Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Nghiên cứu bệnh héo rũ gốc mốc đen (aspergillus niger) hại lạc vụ xuân 2012 tại huyện diễn châu nghệ an và biện pháp hóa học phòng trừ bệnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 82 trang )

1

Bộ GIáO DụC Và ĐàO TạO

Trờng đại học vinh
---------********---------

NGHIÊN CứU BệNH HéO Rũ GốC MốC ĐEN (Aspergillus niger)
hại lạc vụ xuân 2012 tại huyện diễn châu,
tỉnh nghệ an và biện pháp hóa học phòng trừ

KHOá LUậN tốt nghiệp
kĩ s ngành nông học

Sinh viên thực hiện : nguyễn khắc danh
Lớp
: 49K Nông Học

Giáo viên hớng dẫn

: Th.s Ngô Thị Mai Vi

NghÖ An – 2012
[


2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Nghiên cứu bệnh héo rũ gốc mốc đen (Aspergillus
niger) hại lạc vụ Xuân 2012 tại huyện Diễn Châu, Nghệ An và biện pháp hóa học


phịng trừ bệnh” là hồn tồn trung thực do chính tơi nghiên cứu, các số liệu là qua
nghiên cứu để rút ra kết luận, không lấy từ bấy kỳ một đề tài nào.

Sinh viên

Nguyễn Khắc Danh


3

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu và Ban Chủ Nhiệm Khoa Nông
Lâm Ngư Trường Đại Học Vinh đã sắp xếp, bố trí tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi
trong suốt thời gian thực tập tốt nghiệp.
Tôi xin bày tỏ long biết ơn sâu sắc nhất tới cô giáo Th.S Ngô Thị Mai Vi,
người trực tiếp hướng dẫn tơi hồn thành khóa luận tốt nghiệp.
Tơi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ kỹ thuật phịng thí
nghiệm tổ THTN Nơng Lâm Ngư – Trung tâm THTN Trường Đại học Vinh đã tận
tình chỉ bảo tôi và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian thực tập.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình bạn bè, đã giúp đỡ tôi về vật
chất và tinh thần trong quá trình làm khóa luận tốt nghiệp.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

Cửa Lò, tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Nguyễn Khắc Danh


4


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Cây lạc (Arachis hypogaea L.) là một lồi cây thực phẩm thuộc họ Đậu có
nguồn gốc tại Trung và Nam Mỹ. là cây công nghiệp ngắn ngày, có giá trị kinh tế
cao. Cây lạc chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thế giới khơng chỉ do
được gieo trồng trên diện tích lớn ở trên 100 nước, mà cịn vì hạt lạc chứa 22- 26%
prơtêin và 45- 50% lipít, là nguồn bổ sung đạm, chất béo quan trọng cho con người,
hạt lạc được sử dụng rất rộng rãi để làm thực phẩm và nguyên liệu cho công nghiệp.
Bên cạnh giá trị to lớn về dinh dưỡng cho con người và là nguyên liệu cho các
ngành khác, cây lạc còn là cây quan trọng nhất trong hệ thống luân canh cây trồng
đạt hiệu quả cao vì nó cịn có tác dụng cải tạo đất rất tốt. Nhu cầu sử dụng và tiêu
thụ lạc ngày càng tăng đã và đang khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất lạc với
quy mô ngày càng mở rộng ở các quốc gia trên thế giới.
Ngày nay cây lạc ngày càng được chú ý do nó mang nhiều lợi ích về mặt kinh
tế nên nó được chú ý phát triển trên diện rộng trên toàn Thế Giới. Ở Việt Nam trong
những năm gần đây đã và đang tiến hành chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Trong đó,
việc đưa cây lạc vào sản xuất với vai trò cây trồng chủ lực là yếu tố đảm bảo sự phát
triển bền vững sinh thái nông nghiệp và phát triển kinh tế
Từ những ưu điểm trên, cây lạc đang được quan tâm phát triển cả về diện
tích, năng suất và sản lượng.
Trong hai thập kỷ cuối thế kỷ 20, sản xuất lạc ở nhiều nước trên thế giới đã
đạt được những thành tựu to lớn. bí quyết thành cơng trong chiến lược phát triển sản
xuất lạc của các quốc gia là nhờ ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học công
nghệ mới trên đồng ruộng của nông dân. Trong những năm gần đây, nhờ áp dụng
các tiến bộ kỹ thuật về giống mới, kỹ thuật canh tác tiến bộ như che phủ nilon, thời
vụ gieo trồng, phân bón. Đặc biệt việc đưa cây lạc vào trồng trong vụ thu đông ở
nước ta đã làm tăng sản lượng lên 30- 40%. Theo kế hoạch của Bộ Nông Nghiệp và
Phát triển nông thôn trong năm 2012 tăng diện tích trồng lạc từ 235 lên 240 nghìn ha
đồng thời tăng năng suất đạt 516 nghìn tấn.



5

Để đạt được mục tiêu đó, cần đẩy mạnh cơng tác nghiên cứu khoa học kỹ
thuật và triển khai áp dụng tiến bộ cho nông dân trên đồng ruộng. Theo các nhà khoa
học đã khẳng định một trong những nguyên nhân làm hạn chế năng suất lạc là do
chưa áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật và chưa khai thác, tận dụng hết tiềm
năng để tăng năng suất và sản lượng lạc. Năng suất giữa các vùng, quốc gia và lãnh
thổ cịn có sự chênh lệch lớn, năng suất giữa thí nghiệm và thực tiễn sản xuất của
nơng dân cịn cách biệt khá xa. Vì vậy việc tập trung nghiên cứu tìm ra các giải pháp
kỹ thuật, giúp nơng dân thâm canh tăng năng suất lạc là địi hỏi cấp bách, trong sản
xuất.
Trong những năm gần đây, sự gia tăng về diện tích trồng và việc áp dụng các
biện pháp kỹ thuật thâm canh làm phát sinh ngày càng nhiều dịch hại trên cây trồng,
đặc biệt là nhóm nấm gây bệnh đốm lá lạc. Nhóm nấm này phát sinh và gây hại
trong cả chu kỳ sống của cây trên đồng ruộng, ảnh hưởng đến chất lượng hạt giống.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự giảm sút về năng suất
và phẩm chất lạc.
Ở Nghệ An với tổng diện tích lạc gần 22.000 ha mỗi năm, các huyện Quỳnh
Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, Nam Đàn, Thanh Chương, Đô Lương và Anh Sơn la
những vùng trồng lạc chủ yếu. Các giống lạc địa phương như lạc Sen, lạc Cúc năng
suất thấp đã dần được thay thế bằng các loại giống lạc mới có năng suất cao như
L14, L18, MĐ7, L08, L24, L26…đạt 40 tạ/ha. Có nhiều mơ hình trồng lạc đạt năng
suất trên 5 tấn/ha. Để đóng góp cơ sở khoa học cho việc đánh giá mức độ nhiễm
bệnh của một số giống lạc, dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Ngô Thị Mai Vi, chúng
tôi tiến hành thực hiện đề tài: “ Nghiên cứu bệnh héo rũ gốc mốc đen (Aspergillus
niger) hại lạc vụ Xuân 2012 tại huyện Diễn Châu, Nghệ An và biện pháp hóa học
phịng trừ bệnh”



6

2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
2.1 Mục đích
- Xác định thành phần và đánh giá mức độ nhiễm bệnh do nấm gây hại trên
hạt giống lạc thu thập tại vùng Diễn Châu - Nghệ An.
- Xác định tình hình nhiễm nấm Aspergillus niger trên các mẫu đất thu thập
tại vùng Diễn Châu - Nghệ An.
- Đánh giá mức độ gây hại, nghiên cứu đặc điểm phát sinh phát triển của nấm
Aspergillus niger gây bệnh héo rũ gốc mốc đen hại lạc vụ xuân 2012 và khảo sát
biện pháp hóa học phịng trừ bệnh tại vùng Diễn Châu - Nghệ An.
2.2 Yêu cầu
- Giám định thành phần nấm gây bệnh trên các mẫu hạt giống lạc thu thập tại
vùng Diễn Châu - Nghệ An.
- Xác định tình hình và mức độ (tỷ lệ) nhiễm từng loại nấm của các mẫu hạt
giống thu thập tại vùng Diễn Châu - Nghệ An.
- Đánh giá tình hình (tỷ lệ mẫu) nhiễm nấm Aspergillus niger của các mẫu
đất thu thập tại vùng Diễn Châu - Nghệ An.
- Điều tra giám định thành phần bệnh hại lạc vụ xuân 2012 tại vùng Diễn
Châu - Nghệ An.
- Điều tra diễn biến bệnh bệnh héo rũ gốc mốc đen (Aspergillus niger)hại lạc
trong vụ xuân 2012 tại vùng Diễn Châu - Nghệ An.
-Đánh giá tình hình (tỷ lệ mẫu) nhiễm nấm Aspergillus niger trên các mẫu đất
thu thập tại vùng Diễn Châu - Nghệ An.
- Đánh giá khả năng phòng trừ nấm Aspergillus niger hại lạc bằng thuốc hóa
học trong điều kiện chậu vại, nhà lưới.


7


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1

Cơ sở khoa học và cơ sỏ thực tiễn của đề tài

1.1.1Cơ sở khoa học
Tác nhân gây bệnh trên cây lạc bao gồm: nấm, vi khuẩn, virus, tuyến trùng...
Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài chúng tơi đề cập đến nấm gây bệnh và các nịi
chủng của nó. Nấm là tác nhân gây nên nhiều loại bệnh nguy hiểm và phổ biến hơn
hết. Các dạng hạch nấm bảo tồn lâu dài vài ba năm ở trạng thái tĩnh trong tự nhiên
vẫn khơng mất sức sống.
Vì vậy, nắm được các đặc điểm về nguồn bệnh chúng ta sẽ có các biện pháp
phịng trừ chính xác, đem lại hiệu quả cao. Để gây hại, nguồn bệnh phải trải qua quá
trình xâm nhiễm. Quá trình xâm nhiễm và sự phát sinh, phát triển của bệnh phụ
thuộc rất nhiều vào các yếu tố ngoại cảnh, đối với các loại bệnh khác nhau thì ảnh
hưởng của điều kiện ngoại cảnh cũng khác nhau. Các tác nhân gây bệnh khác nhau
thì quá trình xâm nhiễm khác nhau. Đối với bệnh do nấm gây ra, quá trình xâm
nhiễm bắt đầu giai đoạn tiếp xúc của bào tử trên bề mặt kí chủ. Bào tử có thể nảy
mầm gián tiếp hay trực tiếp. Sự nảy mầm chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố ngoại
cảnh nhưng quan trọng nhất là ẩm độ và nhiệt độ. Đa số các bào tử nấm nảy mầm tốt
trong điều kiện ẩm độ cao và nhiệt độ từ 18 - 22 0C. Sau nảy mầm nấm sẽ xâm nhập
qua bề mặt kí chủ. Khi hồn tồn xâm nhập, bằng các chất enzim, chất sinh trưởng
và các độc tố nấm sẽ phân hủy cấu trúc tế bào để hấp thụ dinh dưỡng và nuôi sống
bản thân. Với các bệnh hại lạc, nấm bệnh cũng cần đòi hỏi những điều kiện về nhiệt
độ và ẩm độ nhất định. Bệnh héo rũ gốc mốc đen (Aspergillus niger) sinh trưởng và
phát triển khi nhiệt độ trên 250C và mưa nhiều. Vì vậy chúng ta cần nắm được các
yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát sinh, phát triển của các tác nhân gây bệnh cũng
như đặc điểm sinh trưởng của cây trồng để đưa ra các biện pháp phịng trừ thích
hợp.



8

1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Nghệ An là vùng thâm canh lạc lớn của cả nước, với tổng diện tích 23.800 ha
chiếm 5% diện tích trồng lạc trên tồn quốc. Trình độ sản xuất người dân khá cao.
Khí hậu phức tạp với ảnh hưởng của gió Lào khơ nóng mùa hè, gió Đơng bắc lạnh
ẩm mùa đơng. Tỉ lệ sâu bệnh hại trên cây lạc cịn nhiều.
Bệnh hại là nhóm đối tượng gây hại nhiều tới cây lạc. Tỉ lệ nhiễm bệnh của
cây trên đồng ruộng là rất cao gây ảnh hưởng tới năng suất cũng như phẩm chất của
cây lạc. Do bệnh héo rũ gốc mốc đen gây hại trực tiếp lên hạt giống và và trong tồn
bộ q trình sinh trưởng và phát triển của cây lạc nên ảnh hưởng rất lớn tới tổng
năng suất của cây. Dù vậy, việc phịng trừ bệnh hại khơng được người dân quan tâm
đúng mức vì bệnh khơng gây hại trên diện rộng trong thời kì đầu phát triển. Thường
thì người dân khơng phịng bệnh, khi thấy bệnh phát triển mạnh thì phun thuốc hóa
học để trừ bệnh. Thuốc hóa học mang lại hiệu quả trị bệnh nhưng nó có ảnh hưởng
tới sức khỏe người tiêu dùng và môi trường sinh thái. Việc nghiên cứu chủng nòi
của nấm gây bệnh hại cây lạc sẽ tạo tiền đề để sử dụng các biện pháp phòng trừ một
cách phù hợp và hiệu quả nhất. Để có thể giảm thiểu mức độ độc hại khi sử dụng các
biện pháp hóa học hay sử dụng các biện pháp khác để phòng trừ bệnh héo rũ gốc
mốc đen hại lạc nhằm nâng cao năng suất và phẩm chất của cây trồng.
1.2
1.2.1

Tình hình sản xuất lạc trên thế giới và Việt Nam
Tình hình sản xuất lạc trên thế giới
Cây lạc là cây họ đậu có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế. Hiện nay cây lạc

được trồng trên 100 quốc gia, song tình hình sản xuất giữa các vùng, các quốc gia

không đều nhau. So với thập niên 60, 70 tình hình sản xuất lạc hiện nay đã có những
bước nhảy vọt về cả chất và lượng.
Cây lạc đang đứng thứ hai trong số các cây lấy dầu thực vật ( về diện tích và
sản lượng) sau đậu tương với diện tích gieo trồng 20 – 21 triệu ha/năm, tổng sản
lượng 25,5 – 26 triệu tấn. Vùng sản xuất lạc chủ yếu trên thế giới là vùng nhiệt đới
và á nhiệt đới của lục địa Á – Phi.


9

Năng suất cao đạt ở Israel trên 6,7 tấn/ha, tiếp sau là Mỹ với năng suất 3,21 –
3,51 tấn/ha
Các nước đứng đầu về sản lượng lạc trên thế giới hiện nay là Trung Quốc
(12,49 triệu tấn ), Ấn Độ (5,51 triệu tấn ), Indonexia (0,78 triệu tấn ), Achentina
(0,61 triệu tấn ) – Theo FAO 2009
Bảng 1.1 Diện tích, năng suất, tổng sản lượng lạc ở một số nước trên thế giới
Nước

Ấn Độ

Diện tích

Nguồn: Tổng cục thống kê 2006
Năng suất
Tổng sản lượng

( triệu ha )

( Tạ/ha )


(Triệu tấn)

8.00

9.4

7.50

Trung Quốc
5.10
29.6
15.10
Nigeria
1.23
12.3
1.51
Mỹ
0.53
35.4
1.88
Senegan
0.80
5.6
0.45
Indonexia
0.65
16.0
1.04
Myanma
0.59

12.0
0.71
Tại khu vực Đơng Nam Á thì diện tích trồng lạc khơng nhiều. Một số nước
có diện tích trồng lạc khá cao như Indonecia 0,62 triệu ha, Việt Nam 0,53 triệu ha,
Thái Lan 0,13 triệu ha.
Diện tích và sản lượng lạc trên thế giới những năm qua khơng đều nhau, có
tăng giảm giữa các năm. Giữa các vùng khác nhau trên thế giới cũng phân bố không
đều. Đứng đầu là châu Á, chiếm khoảng 51% về diện tích ( 11,86 triệu ha) và 61%
về sản lượng ( 21,70 triệu tấn). Tiếp theo là châu Phi với diện tích khoảng 45%
( 10,60 triệu ha) và sản lượng chiếm khoảng 31% ( 10,88 triệu tấn).
Trong các nước sản xuất lạc trên thế giới, sản lượng lạc của Trung Quốc là
lớn nhất ( 13 triệu tấn) và thấp nhất là Chad ( 450 nghìn tấn).
Yêu cầu về nhập khẩu lạc cũng tăng nhiều do dầu lạc có thể thay thế cho mỡ
động vật. Dầu lạc là sản phẩm chính và cần thiết cho con người.
1.2.2

Tình hình sản xuất lạc ở Việt Nam
Ở Việt Nam lạc là sản phẩm quan trọng để xuất khẩu và sản xuất dầu ăn mà


10

hiện nay nước ta còn phải nhập khẩu. Hơn thế nữa cây lạc đóng vai trị đặc biệt quan
trong trong hệ thống nông nghiệp ở vùng nhiệt đới bán khô hạn như Việt Nam nơi
có nền khí hậu và canh tác khó khăn.
Trong số 25 nước trịng lạc ở châu Á Việt Nam đứng thứ 5 về sản lượng
nhưng năng suất còn thấp.
Lạc ở nước ta được trồng rải rác khắp các vùng. Diện tích trồng lạc chiếm
40% diện tích cây cơng nghiệp ngắn ngày. Trong đó, vùng Tây Ngun và Đơng
Nam Bộ chiếm tới 30% diện tích trồng lạc của cả nước và được trồng chủ yếu trên

đât đỏ bazan, đất phù sa không được bồi hàng năm.
Sáu vùng trồng lạc chính trong nước:
Vùng đồng bằng sơng Hồng lạc được trồng chủ yếu ở Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hà
Tây, Nam Định, Ninh Bình với diện tích 31400 ha.
Vùng Đơng Bắc lạc được trồng chủ yếu ở Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Nguyên
với diện tích 30300 ha.
Vùng duyên hải Bắc Trung Bộ là vùng trọng điểm với diện tích 74000 ha,
chủ yếu tập trung ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa.
Vùng duyên hải Nam Trung Bộ tập trung ở Quảng Nam, Bình Định với diện
tích 2312 ha.
Tây Ngun diện tích trông 22900 ha tập trung chủ yếu ở Đăclak (18200 ha).
Vùng Đơng Nam Bộ được trồng ở Tây Ninh, Bình Thuận, Bình Dương với
diện tích 42010 ha.
Trong những năm gần đây sản lượng và năng suất lạc ngày càng được nâng
cao.

Bảng 1.2 Tình hình sản xuất lạc trong những năm vừa qua
Năm

Diện Tích
( Nghìn ha)

Năng suất

Sản Lượng

( Tạ/ha )

( Nghìn tấn)



11

2005

269,6

18,2

489,3

2006

264,7

18,7

462,5

2007

254,3

20,1

510,0

2008

256,0


20,9

533,8

2009

250,0

21,1

529,6

2010

231,4

21,1

487,2
Nguồn FAO, 2010

Từ bảng trên cho thấy năng suất và sản lượng lạc tại Việt Nam tăng đáng kể,
năng suất tăng từ 18,2 tạ/ha (2005) lên 21,1 tạ/ha (2010) sản lượng tăng từ 489,3
nghìn tấn (2005) lên 529,6 nghìn tấn (2009).
Bảng 1.3 Diện tích, năng suất và sản lượng các vùng 2010
Vùng

Diện Tích
(ha)


Năng suất

Sản lượng

(tạ/ha)

(nghìn tấn)

Đồng bằng sơng Hồng

28,3

24,0

71,4

Đơng Bắc

43,5

17,7

77,1

Bắc Trung Bộ

74,9

20,4


152,5

Nam Trung Bộ

26,5

19,1

50,7

17,2

30,4

Tây Nguyên

17,7

Đông Nam Bộ

35,9

25,3

91

Đồng bằng sông

13,3


33,1

42,3

Cửu Long
Nguồn: Bộ Nơng nghiệp và phát triển nơng thơn
1.2.3 Tình hình sản xuất lạc ở Nghệ An
Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn nhất cả nước, đồng thời cũng là tỉnh đứng
đầu về diện tích trồng lạc. Diện tích, năng suất và sản lượng lạc trong những năm
vừa qua được biểu diễn dưới bảng sau:
Bảng 1.4 Tình hình sản xuất lạc ở Nghệ An trong những năm vừa qua
Năm

Diện Tích

Năng suất

Sản Lượng


12

(Nghìn)

(Tạ/ha )

(Nghìn tấn)

2006


23,3

19,8

46,1

2007

24,2

21,7

53,0

2008

23,4

22,2

52,0

2009

23,8

22,3

53,0


2010

24,0

22,8

55,0

Nguồn: Bộ Nơng nghiệp và phát triển nơng thôn
Năng suất lạc ở Nghệ An đang tăng dần theo năm. Từ 19,8 tạ/ha (2006) đã
tăng lên 22,8 tạ/ha (2010).
Hiện nay Nghệ An sản xuất 3 vụ lạc/năm. Vụ lạc Xn (Vụ chính) có diện
tích trên dưới 20 nghìn ha, sản phẩm chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu, vụ Thu – Đơng
chủ yếu cung cấp giống cho vụ chính và một phần làm hàng hóa các tỉnh bạn, vụ lạc
hè có diện tích trồng hàng năm trên 2000 ha, chủ yếu phục vụ cho tiêu dùng, chế
biến và một phần được để làm giống.
Trên địa bàn huyện Diễn Châu hiện nay có tới trên một nghìn hộ nhỏ lẻ thu
mua lạc và ba doanh nghiệp vừa thu vừa mua, chế biến và xuất khẩu lạc. Các năm
trước lạc Diễn Châu xuất khẩu sang Trung Quốc theo đường tiểu ngạch nên gặp
nhiều rủi ro về giá. Hiện nây hầu hết sản phẩm lạc đã tìm được hướng xuất khẩu
chính ngạch sang các nước Thái Lan, Indonexia ổn định được cả giá cả và thị
trường.
1.3
1.3.1

Tình hình nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam
Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Bệnh héo, chết cây là một hiện tượng tổng hợp do nhiều nguyên nhân khác


nhau gây ra, cùng xen lấn và phát sinh trên đồng ruộng. Những loại hình héo rũ gây
chết cây tuy có đặc thù riêng nhưng đều có triệu chứng chung là cây héo khô, chết rũ
nên được gọi chung là triệu chứng bệnh héo rũ. Những cây bị nhiễm bệnh phần lớn
bị héo và chết, nếu còn sống cũng mất khả năng cho năng suất hoặc cho năng suất
thấp, phẩm chất hạt kém.Nguyên nhân gây bệnh đã được rất nhiều tác giả trong và
ngoài nước nghiên cứu, sau đây là một số nghiên cứu trên thế giới.


13

Nấm bệnh A. niger tồn tại trong đất, trên hạt giống với tỷ lệ hạt bị nhiễm bệnh
lên tới 90%. Nấm bệnh truyền qua đất và có khả năng phát triển mạnh trong điều kiện
biến động lớn của độ ẩm đất, chất lượng hạt giống kém và tỷ lệ sát thương cao. Độc tố
do nấm sản sinh gây ra ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây như rễ quăn xoắn, biến dạng
ngọn, thậm chí cả các axit béo tự do trong hạt cũng chứa độc tố. Nhóm bệnh héo rũ gây
chết cây hại lạc là một trong những nhóm bệnh gây hại nguy hiểm và làm thiệt hại năng
suất một cách rõ rệt của các vùng trông lạc trên thế giới.
Những nghiên cứu về nhóm bệnh héo rũ chết cây có thể tóm tắt như sau:
1.3.1.1 Bệnh héo rũ gốc mốc đen (Aspergillus niger)
Nấm A. niger là loài nấm tồn tại trong đất gây bệnh héo rũ lạc đồng thời là
lồi nấm hại hạt điển hình (John Damicone, 1999) [19]. Trên thế giới, đã có rất
nhiều những nghiên cứu về nấm A. niger, người ta đã phân lập được 37 lồi gây hại
trên thực vật. Nấm A. niger khơng chỉ gây hại trên cây trồng mà chúng còn được
quan tâm như là một nguyên nhân gây bệnh cho người và động vật. Ngồi ra, chúng
cịn được sử dụng như một nguồn vi sinh vật cho sản xuất một số loại enzyme của
ngành công nghệ chế biến
Năm 1998, D.J. Allen và J.M. Lenne cho biết bệnh héo rũ gốc mốc đen được
phát hiện lần đầu tiên tại Sumatra vào năm 1926, nhưng thực tế loài nấm gây bệnh
này đã được ghi nhận từ những năm 1920, gây biến dạng mầm củ và biến màu vỏ
lạc, hạt lạc. Còn ở Châu Á, bệnh được ghi nhận đầu tiên tại Andhara Pradesh năm

1980 theo N. Kokalis Burelle (1997).[21]
Ở Mỹ, bệnh héo rũ gốc mốc đen ngày càng trở nên quan trọng từ đầu những
năm 1970 khi việc xử lý hạt bằng thuốc có chứa thuỷ ngân bị cấm và nó đã trở thành
một vấn để ở Florida đầu những năm 1980.
Ở Ấn Độ, tổn thất do bệnh hại lạc ngoài đốm lá và gỉ sắt thì bệnh héo rũ gốc
mốc đen là một trong những nhân tố quan trọng gây nên năng suất thấp với tỷ lệ
nhiễm khoảng từ 5 – 10%. Nếu nhiễm trong khoảng 50 ngày sau gieo sẽ gây thiệt
hại nghiêm trọng và có thể gây chết tới 40% số cây.
Nấm A. niger tồn tại trong đất, trên hạt giống với tỷ lệ hạt bị nhiễm bệnh lên


14

tới 90%. Nấm bệnh truyền qua đất và có khả năng phát triển mạnh trong điều kiện
biến động lớn của độ ẩm đất, chất lượng hạt giống kém và tỷ lệ sát thương cao (N –
Kokalis et al., 1984)[21]. Độc tố do nấm sản sinh gây ra ảnh hưởng đến sinh trưởng
của cây như rễ quăn xoắn, biến dạng ngọn, thậm chí cả các axit béo tự do trong hạt
cũng chứa độc tố (D.J. Allen and J.M. LennÐ,1998).[20]
1.3.1.2 Bệnh héo rũ gốc mốc trắng (Sclerotium rolfsii)
Bệnh héo rũ gốc mốc trắng gây hại phổ biến ở các vùng trồng lạc trên thế giới.
Thiệt hại về năng suất do bệnh gây ra ước tính khoảng 25 - 80% (Jackson, C.R ,1962).
Bệnh phát triển thuận lợi trong điều kiện nhiệt độ 25 – 30 0 C và ẩm độ cao. Bệnh
lan truyền qua đất, qua hạt giống. Sự phát sinh, phát triển của bệnh phụ thuộc vào nhiều
yếu tố. Sự tác động qua lại của các chất khoáng, độ pH đất và kỹ thuật trồng trọt đều có
ảnh hưởng đến sự phát sinh phát triển của bệnh.
Sợi nấm màu trắng phát triển rất mạnh trên vết bệnh, từ sợi nấm hình thành
nên hạch nấm. Hạch nấm lúc đầu có màu trắng, về sau chuyển thành màu nâu, có thể
hình trịn đường kính 1- 2 mm (Purseglove J.W, 1968). Hạch nấm có thể tồn tại từ
năm này sang năm khác ở tầng đất mặt (Aycook R, 1974). Nấm sử dụng chất hữu cơ
làm dinh dưỡng, sản sinh ra axit oxalic và enzyme phân huỷ mơ ký chủ. Nấm này

thuộc loại háo khí ưa ẩm và nhiệt độ cao 300C (Mc.Carter S.M, 1993).
Ở vùng Georgia của Mỹ, tổn thất do bệnh gây ra ước tính 43 triệu USD/năm
(N.KoKalis-Burelle, 1997).[21]
1.3.1.3 Bệnh lở cổ rễ lạc (Rhizoctonia solani Kuhn)
Nấm Rhizoctonia solani sản sinh ra một lượng lớn enzyme cellulilitic,
pectinolitic và các độc tố thực vật. Đây chính là nguyên nhân gây ra bệnh thối hạt
làm chết cây con, thối lá mầm, thối rễ, thối tia củ và gây cháy lá lạc khi nấm này
xâm nhập vào cây (Kokalis N. et al., 1997)
Rhizoctonia solani là một trong những lồi nấm có nguồn gốc trong đất quan
trọng, có phạm vi ký chủ rất rộng với những triệu chứng gây hại phong phú trên những
bộ phận khác nhau của cây trồng. Rhizoctonia solani được phát hiện lần đầu tiên trên
cây khoai tây ở Châu Âu và được Kulh mô tả chi tiết năm 1858.


15

Ngoài truyền bệnh qua đất và tàn dư cây trồng, R.solani cịn có khả năng
truyền

qua

hạt

giống.

Theo

những

nghiên


cứu



Scotland,

R. solani có khả năng truyền qua hạt giống lạc với tỷ lệ 11%, còn ở Mỹ tỷ lệ này lên
tới 30% (Kokalis N. et al., 1997).
Trong những năm gần đây, bệnh do nấm Rhizoctonia solani gây ra tương đối
nguy hiểm đối với các vùng trồng lạc trên thế giới. Ở miền Nam nước Mỹ, lở cổ rễ
lạc đã trở thành một vấn đề cấp bách. Hàng năm ở Geogia (Mỹ) thiệt hại do bệnh
gây ra ước tính khoảng hơn 1 tỷ USD (Kokalis N. et al., 1997)
1.3.1.4 Bệnh héo vàng (Fusarium sp)
Các loài nấm Fusarium sp đã được nghiên cứu từ khoảng đầu thế kỉ XIX. Đến
nay đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về nâm Fusarium sp. đã được cơng bố và
có ý nghĩa lớn trong sự phát triển của khoa học kĩ thuật. Nấm Fusarim spp. có mặt
nhiều trên các vùng trồng lạc trên thế giới. Trong 17 loài Fusarium sp. đã được phân
lập từ đất trồng lạc, chỉ có 6 lồi gây bệnh cho lạc (Kokalis N. et al., 1984)[21]
Trên thân lạc, nấm Fusarium sp. xâm nhiễm làm cho cây non, rễ và trụ dưới lá
mầm bị biến mầu xám, mọng nước. Cây con bị bệnh sẽ bị ức chế sinh trưởng, chóp rễ
bị hố nâu, dẫn đến bị thối khơ do F. solani. Khi cây đã trưởng thành F. oxysporum gây
hiện tượng thối rễ làm cho cây héo từ từ hoặc héo rũ, lá cây chuyến sang màu vàng
hoặc xanh xám (N. Kokalis et al., 1984)[21]
Burgess (1983- 1985) khi nghiên cứu về độc tố của nấm Fusarium
oxysporum cho thấy chỉ có một số ít lồi nấm có khả năng gây độc như Fusarium
compactum là loại nấm hoại sinh nhưng sản sinh ra hàm lượng độc tố cao thuộc
nhóm Trichothecene (Wing et al, 1993).
Ở Libya, nấm F. solani và nấm F. scirpi đã được xác định là nguyên nhân
chính gây thối quả. Tản nấm Fusarium sp. có màu trắng kem, sợi nấm đa bào mảnh

và xốp, có thể hình thành nhiều bào tử phân sinh khi có mặt của giọt nước. Biện pháp
phòng trừ bệnh héo vàng do nấm Fusarium sp. chủ yếu là làm ải và luân canh cây trồng
cho hiệu quả cao
1.4.1 Nghiên cứu thành phần bệnh trên lá


16

Lá là bộ phận giữ chức năng quang hợp của cây. Bệnh hại trên lá làm giảm
diện tích quang hợp do tạo ra các vết thương và kích thích rụng lá. Tùy nơi, tùy từng
thời điểm mà bệnh hại lá có thể làm giảm từ 10-50% năng suất.
Trong nhóm bệnh này thì phổ biến nhất là bệnh đốm đen, đốm nâu và gỉ sắt,
v.v... gây hại phổ biến ở các vùng trồng lạc trên thế giới
1.4.1.1

Bệnh đốm nâu (Cercospora arachidicola Hori)
Bệnh đốm nâu chủ yếu gây hại trên lá, nếu bệnh nặng có thể lan xuống cuống

lá, cành và thân. Vết bệnh có dạng gần trịn, đường kính 1- 1-mm, có màu nâu tối.
Xung quanh vết bệnh có quầng vàng, trên bề mặt lá, nơi bào tử được sinh ra nhiều
nhất thường có bệnh nâu sáng ở dưới. Trong quá trình xâm nhiễm gây hại nấm
Cercospora arachidicola cịn sản sinh độc tố Cercospora ức chế sự hoạt động của lá
làm lá già cỗi, chóng tàn và khơ rụng sớm.
Theo Jenkins (1939) và Chupp (1953): giai đoạn sinh sản vơ tính của nấm
Cercospora arachidiola cá cành bào tử phân sinh đâm thẳng, đa bào có 4- 14 vách
ngăn ngang, khơng màu.
Giai đoạn sinh sản hữu tính của nấm này có tên là Mycosphaerella arachidis
Deighton thường tạo quả thể bầu, màu đen. Đây chính là dạng bảo tồn qua đơng của
nấm trong đất và tàn dư cây bệnh.
1.4.1.2 Bệnh đốm đen (Cercospora personata Berk & Curtis)

Năm 1985, Ellis và Everhad khi kiểm tra mẫu bệnh ở Alabama và Nam
Carolina đã có kết luận rằng nấm bệnh thuộc loại Cercospora sp. và đặt tên là
Cercospora personatum. Hiện nay, tên nấm này được đổi thành Cercospora
personata.
Bệnh xuất hiện muộn và có triệu chứng tương đối giống bệnh đốm nâu nên
còn gọi là bệnh đốm là muộn (late leaf spot ). Bệnh đốm đen có mức độ nguy hiểm
hơn bệnh đốm nâu.
Ở Ấn độ, bệnh đốm đen đã gây tổn thất về năng suất từ 20 - 70% tuỳ theo từng
vùng và từng thời vụ gieo trồng (Sharief, 1972), ở Thái Lan năng suất giảm 27 - 85%
(Schiller, 1978), ở Trung Quốc thiệt hại là 15 - 59% (Ehouliang, 1987).


17

Bệnh đốm đen có thể gây hại ở tất cả các bộ phận trên mặt đất của cây lạc
như thân, cành nhưng lá là bộ phận bị hại nặng nhất. Nấm cũng sản sinh ra độc tố
Cercosporin kìm hãm sự hoạt động của lá gây hiện tượng rụng lá sớm. Trong giai
đoạn sinh sản hữu tính, nấm tạo quả thể bầu. Đây chính là dạng bảo tồn qua đơng
của nấm trong đất và tàn dư cây bệnh.
Nguồn bệnh có thể tồn tại từ mùa này sang mùa khác trên cây lạc dại hoặc lạc
trồng. Bệnh có thể lan truyền qua tàn dư thực vật đã bị nhiễm hoặc do di chuyển qua
hạt bị nhiễm bào tử.
1.4.1.3 Bệnh gỉ sắt Puccinia arachidis Speg
Bệnh có thể gây thiệt hại đến 50% năng suất, khi kết hợp với bệnh đốm đen
có thể gây thiệt hại tới 70% năng suất đôi khi thất thu hoàn toàn (N- Kokalis et al.,
1984).
Bào tử nảy mầm tốt nhất ở điều kiện nhiệt độ và ẩm độ: 29 - 31 0C, 75 - 78%.
Trong điều kiện nhiệt độ ánh sáng yếu hạ bào tử phát triển thuận lợi nhất, nước đọng
lại trên lá bệnh dễ dàng lây lan. Thời gian ủ bệnh thường 7-20 ngày phụ thuộc vào
môi trường và giống lạc. Những cơn mưa đứt quãng với ẩm độ tương đối trên 87%

và nhiệt độ 23-240C trong nhiều ngày là điều kiện thuận lợi cho dịch hại phát triển.
Sau khi thời tiết trở nên khô hanh nhiệt độ trên 26 0C, ẩm độ tương đối dưới 75% sẽ
làm giảm mức độ gây bệnh. Nấm Puccinia arachidis không qua đông trên tàn dư
cây trồng.
Nấm bệnh gây hại làm giảm chất lượng, kích thước hạt (Anthur, 1929) và làm
giảm hàm lượng dầu trong hạt (Castcellani, 1959). Nấm gây hại trên tất cả các bộ
phận trên mặt đất của cây, trừ hoa. Vết bệnh trên lá là những ổ nổi màu vàng nâu,
màu rỉ sắt, xung quanh có quầng nhạt.
Bệnh thường gây chết hoại và làm lá khô đi mà khơng rụng xuống.
1.4.2 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Trong những năm 1990 – 1996 các cán bộ khoa học ở Việt Nam đã phối hợp
với chuyên gia của ICRISAT điều tra có hệ thống để xác định tình hình bệnh hại lạc


18

ở các vùng lạc trọng điểm của Việt Nam. Có 30 loại bệnh đã được ghi nhận với các
mức độ tác hại khác nhau. Trong số đó có khoảng 10 bệnh hại được xác định phổ
biến như: Héo xanh vi khuẩn, đốm đen, đốm nâu, gỉ sắt, thối đen, lở cổ rễ, héo rũ
gốc mốc trắng, mốc xám, mốc vàng, thối quả.
Tập đoàn bệnh hại lạc ở Việt Nam khá phong phú với khoảng hơn 30 loại
bệnh với mức độ gây hại khác nhau, trong đó có khoảng 10 bệnh được xác định là
phổ biến như: Bệnh héo xanh vi khuẩn, đốm đen, đốm nâu, gỉ sắt, thối đen, lở cổ rễ,
thối thân trắng, mốc xám, mốc vàng, thối quả (Nguyễn Văn Viết, 2002).[12]
Tại miền Nam Việt Nam, Hanson Herbet (Mỹ) đã mô tả các bệnh đốm đen,
đốm nâu, gỉ sắt, cháy lá trên lạc.
Viện bảo vệ thực vật (1970) đã xác định nhóm bệnh hại lá là nhóm bệnh hại
chủ yếu và gây khó khăn cho cơng tác phịng trừ chúng.
Kết quả điều tra nguyên nhân gây chết héo lạc của Nguyễn Thị Ly, Phan Bích
Thu (1993)[10] và kết quả điều tra thành phần bệnh hại lạc của Nguyễn Xuân Hồng,

Nguyễn Thị Xuyến (1991)[13] đều xác định bệnh chết héo do Sclerotium rolfsii gây
ra là một trong những bệnh phổ biến và là một trong những nguyên nhân làm giảm
năng suất lạc. Ở vùng Đông Nam Bộ trước thu hoạch tỷ lệ bệnh có nơi lên dến 8 –
10 %. Ở Miền Bắc Việt Nam đã phát hiện những ruộng cục bộ có tỷ lệ cây bệnh lên
đến 20 – 25%.[16]
Trong danh mục bệnh hại lạc ở Việt Nam 2000, Lê Song Dự đã thông báo
danh sách 10 loại vi sinh vật gây bệnh héo chết cây trên lạc là: Thối gốc mốc đen
(A. Niger), thối gốc mốc trắng (S. Phaseoli), thối nâu rễ (Fusarium spp.), thối đen
(Pythium spp.), thối rễ (M.phaselina), héo xanh vi khuẩn (P.solanaearum), khô thân
(Diplodia), héo cây (Verticium dahiae), mốc vàng (A.flavus) và lở cổ rễ (R.solani)
[6]. Danh sách này đã được Nguyễn Thị Ly và cộng sự thông báo vào năm 1996,
đây là nguyên nhân gây bệnh chết héo cây lạc ở một số địa phương Hà Bắc, Nghệ
An.[9]
Theo kết quả nghiên cứu của Lê Như Cương ( 2004)[5], tại một số vùng sinh
thái ở tỉnh Thừa Thiên Huế có 6 loại bệnh héo rũ lạc là: Lở cổ rễ (R.solani, thối gốc


19

mốc đen (A. Niger), héo rũ gốc mốc trắng (S.rolfsii), héo rũ vàng (Fusarium spp.),
héo rũ tái xanh (Ralstonia. Solanaearum), héo do tuyến trùng (Meloidogyne sp.). Tại
Việt Nam hiện nay đã tìm thấy 4 lồi Fusarium gây bệnh cho lạc là: F.oxysporum,
F.solani, F.roseum và F.tricinetum (Nguyễn Kim Vân và cộng sự, 2000).[8]
Đỗ Tấn Dũng (2001)[3] cho biết: A. Niger là một trong ba tác nhân chính gây
bệnh héo rũ chết cây phổ biến và có tác hại nghiêm trọng trên các vùng trồng lạc.
Theo kết quả nghiên cứu của Ngô Bích Hảo về bệnh hại lạc cho biết nấm A. Niger
lây nhiễm trên nhiều hạt giống như: đậu đỗ, lạc, ngô với tỉ lệ hạt bị nhiễm tới trên
30%. Theo tác giả Nguyễn Khánh Ly (1993)[10] đã xác định có khoảng 30 – 85%
số mẫu lạc kiểm tra có khả năng sản sinh độc tố Aflatoxin do nấm Aspergillus flavus
gây ra.

Năm 1965, ở hợp tác xã Kiều Thượng – Nam Đàn – Nghệ An và một số vùng
khác, lạc chết héo giảm 70% năng suất. Ở vùng trung du Bắc Bộ, bệnh khá phổ biến
nhưng tỉ lệ héo và gây chết thường ít hơn khoảng 10% ( Lê Lương Tề, 1967).[6]
Nhiều kết quả nghiên cứu trong nước gần đây cho thấy Aspergillus flavus
thường tấn cơng vào lạc từ khi cịn trên đồng ruộng. Ngay sau khi thu hoạch đã có
tới hơn 66% mẫu thu thập bị nhiễm bệnh. Trong đó lạc thu hoạch vụ đông xuân
nhiễm bệnh nặng hơn lạc thu và lạc thu hoạch muộn có tỉ lệ bệnh cao hơn lạc thu
hoạch sớm ( Nguyễn Văn Viết, 2002).[13]
Năm 1988 – 1990, nghiên cứu của Nguyễn Xuân Hồng và nhóm cộng tác
viên đã xác nhận nhóm bệnh hại lá bao gồm: Đốm nâu, đốm đen, gỉ sắt là bệnh hại
lạc phổ biến nhất nước ta. Thiệt hại do bệnh gây ra trên 40% năng suất, hầu hết các
giống đang trồng trên miền Bắc nước ta đều có khả năng nhiễm các bệnh nói trên.
[14]
1.3.3 Biện pháp phịng trừ bệnh hại lạc ở Việt Nam
Biện pháp sinh học (BPSH) phòng chống dịch hại là một lĩnh vực khoa học
tương đối mới ở nước ta. Mặc dù BPSH phòng trừ dich hại trên thế giới đã có kết
quả thành cơng cách đây hơn 100 năm, nhưng những nghiên cứu đầu tiên về BPSH


20

ở Việt Nam mới chỉ bắt đầu từ những năm đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX (Phạm Văn
Lầm, 1995)[15]
Từ lâu, việc nghiên cứu ứng dụng BPSH trừ dịch hại nông nghiệp được nhiều
nhà khoa học, nhiều cơ quan quan tâm, xúc tiến mạnh mẽ ở nước ta. Các nghiên cứu
này chủ yếu tập trung vào BPSH trừ sâu hại: nghiên cứu khu hệ thiên địch của sâu
hại, đánh giá vai trò của thiên địch trong hạn chế số lượng sâu hại, nghiên cứu sinh
học, sinh thái học của một số thiên địch phổ biến, nghiên cứu sử dụng ong mắt đỏ,
chế phẩm virus, nấm,… , (Trung tâm đấu tranh sinh học, 1996)[17]
Trong những năm gần đây, bệnh hại lạc đã gây hại rất phổ biến ở nhiều vùng

trong cả nước. Để hạn chế tác hại của bệnh gây ra thì đã có nhiều biện pháp phịng
trừ được nghiên cứu và công bố.
Trong tất cả các biện pháp đưa ra thì biện pháp hố học vẫn được người dân
sử dụng nhiều nhất do chi phí thấp, giá thành rẻ và tiện lợi hơn trong việc sử dụng
cũng như hiệu quả về mặt tức thì.
Đối với bệnh đốm lá, dùng thuốc Anvil 5 - 10EC, Carbenzim 50 WP, Tilsuper 300 ND,… để phun trừ [13].
Bệnh thối gốc thân lạc lần đầu được ghi nhận và nghiên cứu trên lạc tại nước
ta. Cơng tác phịng trừ bệnh chết cây thường gặp khó khăn do nấm gây bệnh xâm
nhập vào bộ phận nằm dưới mặt đất như rễ, quả, tia quả,... Xử lý hạt giống bằng
thuốc hoá học là biện pháp rất hiệu quả và kinh tế với nhóm bệnh chết cây lạc. Các
thuốc sử dụng trong nghiên cứu là Rovral 750WG (Iprodione); Vicarben 50WP
(Carbendazime); Topsin M 70WP (Thiophanate - metyl) và Viben C 50 WP
(Benomyl). Kết quả nghiên cứu đã cho thấy biện pháp xử lý hạt có tác dụng trong
tăng tỷ lệ nảy mầm, hạn chế sự xuất hiện của nấm ký sinh trên hạt, từ đó làm tăng tỷ
lệ mọc trên đồng ruộng và làm giảm tỷ lệ bệnh chết cây con (kết quả rõ nhất với
bệnh thối đen cổ rễ) [12].
Bệnh héo rũ do vi khuẩn chưa có thuốc đặc trị nên biện pháp hạn chế thiệt hại
và tránh lây lan bằng cách phun hoặc rắc 2 - 3 gói Penac P khi làm đất. Dùng Staner
20 WP hoặc Kasugamycin 5% BTN, Kasuran 5% BTN kịp thời khi bệnh chớm xuất



×