm nhìn”. Bởi điểm nhìn đã đem lại những nét độc đáo và
nổi bật trong truyện của ơng. Bởi “từ hiện tại, dịng hồi ức của các nhân vật Thuỷ
Tinh, Bụt, Sa Tăng... đưa dắt ta trở lại với quãng đời đã qua của họ: Cái ngày đầu tiên
biết Mị Nương, hội thi kén rể, trận thuỷ chiến kinh người, những chuyến công du trần
gian và những sai lầm ấu trĩ của Bụt, những sự kiện khó xố nhồ trong hành trình
Tây Trúc thỉnh kinh” [60].
Về dòng ý thức “phản huyền thoại” trong truyện ngắn của Hòa Vang từ
. Tác giả Võ Văn Luyến đã nhận định: Hịa
Vang khơng phải là hiện tượng độc nhất đi theo dòng ý thức "phản huyền
thoại" trong văn học. “Nhưng việc trình làng các truyện ngắn Sự tích ngày
đẹp trời, Bụt mệt, Áo độc của ơng đã gây "những cơn địa chấn tâm hồn" cho


6


độc giả, nhất là độc giả trong nhà trường, bởi dường như cảm luận lâu nay về
thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh, về truyện cổ tích Tấm Cám.v.v... ở phương
diện xây dựng nhân vật theo đặc điểm thể loại có khuynh hướng "đơn trị" về
mặt ý nghĩa” [33]. Tác giả cho rằng: sự tung tẩy của ngịi bút Hịa Vang
khơng nhắm đến cái cần "nhận thức lại” mà chúng tôi thiết nghĩ, ông muốn
cùng với độc giả mở rộng biên độ tầm nhìn về cuộc sống, về con người đa
diện, đa chiều, đa thanh.
Trong bài viết Một ngả rẽ thú vị của truyện ngắn Việt Nam sau 1986
nguồn từ tác giả Trần Viết Thiện cho rằng: “Hịa Vang
góp vào dòng truyện ngắn này những thiên huyền thoại mới đầy ấn tượng”
[52]. Nó như một thứ “ánh sáng lạ” (từ dùng của Nguyễn Thị Tuyết Nhung)
được phát ra qua các truyện ngắn: Bụt mệt, Nhân sứ, Sự tích những ngày đẹp
trời, Huyền thoại rồng... Yếu tố huyền thoại, giả cổ tích xuất hiện rất nhiều
trong các sáng tác của Hịa Vang, nó làm cho người đọc cảm thấy như đang
đối thoại với quá khứ, như được đi vào thế giới cổ tích đầy huyền bí.
Đến Chuyện xưa tích cũ trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại nguồn từ
Nguyễn Thị Minh Tâm cho rằng việc viết lại
“chuyện xưa tích cũ” đang nở rộ khác thường, là “một hiện tượng giàu ý
nghĩa”. Sử dụng cốt truyện cũ và bổ sung một số chi tiết nhằm làm cho truyện
“vừa mang màu sắc cổ xưa vừa mang màu sắc của cuộc sống đương đại với
sự bộn bề phức tạp đa dạng cũng như sự phong phú trong đời sống nội tâm
của con người” [47]. Ở lĩnh vực này, Hòa Vang đã rất thành cơng khi thể hiện
được cái nhìn mới mẻ về sự đánh giá những chuyện đã thuộc về lịch sử, về
những “nhân vật vốn “im lặng” trong truyện xưa”.
Ở bài viết Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam đương đại,
Thái Phan Vàng Anh đã khẳng định sự
thay đổi, sự lên ngôi của ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam



7

đương đại: “Nếu trước đây thật khó hình dung cách nói khơng có trật tự trên
dưới của những người tham gia giao tiếp, thì trong truyện ngắn đương đại,
kiểu nói “xấc xược” của lớp trẻ khơng cịn q lạ tai” [1]. Sự thay đổi quá
mạnh mẽ của ngôn ngữ trong truyện, với Đại hùng kê của nhà văn Hòa Vang
“là bằng chứng của một thứ ngôn ngữ giao tiếp đáng kinh hãi xuất hiện đậm
đặc trong truyện ngắn hôm nay” [1]. Việc sử dụng ngôn ngữ kiểu “phố
phường thời hiện đại”, Hịa Vang đã làm cho tác phẩm của mình gần gũi hơn
với đời sống đô thị trong thời đại mới.
Đi sâu vào các tác phẩm cụ thể của Hòa Vang, Hoàng Cẩm Giang trong Sự xâm
nhập và tái sinh của một số mô thức tự sự dân gian trong văn xuôi Việt Nam từ
1986 đến nay trên đã viết: “Trong Sự tích những
ngày đẹp trời, Hịa Vang đã “viết lại”, chính xác hơn là “viết tiếp” câu chuyện cổ Sơn
Tinh Thủy Tinh vốn dĩ rất quen thuộc với chúng ta. Thay vì nhìn Thủy Tinh bằng con
mắt “ác cảm” của tác giả dân gian (coi Thủy Tinh là kẻ bại trận xấu xa, là kẻ “ghen
cuồng, uất hận khôn nguôi”, là nguồn gốc của thiên tai lũ lụt), nhà văn đã đưa
người đọc vào tấn bi kịch của chàng Thủy Tinh si tình đáng thương và minh định lại
tấm chân tình của chàng. Thủy Tinh lúc này khơng còn là một hung thần gây bao bất
hạnh cho nhân gian để trả mối “thù tình” như trong truyện cổ, Thủy Tinh của Hịa
Vang chỉ là một người tình cơ đơn và suốt đời đau khổ vì tình yêu âm thầm cháy bỏng
nhưng tuyệt vọng của mình” [18]. Tương tự vậy, tác giả viết về các nhân vật trong
truyện ngắn Nhân sứ : “các nhân vật Phật Tổ Như Lai, Kim Thân La Hán…
không hiện lên như những pho tượng được viền quanh một vòng hào quang
rực rỡ …Nhà văn đã thổi một luồng sinh khí sống động vào những pho tượng
ngàn năm ấy, biến chúng thành những con người bằng xương bằng thịt của
đời thường, với những bí mật tâm tư thầm kín của người thường” [18].
Tóm lại, dù đã có những nhận xét, đánh giá xác đáng về giá trị, đóng góp
của truyện ngắn Hịa Vang nhưng phần lớn các bài viết của các tác giả đi



8

trước chưa có đi sâu tìm hiểu truyện ngắn của ông và nhất là vấn đề cảm hứng
“nhại cổ tích” một cách có hệ thống. Vì vậy, chúng tơi quyết định tiếp tục tìm
hiểu sâu hơn về đề tài Cảm hứng nhại cổ tích trong truyện ngắn Hồ Vang.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
3.1.Đối tượng nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tơi đi sâu tìm hiểu Cảm hứng nhại cổ tích
trong truyện ngắn Hịa Vang
3.2.Phạm vi khảo sát
Nghiên cứu Cảm hứng nhại cổ tích trong truyện ngắn Hịa Vang, chúng
tơi khảo sát qua các tập truyện ngắn sau:
Sự tích những ngày đẹp trời (1996)
Huyền thoại rồng (1998)
Hạt bụi người bay ngược (2005)
Ngồi ra, chúng tơi cịn tìm hiểu thêm hai tập tiểu thuyết Hiện tượng
HVEYA và Năm tháng và mẹ của tác giả này để so sánh, đối chiếu.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể là:
- Tìm hiểu vị trí của nhà văn Hịa Vang trong dịng chảy truyện ngắn
Việt Nam đương đại.
- Tìm hiểu sự chi phối của cảm hứng nhại cổ tích tới cách nhìn hiện thực
và con người trong truyện ngắn Hồ Vang
- Tìm hiểu sự chi phối của cảm hứng nhại cổ tích tới một số phương diện
hình thức trong truyện ngắn Hòa Vang.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp được sử dụng chủ yếu trong khóa luận này là:
Phương pháp phân tích – tổng hợp
Phương pháp so sánh – đối chiếu



9

Phương pháp thống kê – phân loại
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đã đem lại một cái nhìn tương đối sáng rõ và hệ thống về vấn
đề cảm hứng nhại cổ tích trong truyện ngắn Hịa Vang.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa
luận được triển khai thành ba chương:
Chương 1: Vị trí của truyện ngắn Hồ Vang trong dòng truyện ngắn Việt
Nam thời Đổi mới
Chương 2: Sự chi phối của cảm hứng nhại cổ tích tới cách nhìn hiện thực
và con người trong truyện ngắn Hồ Vang
Chương 3: Sự chi phối của cảm hứng nhại cổ tích tới một số phương diện
hình thức trong truyện ngắn Hoà Vang


10

CHƯƠNG 1
VỊ TRÍ CỦA TRUYỆN NGẮN HỊA VANG
TRONG DỊNG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM THỜI ĐỔI MỚI
1.1 Cơ sở lịch sử - thẩm mỹ của sự đổi mới truyện ngắn Việt Nam
sau năm 1986
Sau năm 1975, đất nước Việt Nam bước sang một trang sử mới: nước
nhà hoàn toàn độc lập, đời sống người dân được tự do về mọi mặt và có sự
thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực tinh thần. Tuy nhiên, đây cũng là thời kì mà
đất nước ta phải đối mặt trước rất nhiều khó khăn, thách thức mới, nhất là về

mặt kinh tế, xã hội. Đất nước ta phải đối diện với hậu quả chiến tranh tàn phá
nặng nề, cùng với điều đó là chiến tranh biên giới phía Bắc, sự bao vây, cấm
vận kinh tế đi cùng cơ chế quản lí quan liêu bao cấp kéo dài... đã đẩy nền kinh
tế nước ta rơi vào thời kì khủng hoảng trầm trọng. Lạm phát gia tăng, đời
sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Đứng trước tình thế đó, Đảng ta phải
chứng tỏ năng lực lãnh đạo của mình và điều đó được chứng minh bằng các
chặng đường đổi mới nền kinh tế bắt đầu từ Đại hội VI (12-1986). Chính
đường lối đổi mới này đã đưa nền kinh tế Việt Nam thoát ra khỏi khủng
hoảng, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng cường cơ sở vật chất và tạo
tiền đề cho giai đoạn phát triển mới cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước,
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Và ngày nay, Việt Nam đang từng
bước hội nhập, hợp tác, đầu tư kinh tế với các nước trên thế giới. Bên cạnh
nền kinh tế đạt được thì tình hình chính trị khá ổn định, bộ máy nhà nước
được tổ chức quy củ. Đặc biệt, sự giao lưu, hợp tác với các nước trên thế giới
ngày được chú trọng và đề cao. Đi liền với đó là văn hố tư tưởng cũng được
đổi mới và mở rộng thêm. Sự du nhập của các luồng văn hoá ngoại bang càng


11

làm giàu có thêm bản sắc văn hố Việt. Tuy nhiên, những con đường tiếp thu
và mức độ khác nhau nhưng khơng hề làm tan biến bản sắc văn hố của dân
tộc “hồ nhập nhưng khơng hồ tan” mà đã có những tiếp biến sáng tạo phù
hợp với tâm thức người Việt. Từ đó, chúng ta thấy đất nước Việt Nam đã có
những thay đổi to lớn vào những thập niên cuối của thế kỷ XX. Cuộc sống xã
hội không còn phẳng lặng như trước mà đã trở nên phức tạp, nhộn nhịp, gãy
khúc và gấp rút hơn. Và cuộc sống trong văn học cũng dần dần phức tạp, đa
dạng nhiều sắc vẻ như chính cuộc đời thực. Văn học đã xuất hiện những quan
niệm mới, những yếu tố mới, cùng những cách tân mới mẻ và đạt được thành

tựu nổi bật.
Đại hội VI của Đảng đã xác định đường lối đổi mới tồn diện cho đất
nước trong đó phải kể đến sự đổi mới ở lĩnh vực văn học nghệ thuật. Sự quan
tâm của Đảng và nhà nước về lĩnh vực văn nghệ không chỉ được thể hiện ở
Đại hội VI mà còn được biểu hiện qua Nghị quyết 05 về phê bình của Bộ
chính trị, cuộc gặp gỡ của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với gần 100 văn
nghệ sĩ trong hai ngày 06 và 07 tháng 10 năm 1987 tại thủ đô Hà Nội đã
tuyên bố “cởi trói”, “đổi mới tư duy”, với rất nhiều “việc cần làm ngay” cho
văn nghệ. Đây chính là tiếng chng phát lệnh cho sự “tự do” phóng tác, cho
phong trào đổi mới văn nghệ và cũng là điều kiện cho “cái tôi ẩn giấu” được
phát lộ sau một thời gian bị khuất lấp. Sự gặp gỡ này chính là cuộc đối thoại
về những tìm tịi, trăn trở sâu xa nhất về nghệ thuật, về những suy tư, quằn
quại trong nhịp thở của thời đại. Là điều kiện giúp các văn nghệ sĩ tự do bộc
bạch hết những chủ kiến của mình, nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh đã
khơng ngần ngại khi trực diện nêu lên quan điểm: “Vấn đề sinh tử của văn
nghệ là tự do. Văn nghệ cũng như con chim, trói nó lại thì nó khơng hót. Hoặc
nó hót vớ vẩn! Mà thả nó ra thì sợ bay mất! lãnh đạo giỏi thì phải làm sao cho
con chim văn nghệ bay bổng và hót vang trên bầu trời tự do của chúng ta” [3].


12

Còn nhà viết kịch Lưu Quang Vũ lại đặc biệt nhấn mạnh đến hậu quả nặng nề
của sự “bao cấp về tư tưởng”. Đáp lại những ý kiến của giới văn nghệ sĩ,
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã hoan nghênh, cổ vũ cho tinh thần thẳng thắn
nói ra quan điểm, nói ra sự thật dù là sự thật phũ phàng. Cuộc gặp gỡ được
xem như là một sự kiện lịch sử mở ra cho văn nghệ một con đường mới, một
luồng khơng khí tươi mát trong tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự
thật phù hợp với xu thế thời đại.
Từ sau chiến tranh, nền văn học có khuynh hướng vận động và biến

đổi theo xu hướng nhìn lại giai đoạn văn học trước đó, chỉ ra những giới hạn
của nó và manh nha hình thành hướng đi mới. Từ việc coi trọng sự kiện văn
học đã dần hướng ngòi bút đến con người. Nguyễn Minh Châu trong bài viết
Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ đã đề ra nhu cầu đổi
mới nền văn học Việt Nam với chủ trương “khuyến khích cá tính, khuyến
khích sáng tạo và chấp nhận đa dạng”. Nguyên Ngọc trong bài phát biểu Cần
phát huy đầy đủ chức năng xã hội của văn học nghệ thuật đã khẳng định sự
kiệng kỵ những cái “lạ” sẽ làm khô cằn mọi sự sáng tạo mà trước hết là sáng
tạo trong văn học nghệ thuật. Ông cho rằng văn nghệ luôn “la cà” trong đời
sống “và bao giờ nó cũng là cụ thể, cá biệt, nó nói nỗi đau cụ thể, cá biệt,
niềm vui cụ thể cá biệt, số phận cụ thể cá biệt…Nó sinh động như chính đời
sống. Nó là tiếng nói của chính đời sống. Cho nên nó có tính nhân dân, tính
dân chủ…Văn nghệ chính là sự khát khao mãi mãi vươn tới cái toàn thiện
tồn mĩ của con người, nó là sự “khơng bằng lòng” mãi mãi của con người
với thực tại” (3). Còn Lê Ngọc Trà trong bài viết Về vấn đề văn học phản ánh
hiện thực cho rằng: “Văn học chủ yếu không phải là ghi chép, mô tả hiện thực
mà là hành động tự nhận thức của nhà văn, nhờ đó tác phẩm nghệ thuật trở
thành mảnh đất ni dưỡng tình cảm con người, thành khu vườn nơi tâm hồn
con người đến đơm hoa kết trái như hình thức tồn tại và phát triển độc đáo


13

của đời sống tinh thần nhân loại…Văn học rất cần sự thật, nhưng sự thật trong
văn học không phải chỉ là sự thật của các tính cách và sự kiện được mơ tả mà
cịn là sự thật của cách nhìn, của thái độ, cách đánh giá của nhà văn đối với
những hiện tượng được phản ánh” [3].
Sau Đổi mới, nhiều giá trị trước đây vốn được xem là chân lý hiển
nhiên thì nay được xem xét lại, nhận thức lại với ý thức “nhìn thẳng sự thật,
nói rõ sự thật”. Cùng với đó, đường lối mở cửa trong thời kỳ hội nhập, kinh tế

thị trường tạo điều kiện cho sự giao lưu, sát nhập văn học nước nhà với nền
văn học thế giới. Đồng thời, cũng chính nền khi kinh tế thị trường, văn minh
công nghiệp đã mở ra lối sống thực dụng như một cơn lốc xoáy tràn vào từng
ngõ ngách của cuộc sống, làm đảo lộn mọi giá trị. Con người trở nên bơ vơ,
lạc lồi vì khơng kịp thích ứng với những biến đổi của thời đại. Và văn học đã
kịp thời bắt nhịp được những biến đổi đó để “nhìn con người trong những mối
quan hệ đời thường đa đoan và phức tạp, khám phá con người ở khía cạnh đời
tư bằng cặp mắt nhiều chiều và bằng cách viết đa thanh” [37]. Nhưng chính
trong bối cảnh xã hội được dân chủ hoá, đời sống văn học dần mang một sắc
diện mới từ cách đánh giá, nhìn nhận cho đến quan niệm, nghệ thuật thể hiện.
Sự đa dạng về thị hiếu của người đọc được coi trọng và thị trường văn học
được hình thành một cách rộng rãi nhưng cũng không tránh khỏi những khắc
nghiệt của quy luật thị trường hội nhập. Chính nhờ những điều kiện đó mà đời
sống văn học sau năm 1986 trên thực tế đã đầy đủ và sung mãn hơn và thốt
khỏi những khn mẫu vốn được xem là “khn vàng thước ngọc” bấy lâu
nay. Bắt đầu bước vào công cuộc đổi mới các nhà văn, nhà thơ đã có ý thức
hơn khi cố gắng tạo ra những sự khác biệt trong sáng tác nhằm khẳng định tư
duy nghệ thuật mới và thúc đẩy những hướng tìm tịi “mới”, “lạ” cho văn học
nước nhà. Trong một cái nhìn mang tính tổng quan, có thể thấy văn học Việt
Nam sau 1986 đã “phát triển mạnh mẽ khuynh hướng nhận thức lại hiện thực


14

với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản … khát vọng dân
chủ và tinh thần nhìn thẳng vào sự thật đã là những động lực tinh thần cho
văn học của thời kỳ đổi mới phát triển mạnh mẽ, sôi nổi. Sự đổi mới ý thức
nghệ thuật nằm ở chiều sâu của đời sống văn học, nó vừa là kết quả vừa là
động lực cho những tìm tòi đổi mới trong sáng tác” [32, tr 11-12]. Tuy nhiên,
vấn đề đổi mới của văn học không phải đến năm 86 mới bắt đầu đổi mới mà

nó đã được manh nha, hình thành từ những giai đoạn trước. Đến năm 1986,
nó mới hội tụ được những điều kiện cần và đủ để bứt phá, chuyển mình làm
một cuộc cách mạng trong nền văn học Việt Nam đương đại.
Có thể nói, từ sau 1986, gắn liền với những thay đổi trên nhiều
phương diện xã hội, văn học Việt Nam cũng bước vào một thời kì đổi mới
tích cực và mạnh mẽ. Cũng từ đây, văn học dường như hướng vào sự tự nhận
thức lại và chú ý hơn về những cách tân cả về mặt nội dung lẫn hình thức
nghệ thuật nhằm đưa văn học lên một tầm cao mới cân xứng với nền văn học
thế giới. Sự đổi mới trong văn học được bắt đầu bằng sự đổi mới trong tư duy.
Chính sự đổi mới tư duy nghệ thuật đã thúc đẩy những sự sáng tạo, tìm tịi,
thể nghiệm về cách tiếp cận hiện thực, các thủ pháp và các tính sáng tạo của
nhà văn. Đồng thời, đó cịn là nguyên nhân làm thay đổi chức năng của văn
học, thay đổi cách tiếp cận, mối quan hệ giữa văn học với hiện thực, nhà văn
với công chúng độc giả.
1.2. Nhìn chung về truyện ngắn Việt Nam sau 1986 và xu hướng
“viết lại chuyện xưa” trong truyện ngắn thời kì này
1.2.1. Truyện ngắn Việt Nam sau 1986 – khái lược một số đặc điểm
Như đã phân tích ở trên, năm 1986 là dấu mốc quan trọng trong đời
sống xã hội nói chung và đời sống văn học nghệ thuật nói riêng. Đây là thời
điểm ghi nhận sự đổi mới tư duy trên các lĩnh vực, trong đó có văn học nghệ
thuật. Khơng khí cởi mở, dân chủ của đời sống văn học tác động mạnh mẽ


15

đến chủ thể sáng tạo với quan niệm mới về nhà văn, quan niệm nghệ thuật về
hiện thực và con người, đến sự thay đổi thi pháp thể loại của các thế hệ nhà
văn Việt Nam. Từ lớp nhà văn tiền chiến đến những cây bút hậu sinh, từ sáng
tác của các cây bút trong nước đến các cây bút ở hải ngoại…, tất cả tạo nên
một bức tranh văn học đa sắc màu không chỉ về đề tài, mở rộng biên độ sáng

tạo mà còn là sự đa dạng trong bút pháp, giọng điệu và nghệ thuật ngôn từ.
Quá trình đổi mới văn học ở Việt Nam diễn ra hết sức sôi nổi,
mạnh mẽ và đa dạng trên các thể loại: văn xi, thơ, kịch, phóng sự, lý luận
phê bình, văn học dịch,… và đạt được nhiều thành tựu ở văn xuôi, đặc biệt là
truyện ngắn. Sự khởi sắc của truyện ngắn đã để lại những dấu ấn đậm nét
trong nền văn học. Tiếp bước thế hệ cầm bút dạn dày trong thời chiến như
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Đỗ Chu, Lê Minh Khuê…
là một thế hệ đông đảo những tác giả thời hậu chiến với nội lực mạnh mẽ như
Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Quang Lập, Hồ Vang, Nguyễn
Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Võ Thị Hảo, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn
Thị Thu Huệ, Hồ Anh Thái, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ
Hoàng Diệu ,… Các tác giả ấy, nói như nhà nghiên cứu Bích Thu, “đã đem lại
phẩm chất nghệ thuật đích thực và những hiệu ứng thẩm mỹ cho thể loại tự sự
cỡ nhỏ, tạo lực hấp dẫn, thu hút công chúng trở lại với văn hoá đọc” [50]
Văn học giai đoạn 1945 – 1975, nhằm mục đích phục vụ Cách
mạng, đấu tranh vì nền độc lập tự do nước nhà, văn học tạm thời đặt những
mục tiêu nghệ thuật của mình sang một bên để gánh lấy sứ mệnh lịch sử dân
tộc. Nhưng khi chiến tranh kết thúc, văn học phải trở về với những quy luật
vận động vốn có của nó. Có thể thấy, văn học Việt Nam thời đổi mới đã có sự
vận động, phát triển theo hướng dân chủ, bứt phá và hội nhập. Nó thể hiện ở
sự đa dạng chưa từng thấy của các quan niệm nghệ thuật, ý thức nghệ thuật;
sự thế chỗ của “cái nhìn sử thi” bằng “cái nhìn tiểu thuyết”; sự phong phú của


16

các loại hình cảm quan đời sống của nhà văn; tinh thần phê phán, phản tỉnh,
tự ý thức của mỗi cá nhân; tính phi chủ lưu của các khuynh hướng văn học; sự
đa dạng của các tìm tịi thử nghiệm; sự bùng nổ của các kiểu kết cấu văn bản
mới; sự đa dạng về giọng điệu, ngôn ngữ, bút pháp, phong cách” [50].

Trong văn học Cách mạng, thể tài lịch sử - dân tộc chiếm vị trí chủ
đạo, quyết định toàn bộ diện mạo đề tài, hệ thống thể loại của truyện ngắn. Do
đó, truyện ngắn ở thời kỳ này đã trở thành bức tranh hoành tráng về lịch sử
dân tộc. Trong truyện ngắn ở thời kỳ này, đề tài đời tư và đề tài thế sự giữ
một vị trí thứ yếu khơng đáng kể. Nói chính xác hơn, đề tài đời tư và đề tài
nhân sinh thế sự không phải hồn tồn vắng bóng trong những giai đoạn này
mà những chuyện đời tư, thế sự như vậy thường trở thành một yếu tố chức
năng của thể tài lịch sử dân tộc, bị chi phối và phối thuộc vào đề tài này. Vì
thế, nó ít phát triển hơn. Khác với giai đoạn trước, giai đoạn sau Đổi mới, đề
tài đời tư và đề tài đạo đức - thế sự phát triển mạnh mẽ, và dần dần trở thành
đề tài chính yếu của truyện ngắn thời đổi mới. Phát triển đề tài về thế sự đời
tư, truyện ngắn có khả năng đi sâu vào mọi ngõ ngách sâu kín trong tâm hồn
con người, suy nghĩ cặn kẽ về các trạng thái nhân thế, nhất là trong hoàn cảnh
một xã hội từ trong chiến tranh ba mươi năm bước sang đời sống hịa bình
đầy phức tạp, thử thách rồi đến thời kỳ đổi mới, giao lưu, mở cửa, thông
thương và hội nhập, thời kỳ “quốc tế hố”. Con người bình thường, con người
đời thường được miêu tả sâu sắc, đào xới, lật trở từng lớp một. Từ đó, làm
xuất hiện khuynh hướng nhận thức lại một thời. Với cách nhìn đó hiện thực
được đào sâu hơn, và cái quan trọng là mang đến trong truyện ngắn tính phân
tích, tính triết luận đầy sắc bén, nhanh nhạy và rất đáng quan tâm. Đây là điều
mà văn học trước đây chưa làm được. Truyện ngắn đương đại hướng cái nhìn
về con người cá nhân, con người của những số phận riêng tư trong mối quan
hệ nhiều chiều của đời sống xã hội, của thực tại đầy rẫy những biến động.


17

Nhờ đó “các nhân vật tồn tại như một nhân cách, chứ khơng cịn là một ý
niệm” [46]. Con người trong truyện ngắn sau 1986 được khai thác trên nhiều
bình diện và đặc biệt xoáy sâu vào những bi kịch, những đổ vỡ, mất mát trong

cuộc sống đời thường.
Không chỉ dừng lại phản ánh ở hiện thực khách quan mà các nhà văn cịn
hướng ngịi bút của mình đến khai thác địa hạt của cái kỳ ảo, cái tâm linh một hình thức đắc dụng giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới tinh thần hết
sức trừu tượng khó nắm bắt của con người. Nó như là một trong hai mặt của
cuộc sống con người hiện đại với bao điều đang cần được lí giải. Có thể nói, ở
thể tài này, các nhà văn đã đáp ứng được những băn khoăn, trăn trở, uẩn khúc,
hoài nghi, chất vấn của con người hiện đại. Là “những diễn biến tâm linh rất
khó nắm bắt, những hiện tượng con người khơng tự lý giải được bằng hình
thức suy lý một thời” [20]. Vì thế, truyện ngắn sau năm 1986 ở thể tài này
được bao bọc trong một lớp “sương mù huyền thoại” với “tính chất là những
biểu tượng có ý nghĩa sâu thẳm, vĩnh cửu; huyền thoại dân tộc đã trở về để
chiếu sáng cho bao nhiêu vấn đề của cuộc sống thực tại” [52]. Nổi bật ở loại
này phải kể đến các tác phẩm của các tác giả: Con gái thuỷ thần, Chút thống
Xn Hương, Trương Chi, Những ngọn gió Hua Tát (Nguyễn Huy Thiệp);
Châu Long, Ngày xưa cơ Tấm, Gióng, An Dương Vương (Lê Minh Hà); Bài
Haiku, Lầu Hạc vàng, Cây đàn Long Môn (Lê Đạt); Người thắng trận,
“Truyền thuyết viết lại (Tạ Duy Anh); Hành trang của người đàn bà Âu Lạc
(Võ Thị Hảo); Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (Y Ban), Hồ Anh Thái,….Có thể nói
truyện ngắn sau 1986 đã phần nào đáp ứng được nhu cầu phân tích, lý giải về
những suy tư, trăn trở, ngờ vực của con người và xã hội trong một thời đại
đầy biến động, đổi thay. Đấy là một bước đổi mới có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng của truyện ngắn phù hợp với yêu cầu của hiện thực, của đối tượng phản
ánh.


×