ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG LÀO CAI
BÀI GIẢNG
MÔN HỌC: PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
NGÀNH: DỊCH VỤ PHÁP LÝ
(Áp dụng cho trình độ Trung cấp)
LƯU HÀNH NỘI BỘ
Năm 2017
1
Lời nói đầu
Đảng và pháp luật của Nhà nước đã đề cập đến công tác PBGDPL. Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII
của Đảng đã khẳng định: ''Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật; huy động lực
lượng của các đồn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia các
đợt vận động thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc theo
pháp luật trong cơ quan nhà nước và trong xã hội''. Nghị quyết số 08–NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới chỉ rõ cần: “Đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là
thông qua các phiên toà xét xử lưu động và bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý
thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân”. Hiến pháp năm 1992 giao Chính phủ nhiệm vụ: “tổ chức và lãnh
đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân”. Nhiều văn bản pháp luật của
Thủ tướng Chính phủ đã đề cập đến việc tăng cường công tác PBGDPL như: Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg
ngày 07/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường cơng tác PBGDPL trong giai đoạn hiện nay,
Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch triển khai công tác PBGDPL từ năm 1998 đến
năm 2002 và thành lập Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL…Đặc biệt, Chỉ thị số 32-CT/TW ngày
09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác
PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân (Chỉ thị số 32-CT/TW) đã khẳng
định: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ
của tồn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động phổ biến- giáo dục pháp luật, tác giả đã dày công
nghiên cứu và biên soạn Tập bài giảng Phổ biến- giáo dục pháp luật trên cơ sở các văn bản pháp luật
hiện hành quy định về phổ biến pháp luật. Tập bài giảng sẽ cung cấp những kiến thức cơ bản về các hình
thức phổ biến pháp luật; nội dung cần phổ biến giáo dục pháp luật…, thơng qua đó đáp ứng được các yêu
cầu thiết yếu của cá nhân, tổ chức trong việc biết và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Đây sẽ là
tài liệu quan trọng để học sinh, sinh viên chuyên ngành pháp luật rèn các kỹ năng nghề nghiệp về hoạt
động công chứng và chứng thực.
Khoa Pháp lý – Trường Cao đẳng Cộng đồng Lào Cai xin trân trọng giới thiệu tập bài giảng Phổ
biến- giáo dục pháp luật, rất mong nhận được sự góp ý phê bình của bạn đọc để tài liệu này ngày càng
được hoàn thiện hơn.
Tác giả
Đặng Thị Thanh Bình- Giảng viên Khoa Pháp lý
2
TẬP BÀI GIẢNG
MÔN HỌC PHỔ BIẾN- GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
Mục tiêu môn học
- Về kiến thức: Người học nêu được các hình thức phổ biến- giáo dục pháp luật, những nội
dung phổ biến pháp luật phù hợp với từng đối tượng được phổ biến, trình bày được các bước xây
dựng đề cương phổ biến pháp luật.
- Về kỹ năng: Người học chuẩn bị và tiến hành được buổi phổ biến pháp luật.
- Về năng lực tự chủ và trách nhiệm:
+ Rèn luyện cho người học tư duy và cách làm việc đúng quy định pháp luật về hoạt động
phổ biến- giáo dục pháp luật.
+ Rèn tính cẩn trọng trong các hoạt động nghiệp vụ.
+ Có tinh thần làm việc nghiêm túc, khoa học, trách nhiệm với công việc được giao và có thể
làm việc độc lập hoặc cần hợp tác, phối hợp với người khác trong tập thể.
Chương 1
NHỮNG VÂN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1. Khái niệm
- Phổ biến, giáo dục pháp luật là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức,
tình cảm niềm tin pháp luật cho đối tượng, giúp nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật cho đối tượng đó.
2. Vị trí, vai trị của cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật
- Phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật:
Pháp luật chỉ có thể trở thành cơng cụ có tác dụng điều chỉnh những hành vi đúng đắn khi sự cần
thiết của nó đối với xã hội được ghi nhận, khi mà nghĩa vụ chấp hành các quy định của pháp luật
thực sự trở thành nhu cầu chấp hành một cách tự nguyện và có ý thức của bản thân mỗi người.
- Giáo dục ý thức pháp luật và đạo đức: Pháp luật là chỗ dựa và cơ sở của việc hình thành đạo
đức mới. Các nguyên tắc căn bản của đạo đức mới được thể chế hóa thành các quy phạm pháp
luật.
3
- Phổ biến giáo dục pháp luật tạo ra sự quan tâm đối với pháp luật: từ chỗ không để ý đến sự tồn
tại của pháp luật, đối tượng được phổ biến giáo dục pháp luật bắt đầu dành sự quan tâm của mình
đối với pháp luật, đồng thời sự hiểu biết về pháp luật ngày càng được nâng cao.
- Phổ biến giáo dục pháp luật tạo ra khả năng thiết lập trong đời sống thực tiễn hàng ngày những
nguyên tắc của đạo đức, củng cố những nghĩa vụ của đạo đức, thiết lập lập trường không dung
thứ với các biểu hiện chống đối xã hội.
II. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU CỦA CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1. Mục đích
- Nâng cao hiểu biết pháp luật cho đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật: Phổ biến giáo
dục pháp luật là phương tiện truyền tải những thông tin, những yêu cầu, nội dung và các quy
định pháp luật đến với người dân, giúp cho người dân hiểu biết, nắm bắt pháp luật kịp thời mà
không mất quá nhiều thời gian, cơng sức cho việc tự tìm hiểu, tự học tập.
- Tạo niềm tin vào pháp luật cho đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật: Pháp luật được
xây dựng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đảm bảo lợi ích chung của cộng
đồng, đảm bảo công bằng và dân chủ xã hội.
- Nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân: Ý thức chấp hành pháp luật của
người dân được hình thành từ hai yếu tố: tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật.
2. Yêu cầu
2.1. Yêu cầu chung đối với việc phổ biến, giáo dục pháp luật
- Đề cao tính Đảng trong phổ biến, giáo dục pháp luật: Muốn đề cao tính Đảng trong phổ biến,
giáo dục pháp luật thì phải hiểu biết, quán triệt đầy đủ đường lối chính sách của Đảng đối với
từng thời kỳ, từng vấn đề và đường lối chung xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội. Pháp luật và
đường lối chính sách của Đảng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Pháp luật bao giờ cũng là sự
thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng.
- Bảo đảm tính khoa học, tính chuẩn xác, truyền đạt trung thành văn bản: Tính khoa học trong
giải thích pháp luật trước hết địi hỏi có trình độ pháp lý.
- Đảm bảo tính đại chúng: phù hợp với đối tượng tuyên truyền, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ áp dụng: Đối
tượng được phổ biến giáo dục pháp luật rất đa dạng và phong phú về giới tính, trình độ nhận
thức, lứa tuổi, dân tộc….
- Lựa chọn hình thức phù hợp: Trong rất nhiều hình thức phổ biến giáo dục pháp luật, cán bộ
tuyên truyền cần lựa chọn hình thức phù hợp với đối tượng được tuyên truyền, hoặc kết hợp đan
xen các hình thức.
2.2. Yêu cầu đối với người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
- Có kiến thức pháp lý nhất định.
- Nhiệt tình, tâm huyết, tận tụy với cơng tác phổ biến giáo dục pháp luật.
- Có khả năng nói và viết.
- Có khả năng hịa đồng và giao tiếp.
- Có kiến thức nhất định về tâm lý học tuyên truyền.
- Tùy từng vị trí cơng tác, địa bàn hoạt động, cần có những hiểu biết xã hội, phong tục tập quán
của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền nhất định.
III. CÁC HÌNH THỨC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ TIÊU CHÍ LỰA CHỌN
1. Các hình thức phổ biến giáo dục pháp luật
4
1.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp (Tuyên truyền miệng về pháp luật)
Đặc trưng chính là dùng lời lẽ trực tiếp truyền đạt nội dung pháp luật cho người nghe.
1.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật trên các loại hình báo chí và qua mạng lưới truyền thanh
cơ sở
Đặc trưng chính là sử dụng báo nói, báo viết, báo hình để truyền bá nội dung cần phổ
biến.
1.3. Biên soạn và phát hành các loại tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật
Đặc trưng chính là dùng các ấn phẩm để truyền bá nội dung cần phổ biến.
1.4. Giáo dục pháp luật trong nhà trường
Đặc trưng chính là truyền đạt nội dung pháp luật thông qua các phương pháp sư phạm.
1.5. Tổ chức các hình thức thi tìm hiểu pháp luật
Đặc trưng chính là vận động khuyến khích đối tượng tìm hiểu pháp luật thơng qua thi thố
tài năng.
1.6. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua sinh hoạt của các câu lạc bộ pháp luật
Đặc trưng chính là: Đối tượng của phổ biến giáo dục pháp luật đồng thời cũng chính là
chủ thể của phổ biến giáo dục pháp luật, ở đó mỗi thành viên phát huy tính nhận thức tích cực
của mình trao đổi, tranh luận... để mở rộng kiến thức pháp luật của mình.
1.7. Xây dựng, quản lý và khai thác tủ sách pháp luật
Đặc trưng chính là trực tiếp cung cấp tài liệu, thơng tin pháp luật cho đối tượng.
1.8. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật và trơ giúp pháp lý
Đặc trưng chính là thơng qua việc cung cấp dịch vụ pháp lý, giải đáp pháp luật,
hướng dẫn thân chủ ứng xử đúng pháp luật để thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
thân chủ mà nâng cao hiểu biết pháp luật cho họ.
1.9. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hịa giải ở cơ sở
Đặc trưng chính là thơng qua việc giới thiệu văn bản phân tích, hướng dẫn để các bên
tranh chấp hiểu văn bản, tự đối chiếu với hành vi của mình và hành vi của phía bên kia để thấy rõ
cái đúng, cái sai của cả hai bên, giúp các bên nhận thức pháp luật sâu sắc hơn.
1.10. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các loại hình văn hố, văn nghệ đặc biệt là các
loại hình sinh hoạt văn hố truyền thống
Đặc trưng chính là khai thác nghệ thuật biểu đạt của một loại hình văn hoá, văn nghệ để đưa pháp luật tới nhân dân.
2. Các tiêu chí lựa chọn hình thức phổ biến giáo dục pháp luật
2.1. Tính phù hợp với đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật.
Sự hiểu biết và nhận thức của các tầng lớp nhân dân về văn hoá và pháp luật trong xã hội là
hết sức đa dạng và khác nhau, do đó khi phổ biến, giáo dục pháp luật phải xuất phát từ các yêu
cầu sau:
- Xuất phát từ yêu cầu phổ biến của chính những văn bản cần phổ biến đến nhóm dân cư nhất
định;
- Xuất phát từ trình độ văn hố và nhận thức của đối tượng được phổ biến;
- Xuất phát từ điều kiện kinh tế, địa lý và hoàn cảnh thực tế khác để quyết định một hình thức
phổ biến như tuyên truyền miệng, truyền thanh cơ sở, xây dựng tủ sách pháp luật hay kết hợp các
5
hình thức với nhau;
- Xuất phát từ thực lực đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên.
2.2. Tính khả thi của địa bàn thực hiện
Tính khả thi của địa bàn thực hiện trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được dựa trên
những tiêu chí sau:
- Sử dụng hình thức đó, có thể huy động phương tiện, sách báo, tài liệu tham khảo và đặc biệt là
lực lượng tiến hành tun truyền.
- Sử dụng hình thức đó, có thể tiến hành ở đâu, bao nhiêu lần.
- Điều kiện địa lý, kinh tế, kỹ thuật trong địa bàn cho phép áp dụng hình thức đó.
2.3. Tính hiệu quả của hình thức được chọn đối với đối tượng
Tính hiệu quả, diện bao quát của phổ biến, giáo dục pháp luật được thể hiện ở một số tiêu chí
sau:
- Số lượt người được phổ biến về văn bản pháp luật hoặc một vấn đề pháp luật.
- Tác động của những vấn đề pháp luật được phổ biến, tuyên truyền trong việc thực hiện pháp
luật và thực hiện các chính sách của Nhà nước ở địa phương và cơ quan.
- Sau khi phổ biến, giáo dục pháp luật, những biểu hiện tiêu cực về khiếu nại, tố cáo, mâu thuẫn
tranh chấp trong các quan hệ được giảm đi.
- Những biểu hiện tích cực về người tốt, việc tốt ở những địa bàn được tuyên dương, các phong
trào về an ninh trật tự, nếp sống văn minh, gia đình văn hố có chiều hướng phát triển tốt.
- Thông qua công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhân dân tại khu vực quan tâm hơn tới việc
tìm hiểu pháp luật, đọc báo, nghe đài...
Chương 2
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRỰC TIẾP
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRỰC TIẾP
1. Khái niệm, vị trí, vai trị của tun truyền miệng trong phổ biến, giáo dục pháp luật
1.1. Khái niệm
Tuyên truyền miệng về pháp luật là một hình thức tuyên truyền mà người nói trực tiếp nói
với người nghe về lĩnh vực pháp luật trong đó chủ yếu là phổ biến, giới thiệu các quy định pháp
luật nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho người nghe, hướng cho người nghe hành động theo
các chuẩn mực pháp luật.
1.2. Vị trí và vai trị
Tun truyền miệng pháp luật có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhiều hình thức tun
truyền khác; lồng ghép với các hình thức tuyên truyền khác và là một bộ phận quan trọng trong
tổng thể các hình thức tun truyền pháp luật. Điều đó được thể hiện như sau:
- Tuyên truyền miệng là một công đoạn khơng thể thiếu trong phần lớn các hình thức tun truyền
pháp luật. Ví dụ: Tun truyền pháp luật thơng qua cơng tác hịa giải ở cơ sở thì hịa giải viên vẫn
phải trực tiếp nói cho người được hịa giải về các nội dung pháp luật có liên quan.
6
- Tuyên truyền miệng pháp luật là hình thức chủ yếu được thực hiện thông qua hội nghị, hội thảo,
tập huấn, sinh hoạt câu lạc bộ pháp luật; là biện pháp chủ yếu của phổ biến, giáo dục pháp luật
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo nói, báo hình, qua mạng lưới truyền thanh
cơ sở.
- Trong việc thực hiện tuyên truyền miệng pháp luật, báo cáo viên phải sử dụng lồng ghép với các
hình thức tuyên truyền pháp luật khác.
- Tuyên truyền miệng là hình thức tuyên truyền linh hoạt, có nhiều ưu thế, có thể tiến hành ở bất cứ
nơi nào, trong bất kỳ điều kiện, hồn cảnh nào với số lượng người nghe khơng hạn chế.
2. Quy mô và đối tượng của tuyên truyền miệng pháp luật
- Quy mô của tuyên truyền miệng pháp luật rất đa dạng. Có thể tổ chức dưới dạng hội nghị, lớp tập
huấn, các buổi nói chuyện chuyên đề thu hút nhiều người nghe hoặc có thể tổ chức dưới hình thức
tun truyền miệng cá biệt chỉ có một hoặc vài ba người.
- Đối tượng của tuyên truyền miệng rất phong phú cho đủ mọi thành phần: cán bộ, trí thức, cơng
nhân, nơng dân, doanh nhân, phụ nữ, người cao tuổi, thanh thiếu niên...Như vậy, đối tượng của
tuyên truyền miệng là bất cứ người nào trong xã hội đang cần được tuyên truyền, phổ biến pháp
luật.
II. KỸ NĂNG TUYÊN TRUYỀN MIỆNG VỀ PHÁP LUẬT
1. Gây thiện cảm ban đầu cho người nghe
Việc gây thiện cảm ban đầu cho người nghe rất quan trọng. Thiện cảm ban đầu thể hiện ở nhân
thân, tâm thế và biểu hiện của người nói khi bước lên bục tuyên truyền. Danh tiếng, phẩm chất đạo
đức, học hàm, học vị, chức vụ của người nói là nguồn thiện cảm ban đầu cho người nghe; kích
thích người nghe háo hức chờ đón buổi tuyên truyền. Thiện cảm ban đầu tạo ra sự hứng thú, say
mê của người nghe, củng cố được niềm tin về vấn đề đang tuyên truyền. Thiện cảm ban đầu còn
được tạo ra bởi khung cảnh của hội trường, khung cảnh của diễn đàn, dáng vẻ bề ngoài, y phục,
nét mặt, cử chỉ, phong thái, lời giao tiếp ban đầu.
2. Tạo sự hấp dẫn, gây ấn tượng trong khi nói
Nghệ thuật tuyên truyền là tạo nên sự hấp dẫn, gây ấn tượng bằng giọng nói, điệu bộ, ngơn
ngữ. Giọng nói phải rõ ràng, mạch lạc nhưng truyền cảm. Hết sức tránh lối nói đều đều. Giọng
nói, âm lượng phải thay đổi theo nội dung và nhấn mạnh vào những điểm quan trọng, cần phải chú
ý. Động tác, cử chỉ cần phải phù hợp với nội dung và giọng nói để nâng cao hiệu quả tuyên truyền
của lời nói. Sắc thái có tác dụng truyền cảm rất lớn. Vẻ mặt của người nói cần thay đổi theo diễn
biến của nội dung. Khi nói, cần chú ý nhìn vào một nhóm người ngồi dưới, thỉnh thoảng người nói
cần thay đổi vị trí nhìn để tạo sự chú ý của cử tọa. Người nói cần đưa ra số liệu, sự kiện để minh
hoạ, đặt câu hỏi để tăng thêm sự chú ý của người nghe.
3. Bảo đảm các nguyên tắc sư phạm trong tuyên truyền miệng
Người nói cần tơn trọng các ngun tắc sư phạm. Từ bố cục bài nói, diễn đạt các đoạn văn, liên
kết giữa các đoạn văn đến cách nói đều phải rõ ràng, mạch lạc, lôgic. Người nghe cần được dẫn dắt
từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ gần đến xa (phương pháp suy diễn) hoặc từ xa đến gần
(phương pháp quy nạp) và tuỳ từng vấn đề mà dùng lý luận soi sáng cho thực tiễn hoặc từ thực tiễn
mà đi sâu vào lý luận.
4. Sử dụng phương pháp thuyết phục trong tuyên truyền miệng
Tuyên truyền miệng về pháp luật chủ yếu dùng phương pháp thuyết phục với ba bộ phận cấu
thành là chứng minh, giải thích và phân tích.
7
- Chứng minh là cách thuyết phục chủ yếu dựa vào các dẫn chứng xác thực, khách quan để làm
sáng tỏ và xác nhận tính đúng đắn của vấn đề. Các dẫn chứng đưa ra gồm số liệu, sự kiện, hiện
tượng, nhân chứng, danh ngơn, kinh điển. Để có sức thuyết phục, các dẫn chứng được đưa ra phải
chính xác, tiêu biểu, toàn diện và sát hợp với vấn đề nêu ra.
- Giải thích là việc dùng lý lẽ để giảng giải giúp người nghe hiểu rõ và hiểu đúng vấn đề. Lập
luận trong khi giải thích phải chặt chẽ, chính xác, mạch lạc, khúc triết, khơng ngụy biện.
- Phân tích là diễn giải, đánh giá vấn đề nhằm tìm được đặc điểm, bản chất, điểm mạnh, điểm
yếu, điểm tốt, điểm xấu, sự phù hợp, không phù hợp... của vấn đề. Việc phân tích phải dựa trên cơ
sở khoa học, không được cường điệu mặt này hay hạ thấp mặt kia. Sau khi phân tích phải có kết
luận, đánh giá, hướng người nghe vào định hướng tư duy đúng đắn, khơng làm cho người nghe
hồi nghi, dao động, hoang mang.
5. Các bước tiến hành một buổi tuyên truyền miệng về pháp luật
5.1. Bước chuẩn bị: gồm 5 nội dung chính sau đây
- Nắm vững đối tượng truyên truyền: Báo cáo viên cần nắm vững đối tượng tuyên truyền qua
các yếu tố về số lượng; thành phần (trí thức, cơng nhân, nông dân, học sinh, thanh niên, phụ nữ,
thiếu nhi, phụ lão...); trình độ văn hố; tình hình thực hiện pháp luật ở cơ sở; ý thức thực hiện pháp
luật và nhu cầu tìm hiểu pháp luật của đối tượng.
Báo cáo viên có thể nắm vững đối tượng bằng phương pháp trực tiếp (tự điều tra, tìm hiểu, gặp
gỡ, quan sát...) hoặc bằng phương pháp gián tiếp (qua tài liệu, sách báo, báo cáo tổng kết, trao đổi
với người tổ chức buổi tuyên truyền...).
- Nắm vững vấn đề liên quan đến lĩnh vực mà văn bản điều chỉnh: Đó là các vấn đề về kỹ thuật
nghiệp vụ chuyên ngành, đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước trong lĩnh vực đó, các tài
liệu lý luận, giáo khoa, các tài liệu của nước ngồi trong lĩnh vực đó. Để nắm vững vấn đề liên
quan đến lĩnh vực mà văn bản điều chỉnh địi hỏi báo cáo viên ngồi trình độ chun mơn tốt cần
phải có q trình tích lũy, sưu tầm với một ý thức trách nhiệm và lòng say mê với nghề nghiệp.
- Nắm vững nội dung văn bản, cụ thể là hiểu rõ bản chất pháp lý của vấn đề được văn bản điều
chỉnh, sự cần thiết phải ban hành văn bản; hiểu rõ đối tượng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh của
văn bản; hiểu rõ ý nghĩa của các quy phạm, đặc biệt là ý nghĩa về mặt quản lý Nhà nước, về tác
dụng điều chỉnh của từng quy phạm cụ thể; nghiên cứu các văn bản hướng dẫn thi hành, tài liệu
hướng dẫn tuyên truyền và hệ thống văn bản điều chỉnh lĩnh vực đó.
- Sưu tầm tài liệu dẫn chứng, minh họa: Đây là nội dung rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến
chất lượng, độ sâu và sức thuyết phục của buổi tuyên truyền. Tài liệu, dẫn chứng minh họa có tính
chính thức, độ tin cậy cao, có thể được sưu tầm trên Báo Nhân dân, Đài Truyền hình Việt Nam,
Thơng tấn xã Việt Nam... hoặc các tạp chí chun ngành; các cơng trình khoa học đã được công
bố; bài viết trên các báo, đặc san khoa học; số liệu, dẫn chứng trên các trang thông tin điện tử
(trang Web) cần được lựa chọn phù hợp. Khi sưu tầm tài liệu, báo cáo viên cần chú ý đến tính chất,
u cầu của tài liệu đó, tuyệt đối tránh tài liệu, dẫn chứng minh họa thuộc diện mật của Đảng và
Nhà nước; số liệu, dẫn chứng đã cũ khơng cịn phù hợp với hiện tại.
- Chuẩn bị đề cương: Đề cương tuyên truyền miệng (bao gồm đề cương sơ bộ và đề cương chi
tiết) cần đầy đủ về nội dung, thích hợp với đối tượng, chặt chẽ về bố cục, sắc sảo về lập luận.
5.2. Tiến hành một buổi tuyên truyền miệng về pháp luật
Một buổi tuyên truyền miệng về pháp luật thường có các phần sau:
8
- Vào đề: Là phần giới thiệu vấn đề, định hướng tư duy, khơi gợi nhu cầu của đối tượng, thiết
lập quan hệ giữa người nói với người nghe. Với tuyên truyền miệng về pháp luật, cách vào đề có
hiệu quả thường là gợi ra nhu cầu tìm hiểu ý nghĩa, sự cần thiết phải ban hành văn bản pháp luật.
Trước khi bắt đầu phần này, báo cáo viên cần có những lời chào mừng, chúc tụng đối với
người nghe để gây thiện cảm và khơng khí gần gũi. Trong phần vào đề, người nói phải nêu được
khoảng từ 3, 4 vấn đề chủ yếu mà người nghe cần tìm hiểu nhất để tạo sự chú ý, sức hấp dẫn cho
người nghe.
- Nội dung: Là phần chủ yếu của buổi nói, làm cho đối tượng hiểu, nắm được nội dung, chuyển
biến nhận thức, nâng cao ý thức pháp luật cho đối tượng. Cần lưu ý là phải nêu được những điểm
mới, thời sự để người nghe chú ý; khi tuyên truyền không được sao chép, đọc nguyên văn văn bản
để tránh sự nhàm chán. Khi giảng cần phân tích, giải thích và nêu ý nghĩa của văn bản pháp luật
đó. Viết, đọc một đoạn nào đó trong văn bản chỉ có tính chất dẫn chứng, minh họa những gì mà
người nói đã phân tích, dẫn chứng ở trước.
Trong tun truyền văn bản phải chú ý tới hai điều, đó là: lựa chọn cách trình bày phù hợp với
đối tượng và nêu được vấn đề cơ bản, cốt lõi, trọng tâm để người nghe thâu tóm được tinh thần văn
bản. Sử dụng hợp lý kênh ngơn ngữ (nói) và kênh phi ngôn ngữ (cử chỉ, động tác).
Đối tượng tuyên truyền miệng rất phong phú nhưng có thể chia thành 4 loại: Cán bộ quản lý;
cán bộ nghiên cứu, xây dựng văn bản; cán bộ tuyên truyền; những người phải chấp hành pháp luật
(cán bộ, nhân dân). Trên cơ sở sự phân loại đó, báo cáo viên có thể xác định được mục đích, u
cầu, nội dung trọng tâm, phương pháp trình bày cho phù hợp với từng đối tượng, cụ thể là:
+ Với cán bộ quản lý: Báo cáo viên cần xác định người nghe là cán bộ quản lý ở cấp nào để có
thể có phương pháp trình bày thiên về khái quát hoặc diễn giải; thiên về lý luận hoặc thực tiễn. Đối
với người nghe là cán bộ quản lý cấp tỉnh thì người nói có thể trình bày vấn đề thiên về khái qt
có kết hợp phân tích, diễn giải; nhưng nếu người nghe là cán bộ cấp xã thì người nói cần phải sử
dụng phương pháp suy diễn, phân tích cụ thể về thực tiễn rồi sau đó khái quát thành những đánh
giá, lý luận. Người nói cần làm rõ những quy định về quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan
quản lý nhà nước, cán bộ nhà nước; nội dung quản lý nhà nước; các hình thức vi phạm và mức độ
xử lý; thẩm quyền xử lý; tổ chức thi hành văn bản...
+ Với cán bộ nghiên cứu, xây dựng văn bản: Phương pháp khái quát thường đạt hiệu quả tuyên
truyền cao vì đối tượng này có trình độ, thường quan tâm đến những quan điểm, những vấn đề lý
luận chứa đựng trong văn bản.
+ Với cán bộ tuyên truyền (bao gồm: báo cáo viên, tuyên truyền viên, phóng viên, biên tập viên
các báo, đài): Có thể dùng phương pháp khái quát hoặc diễn giải tuỳ thuộc vào hình thức văn bản
nhưng cần tập trung nhấn mạnh những nội dung để phục vụ cho công tác tuyên truyền của cán bộ
tuyên truyền như: bản chất, ý nghĩa pháp lý của vấn đề; sự cần thiết, mục đích của việc ban hành
văn bản; những số liệu, tài liệu cần viện dẫn, đối chiếu, so sánh; các vấn đề chủ yếu cần tập trung
phổ biến, tuyên truyền.
+ Với những người phải chấp hành pháp luật: Sử dụng phương pháp diễn giải là phù hợp. Cần
nêu bản chất, ý nghĩa của vấn đề, mục đích, sự cần thiết phải ban hành văn bản, ý nghĩa của các
quy phạm liên quan đến từng đối tượng thi hành trong văn bản. Báo cáo viên cần tập trung phân
tích quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ xã hội được văn bản điều chỉnh, cơ chế thực
hiện quyền khiếu nại, khởi kiện, thời hiệu khiếu nại, khởi kiện...
* Trong thực tiễn tuyên truyền miệng pháp luật, vì nhiều lý do, có thể xảy ra những “trục trặc”
ngồi ý muốn khi đang thực hiện buổi tuyên truyền miệng pháp luật như:
9
- Nói lắp, nói nhịu: Đơi khi trong khi đang nói vì căng thẳng hay mệt mỏi báo cáo viên nói lắp,
nói nhịu. Đây là hiện tượng vơ thức xảy ra ngoài ý muốn của con người. Khi xảy ra hiện tượng
này, thường sẽ gây nên tiếng cười, ồn ào trong người nghe. Để khắc phục hiện tượng này, báo cáo
viên cần phải bình tĩnh, khơng được mất tinh thần; lấy lại sự tập trung vào bài giảng. Báo cáo viên
có thể kể một câu chuyện vui hoặc có những câu nói hài hước để tạo nên khơng khí thoải mái, vui
vẻ trong buổi tuyên truyền, sau đó khéo léo dẫn dắt vào bài giảng.
- Lạc đề: Hiện tượng này xảy ra do báo cáo viên phân tích, diễn giải vấn đề quá rộng dẫn đến
những nội dung báo cáo viên nói khơng có liên quan hoặc ít liên quan đến bài giảng. Trong trường
hợp này, báo cáo viên không được mất bình tĩnh; sử dụng phương pháp quy nạp, từ những vấn đề
đã phân tích, diễn giải rộng ở trên, báo cáo viên khéo léo dẫn dắt người nghe đến những nội dung
chính của bài giảng. Để kiểm sốt được bài giảng của mình đúng trọng tâm, khơng lạc đề đòi hỏi
báo cáo viên phải chuẩn bị kỹ nội dung bài giảng, trong khi giảng bài cần tập trung, luôn quan tâm
theo dõi đến thái độ (phản ứng) của người nghe để điều chỉnh bài giảng hợp lý.
- Thừa giờ hoặc thiếu giờ: Tình huống này thường xảy ra đối với những báo cáo viên còn thiếu
kinh nghiệm trong nghề. Đây là trường hợp thời gian dự kiến ban đầu của buổi tuyên truyền miệng
vẫn còn nhưng báo cáo viên đã truyền đạt hết các nội dung văn bản pháp luật hoặc đã hết giờ mà
chưa truyền đạt hết nội dung. Nếu gặp phải trường hợp này, tuỳ vào từng hoàn cảnh cụ thể mà báo
cáo viên cần phải nhanh nhạy chuyển sang hình thức khác có liên quan đến bài giảng như tổ chức
thảo luận về những nội dung của văn bản quy phạm pháp luật, báo cáo viên sẽ trực tiếp giải đáp
những thắc mắc của người nghe hoặc báo cáo viên chuẩn bị sẵn những câu hỏi liên quan đến nội
dung bài giảng để hỏi người nghe hoặc tổ chức giao lưu, học hỏi kinh nghiệm về công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật giữa báo cáo viên và người nghe, nhất là khi người nghe là những cán
bộ tuyên truyền pháp luật...
Ngoài ra, cần xử lý các tình huống khác trong hội trường như: Học viên ngủ gật, nghe điện
thoại di động, mất điện, học viên nói chuyện riêng...
5.3. Phần kết luận
Là phần người nói thường điểm lại và tóm tắt những vấn đề cơ bản đã tuyên truyền. Tùy từng
đối tượng mà nêu những vấn đề cần lưu ý đối với họ. Trong phần này, người nói sau khi đã phân
tích, diễn giải cần phải tóm tắt lại những nội dung chính của buổi tuyên truyền miệng và những vấn
đề cần lưu ý. Tuy nhiên với mỗi một đối tượng khác nhau sẽ có cách thức tóm tắt khác nhau căn cứ
vào nhu cầu, lĩnh vực công tác của đối tượng.
5.4. Trả lời câu hỏi của người nghe
Người nói cần dành thời gian cần thiết trả lời các câu hỏi mà người nghe quan tâm, chưa hiểu
rõ. Đây là phần người nói có thể đánh giá được mức độ hiểu bài của người nghe; là dịp để người
nói trao đổi những kinh nghiệm, hiểu biết của mình cho người nghe.
III. MỘT SỐ HÌNH THỨC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG PHÁP LUẬT
1. Mở các lớp tập huấn
Việc tổ chức các lớp tập huấn có thể ở quy mơ lớn (mấy trăm người) cũng có thể ở quy mơ nhỏ
(mấy chục người). Lưu ý cần bố trí thời gian để triệu tập được đúng, đủ học viên, có quy chế để
việc học tập được nghiêm túc. Cũng cần tổ chức viết thu hoạch hoặc kiểm tra, tổ chức đánh giá kết
quả tập huấn (qua phiếu, phỏng vấn trực tiếp…), cấp chứng chỉ để kích thích ý thức và tinh thần
học tập của học viên. Về hình thức nên có trang trí, khai mạc, bế mạc để lớp học trang trọng và
tăng tính hiệu quả.
2. Nói chuyện chun đề về pháp luật
10
Một buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật thường là một buổi nói về một lĩnh vực chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa, quản lý... gắn với một số chế định, ngành luật. Một buổi nói chuyện
chuyên đề thường khơng đóng khung trong phạm vi pháp luật, trong khn khổ một vấn đề khép
kín mà mở ra nhiều lĩnh vực có liên quan, nhiều hướng suy nghĩ.
Báo cáo viên trong các buổi nói chuyện chuyên đề phải là người có kiến thức chuyên ngành
sâu rộng về lĩnh vực được trình bày và am hiểu pháp luật.
3. Lồng ghép việc tuyên truyền pháp luật vào một buổi họp
Khi lồng ghép nội dung pháp luật vào một buổi họp, điểm quan trọng bậc nhất là cách đặt vấn
đề với người nghe. Cần đặt vấn đề sao cho người nghe thấy rằng vì sự quan trọng và cấp thiết của
việc tuyên truyền văn bản pháp luật lồng ghép vào hội nghị, cuộc họp này chứ không phải “nhân
thể” hội nghị, cuộc họp này mà phổ biến văn bản. Nếu có thể được, người nói cơng bố việc tun
truyền pháp luật là một nội dung trong chương trình cuộc họp hoặc cơng bố chương trình cuộc họp
trước cho người dự cuộc họp. Một việc quan trọng nữa là xác định thời điểm, bối cảnh để phổ biến
pháp luật sao cho hợp lý nhất để người nghe dễ tiếp thu và tạo không khí thoải mái cho người
nghe. Qua đó, việc lồng ghép tuyên truyền pháp luật vào cuộc họp sẽ đạt được hiệu quả cao hơn.
4. Tuyên truyền miệng cá biệt
Tuyên truyền miệng cá biệt là hình thức tuyên truyền miệng về pháp luật mà đối tượng (người
nghe) chỉ có một hoặc vài ba người. Nếu như tuyên truyền trong hội nghị cung cấp cho người nghe
hiểu biết chung về pháp luật thì tuyên truyền cá biệt thường cung cấp cho người nghe những nội
dung pháp luật cụ thể; vận dụng pháp luật trong những trường hợp, hoàn cảnh cụ thể mà người
nghe đang quan tâm. Hình thức tuyên truyền này thường được sử dụng trong trường hợp người
thừa hành pháp luật làm việc với đối tượng của mình; người tư vấn pháp luật hướng dẫn, giải thích
cho người được tư vấn; cán bộ trợ giúp pháp lý hướng dẫn, trợ giúp pháp luật cho người được trợ
giúp...
Để chuẩn bị cho buổi tuyên truyền cá biệt đạt kết quả, cán bộ làm công tác tuyên truyền pháp
luật cần chuẩn bị các nội dung sau đây:
- Các quy định pháp luật liên quan đến sự việc của đương sự.
- Dự kiến tình huống, câu hỏi mà đương sự có thể hỏi, chất vấn.
- Phong tục, tập quán ở địa phương, đạo lý và những kiến thức xã hội có thể phải vận dụng;
- Nhân thân đương sự: Hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật của đương sự trước đây; điều kiện,
hoàn cảnh, truyền thống gia đình, nguyện vọng ... của đương sự.
Để đạt được mục đích, u cầu này người nói khơng những phải am hiểu pháp luật, hiểu biết
đời sống xã hội mà phải có sự cảm thơng sâu sắc với cuộc sống của đối tượng. Đơi khi, trong q
trình tun truyền cá biệt người nói cần phải tâm sự chân tình, chia sẻ với người nghe về hồn cảnh
của họ; có những lời khuyên, động viên một cách chân thành, tình cảm để tạo sự tin tưởng, yêu
mến của người nghe với mình. Đó là những yếu tố cơ bản để thuyết phục đối tượng.
Chương 3
PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT QUA CÁC
PHƯƠNG TIỆN THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG
11
I. PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT QUA CÁC LOẠI HÌNH BÁO CHÍ
1. Vai trị của báo chí trong cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội, báo chí ở Việt
Nam gồm: báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thơng tấn), báo nói (chương trình phát
thanh), báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe - nhìn thời sự được thực hiện bằng
các phương tiện kỹ thuật khác nhau), báo điện tử (được thực hiện trên mạng thông tin máy tính)
bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngồi.
Với đặc tính cơ bản của báo chí là tính phổ cập, nhanh chóng, kịp thời và rộng khắp, trong công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật, báo chí đóng vai trị quan trọng, là cơng cụ, phương tiện hữu hiệu
đưa pháp luật đến với cán bộ, nhân dân, giúp cho đông đảo cán bộ, nhân dân dễ dàng tiếp thu, nắm
bắt, tìm hiểu, nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật. Báo chí góp phần phản ánh thực tiễn thi hành
pháp luật và hướng dẫn dư luận xã hội ủng hộ, biểu dương người tốt, việc tốt trong chấp hành pháp
luật, lên án, phê phán những biểu hiện tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật trong xã hội, tạo
niềm tin vào pháp luật, vào công lý trong mọi tầng lớp nhân dân. Trong công tác tun truyền
chính sách, pháp luật, báo chí cịn đóng vai trò là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Bên cạnh việc tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước đến nhân dân, báo chí cịn là diễn đàn thực hiện quyền tự do ngơn luận của nhân dân. Báo chí
phản ánh những đề xuất, kiến nghị của người dân với Đảng, Nhà nước về các chính sách, các quy
định pháp luật chưa thật phù hợp, về những bất cập, những vướng mắc, bức xúc trong thực tiễn thi
hành, chấp hành pháp luật.
Đặc biệt, ngày nay với sự phát triển đa dạng của các loại hình báo chí và việc phát triển mạnh
mẽ của cơng nghệ thơng tin đã góp phần ngày càng nâng cao hiệu quả và chất lượng của thông tin
trong đó có các thơng tin về pháp luật.
2. Các đặc trưng cơ bản của phổ biến, giáo dục pháp luật qua báo chí
2.1. Đối tượng rộng
So với các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khác thì loại hình phổ biến, giáo dục pháp
luật trên báo chí có lợi thế là có đơng đảo bạn đọc, khán thính giả trong nước và ở nước ngồi.
2.2. Hình thức phong phú, hấp dẫn
Báo chí có nhiều loại: báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử. Trong mỗi loại hình đó lại có rất
nhiều cách thể hiện như: tin, bài, tọa đàm, diễn đàn, truyện ngắn, tiểu phẩm, phim truyền hình,
phim tài liệu,…
2.3. Tính nhanh chóng, kịp thời
Do đặc thù của báo chí là thực hiện hoạt động thơng tin, yêu cầu cơ bản của thông tin là phải
nhanh nhạy, kịp thời, cập nhật, nếu không thông tin sẽ trở nên lỗi thời, khơng cịn tính hấp dẫn.
Hiện nay, với sự phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ, các loại hình báo chí đều có đặc tính
là truyền tin nhanh, đặc biệt là báo điện tử. Chính vì vậy, việc tun truyền pháp luật trên báo chí
ln được thực hiện nhanh chóng, kịp thời để đáp ứng nhu cầu được thơng tin, tìm hiểu về pháp
luật của người dân.
2.4. Tính rộng khắp
Với số lượng phát hành lớn (báo in), với diện phủ sóng rộng (đài phát thanh, đài truyền hình),
sự kết nối mạng internet tồn cầu, việc thơng tin của báo chí nói chung và việc tun truyền pháp
luật trên báo chí nói riêng được thực hiện trên diện rộng, về đặc tính này khơng có loại hình nào có
thể ưu việt hơn báo chí.
12
2.5. Tính phổ cập
Do đối tượng phục vụ chung của báo chí là đơng đảo cơng chúng, bên cạnh đó, mỗi cơ quan
báo chí lại có một đối tượng phục vụ chủ yếu riêng (như thanh niên, phụ nữ, nông dân, nhà khoa
học…). Vì vậy, việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên báo chí ln đảm bảo tính phổ
cập, phục vụ cho đơng đảo đối tượng của mình.
3. Tổ chức và duy trì chuyên mục pháp luật trên báo chí
3.1. Nội dung và hình thức chun mục pháp luật
3.1.1. Nội dung chuyên mục
Tuỳ theo đối tượng phục vụ, chun mục pháp luật trên báo chí có thể có các nội dung chủ yếu
sau đây:
- Giới thiệu chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật.
Trong đó, chú trọng giới thiệu các văn bản pháp luật quan trọng, liên quan trực tiếp đến đời sống
của nhân dân, cập nhật, phổ biến các văn bản pháp luật mới được xây dựng và các văn bản pháp
luật được sửa đổi, bổ sung.
- Phản ánh thực tiễn thi hành và áp dụng pháp luật thông qua các vụ việc cụ thể liên quan đến
pháp luật hoặc thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước.
- Thực hiện giải đáp, tư vấn pháp luật trên báo chí, nội dung này có tác dụng đáng kể trong việc
đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của nhân dân, khơng chỉ của những người có câu hỏi nhờ báo
giải đáp mà cịn của nhiều người có vấn đề tương tự.
- Nêu gương người tốt, việc tốt, nhân tố mới trong thực tiễn thi hành, chấp hành pháp luật, nhất
là những cá nhân, tổ chức dũng cảm đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, vô
trách nhiệm, những hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm.
3.1.2. Hình thức chuyên mục
- Báo in: Các chuyên mục pháp luật được thực hiện thông qua các thể loại như tin, bài, phỏng
vấn, hỏi đáp pháp luật, tiểu phẩm, truyện ngắn, kết hợp với cách trình bày, cách đặt “tít”, hình ảnh
minh họa…
- Báo hình, báo nói: Các chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện dưới các
hình thức như tin tức thời sự, phóng sự, phỏng vấn, tọa đàm, giải đáp pháp luật, thi tìm hiểu pháp
luật, lồng ghép vào các trị chơi truyền hình, tiểu phẩm, phim truyền hình, phim tài liệu…
- Báo điện tử: Phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện thơng qua các hình thức như tin, bài,
tổ chức diễn đàn, giao lưu trực tuyến.
Để việc trao đổi thông tin được dễ dàng, đối với chuyên mục pháp luật, các báo điện tử có thể
thiết lập địa chỉ thư điện tử riêng cho chuyên mục.
3.2. Sự phối hợp giữa cơ quan tư pháp và báo chí trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật
3.2.1. Cơ quan tư pháp làm đầu mối phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với cơ quan văn hóa –
thơng tin và báo chí trong việc định hướng phổ biến, giáo dục pháp luật
Mơ hình tổ chức giao ban, họp báo định kỳ giữa cơ quan tư pháp, văn hóa – thơng tin, các ban,
ngành có liên quan với phóng viên báo chí là rất cần thiết để thông tin, định hướng nội dung tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong năm, từng tháng, quý; một mặt, vừa giúp báo chí kịp
thời phổ biến những chính sách, văn bản pháp luật mới; mặt khác, đó cũng là dịp để đánh giá, rút
kinh nghiệm về công tác tuyên truyền pháp luật trên báo chí thời gian qua, định hướng cho công
tác này trong thời gian tiếp theo.
13
3.2.2. Xây dựng kế hoạch thực hiện chuyên mục phổ biến, giáo dục pháp luật trên báo chí
Kế hoạch phối hợp có thể gồm các nội dung sau:
- Xác định nội dung và hình thức của chuyên trang, chuyên mục.
- Thời lượng của chuyên trang, chuyên mục; thời gian phát sóng, phát hành báo.
- Phân cơng trách nhiệm thực hiện:
+ Cơ quan tư pháp chịu trách nhiệm về nội dung pháp lý của chương trình, chuyên mục, cung cấp
sách báo, tài liệu pháp luật; tạo điều kiện cho phóng viên đi cơ sở viết tin, bài, thực hiện chương
trình, ghi âm, ghi hình, trong phịng thu, trường quay hoặc hiện trường; cử cán bộ cùng thực hiện
chương trình, chuyên mục; hỗ trợ một phần kinh phí thực hiện; giúp cơ quan báo chí tổ chức mạng
lưới cộng tác viên viết về pháp luật; làm đầu mối tổ chức các cuộc họp cộng tác viên, sơ kết, tổng
kết việc phổ biến, giáo dục pháp luật trên báo chí, tổ chức khen thưởng các tập thể và cá nhân có
thành tích xuất sắc trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên báo chí.
+ Cơ quan báo chí chịu trách nhiệm sản xuất và thực hiện chương trình, chuyên mục theo kế
hoạch; thực hiện theo đúng quy định của Luật báo chí về đính chính, cải chính trên báo chí, chịu
trách nhiệm về nội dung thông tin.
3.2.3. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cộng tác viên, phóng viên, biên tập viên cho
chuyên mục
Đây là một biện pháp rất quan trọng nhằm duy trì, nâng cao chất lượng chuyên trang, chuyên
mục về pháp luật.
- Cần xây dựng một đội ngũ phóng viên, biên tập viên viết về pháp luật vững vàng về chun mơn
nghiệp vụ, có tư cách đạo đức tốt, đồng thời phải có trình độ và kiến thức cần thiết về pháp luật.
Viết về đề tài pháp luật mà không hiểu pháp luật sẽ dẫn đến viết sai, khơng chính xác, làm phản tác
dụng tun truyền.
- Cơ quan Tư pháp cần giúp báo, đài xây dựng đội ngũ cộng tác viên viết về pháp luật. Nguồn
cộng tác viên viết về pháp luật bao gồm: các luật gia đã và đang công tác tại các cơ quan Công an,
Tòa án, Kiểm sát, các trường và viện nghiên cứu về pháp luật; đồng thời cũng tìm nguồn cộng tác
viên từ các bộ, ngành, địa phương ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
- Để nâng cao chất lượng đội ngũ cộng tác viên, phóng viên, biên tập viên viết về pháp luật, cơ
quan tư pháp và báo, đài cần phối hợp thực hiện các hoạt động sau:
+ Tổ chức các hội nghị chuyên đề, các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật ngắn ngày, theo chuyên
đề nhằm nâng cao nghiệp vụ, kiến thức pháp luật cho đội ngũ cộng tác viên, phóng viên, biên tập
viên viết về pháp luật;
+ Tổ chức các câu lạc bộ pháp luật cho phóng viên viết về pháp luật. Hình thức này quy tụ được
những người viết về pháp luật tham gia sinh hoạt nghiệp vụ, trao đổi học tập kinh nghiệm;
+ Tổ chức các cuộc thi viết về pháp luật cho các chương trình, chuyên mục pháp luật. Đây là hình
thức có tác dụng mở rộng mạng lưới cộng tác viên, nâng cao nghiệp vụ của phóng viên viết về
pháp luật;
+ Cung cấp cho các cộng tác viên, phóng viên các tài liệu nghiệp vụ, tài liệu pháp luật.
3.2.4. Khen thưởng đối với những cá nhân và tập thể có thành tích xuất sắc trong cơng tác
phổ biến, giáo dục pháp luật trên báo chí
Việc khen thưởng này do cơ quan tư pháp thực hiện trên cơ sở đánh giá thành tích của báo, đài
thơng qua hoat động phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật. Việc khen thưởng cần thực hiện
14
thường xuyên, kịp thời để động viên, khuyến khích những phóng viên, biên tập viên có những
đóng góp tích cực vào việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên báo chí.
4. Một số kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật trên báo chí
4.1. Khái niệm về tin, bài
Tin là một thể tài của tác phẩm báo chí phản ánh trung thực một sự kiện, vụ việc mới xảy ra ở
một địa điểm, trong một thời điểm cụ thể, có ý nghĩa về mặt chính trị, kinh tế, xã hội được dư luận
quan tâm. Lợi thế lớn nhất của tin là tính nhanh nhạy, kịp thời.
Tin gồm các loại chủ yếu sau đây:
- Tin vắn: là tin tóm lược sự kiện vừa xảy ra, chủ yếu đáp ứng nhu cầu thông tin nhanh nhạy.
- Tin ngắn: thường thông tin một cách ngắn gọn nhưng tương đối đầy đủ về một sự kiện mới xảy ra
gồm chủ thể, địa điểm, thời gian, kết quả.
- Tin chuyên sâu: là tin đề cập về các sự kiện, vụ việc nhưng phản ánh một cách tồn diện, sâu sắc
hơn, có sức khái quát để người đọc, người xem nắm chắc sự việc, bản chất của vấn đề.
- Tin tổng hợp: là tin chủ yếu phản ánh các vấn đề rộng, mang tính chuyên đề, lĩnh vực, được sắp
xếp theo từng điểm.
- Tin tường thuật: chủ yếu dùng để phản ánh các hội nghị, đại hội, cuộc họp theo tuần tự thời gian
và các sự việc xảy ra trong hội nghị đó.
- Tin phỏng vấn: là tin về một vấn đề cụ thể được trình bày dưới dạng hỏi đáp.
Bài báo là một trong những thể loại báo chí có từ lâu đời và có vị trí rất quan trọng. Bài báo
thường có dung lượng lớn hơn tin và phải đáp ứng yêu cầu cơ bản của tác phẩm báo chí là phản
ánh hiện thực qua những sự kiện thời sự (ví dụ phóng sự, điều tra, bình luận, ghi chép của phóng
viên…).
4.2. Yêu cầu đối với tin, bài phổ biến, giáo dục pháp luật:
4.2.1. Tính kịp thời
Đây là đặc tính, yêu cầu đầu tiên của thể tài tin và bài về pháp luật, nhất là đối với thể tài tin.
Việc thông tin nhanh nhạy, kịp thời về những sự việc, hiện tượng xảy ra trong đời sống pháp lý sẽ
góp phần hiệu quả phản ánh hiện thực, định hướng dư luận, cổ vũ hoặc phê phán các hiện tượng,
sự việc đang phát sinh trong đời sống xã hội. Kịp thời khơng có nghĩa là đưa tin ngay lập tức về
một sự kiện, một vấn đề nào đó trong đời sống chính trị pháp lý mà chính là ở độ chín muồi của
vấn đề. Nếu đưa tin về một sự kiện đang ở giai đoạn phơi thai mà khơng thể dự đốn được xu
hướng phát triển của nó thì đó là nóng vội. Ngược lại, nếu để một sự kiện, một hiện tượng đã xảy
ra lâu rồi mới đưa tin, viết bài thì khơng cịn tính hấp dẫn, mất tính định hướng và làm giảm hiệu
quả thông tin giáo dục.
4.2.2. Tin, bài phải đảm bảo yêu cầu đúng pháp luật
Đây là yêu cầu đặc thù của tin, bài của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Đúng pháp luật
thể hiện ở nhiều điểm như:
- Sử dụng đúng thuật ngữ pháp lý.
- Các căn cứ pháp lý đưa ra phải phù hợp, chính xác.
- Việc phân tích lý lẽ, đánh giá, nhìn nhận vấn đề phải trên cơ sở pháp luật, phù hợp với quy định
của pháp luật.
4.2.3. Tính chân thực, khách quan
15
Là yêu cầu rất quan trọng trong việc viết tin, bài tuyên truyền về pháp luật. Sự kiện, hiện
tượng, các tình tiết, số liệu được cơng bố qua tin, bài phải là sự kiện có thực, số liệu chính xác,
khơng tơ vẽ. Khi đánh giá sự việc, hiện tượng đó phải đảm bảo cách nhìn khách quan, khơng phiến
diện, khơng hình thức, phải đánh giá sự việc, hiện tượng một cách toàn diện, đúng bản chất, trong
mối quan hệ qua lại với các sự việc, hiện tượng khác.
4.2.4. Phù hợp với đối tượng
Người viết cần phải xác định rõ đối tượng phản ánh và đối tượng phục vụ của mình, từ đó bám
sát đối tượng để viết cho sâu sát, thiết thực, điều này giúp cho tác phẩm báo chí về đề tài pháp luật
có chất lượng hơn, thơng tin trúng hơn, sâu hơn và vì vậy sẽ có tác dụng hơn.
4.2.5. Tính định hướng đúng đắn của thơng tin
Khi đưa tin, viết bài, thực hiện chương trình tuyên tuyền về pháp luật người viết cần phải trả lời
câu hỏi “viết để làm gì?” để xác định mục đích của việc thơng tin là để phổ biến, giải thích pháp
luật, để lên án, phê phán, đấu tranh với những hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật, tội phạm, hay
để cổ vũ, biểu dương người tốt, việc tốt trong thực tiễn thi hành pháp luật… Qua đó, người viết có
thể định hướng đúng đắn dư luận.
4.2.6. Về mặt hình thức thể hiện
Tin, bài tuyên truyền về pháp luật phải đảm bảo u cầu ngắn gọn, súc tích, chính xác, ngơn
ngữ giản dị, trong sáng, dễ hiểu, cách thể hiện phong phú, hấp dẫn.
4.3. Một số kỹ năng cơ bản về viết tin, bài phổ biến, giáo dục pháp luật
4.3.1. Chọn vấn đề, sự kiện để viết bài, đưa tin
Đó phải là những vấn đề, sự kiện xảy ra trong đời sống chính trị pháp lý có tính chất tiêu biểu,
có ý nghĩa quan trọng trong từng phạm vi, từng thời điểm, đồng thời vấn đề, sự kiện đó phải ln
mới mẻ, nóng hổi tính thời sự.
4.3.2. Lựa chọn cách thể hiện
Đối với những vấn đề cần thông tin nhanh nhạy, kịp thời, ngắn gọn thì lựa chọn thể loại tin.
Đối với những vấn đề cần trình bày một cách chi tiết, phân tích, nhìn nhận, đánh giá vấn đề từ
nhiều góc độ khác nhau thì lựa chọn thể loại bài. Tiếp đó, cần phải căn cứ vào mục đích thơng tin
để lựa chọn thể loại tin, bài cho phù hợp.
4.3.3. Xác định đối tượng thông tin
Thông thường tin bài về đời sống pháp luật có đối tượng thơng tin rộng rãi. Tuy nhiên để tin,
bài phát huy hiệu quả, cần xác định cụ thể đối tượng chủ yếu cần được thơng tin. Từ đó căn cứ vào
trình độ nhận thức, thị hiếu, sở thích nói chung của đối tượng đó mà chọn lọc thông tin, lựa chọn
cách thể hiện, ngôn ngữ phù hợp.
4.3.4. Thu thập và xử lý thông tin
- Tin, bài viết về pháp luật không thể thiếu số liệu, sự kiện. Vì vậy phải thu thập đầy đủ số liệu, sự
kiện chủ yếu, phản ánh được, bao quát được vấn đề định nêu. Có những sự kiện, số liệu chính và
sự kiện, số liệu phụ.
- Việc xử lý thông tin bao gồm:
+ Kiểm tra và nắm vững thông tin: Bên cạnh việc đưa tin nhanh, một trong những nhiệm vụ
quan trọng của báo chí là phải đưa tin chính xác. Vì vậy, sau khi thu thập thơng tin, cần kiểm tra
tính chính xác, khách quan của thơng tin. Nếu cịn nghi ngờ, phân vân về thơng tin nào đó mà
chưa có điều kiện kiểm tra, xác minh thì kiên quyết không sử dụng. Việc kiểm tra thông tin được
thực hiện bằng nhiều cách: thông qua tư liệu, thông qua nhân chứng…
16
+ Lựa chọn thông tin: Lựa chọn tức là sàng lọc và loại bỏ những thông tin không cần thiết,
những thơng tin cịn nghi ngờ về độ chính xác, chân thực, khách quan.
+ Sắp xếp, so sánh, đối chiếu các thơng tin khác, “dựng một bức tranh có ý nghĩa về diễn
biến của sự kiện, mối quan hệ giữa các thơng tin, mối liên kết” để có được cái nhìn bao quát về vấn
đề, sự kiện.
+ Nhận dạng, phân biệt, tập trung sự chú ý vào các sự việc và nhân vật quan trọng trong tin,
bài; đồng thời giải quyết từng điểm để làm cho tin, bài hấp dẫn, dễ hiểu.
4.3.5. Viết tin, bài
Tin, bài tuyên truyền pháp luật phải thể hiện ngắn gọn, súc tích, rõ ràng, ln thu hút độc giả từ
đầu đến cuối, tránh viết “dây cà ra dây muống”. Ngôn ngữ trong tin, bài tuyên truyền pháp luật chủ
yếu mang tính truyền tải thơng tin, trong sáng, dễ hiểu, giản dị, chuẩn xác trong sử dụng thuật ngữ
pháp lý. Tuy nhiên, thể tài tin, bài cũng rất cần sự sáng tạo trong ngôn ngữ thể hiện, cần sử dụng
các hình thức đảo câu, đảo ý để tăng sự hấp dẫn của tin, bài; sử dụng trích dẫn, ví dụ cho phù hợp,
góp phần mang lại cho bài viết sự chân thực và sống động…
Mỗi đoạn trong tin, bài cần tập trung thể hiện một ý, chuyển đoạn một cách chặt chẽ, logic.
II. PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT QUA MẠNG LƯỚI TRUYỀN THANH CƠ SỞ
1. Một số vấn đề về phổ biến, giáo dục pháp luật qua mạng lưới truyền thanh cơ sở
So với hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật qua báo chí, hình thức phổ biến, giáo dục pháp
luật qua mạng lưới truyền thanh cơ sở có đối tượng và phạm vi tác động hẹp hơn, được xác định cụ
thể trong phạm vi một xã, phường, thị trấn hay một tổ dân phố, một thôn.
Lợi thế của phổ biến, giáo dục pháp luật qua mạng lưới truyền thanh cơ sở:
- Có khả năng truyền tin nhanh, kịp thời.
- Gần gũi, thân thiết với người dân ở cơ sở: bởi những nội dung pháp luật được phát thanh trên
mạng lưới truyền thanh cơ sở là những quy định pháp luật liên quan thiết thực đến đời sống hàng
ngày của người dân cơ sở, những sự việc, những con người được phản ánh trong thực tiễn thi hành
pháp luật là những sự việc, những con người có thật tại địa phương, những băn khoăn, thắc mắc
của người dân cơ sở về chính sách, pháp luật được giải đáp kịp thời…
- Hoàn toàn chủ động về thời gian: Có thể lựa chọn thời gian phát thanh một cách phù hợp với thực
tế tập quán sinh hoạt, lao động sản xuất của người dân ở địa phương để buổi phát thanh có tác
dụng cao.
- Chủ động trong việc lựa chọn nội dung: Có thể chủ động lựa chọn nội dung cho các buổi phát
thanh phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương và mong muốn tìm hiểu pháp luật
của người dân.
- Có khả năng tác động tới nhiều đối tượng trong cùng một thời gian, phạm vi tác động rộng:
Tuyên truyền qua hệ thống truyền thanh có số lượng người nghe đơng đảo, việc chọn thời gian
phát thanh phù hợp cũng làm tăng đáng kể số lượng người nghe, phạm vi có thể là một thôn, một
tổ dân phố hoặc một xã, một phường
- Có thể thực hiện phát thanh được nhiều lần.
- Tiết kiệm được thời gian, công sức và tiền của vì khơng phải tập trung dân tại một điểm để phổ
biến pháp luật.
2. Sự phối hợp giữa cán bộ tư pháp và cán bộ văn hóa thơng tin cấp xã
2.1. Cán bộ tư pháp có trách nhiệm
17
- Làm đầu mối phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương trong việc tổ chức phổ biến,
giáo dục pháp luật qua hệ thống truyền thanh cơ sở;
- Chịu trách nhiệm về nội dung tuyên truyền pháp luật của chương trình phát thanh;
- Giúp cán bộ văn hóa – thơng tin xây dựng đội ngũ cộng tác viên ở các ngành, các tổ chức đoàn
thể tham gia viết bài cho chương trình phát thanh về pháp luật.
2.2. Cán bộ văn hóa – thơng tin có trách nhiệm
- Tổ chức mạng lưới truyền thanh trong phạm vi địa phương
- Xây dựng đội ngũ cộng tác viên
- Xây dựng kế hoạch phát thanh
- Tổ chức thực hiện chương trình phát thanh
- Bảo đảm kinh phí thực hiện chương trình phát thanh (kinh phí viết tin, bài, biên tập, phát
thanh…).
3. Các bước để thực hiện chương trình phát thanh pháp luật trên mạng lưới truyền thanh cơ
sở
3.1. Xây dựng kế hoạch phát thanh
Xây dựng kế hoạch phát thanh là việc làm không thể thiếu được để đảm bảo cho việc phổ biến,
giáo dục pháp luật qua mạng lưới truyền thanh cơ sở được thực hiện một cách thường xuyên, ổn
định.
Cán bộ tư pháp và cán bộ văn hóa – thơng tin xã phối hợp với nhau trong việc xây dựng kế
hoạch, chương trình phát thanh tuyên truyền pháp luật ở cơ sở định kỳ (năm, quý, tháng, tuần)
hoặc đột xuất phục vụ sự kiện chính trị pháp lý của trung ương và địa phương trình Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã quyết định.
Kế hoạch phát thanh có những nội dung chủ yếu sau:
- Xác định nội dung phát thanh:
+ Giới thiệu đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các văn bản quy phạm pháp
luật của địa phương, trong đó chú trọng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến đời sống
của người dân ở địa phương như Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Dân sự, Pháp lệnh
dân chủ ở cơ sở…, những văn bản mới được ban hành, những quy định của chính quyền địa
phương liên quan thiết thực tới người dân;
+ Phản ánh thực tiễn thi hành, chấp hành pháp luật ở địa phương, nêu gương người tốt, việc tốt
trong thực hiện, chấp hành pháp luật, đồng thời phê phán những cá nhân, hộ gia đình có hành vi vi
phạm quy ước, nếp sống văn hóa, vi phạm pháp luật trên địa bàn cơ sở;
+ Giải đáp pháp luật: giải đáp những thắc mắc, băn khoăn, những kiến nghị của người dân địa
phương liên quan đến những quy định pháp luật, đến tình hình thực thi và chấp hành pháp luật ở cơ
sở…
- Xác định hình thức thể hiện: Để truyền tải nội dung của chương trình phát thanh cần xác định
hình thức thể hiện phù hợp, sinh động, có thể lựa chọn một trong các hình thức như: tin, bài, hỏi –
đáp pháp luật, tiểu phẩm, thơ ca, hò vè, hát, câu chuyện truyền thanh…
- Xác định thời lượng phát thanh: Thời lượng phát thanh tuyên truyền về pháp luật cần phải được
xác định phù hợp với đặc điểm về điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ dân trí ở từng địa bàn bảo
đảm dung lượng vừa phải với nhu cầu tiếp nhận của nhân dân địa phương, đồng thời bảo đảm hài
hòa với các chương trình phát thanh về văn hóa, xã hội, y tế, dân số, sức khỏe – sinh sản…
18
- Thời gian phát thanh: Thời gian phát thanh được bố trí phù hợp với tập quán sinh hoạt, lao động
sản xuất của người dân địa phương, nhằm thu hút đông đảo người nghe, phát huy cao nhất hiệu quả
tác động của chương trình.
- Cách thức phát thanh: Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của địa phương mà xác định cách
thức phát thanh phù hợp, hoặc phát thanh qua hệ thống loa cố định hoặc tổ chức phát thanh lưu
động.
- Phân công tổ chức thực hiện kế hoạch phát thanh:
+ Cán bộ văn hóa – thơng tin chịu trách nhiệm thực hiện chương trình, phụ trách về kỹ thuật phát
thanh.
+ Cán bộ tư pháp chịu trách nhiệm về nội dung pháp lý của chương trình phát thanh, cung cấp tài
liệu, văn bản để chuẩn bị nội dung chương trình.
+Phát thanh viên: bảo đảm các u cầu như: khơng nói ngọng, khơng nói lắp, giọng đọc rõ ràng,
truyền cảm. Đối với các chương trình phát thanh bằng tiếng dân tộc thiểu số thì phát thanh viên
phải thơng thạo tiếng dân tộc, nên chọn những người dân tộc thiểu số làm phát thanh viên cho
chương trình phát thanh bằng tiếng dân tộc.
+ Người dịch tin sang tiếng dân tộc: Đối với những nơi có đơng đồng bào dân tộc thiểu số, khi xây
dựng các chương trình phát thanh tuyên truyền pháp luật bằng tiếng dân tộc, cần bố trí người (hoặc
thành lập một nhóm, một tổ) dịch tin sang tiếng dân tộc. Cần sử dụng đội ngũ cán bộ là người dân
tộc để thực hiện công việc này.
3.2. Chuẩn bị chương trình phát thanh
Bao gồm các cơng việc sau:
- Biên soạn tin, bài… cho chương trình;
- Biên tập nội dung chương trình;
- Chuẩn bị các điều kiện kỹ thuật phát thanh;
- Duyệt chương trình trước khi phát thanh chính thức.
Lưu ý: Trong quá trình chuẩn bị nội dung cho chương trình phát thanh tuyên truyền pháp luật
qua mạng lưới truyền thanh cơ sở, có thể khai thác tài liệu pháp luật từ các nguồn sau:
+ Tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn
+ Điểm bưu điện văn hóa xã
+ Tủ sách, ngăn sách pháp luật của các cơ quan, tổ chức, trường học đóng trên địa bàn xã, phường,
thị trấn
+ Những tài liệu pháp luật ( đề cương tuyên truyền, sách hỏi – đáp pháp luật, băng cát sét…) do
các cơ quan tư pháp cấp trên cung cấp
+ Từ những nguồn khác: tài liệu của cá nhân, tài liệu từ cán bộ chuyên môn khác thuộc Ủy ban
nhân dân cấp xã như: Cơng an, qn sự, văn phịng – thống kê, địa chính – xây dựng, tài chính – kế
tốn.
3.3. Thực hiện chương trình phát thanh
Chương trình phát thanh tuyên truyền pháp luật khi được thực hiện cần đảm bảo các yêu cầu
sau:
- Nội dung pháp luật thiết thực, đáp ứng nhu cầu của người dân ở cơ sở, được biên soạn ngắn gọn,
xúc tích, dễ nhớ, dễ hiểu;
19
- Cách thể hiện phong phú, hấp dẫn, truyền cảm với nhiều thể loại khác nhau (tin, bài, câu chuyện,
tiểu phẩm…); giọng đọc của phát thanh viên rõ ràng, truyền cảm;
- Chất lượng âm thanh tốt, âm lượng vừa đủ;
- Bố trí thời gian, thời lượng phát sóng chương trình phù hợp.
Chương 4
PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT BẰNG BIÊN SOẠN,
PHÁT HÀNH TÀI LIỆU
I. PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT BẰNG TỜ GẤP TUYÊN TRUYỀN
1. Khái niệm, vị trí, vai trò của tờ gấp pháp luật
1.1. Khái niệm
Tờ gấp tuyên truyền pháp luật là một loại tài liệu tuyên truyền pháp luật được biên soạn một
cách ngắn gọn, rõ ràng trên khuôn khổ một tờ giấy nên dễ dàng, thuận tiện trong sử dụng, là một
trong những hình thức tuyên truyền pháp luật hiệu quả.
1.2. Đối tượng sử dụng
So với các loại tài liệu phổ biến pháp luật khác như đề cương tuyên truyền văn bản pháp luật,
bản tin... thì tờ gấp pháp luật có đối tượng sử dụng rộng rãi hơn, từ cán bộ, công chức, người lao
động, người sử dụng lao động, học sinh, sinh viên cho đến toàn thể nhân dân.
1.3. Ưu điểm của tờ gấp pháp luật
- Tờ gấp pháp luật hấp dẫn người đọc bằng hình thức thể hiện: in nhiều màu, có tranh ảnh minh
họa, trình bày rõ ràng...
- Đầy đủ, chính xác, cụ thể về nội dung của vấn đề đưa vào tờ gấp tuyên truyền pháp luật như:
những điều cấm, những điều được làm, nên làm, quy chế, thủ tục tiến hành công việc, chức năng,
thẩm quyền của các cơ quan hữu quan trong một lĩnh vực nào đó…
- Thuận tiện cho việc sử dụng.
1.4. Một số hạn chế của tờ gấp pháp luật
- Nội dung ngắn nên hạn chế về lượng thông tin.
- Giá trị sử dụng không được lâu bằng các tài liệu pháp luật khác.
2. Những kỹ năng chủ yếu trong việc làm tờ gấp tuyên truyền pháp luật.
2.1. Biên soạn nội dung
- Căn cứ vào nhu cầu và đối tượng sử dụng, người được giao nhiệm vụ có trách nhiệm lựa chọn
những nội dung pháp luật phù hợp với từng đối tượng để đưa vào tờ gấp.
Ví dụ: Tờ gấp tuyên truyền về quyền và nghĩa vụ của người lao động theo quy định của Bộ luật lao
động. Có thể được chia thành:
Phần chung: Quyền và nghĩa vụ của người lao động
Phần riêng: Quyền và nghĩa vụ của người lao động nữ, lao động chưa thành niên, lao động là người
cao tuổi...
- Cách thức thể hiện nội dung vào tờ gấp:
20
+ Hỏi - đáp trực tiếp.
+ Trả lời gián tiếp thơng qua các tình huống pháp luật.
2.2. Xác định khn khổ của tờ gấp
Kích thước của tờ gấp được hiểu là chiều dài và chiều rộng của tờ gấp khi tờ gấp ở trạng thái
trải ra hồn tồn. Kích thước của tờ gấp phụ thuộc vào nội dung tờ gấp.
Nên ưu tiên tờ gấp có kích thước bằng khổ giấy A4, vì có thể dùng tờ gấp này làm tờ mẫu
phôtô nhân bản trên giấy A4 phát rộng rãi cho đối tượng tuyên truyền. Từ kích thước tờ gấp người
ta dễ dàng chọn được số bình cho tờ gấp sao cho khi gấp lại tờ gấp có hình dáng sát với hình chữ
nhật tiêu chuẩn.Ví dụ: tờ gấp khổ A4 khi gấp lại được 3 bình với kích thước 21 x 10.
2.3. Bố cục tờ gấp (lên ma két)
Bố cục tờ gấp gồm bố cục bìa, phần nội dung cho các trang, trám tranh, ảnh cho các trang, đặt
tít của tờ gấp, tít của từng phần, chọn chữ, chọn màu và phân bố, làm vi-nhét cho từng trang.
Nếu coi tờ gấp có mặt trong, mặt ngồi và đánh số 1 vào trang đầu của mặt trong rồi lần lượt từ
trong ra ngồi thì thường gấp tờ gấp sao cho trang cuối cùng là bìa trước, trang áp cuối là bìa sau.
Tuy nhiên, với cách gấp khác hoặc với tờ gấp 5 bình, 7 bình thì việc xác định bìa trước, bìa sau có
thể thay đổi. Bìa trước ghi tên của tờ gấp và tranh hoặc ảnh nhằm gây ấn tượng về chủ đề của tờ
gấp. Bìa sau cũng có tác dụng làm tăng tính thẩm mỹ tờ gấp bằng những khẩu hiệu, danh ngôn,
tranh, ảnh…
Khi phân nội dung cho các trang, cố gắng để mỗi trang thể hiện được một phần nội dung của tờ
gấp và giữa các phần có thứ tự lơgíc với nhau. Tít của từng phần có thể theo tên chương, mục của
văn bản hoặc tự đặt sát với nội dung của nó. Việc trám tranh, ảnh vào các trang không những gây
ấn tượng về nội dung mà cịn làm tăng tính hấp dẫn của tờ gấp. Việc thay đổi kiểu chữ, cỡ chữ,
chọn màu, phân bố màu, làm vi nhét cho tờ gấp... là những việc có tính chất mỹ thuật; nếu có điều
kiện nên mời họa sĩ tham gia để tờ gấp được trình bày đẹp và hợp lý.
3. Tổ chức làm tờ gấp tuyên truyền pháp luật
3.1. Xây dựng kế hoạch làm tờ gấp tuyên truyền pháp luật.
Thông thường việc làm tờ gấp tuyên truyền pháp luật phải được đưa vào kế hoạch công tác
năm của cơ quan, đơn vị. Trên cơ sở các văn bản pháp luật mới được Quốc hội thông qua, văn bản
của địa phương, nhu cầu tuyên truyền, phổ biến pháp luật của ngành, địa phương, gắn với việc
thực hiện nhiệm vụ chính trị và chủ trương tăng cường quản lý trong ngành hoặc địa phương.
Tờ gấp tuyên truyền pháp luật cũng có thể phát hành để tuyên truyền, phổ biến lại một văn bản,
hoặc phát hành đột xuất khi nhiệm vụ chính trị yêu cầu.
Cơ sở để làm tờ gấp tuyên truyền pháp luật là bản kế hoạch được lãnh đạo cơ quan, đơn vị phê
duyệt.
3.2. Thiết kế tờ gấp tuyên truyền pháp luật
Sau khi đã hoàn chỉnh nội dung của tờ gấp, người được giao nhiệm vụ có trách nhiệm thực hiện
một số công việc sau:
- Liên hệ với họa sĩ để thiết kế mẫu tờ gấp.
- Trình lãnh đạo cơ quan, đơn vị duyệt mẫu tờ gấp.
3.3. Làm các thủ tục xuất bản tờ gấp tuyên truyền pháp luật
Mẫu tờ gấp sau khi được phê duyệt, người được giao nhiệm vụ cần tiến hành một số công việc
sau:
21
- Xin giấy phép xuất bản.
- Ký hợp đồng với nhà in, theo dõi việc in ấn.
- Nộp lưu chiểu theo quy định của pháp luật.
3.4. Tổ chức phát hành tờ gấp tuyên truyền pháp luật
Việc tổ chức phát hành tờ gấp cần căn cứ vào yêu cầu, mục đích và đối tượng cần tuyên truyền
đã được xác định trong kế hoạch.Việc phát hành tờ gấp có thể gửi trực tiếp cho đối tượng thụ
hưởng hoặc thông qua cơ quan, tổ chức để cấp phát cho đối tượng.
II. PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG QUA SÁCH PHÁP LUẬT
1. Khái niệm và phân loại sách pháp luật
1.1 . Khái niệm
Sách pháp luật là một loại tài liệu phổ biến pháp luật. Phổ biến pháp luật thơng qua văn hố
đọc của người đọc sách là hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật đặc thù. Đặc trưng của hình
thức này là truyền bá những nội dung, kiến thức pháp luật thiết yếu trong đời sống cho mọi người
thông qua việc đọc sách. Người dân có thể chủ động tìm hiểu, nghiên cứu, tiếp cận kiến thức pháp
luật qua việc đọc sách, nghiên cứu sách để đáp ứng nhu cầu của bản thân.
1.2. Phân loại
Có nhiều loại sách pháp luật:
- Sách nghiên cứu pháp luật: bình luận khoa học, phân tích, giải thích các vấn đề, bình luận nội
dung các điều luật, từ điển luật...
- Sách dạy, học pháp luật: sách giáo khoa, sách tham khảo phục vụ việc giảng dạy và học pháp luật
trong nhà trường.
- Sách pháp luật phổ thông: sách hỏi đáp pháp luật, sách hướng dẫn tìm hiểu pháp luật, sách pháp
luật bỏ túi…
- Sách hệ thống hoá văn bản pháp luật.
Cũng như các hình thức phổ biến pháp luật khác, phổ biến pháp luật thông qua sách pháp luật có
những ưu thế nhất định.
Ưu thế:
- Phổ biến được nhiều vấn đề, nhiều nội dung pháp luật;
- Đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của nhiều đối tượng với nhiều trình độ nhận thức khác nhau;
- Người dân có thể tự tìm hiểu, tiếp cận và lĩnh hội các nội dung pháp luật qua việc đọc sách, chủ
động nghiên cứu các vấn đề được viết trong sách;
- Người dân chủ động về thời gian và các nội dung pháp luật cần tìm hiểu theo nhu cầu của bản
thân.
Nhược điểm:
- Hiệu quả việc phổ biến pháp luật qua sách pháp luật quan hệ chặt chẽ với chất lượng biên soạn
sách;
- Kiến thức người dân thu nhận được thông qua việc đọc sách, nghiên cứu sách pháp luật gắn với
trình độ dân trí. Ở những nơi trình độ dân trí thấp hoặc tỷ lệ mù chữ cao, phổ biến pháp luật qua
sách không đem lại hiệu quả mong muốn;
22
- Phổ biến pháp luật qua sách phụ thuộc vào tính chủ động của người đọc, vào sở thích, thói quen
đọc sách của người dân. Không thể bắt người dân đọc sách khi bản thân họ khơng muốn hoặc
khơng có nhu cầu.
2. Yêu cầu chung đối với việc biên soạn sách pháp luật phổ thông
- Thứ nhất về nội dung, nội dung sách phải gồm các vấn đề phổ biến, thường gặp trong đời sống
hàng ngày, được nhiều người quan tâm, liên quan đến việc hướng dẫn thực hiện các quy định của
pháp luật, đến các trình tự, thủ tục thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân hoặc có liên quan
trực tiếp đến các lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
- Thứ hai về bố cục, sách phải có bố cục rõ ràng, kết cấu lơgic, chặt chẽ, câu văn ngắn gọn, súc
tích; ngơn ngữ giản dị, bình dân, dễ hiểu và chỉ mang một nghĩa, giúp người đọc hiểu một cách
chính xác, thống nhất đúng với các quy định của pháp luật và dễ thực hiện.
- Thứ ba về hình thức, sách cần được trình bày sạch đẹp, khổ chữ vừa phải, dễ đọc, chất lượng in
rõ, khổ sách và độ dày vừa phải, gọn gàng, dễ mang theo, thuận tiện cho người sử dụng. Sách phục
vụ các đối tượng là trẻ em phải có tranh minh họa, sách phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số phải
được dịch ra tiếng dân tộc kèm theo tranh minh hoạ giúp cho người sử dụng dễ hiểu, dễ nhớ, dễ
làm theo.
- Thứ tư, giá sách hợp lý, phù hợp với mức thu nhập trung bình của nhân dân, tạo điều kiện cho
nhiều người có nhu cầu có khả năng mua sách.
3. Tổ chức biên soạn sách pháp luật phổ thông
3.1. Xây dựng kế hoạch biên soạn sách
Kế hoạch biên soạn sách cần có các nội dung:
- Mục đích, yêu cầu biên soạn sách: căn cứ mục đích của việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật
trong từng giai đoạn, từng địa bàn để xác định mục đích biên soạn sách: tuyên truyền về những vấn
đề, những nội dung pháp luật gì, tuyên truyền cho đối tượng nào;
- Đối tượng sử dụng sách: chính là đối tượng cần được tuyên truyền đối với sách pháp luật phổ
thông đối tượng thường là những người dân có nhu cầu tìm hiểu pháp luật;
- Các nội dung chủ yếu của cuốn sách (dự thảo đề cương sách hoặc kèm theo kế hoạch là Đề
cương chi tiết cuốn sách);
- Thời gian hoàn thành và giao nộp bản thảo;
- Các thông số về cuốn sách: khổ sách, độ dày, số trang, số phát hành, giá bìa;
- Số lượng in, nơi in;
- Phương thức phát hành;
- Nguồn kinh phí phục vụ việc biên soạn, phát hành sách.
3.2. Thành lập Ban biên tập và dự kiến người tham gia biên soạn
- Trưởng Ban biên tập kiêm Chủ biên cuốn sách - là người chịu trách nhiệm chính về nội dung
cuốn sách, có trách nhiệm đọc, chỉnh lý và duyệt lần cuối cùng trước khi đưa in sách;
- Ban biên tập là những người tổ chức quá trình biên soạn và trực tiếp biên tập;
- Người tham gia biên soạn sách thường là các chuyên gia trong những lĩnh vực có liên quan đến
nội dung sách.
3.3. Tổ chức họp Ban biên tập triển khai việc biên soạn và thống nhất các vấn đề.
- Kế hoạch biên soạn sách, mục đích, đối tượng sử dụng sách;
23
- Nội dung sách: bố cục sách (mấy phần), nội dung cụ thể trong từng phần (đề cương chi tiết);
- Thống nhất cách biên soạn;
- Dự kiến người tham gia biên soạn;
- Cung cấp các văn bản, tài liệu tham khảo có liên quan đến nội dung sách.
3.4. Biên tập
Mục đích của việc biên tập là:
- Xác định xem nội dung cuốn sách được biên soạn đã thể hiện đúng mục tiêu, yêu cầu và phù hợp
với đối tượng sử dụng như trong kế hoạch đề ra chưa.
- Soát lại câu chữ, cách hành văn, ngữ pháp, lỗi chính tả và hình thức thể hiện cho thống nhất.
Sau khi biên tập nếu thấy bản thảo đạt yêu cầu thì gửi cho các chuyên gia để xin ý kiến thẩm
định.
Nếu bản thảo chưa đạt yêu cầu Ban biên tập sẽ đề nghị người viết sửa lại theo đúng mục tiêu,
yêu cầu trong kế hoạch đề ra.
3.5. Thẩm định
Người thẩm định là các chuyên gia hàng đầu trong các lĩnh vực pháp luật liên quan đến nội
dung sách. Người thẩm định chủ yếu đọc góp ý, sửa chữa nội dung sách, tính chính xác của các
phân tích, giải thích và trích dẫn, các quy phạm pháp luật nêu trong sách.
3.6. In ấn, phát hành
Đối với các sách biên soạn theo yêu cầu của nhà xuất bản thì chỉ cần chuyển bản thảo sang cho
nhà xuất bản. Việc in và phát hành sẽ do nhà xuất bản đảm nhiệm. Đối với các sách do cơ sở tự
biên soạn thì phải làm thủ tục như: xin giấy phép xuất bản, liên hệ với nhà in chuẩn bị các thủ tục
in sách (làm ma két bìa, liên hệ với nhà in ký hợp đồng in có quy định rõ giá thành, phương thức
thanh tốn, xác định giá bán nếu là sách bán thu tiền). Nộp lưu chiểu sau khi in xong, giới thiệu
sách trên các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân.
4. Kỹ năng biên soạn nội dung sách pháp luật phổ thông
Sách pháp luật phổ thông gồm: sách hỏi đáp pháp luật, sách hướng dẫn tìm hiểu pháp luật, sách
pháp luật bỏ túi. Với mỗi loại sách có những điểm khác nhau trong kỹ năng biên soạn.
4.1. Sách hỏi đáp pháp luật
Sách hỏi đáp pháp luật có thể sử dụng để tuyên truyền, phổ biến một văn bản, một nội dung,
một lĩnh vực pháp luật.
Nội dung sách hỏi đáp pháp luật có thể là một nội dung, một lĩnh vực pháp luật (như nuôi con
nuôi, hộ tịch hay luật đất đai) hoặc gồm nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan đến các quan hệ xã hội
thường gặp trong đời sống hàng ngày.
Kỹ năng biên soạn sách hỏi đáp pháp luật chủ yếu dựa trên phương pháp đặt câu hỏi và cách trả
lời câu hỏi. Có các dạng câu hỏi sau:
- Câu hỏi trực tiếp: hỏi trực tiếp vào nội dung vấn đề. Câu hỏi trực tiếp thường dùng trong trường
hợp cần giải thích các khái niệm, các thuật ngữ pháp lý, hoặc các vấn đề có tính lý thuyết. Đối với
câu hỏi trực tiếp, câu trả lời thường gồm hai phần: nêu định nghĩa (hoặc nội dung) của khái niệm,
thuật ngữ; giải thích nội dung các khái niệm, thuật ngữ sau đó đưa ra một ví dụ minh hoạ.
- Câu hỏi gián tiếp: Câu hỏi gián tiếp được xây dựng trên cơ sở thơng qua một tình huống, một sự
việc thường xảy ra trong thực tế để đưa ra câu hỏi. Câu hỏi gián tiếp thường được dùng trong các
trường hợp tuyên truyền phổ biến các quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của người dân,
24
các thủ tục hành chính trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Câu hỏi gián tiếp còn được sử dụng
trong các trường hợp muốn làm rõ một quy định nào đó của pháp luật.
Đối với câu hỏi loại này trước tiên cần trả lời trực tiếp vào tình huống câu hỏi đặt ra sau đó chỉ
dẫn đến các quy định của pháp luật trong các văn bản có liên quan đến câu hỏi để người dân có thể
tìm hiểu thêm khi cần. Cũng có thế đảo lại bằng cách đưa ra các quy định của pháp luật liên quan
đến tình huống trong câu hỏi, sau đó dựa trên các quy định đó trả lời cho tình huống được hỏi.
- Câu hỏi mở: thơng qua một tình huống, một sự việc để hỏi về một vấn đề. Câu hỏi mở thường áp
dụng trong trường hợp hướng dẫn cách giải quyết một vụ việc, hướng dẫn việc thực hiện quyền,
nghĩa vụ của công dân. Đối với câu hỏi loại này câu trả lời cần phân tích sự việc, đối chiếu với quy
định của pháp luật sau đó hướng dẫn cách giải quyết cụ thể.
Tuy nhiên, dù câu hỏi được đặt dưới dạng nào cũng cần ngắn gọn, rõ ràng, chỉ hỏi về một vấn
đề, một vụ việc hoặc một lĩnh vực nhất định để tránh trường hợp câu trả lời q dài dịng gây rối,
khó hiểu cho người đọc.
4.2. Sách hướng dẫn tìm hiểu pháp luật
Sách hướng dẫn tìm hiểu pháp luật thường sử dụng để tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp
luật (luật, bộ luật, pháp lệnh, nghị định) mới ban hành, mới sửa đổi, bổ sung.
Về nội dung, bố cục sách tìm hiểu pháp luật cần chú ý một số điểm sau:
- Nội dung sách thường chỉ gắn với một văn bản pháp luật hoặc một số nội dung chính của một văn
bản pháp luật.
- Bố cục sách có thể như sau:
+ Vài nét về tình hình thực tế liên quan trực tiếp đến các vấn đề thuộc nội dung sách
+ Giải thích các khái niệm, thuật ngữ nêu ra trong nội dung sách
+ Các quy định của pháp luật về vấn đề nêu trong nội dung sách
+ Các điểm mới, điểm sửa đổi, bổ sung (nếu có) so với các quy định pháp luật trước đây
+ Hướng dẫn thực hiện.
Tất cả các nội dung trong sách đều phải viết thật ngắn gọn, cô đọng, rõ ràng mạch lạc dễ hiểu
để sách không quá dài và quá nhiều chữ.
4.3. Sách pháp luật bỏ túi
Nội dung sách pháp luật bỏ túi thường chỉ đề cập đến một hoặc hai vấn đề. Mỗi vấn đề là một
phần độc lập. Trong từng phần, bố cục như sau:
+ Giải thích các khái niệm, thuật ngữ nêu ra trong nội dung sách
+ Các quy định của pháp luật về vấn đề nêu trong nội dung sách
+ Hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật trong nội dung.
Nội dung sách phải viết ngắn, gọn. Có thể viết chữ to nếu sách dành cho trẻ em, cho đồng bào dân
tộc thiểu số, hoặc các đối tượng sau xố mù chữ
Chương 5
CÁC HÌNH THỨC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT KHÁC
25