Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ thơ nguyễn đình thi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.31 KB, 117 trang )

Mở Đầu
1-Lý Do Chọn Đề Tài :
Trong luận văn này, chúng tôi chọn đề tài Ngôn ngữ thơ Nguyễn Đình Thi vì
những lý do sau :
1.1 Về mặt lý luận :
Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật nói chung, ngôn ngữ thơ ca nói riêng là một
trong những mảng đề tài nghiên cứu ngôn ngữ trong hoạt động ,nhất đó lại là một
lĩnh vực hoạt động đặc thù: hoạt động nghệ thuật.
Việc nghiên cứu ngôn ngữ thơ ca, trong đó tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ của
một tác giả là một trong những h-ớng đi cần thiết của việc nghiên cứu ngôn ngữ
học vừa mang tính chuyên sâu, vừa mang tính liên ngành hiện nay .
Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đa tài trên nhiều lĩnh vực, có nhiều tác phẩm
nổi tiếng thuộc nhiều thể loại. Trong đó, với t- cách là một nhà thơ, qua thi phẩm
của mình, ông đà có những tìm tòi, những đóng góp lớn, tạo nên một phong cách,
một giọng điệu thơ khác lạ trong thơ Việt Nam hiện đại. Bởi vậy, việc nghiên cứu
ngôn ngữ thơ Nguyễn Đình Thi không chỉ góp phần tìm hiểu phong cách ngôn ngữ
của một tác giả lớn mà còn góp phần tìm hiểu ngôn ngữ thơ ca Cách mạng nói
riêng trong suốt mấy chục năm qua.
1.2 Về mặt thực tiễn:
Thơ văn Nguyễn Đình Thi đà đ-ợc đ-a vào giảng dạy trong nhà tr-ờng. Việc
nghiên cứu thơ ông góp phần phân tích thơ của tác giả không chỉ trên bình diện nội
dung mà còn ở bình diện hình thức, nghệ thuật ngôn từ , một lĩnh vực mà cho ®Õn
nay ch-a cã mét sù nghiªn cøu cã hƯ thèng và chuyên sâu t-ơng xứng với sự đóng
góp và tầm cỡ của ông trong nền thơ ca Cách mạng Việt Nam.
2 - Mục Đích , Nhiệm Vụ Nghiên cứu :
2.1- Mục đích :
Luận văn nhằm làm sáng tỏ các vấn đề sau :
a-Đặc điểm cơ bản của thơ Nguyễn Đình Thi từ các ph-ơng diện: cách sử
dụng ngôn từ , cách tổ chức nội dung, cấu tạo các đơn vị trong th¬.



b- Các đặc tr-ng phong cách tiêu biểu và những đóng góp của nhà thơ về
ph-ơng diện nghệ thuật tổ chức ngôn ngữ thơ.
2. 2- Nhiệm vụ :
Tuyển tập thơ Nguyễn Đình Thi gồm 107 bài , tập hợp từ các tập thơ : Ng-ời
chiến sĩ (1956, 1958), Bài thơ Hắc Hải (1959, 1961), Dòng sông trong xanh
(1974), Tia nắng (1983), Trong c¸t bơi (1990), Sãng reo (1998).
NhiƯm vơ cđa luận văn là :
a. Điểm qua lịch sử nghiên cứu thơ Nguyễn Đình Thi, trong đó chú ý mảng
nghiên cứu sự phát triển ngôn ngữ thơ Nguyễn Đình Thi trong mấy chục năm qua
b. Tìm hiểu các ph-ơng diện hình thức, cấu tạo các câu thơ, bài thơ Nguyễn
Đình Thi .
c. Tìm hiểu nội dung phản ánh, các loại ngữ nghĩa, các hình ảnh thơ tiêu biểu
của tác giả.
3- Lịch Sử Vấn Đề :
3.1 Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đa tài. Sự nghiệp sáng tác văn ch-ơng
của ông bắt đầu nổi lên từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Lĩnh vực
nào, thể loại nào ông cũng có những đóng góp và những thành công xuất sắc. Bao
trùm lên tất cả những sáng tác của ông, dù đó là ca nhạc, nghiên cứu phê bình,
kịch, văn xuôi hay thơ, là một phong cách độc đáo về cách suy nghĩ, cách cảm
nhận, đặc biệt là cách dùng các hình ảnh, các liên t-ởng, cách thức sử dụng ngôn
từ .
Nhìn chung, giới phê bình nghiên cứu văn học Việt Nam cũng nh- n-ớc
ngoài, ở những cách nhìn tuy khác nhau, nh-ng đều đánh giá rất cao các tác phẩm
của ông. Sức mạnh của cây bút Nguyễn Đình Thi là sức mạnh của một nhà văn có
trình độ kiến thức về nhiều mặt (chính trị, triết học, mỹ học, âm nhạc, thi ca ), có
khả năng tổng hợp, nêu bật lên đ-ợc những t- t-ởng chủ đề lớn với chiều sâu và
tầm khái quát cao (47; tr.51).
3. 2- Nguyễn Đình Thi làm thơ không nhiều nh-ng đều đặn, trải dài trong
suốt thời gian từ những ngày đầu kháng chiến (1948) đến tận hôm nay (2002). Thơ


2


ông gắn bó với cuộc sống, chiến đấu, lao động, thể hiện những tình cảm trong
sáng,
đẹp đẽ về quê h-ơng đất n-ớc, thể hiện niềm vui, nỗi buồn của con ng-ời trong
cuộc đời, tuy vất vả , đau thương nhưng tươi thắm vô ngần .
ở giai đoạn đầu, các bài thơ của ông (đ-ợc in trong tập Ng-ời chiến sĩ
và Bài thơ Hắc Hải đà có nhiều ý kiến phê bình và đánh giá khác nhau. Đáng chú
ý là cuộc tranh luận về thơ Nguyễn Đình Thi tại Việt Bắc năm 1949. Trong cuộc
tranh luận này có hai loại ý kiến :
- Loại ý kiến thứ nhất: Phê phán loại thơ không vần của Nguyễn Đình Thi:
trúc trắc, khô khan, từ ngữ quá tiết kiệm nên khó hiểu. Thơ phải có vần, thơ không
vần không phải là thơ. (Cực đoan hơn, có ý kiến còn đề nghị loại bỏ thơ Nguyễn
Đình Thi ra khỏi thơ kháng chiến). Có nhận xét cho rằng các bài thơ (ở giai đoạn
đầu) của ông còn đề cập đế những điều, những việc còn xa rời thực tiễn, ch-a hoà
vào được tâm hồn đại chúng . Thơ anh nh- hạt ngọc lung linh, chứ không phải là
dòng suối lôi cuốn người ta đi (47; tr. 222)
- Loại ý kiến thứ hai: Tán đồng những tìm tòi, thử nghiệm của Nguyễn Đình
Thi. Đánh giá thơ ông rất thành công. Kết tội thơ Nguyễn Đình Thi không vần là
không đúng. Miễn sao thơ phải có một tâm hồn, một nhạc điệu rung cảm được
người ta , tức là thơ (47; tr.222)
Qua các ý kiến khác nhau ấy, ta có thể thấy: Thơ Nguyễn Đình Thi đà tạo ra
một phong cách khác lạ, nhà thơ là người nhiều tài, nhiều thông minh, thích tìm
những cái mới (47; tr. 224). Đồng thời, nhiều ý kiến cũng đà chỉ ra những chỗ
còn ch-a đ-ợc của thơ ông .
Sau hội nghị ấy, nhà thơ đà nhìn lại các sáng tác của mình. Thơ ông đà gắn
bó, gần gũi hơn với đời sống xà hội và nỗi niềm của quần chúng. Những bài thơ
đ-ợc sáng tác sau đó và cho đến hôm nay, đ-ợc đánh giá rất cao, tạo ra một phong
cách, một giọng điệu không lẫn với ai. Thơ Nguyễn Đình Thi là kiểu thơ hiện đại

đích thực từ nội dung đế hình thức. Làm thơ là một việc khó khăn vô cùng. Đó là
con đ-ờng mà ng-ời ta có đi mà không có đến. Nh-ng nhà văn hoá lớn Nguyễn
Đình Thi đà đi và đà đến với t- cách là một nhà thơ hiện đại có diện mạo và sắc
thái riêng biệt trên thi đàn Việt Nam (7; tr. 248 )

3


3.3- Trong các nhận xét, đánh giá của những ng-ời nghiên cứu, phê bình, đọc thơ
Nguyễn Đình Thi, có rất nhiều ý kiến nhận xét liên quan đến một số ph-ơng diện
ngôn ngữ trong thơ ông .
Các bài nghiên cứu, các ý kiến thảo luận về thơ Nguyễn Đình Thi nổi lên
mấy điểm :
a-Loại thơ không vần: ngôn ngữ tiết kiêm mạch thơ trúc trắc .
b-Ngôn ngữ thơ, hình thức thơ có sự tìm tòi, đổi mới, sáng tạo .
c-Ngôn ngữ thơ giản dị (điệu nói) giàu hình ảnh, hình thức câu thơ phóng
khoáng ..
Trên đây, chúng tôi tóm l-ợc những điểm chủ yếu quá trình nghiên cứu thơ
Nguyễn Đình Thi . Nhìn chung, những ý kiến trên chỉ nêu một số đặc điểm khái
quát về nhiều ph-ơng diện hoặc chỉ dừng lại phân tích một số bài thơ tiêu biểu .
Luận văn sẽ tiếp thu và đi sâu vào khảo sát khía cạnh ngôn ngữ nh- mục
đích đà đề ra .
4. Ph-ơng Pháp Nghiên Cứu:
Luận văn tiến hành nghiên cứu thơ Nguyễn Đình Thi từ góc độ ngôn ngữ
học. H-ớng tiếp cận của đề tài là từ những vấn đề lý luận soi vào những vấn đề cụ
thể; kết hợp giữa phân tích và tổng hợp, tổng hợp và phân tích để tìm ra những
điểm phổ quát và riêng biệt về đặc tr-ng phong cách ngôn ngữ của một tác giả.
Để thực hiện đ-ợc mục tiêu đà đề ra, trong quá trình khảo sát, chúng tôi sử
dụng các ph-ơng pháp thống kê , phân loại nguồn t- liệu , ph-ơng pháp phân tích
và chứng minh trong từng luận điểm; ph-ơng pháp đối chiếu để làm rõ những đặc

điểm chung và riêng của đối t-ợng nghiên cứu.
5- Cái mới của đề tài :
5.1 . Nêu một cách có hệ thống các đặc điểm ngôn ngữ thơ Nguyễn Đình Thi
từ những sáng tác ban đầu cho đến thời gian gần đây .
5. 2 . Khẳng định bằng số liệu, dẫn chứng những đặc tr-ng cơ bản về ngôn
ngữ thơ Nguyễn Đình Thi .
6 -Bố cục của luận văn :
4


Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của luận văn gồm :
Ch-ơng 1 : Thơ và ngôn ngữ thơ Nguyễn Đình Thi
Ch-ơng 2 : Đặc điểm hình thức của thơ Nguyễn Đình Thi
Ch-ơng 3 : Đặc điểm ngôn ngữ thể hiện nội dung thơ của Nguyễn §×nh Thi

5


Ch-ơng 1
Thơ và ngôn ngữ thơ Nguyễn Đình Thi
1 -Thơ và ngôn ngữ thơ
1.1- Một số đặc điểm của thơ .
Theo các nhà nghiên cứu, thơ ca là một loại hình nghệ thuật ra đời từ rất sớm,
khi xà hội loại ng-ời còn thời kỳ hoang sơ. Trong hình thái cổ sơ nhất, thơ ca tồn
tại d-ới dạng những bài hát lễ nghi, những lời phù chú, đ-ợc sử dụng trong các hội
hè và tôn giáo. Thơ bắt đầu từ cái ngày khi con người cảm thấy cần phải tự bộc lộ
mình (Hê- ghel). Thơ ca, đó là hình thức phổ biến (còn đối với thi sĩ, thì đó lại là
hình thức chủ yếu ) để bộc lộ tâm tình. ở dân tộc nào và thời đại nào cũng vậy .
Thơ là gì ? là một câu hỏi đặt ra từ lâu. Bằng trực quan cảm tính thì ai cũng
dễ thấy nh-ng để đ-a ra lời giải đáp rõ ràng, có cơ sở khoa học, thì không đơn giản

chút nào. Trong nghiên cứu, việc xác định về một quan niệm, một định nghĩa thơ
là cần thiết. Ng-ời ta đà bàn nhiều về thơ. Các ý kiến thật là đa dạng, thậm chí đối
lập nhau. Điều đó phần vì do quan điểm, do đứng ở nhiều góc độ khác nhau, phần
vì thơ là một loại hình nghệ thuật độc đáo đặc sắc nh-ng cũng vô cùng phức tạp về
nhiều ph-ơng diện.
Điểm qua một số công trình nghiên cứu về thơ, có thể thấy những điểm cơ
bản th-ờng đ-ợc nêu lên là :
Thơ là tiếng nói của tình cảm con ng-ời, là sợi dây th-ơng mến ràng buộc
con ng-ời, bộc lộ tình cảm con người. Thơ là một hành động giao cảm, một hành
động tín nhiệm (Solmi & Cadoresi); (Dẫn theo 17 ; tr.17). Thơ là một điệu hồn
đi tìm những hồn đồng điệu. Thơ là tiếng nói tri âm (Tố Hữu)
Thơ là tiếng nói của tâm hồn, của niềm mong -ớc. ở đặc điểm này, các ý kiến
phát biểu dưới những dạng khác nhau. Thơ ca đáp ứng một nhu cầu mơ ước (J.
Gaucheron). Thơ là một giấc mơ qua đấy người ta mơ ước về một cuộc đời tốt
đẹp hơn (S .Prudhomme). Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao
đẹp (Sóng Hồng). Cái chỗ đến cuối cùng của thơ là phải đem đến một cái gì
nâng sự sống lên (Huy Cận ) .
Thơ là một ph-ơng diện tinh hoa của con ng-ời và tạo vật. Nhiều ý kiến nhìn
nhận thơ ở góc độ này. Thơ là cái nhuỵ của cuộc sống (Tố Hữu). Thơ là lọc
6


lấy tinh chất, là sự vật được phản ánh vào trong tâm tình (Xuân Diệu). Thơ là hoa
tiểu thuyết là quả (Nguyễn Đình Thi ). Thơ là tinh hoa là thể chất cô đọng của
trí tuệ và tình cảm (Thanh Tịnh). Thơ là sự sống tập trung cao độ, là cái lõi của
cuộc sống (Lưu Trọng Lư ).
Thơ ca là sự sáng tạo. Bản chất của nghệ thuật là sáng tạo. Thơ ca là sáng
tạo của sáng tạo (P. Gamara) Thi sĩ là những người sáng tạo ra những quy tắc
của thi ca (Maiacôpxki). ( Dẫn theo17; tr 18 ).
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng đà có lần phát biểu rằng: Thơ ông là một

cuộc tìm tòi ... Nói đến thơ, đó là một cái gì tha thiết nhất của tôi" (tuy nó có cái
vui của nó ). (47; tr. 225 ).
Trên đây chúng tôi l-ợc dẫn một số quan niệm, một số định nghĩa về thơ.
Qua đó có thể rút ra một nhận xét chung rằng: Thơ ca là một loại hình nghệ thuật
liên quan đến nhiều mặt của đời sống, là một sản phẩm đặc biệt của lao động nghệ
thuật, có tính đặc thù và sáng tạo.
1 .2- Ngôn ngữ thơ .
Mọi ý t-ởng, mọi cảm xúc của con ng-ời chỉ có thể trở nên rõ ràng, mạch
lạc khi thể hiện qua ngôn ngữ. Ng-ời ta th-ờng nhắc đến một luận điểm: Tác phẩm
văn ch-ơng là nghệ thuật của ngôn từ , chính là nói đến vai trò của ngôn ngữ trong
sáng tạo nghệ thuật. Quả đúng nh- vậy .
Thơ ca có một hình thức tổ chức đặc thù .
Tr-ớc hết nhìn vào hình thức, trên trang in, các yếu tố ngôn ngữ thơ không
dày đặc nh- văn xuôi. Thơ có nhiều khoảng trống. Câu thơ củng khác câu văn
xuôi, ngắt nhịp ngắt dòng cũng khác. Đó là hình thức đầu tiên mà ng-ời ta có thể
nhận thấy. Trên cái nền tổ chức hữu hạn, đặc thù ấy, sự thể hiện các yếu tố về vần
điệu, nhịp điệu , ý nghĩa ... đà tạo cho ngôn ngữ thơ một phẩm chất đặc biệt. Thơ
là một kiến trúc đầy âm vang (Hê- ghel).
Ngôn ngữ thơ ca tr-ớc hết là một thứ ngôn ngữ đ-ợc trau chuốt, tinh luyên
từ ngôn ngữ nguyên liệu lời nói hàng ngày. Maiacôpski cho rằng: Quá trình
sáng tạo ngôn ngữ thơ ca cũng giống nh- những ng-ời lọc quặng, lọc ra cái tinh
chất.. . Thơ ca là cái tinh hoa tối cao của ngôn ngữ, là cái ánh ngời phi th-ờng của
nó.
7


Nội dung phản ánh của thơ ca cũng không có gì khác ngoài đời sống xÃ
hội, nh-ng cái quan trọng là nó tạo ra cảm xúc, tạo nên những rung động trong tâm
hồn với những liên tưởng theo nhiều chiều hướng khác nhau. Thơ...chỉ chọn một
ít điểm chính, bấm vào những điểm ấy thì toàn thể động lên theo (Nguyễn Đình

Thi ). Vì vậy mà một bầu trời trong xanh, một con sóng vỗ bờ, một ánh sao trong
vũng n-ớc đêm, một tiếng còi tàu . .... đều có thể là thi liệu của thơ , qua đó mà
nảy nở cảm xúc vốn ẩn tàng trong mỗi con ng-ời. Nh-ng đặc tr-ng hơn cả là cách
thức biểu hiện ngôn từ và hình thức tổ chức bài thơ. Với thơ, ng-ời ta không chỉ
tiếp nhận cả cái hình thức đặc thù của nó. Có nghĩa là với thơ, ng-ời ta không chỉ
thấy đ-ợc những suy nghĩ khác th-ờng, cảm xúc khác th-ờng mà còn là cách diễn
đạt khác thường. Giáo sư Phan Ngọc nhận xét: Thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ
hết sức quái đản để bắt ng-ời tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và phải suy nghĩ do
chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này (35; tr. 29, 30 ).
Quả thực, trong giao tiếp hàng ngày, không ai lại tổ chức ngôn ngữ nh- thế.
Hình thức đó làm nên sức sống lâu bền cho thơ, dễ nhớ, dễ thuộc. Do đó mà văn
xuôi có một thứ ngữ pháp riêng, và thơ lại có một thứ ngữ pháp riêng, không
giống văn xuôi .
Trong thơ, các yếu tố âm tiết, vần, nhịp, dòng thơ, khổ thơ và niêm luật khác
làm nên diện mạo và hình thức riêng cho nó, (nh- các thể lục bát và Đ-ờng
luật).
Tuy vậy, cùng với sự phát triển của đời sống xà hội, thơ ca ngày càng mở
rộng nội dung phản ánh, nhất là hình thức biểu hiện. Nhiều sự biến đổi, cách tân về
hình thức đà làm cho nó ngày càng đi về phía đại chúng, hơn thế, đi về h-ớng tự
nhiên hơn, diễn tả đ-ợc muôn mặt tế vi của đời th-ờng. Thể thơ tự do ra đời, không
phá vỡ cú pháp thơ đà tồn tại hàng ngàn năm, mà đà mở ra cho thơ một h-ớng diễn
đạt mới trên cái nền trun thèng. ChÝnh nhê h×nh thøc cã tÝnh un chun và
linh hoạt mà thơ mới có thể diển tả dễ dàng hơn những điều mà ng-ời ta có thể
nghĩ ra , và cứ ngỡ rằng chỉ nói đ-ợc bằng văn xuôi:
M-a đi ! M-a đi ! M-a cho mÃnh liệt
M-a lèm nhèm chúng tôi chẳng thích đâu
Nh-ng chẳng có m-a rào thì cứ m-a ngâu
Hạt m-a bụi ... m-a li ti cũng đ-ợc
8



Mặt chúng tôi ngửa lên hứng n-ớc
Một giọt nhỏ thôi , cát cũng dịu đi nhiều
(Đợi m-a trên đảo Sinh Tồn Trần Đăng Khoa )
Sự phát triển thơ theo h-ớng giản nở vần nhịp, tiến tới câu thơ tự do, tự nhiên
nh- lời nói thông th-ờng:
Anh không ở lại yêu hoa mÃi đ-ợc
Thiêu xong, anh về các trời khác cũng đầy hoa
Chỉ tiếc không có tình yêu ở đó .
Anh thành một nhúm x-ơng gio trong bình
Em đừng khóc
Ngoài v-ờn hoa cỏ mọc
Cho dù trái đất không còn anh
Anh vẫn còn nguyên trái đất
Tặng cho mình
(Di cảo thơ - Chế Lan Viên )
Trong thơ Việt Nam hiện đại, bên cạnh sáng tác theo thể thơ truyền thống,
nhiều tìm tòi đổi mới về hình thức đà làm cho câu thơ gần với câu văn xuôi:
Xe không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ mất rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất , nhìn trời ,nhìn thẳng
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính Phạm Tiến Duật )
Trong các nhà thơ Việt Nam hiện đại, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi,
Hoàng Cầm, Chính Hữu, Phạm Tiến Duật... là những ng-ời đà góp phần sáng tạo
ra những câu thơ rất gần gũi với văn xuôi nh-ng vẫn giàu chất thơ. Nguyễn Đình
Thi là người nêu những ý kiến mạnh mẽ về thơ tự do, thơ không vần: Nhiều nhà
thơ đang đập vỡ để xây dựng, thơ tìm tòi trăm ngàn phía nh-ng lúc nào cũng là
một sức đang lớn lên như thổi. Vần là một lợi khí rất đắc lực cho sự truyền
cảm. Nh-ng không phải hết vần là hết thơ ... Khi đà bỏ luật lệ rồi, đủ cảm xúc tự

nhiên thì cứ nói, thành vần cũng đ-ợc, không thì thôi. Nói nh- lêi nãi th-êng
vËy”. ( 47; tr.227).
9


Bằng thực tiễn sáng tác của mình, Nguyễn Đình Thi đà có những bài thơ tự
do không vần, nh-ng nó vẫn giàu chất thơ. Những hiện t-ợng này chúng ta sẽ có
dịp khảo sát ở ch-ơng sau.
Một trong những yếu tố quan trọng tạo chất thơ liên quan đến tổ chức ngôn
ngữ, mà cụ thể ở đây là tổ chức các tiếng vốn là một đơn vị rất cơ bản của câu
thơ- là nhịp điệu .
Nhịp điệu là một thuật ngữ đ-ợc nói đến trong nghiên cứu văn học, nh-ng
đây là một khái niệm còn nhiều cách hiểu rộng hẹp khác nhau. (47; tr.14). Có
thể hiểu rằng: Nhịp điệu là cách ngắt nhịp trong một dòng thơ (có thể là trong một
đoạn thơ, bài thơ). Nhịp điệu có chức năng vừa biểu thị ý t-ởng vừa biểu thị cảm
xúc.
Trong văn xuôi, nhịp điệu buông thả tự nhiên, vai trò ngữ nghĩa lấn át, bao
trùm, cho nên nhịp diệu th-ờng không đ-ợc cảm nhận rõ nét. Tuy vậy, ta vẫn thấy
rõ có những khi nhà văn đà sử dụng nhịp điệu làm cho câu văn có sức truyền cảm.
Ví dụ: Dân tộc ta, / nhân dân ta, / non sông ®Êt n-íc ta, / ®· sinh ra Hå Chđ
TÞch, / ng-ời anh hùng dân tộc vĩ đại / và chính Ng-ời đà làm rạng rỡ Tổ quốc ta /
nhân dân ta ./và non sông đất n-ớc ta /.
(Điêú văn do đồng chí Lê Duẩn đọc tại lễ truy điệu Chủ Tich Hồ Chí Minh
ngày 9-9-1969)
Tuy nhiên, so với văn xuôi, nhịp điệu trong thơ lại nổi lên rõ nét hơn .
Maiacôpxky nhấn mạnh: Nhịp điệu là sức mạnh cơ bản, năng lượng cơ bản của
câu thơ. Còn N. Tinianôp phân biệt rõ nhịp điệu văn xuôi và thơ: Trong văn
xuôi, (nhờ sự đồng thời của lời nói), thời gian đ-ợc cảm thấy rất rõ, hiển nhiên đó
không phải là những t-ơng quan về thời gian có thực giữa các sự kiện mà chỉ là
những t-ơng quan có tính -ớc lệ. Trong thơ thì thời gian không thể cảm giác đ-ợc.

Các tiểu tiết của chủ đề và những đơn vị lớn của chủ đề đều đ-ợc cân bằng bởi cấu
trúc của thơ. (Dẫn theo 14; tr. 42).
ở cấp độ tổ chức một bài thơ, đơn vị để thể hiện nhịp (ngắt nhịp ) là các
tiếng trong dòng thơ (câu thơ). Trong mỗi dòng thơ lại có cách ngắt nhịp phụ thuộc
vào thể thơ. Từ nhịp điệu chung của luật thơ ấy, ng-ời sáng tác sẽ có những cách
sử dụng linh hoạt, nhất là trong thơ tự do, rõ nhất là loại thơ không vần.
10


Một yếu tố không kém phần quan trọng của thơ là nhạc điệu. Nhạc điệu
đ-ợc hình thành do các yếu tố ngắt nhịp, phối thanh, gieo vần ... giữa các tiếng
trong dòng thơ và trong cả bài thơ. Paul Valery định nghĩa: Thơ là sự phân vân
kéo dài giữa âm thanh và ý nghĩa. (Dẫn theo 14; tr.45). Âm thanh ở đây chính là
tính nhạc của thơ. Thơ có thể không vần, nh-ng có nhịp điệu và nhạc điệu làm nên
chất thơ, chất nhạc
Ví dụ :

Có những buổi vui sao
Cả n-ớc lên đ-ờng
Xao xuyến bờ tre
Từng hồi trống giục
(Chính Hữu)

Nhiều bài thơ của Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Hoàng Cầm, Phạm Tiến
Duật không có vần, hoặc không quá nệ vào vần nh-ng vẫn rất giàu chất thơ, có sức
truyền cảm mạnh do nhịp điệu và nhạc điệu đ-ợc thể hiện trong đó. Chính Nguyễn
Đình Thi đà nói rõ nhịp điệu trong thơ không chỉ là nhịp điệu bằng bằng, trắc
trắc, lên bổng xuống trầm nh- tiếng đàn bên tai (...). Thơ có một thứ nhạc nữa, một
thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, nói chung là của
tâm hồn (...) Đó là nhịp điệu thành hình của cảm xúc, hình ảnh liên tiếp hoà hợp

mà những tiếng và chữ gợi ra những ngân vang dài; ngay những khoảng lung linh
giữa chữ, những khoảng im lặng cũng là nơi trú ngụ kín đáo của sự xúc động (49;
tr.50 ).
Tóm lại, từ những điều trình bày trên, có thể nhận xét rằng: Thơ là phản ánh
cuộc sống và biểu thị tâm trạng thông qua một hình thức rất đặc thù, khác th-ờng.
Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ nghệ thuật giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, những
điểm ấy tạo nên tính đặc thù của thơ trong sự phản ánh và biểu thị tâm trạng của
con ng-ờì .
Nói đến thơ - những khái niệm và đặc điểm xung quanh thuật ngữ này còn
nhiều vấn đề phức tạp. Trong khuôn khổ của một luận văn, chúng tôi chỉ đi vào
nhấn mạnh một vài khía cạnh mà theo chúng tôi là thực sự có liên quan đến thơ
Nguyễn Đình Thi và liên quan đến việc phân tích thơ Nguyễn Đình Thi từ góc độ
ngôn ngữ.
11


2. Nguyễn Đình Thi và thơ Nguyễn Đình Thi
2.1- Một vài nét về sự nghiệp văn ch-ơng của Nguyễn Đình Thi .
Nguyễn Đình Thi thuộc thế hệ mà sự nghiệp văn ch-ơng đ-ợc hình thành và
phát triển từ sau Cách mạng Tháng Tám. Tr-ớc khi đến với văn ch-ơng, ông tham
gia tích cực vào phong trào học sinh sinh viên yêu n-ớc và hội văn hoá cứu quốc
(1941- 1943). Hoà nhập vào không khí đấu tranh cách mạng của dân tộc, Nguyễn
Đình Thi đà sớm khẳng định sâu sắc t- cách công dân, t- cách của ng-ời tri thức
cách mạng. Những năm tháng hoạt động này đà góp phần hình thành bản lĩnh, vốn
sống và tài năng trong những sáng tác của ông. Ông viết về triết học, lý luận phê
bình. Những vấn đề về chính trị và văn nghệ đ-ợc soi sáng từ góc độ triết học, tạo
ra ấn t-ợng mạnh, một chất trí tuệ sắc sảo.
Ông là tác giả của những bài hát nổi tiếng: Diệt phát xít, Ng-ời Hà Nội
Ông viết nhiều vở kịch gây những sự kiệntrong đời sống sân khấu Việt Nam:
Con nai đen, Rừng trúc, Nguyễn TrÃi ở Đông Quan ... Các truyện ngắn của ông

đ-ợc đánh giá rất cao (Giải th-ởng báo văn nghệ 1951-1952). Ông là nhà văn nổi
tiếng với những tác phẩm mang tính sử thi (Vỡ Bờ) hoặc đề cập đến những vấn đề
nóng bỏng của chiến tranh (Xung kích (1951), Vào lửa (1966), Mặt trận trên cao
(1967) ...
Ông là tác giả của sáu tập thơ kết tinh những suy nghĩ cảm xúc mÃnh liệt của
ông về đất n-ớc, con ng-ời và thời đại trong những năm tháng không thể nào quên.
Có thể nói, ở lĩnh vực sáng tác nào, ông cũng để lại những thành tựu nổi bật.
Ông là một chứng nhân của nhiều hoàn cảnh lịch sử mà đời sống và sự
nghiệp văn ch-ơng cuả ông song hành với đời hoạt động cách mạng, đời kháng
chiến. Tất cả đà hình thành và phát triển ở ông một bản lĩnh vững vàng, một trình
độ văn hoá sâu rộng, một trí tuệ sắc sảo và đặc biệt rất giàu tính sáng tạo. Điều đó
in dấu rất rõ trong các tác phẩm của ông, nhất là trong thơ mà chúng ta có dịp tìm
hiểu ở phần tiếp theo .
2. 2 . Một số quan niệm của Nguyễn Đình Thi về thơ
Nguyễn Đình Thi không chỉ là ng-ời sáng tác nổi tiếng mà ông còn là một

12


nhà lý luận phê bình sắc sảo. Ng-ời ta nhận thấy giữa sáng tác và lý luận ở ông rất
nhất quán, hài hoà. Quan niêm của ông về nghệ thuật nói chung, thơ nói riêng
đ-ợc phát biểu khá hệ thống và rõ ràng. Điều này giúp cho ng-ời nghiên cứu về
thơ văn ông có một chổ dựa đáng tin cậy, nó góp phần lý giải những đặc điểm về
nội dung và hình thức trong các tác phẩm của ông.
Để có thể đi vào tìm hiểu thơ Nguyễn Đình Thi, thiết nghĩ cần nêu một số
quan niêm của ông về thơ đ-ợc trình bày d-ới dạng các bài viết hoặc bài nói, hay
những lời tâm sự phỏng vấn từ năm 1948 đến nay .
Trong một lần nói chuyện, Nguyễn Đình Thi bộc bạch : Tôi sinh ra không
phải trong một gia đình dòng dõi nho học, tuổi nhỏ của tôi ở ngoài chữ Hán. Khi đi
học tiểu học thời Pháp thuộc, tôi cũng đ-ợc học mỗi tuần một giờ chữ Hán trong

ba năm sơ học rồi thôi. Sau này làm nghề cầm bút, cũng phải tự học thêm chút ít
để hiểu nghĩa các từ gốc Hán khi dùng đến.
Do vậy, các từ ngữ gốc Hán không có mấy âm h-ởng trong trí t-ởng t-ợng
và xúc cảm của tôi, từ những ngày tôi còn nhỏ .
Ví dụ: nghe lâm tuyền, viễn phố tôi không cảm thấy gì nhiều nh-ng nghe
rừng suối, phố xa thì trong tôi gợi động lên nhiều thứ. Cái vốn sâu tiếng nói trong
tôi là lời ăn tiếng nói thông th-ờng và trong văn học là ca dao và thơ Nôm của các
nhà thơ cổ điển đời trước ( 46; tr.17).
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Đình Thi đà dành cho thơ một vị
trí trang trọng. Ông xem đây là một thể loại có thể bộc lộ đ-ợc những suy nghĩ,
chiêm nghiệm và những tình cảm chân thành nhất .
Khi nói về thơ, tr-ớc hết ông nhấn mạnh mặt cảm xúc. Ông nhận xét :
Tâm hồn chúng ta có một rung động khi nó ra khỏi tình trạng bình thường,
khi nó không chiếu theo thói quen nh- một dây da trong bộ máy, khi nó thức tỉnh
tự soi vào để tự nhận thấy đang ở một độ rung chuyển khác th-ờng, do một sự va
chạm nào với thời gian bên ngoài, với thiên nhiên, với những ng-ời khác, rồi do sự
tự soi sáng ấy mà cảm xúc hình thành được hẳn. (49; tr.67).
Nói về sự diễn đạt, ông nhận xét: Thơ của một thời mới trong những bước
đầu ít khi chịu đựng đ-ợc những chân trời rộng mở để tìm kiếm sức mới của nó ...
Văn xuôi lôi cuốn ng-ời nh- dòng n-ớc, đ-a ta đi lần l-ợt từ điểm này đến điểm
13


khác. Thơ trái lại chỉ chọn một ít điểm chính, bấm vào những điểm ấy thì toàn thể
động lên theo (49; tr47).
ở một đoạn khác, trở lại ý này, ông nhấn mạnh: Mỗi thể thơ có một khả
năng, một thứ nhịp điệu của nó nh-ng nếu theo dõi những thời kỳ lớn của lịch sử
thì một thời đại mới của nghệ thuật th-ờng bao giờ cũng tạo ra một hình thức mới.
Thơ của một thời mới trong những b-ớc đầu ít khi chịu những hình thức đều đặn,
cố định (49; tr. 80).

Những ý kiến của Nguyễn Đình Thi, về mặt lý luận cũng phù hợp với với
thực tiễn sáng tác của mình. Nhiều bài thơ của ông đ-ợc viết nột cách tự do, thoải
mái, không quá nệ vào vần điệu, không -a sự nhịp nhàng dễ dÃi của câu chữ. ý
t-ởng đó đà hình thành từ rất sớm trong những ngày đầu sáng tác thơ của ông.
Chúng ta nhớ rằng năm 1948, trong một hôi nghị tranh luận về thơ của mình,
tr-ớc các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng nh-: Tố Hữu, Xuân Diệu, Thế Lữ, Xuân Thuỷ,
Thanh Tịnh, Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố nhà thơ trẻ Nguyễn Đình Thi (lúc đó
mới 24 tuổi) đà phát biểu rất khảng khái về chủ đích, h-ớng đi, tình yêu sáng tác.
Đặc biệt, với loại thơ không vần mà lúc đó nhiều ng-ời tỏ ra không mặn mà,
Nguyễn đình Thi nói rõ:
"- Khi đà bỏ luật lệ rồi, đủ cảm xúc tự nhiên thì cứ nói thành vần cũng đ-ợc,
không thì thôi. Nói nh- lời nói th-ờng vậy.
-Rút ra những cái trong cuộc sống .
- Tôi mong đi tới những câu thơ nh- lời nói th-ờng mà đến độ cảm xúc mÃnh
liệt. Nếu cần nói một hơi dài dùng những câu dài. Nếu hơi ngắn thì nói ngắn.
Những hình ảnh thơ mới bây giờ tôi t-ởng t-ợng nó cần phải khoẻ, gân guốc, xù
xì, chất phác, chung đúc tự nhiên. Những bài thơ cũ, cùng một nhịp điệu đều đều
tôi không chịu được.

Bài thơ chất phác kia tác động vào tâm hồn ta hơn (47;

tr.227, 228).
Vai trò của từ ngữ, cũng được ông rất chú trọng: Chữ và tiếng trong thơ phải
còn có một giá trị khác, ngoài giá trị ý niệm. Ng-ời làm thơ chọn chữ và tiếng
không phải chỉ vì ý nghĩa của nó ... Điều kỳ diệu của thơ là mỗi chữ, ngoài ý
nghĩa của nó ... bỗng phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh những cảm xúc,
những hình ảnh không ngờ, toả ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy.
Sức mạnh của câu thơ là ở sức gợi ấy ( 47; tr.280 ).
14



Vai trò của nhịp điệu trong thơ cũng đ-ợc Nguyễn Đình Thi nhấn mạnh
nhiều lần. Nhưng ở đây, ông nói rõ nhịp điệu đặc trưng: Còn trong thơ, tiếng nói
đi ®Õn ngän ngn cđa nã, nh- tia lưa bay lªn từ tâm hồn con ng-ời đang xúc
động, nh- chiếc lá non từ chồi nụ nở ra. Mỗi từ nh- một viên ngọc nguyên thuỷ,
một giọt ánh sáng, và câu thơ nh- dòng n-ớc nguồn trong suốt. Tiếng nói thơ là
tiếng nói đầy âm nhạc, tiếng nói của nhịp điệu nhịp điệu của âm thanh vật chất,
của tiếng nói con ng-ời. Và nhịp điệu của những cảm xúc, ý nghĩ, trình tự hoà
quyện nối tiếp nhau. (46; tr.9)
Trên đây, chúng tôi l-ợc dẫn những luận điểm chính của Nguyễn Đình Thi
phát biểu về thơ nói chung, thơ của mình nói riêng. Có 3 điểm chủ yếu là:
1- Thơ là tiếng nói của cảm xúc chân thành từ trong đời sống. Thơ phải đ-ợc
viết ra từ ngôn ngữ của đời sống tâm hồn mình.
2 Ngôn ngữ thơ phải giàu hình ảnh, giàu sức gợi, giàu nhạc điệu.
3 Không câu nệ vào vần, thơ có thể nh- lời nói th-ờng, miễn là cảm xúc tự
nhiên.
Đây là những ý đ-ợc ông nêu ra một cách có hệ thống và nhất quán trong các
thời kỳ khác nhau. Những luận điểm này giúp ta tìm hiểu thơ ông và cũng góp
phần soi sáng hoặc tham khảo cho những vấn đề mà ngôn ngữ thơ đà và đang cần
giải đáp trong nghiên cứu từ tr-ớc đến nay .
3 - Những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu thơ Nguyễn Đình Thi
Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đa tài trên nhiều lĩnh vực. Nh-ng cũng có
ng-ời lấy làm tiếc là Nguyễn Đình Thi ham nhiều thứ quá, ham dựng nhiều
nhà quá!" Có người còn lo ngại sự đa tài ấy sẽ lại là cái hoạ của ông, rằng
chính ông lại tự che khuất ông!
Nh-ng bằng sự bền bỉ, kiên trì suốt hơn nữa thế kỷ sáng tác đà là một sự
minh chứng đầy tính thuyết phục, góp phần giải toả những lo ngại, thậm chí giải
toả những nhận định, đánh giá mà không phải lúc nào cũng thoả đáng về ông.
Nguyễn Đình Thi làm thơ không nhiều. Nh-ng ngay những bài thơ đầu tay,
thơ ông đà có một giọng điệu riêng và cứ thế rỉ rả cho đến tận bây giờ, góp vào

thi ca Việt Nam một thi pháp lạ, một vẻ đẹp sang träng” (12).
15


Điểm qua các ý kiến đánh giá về thơ Nguyễn Đình Thi, chúng ta thấy có mấy
điểm đ-ợc nhiều bài viết chú ý sau đây :
3.1 -Về phong cách nghệ thuật .
Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định thơ Nguyễn Đình Thi tạo ra một phong
cách mới lạ. Thơ Nguyễn Đình Thi đi theo một lối riêng, rất ít chịu ảnh hưởng
của thơ mới, không mô phỏng thơ ca cách mạng thời kỳ tr-ớc năm 1945. Ông nói
cái mới với phong cách mới, không lệ thuộc nhiều những yếu tố bên ngoài (Hà
Minh Đức; 47; tr.20). Thơ Nguyễn Đình Thi ngay từ những năm đầu của kháng
chiến chống Pháp đà ít nhiều mang một cảm xúc kín đáo, với dáng dấp mới lạ
(Nguyễn Xuân Nam; 34).
Thơ Nguyễn Đình Thi có cái chất ngời sáng như trong một số bài lý luận
của ông. Và nó càng ít có sự lôi cuốn say s-a, sự nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình
và chất hùng ca nh- trong nhạc của ông. Chất thơ Nguyễn Đình Thi thiên về trầm
t-, bình lặng t-ởng nh- nhà thơ vừa nói chậm rÃi vừa nghĩ ngợi về điều mình nói
(Trần Hữu Tá; 42).
3.2 Về đê tài, chủ đề
Thơ Nguyễn Đình Thi gắn liền với cách mạng, với hai cuộc kháng chiến thần
thánh của dân tộc, Với quan điểm nhất quán về thơ, từ các tập Ng-ời chiến sĩ, Bài
thơ Hắc Hải, Dòng sông trong xanh, đến Tia nắng rồi Trong cát bụi cảm hứng lớn
trong thơ Nguyễn Đình Thi tập trung vào cảm hứng về cách mạng, đất n-ớc trong
chiến tranh và xây d-ng trên cái nền đó là số phận, niềm vui và hạnh phúc của cá
nhân theo năm tháng của của cuộc đời. (16; tr.21)
Mọi sáng tác của Nguyễn Đình Thi, dù ở bất cứ ở lĩnh vực nào nhưng đặc
biệt là với thơ, bao giờ ông cũng gắn chặt với nỗi vui buồn của nhân dân và đất
nước ( 7; tr.250). Nổi bật lên nh- một điểm sáng xuyên suốt trong thơ anh là sự
quan tâm đối với vấn đề hạnh phúc của con ng-ời, con ng-ời lao động, con ng-ời

Việt Nam (29).
Có những nhà thơ chỉ nói cái vui chiến đấu và chiến thắng. Nguyễn Đình
Thi còn nói thêm những xót xa mất mát và có lúc hình nh- anh nhấn quá nhiều.
Nh-ng trái lại, cần nói anh hiểu rõ cái giá chúng ta phải trả, hiểu rõ phẩm chất cao
quý của đồng bào, ®ång chÝ chóng ta, hiĨu râ h¹nh phóc to lín mà chúng ta giành
được (43; tr.175) .
16


3.3 - Về hình thức ngôn ngữ
Nhiều ý kiến đánh giá sự mới lạ, cách tân trong hình thức, ngôn ngữ thơ
Nguyễn Đình Thi. ý kiến khen cũng nhiều và chê cũng không ít. Một số ý kiến cho
rằng: Thơ Nguyễn Đình thi trúc trắc, khó đọc. Có những bài ở giai đoạn đầu ch-a
nói đ-ợc nỗi niềm của quần chúng. Có nhiều câu thơ khó hiểu, một số bài còn có
sự u uất , gò bó ...
Nh-ng nhìn chung thơ Nguyễn Đình Thi đ-ợc đánh giá cao. Suy ngẫm thật
sâu thơ ông, ta dễ dàng thấy rằng, ngay từ những ngày đầu xuất hiện trên thi đàn
Việt Nam, Nguyễn Đình Thi đà ráo riết chủ trương cách tân triệt để hình thức câu
thơ, cách tân sâu sắc lối biểu cảm của thơ, đặc biệt đối với thể thơ thất ngôn ... Câu
thơ Nguyễn Đình Thi, thường biến ảo bất kỳ. Câu thơ dài ngắn, ngắt dòng hoàn
toàn tuỳ thuộc hơi mạch bên trong của tứ thơ, hồn thơ chứ không cố định, không bị
gò ép theo một thể thơ nào. Thơ Nguyễn Đình Thi được gạn chắt tinh tế, được viết
một cách chắc chắn, nhọc nhằn, kỷ lưỡng và đầy trách nhiệm (7; tr.251).
Lý giải về thơ không vần của Nguyễn Đình Thi, có ý kiến nhận xét chính vì
chú trọng đến hình ảnh trong thơ, Nguyễn Đình Thi không chú trọng nhiều đến
chức năng tạo nhạc, ng-ợc lại thiên về chức năng tạo hình của ngôn ngữ

(...).

Thơ Nguyễn Đình Thi th-ờng kiệm lời, đọc thơ ông ta bắt gặp một thi pháp hiện

đại : kiệm lời đúc ảnh ( 22; tr .280).
Về mặt sử dụng ngôn ngữ cụ thể, có ý kiến nhấn mạnh một số điểm nổi bật
của thơ Nguyễn Đình Thi: là thơ trữ tình điệu nói từ ngữ dùng giản dị, giàu hình
ảnh và hàm súc, hình thức câu thơ phóng khoáng tự do (9; tr.310)
4. Tiểu kết :
Trong ch-ơng này, chúng tôi nêu một sè vÊn ®Ị mang tÝnh chÊt tiỊn ®Ị lý ln
cã liên quan trực tiếp đến đề tài, những vấn đề gồm :
1-Thơ là một loại hình nghệ thuật đặc thù , độc đáo. Ngôn ngữ Thơ là một
ph-ợng diện hình thức góp phần đặc biệt quan trọng làm nên phong cách, diện
mạo của thơ .
2- Nguyễn Đình Thi là một nhà thơ đà tạo nên một phong cách độc đáo.
Những ý kiến của ông về thơ đà làm tiền đề cho việc định h-ớng sáng tác, soi sáng
cho việc tìm hiểu thơ ông.
17


3 - Hơn nửa thế kỷ sáng tác, thơ Nguyễn Đình Thi gắn bó với đời sống với
cách mạng, là sự kết tinh sâu sắc suy nghĩ, tình cảm của ông với cuộc đời. Thơ
Nguyễn Đình Thi đặt ra nhiều vấn đề trong việc nghiên cứu, từ ph-ơng diện nội
dung đến hình thức, đặc biệt là ph-ơng diện ngôn ngữ thơ.
Dựa vào những vấn đề có tính chất lý luận, những quan niệm và định h-ớng
sáng tác trên đây, phần tiếp theo luận văn sẽ đi sâu vào khảo sát các đặc điểm về
hình thức (ch-ơng 2) và nội dung (ch-ơng3).

Ch-ơng 2
Đặc điểm hình thức của thơ Nguyễn Đình Thi
18


1. Dẫn nhập :

Trong ngôn ngữ, mối quan hệ giữa nội dung và hình thức rất chặt chẽ và rất
phức tạp. Thơ có một cách thức phản ánh cuộc sống mang tính đặc thù. Hình thức
thơ đ-ơng nhiên phải phù hợp với nội dung và cách thức phản ánh mang tính đặc
thù ấy.
Mỗi bài thơ có thể xem nh- là một chỉnh thể. Khi xem xét mặt hình thức
trong thơ Nguyễn Đình Thi, chúng tôi chủ yếu đi vào tìm hiểu các khía cạnh sau:
thể thơ, các đặc điểm về tổ chức trong câu thơ (vần, nhịp điệu), đặc điểm về từ
ngữ và một số cấu trúc điển hình của bài thơ ...
Qua những đặc điểm này, ta có thể thấy rõ hơn về phong cách, diện mạo
riêng của thơ Nguyễn Đình Thi trong thơ ca nói chung, thơ Việt Nam hiện đại nói
riêng.
2. Thể thơ :
2.1- Nhận xét chung :
Trong những khái niệm liên quan đến thơ, thuật ngữ thể thơ chưa được
định nghĩa rõ ràng. Nh-ng qua phân loại về thể thơ, ng-ời ta th-ờng lấy số tiếng và
vần để phân loại các thể thơ.
Căn cứ vào số tiếng (trong câu thơ ) có: thể thơ 5 tiếng, 6 tiÕng, 7 tiÕng, 8
tiÕng, th¬ tù do sè tiÕng không đều nhau).
Căn cứ vào luật thơ, có hai loại: Thơ cách luật ( thơ có quy tắc và luật lệ ổn
định, gồm thơ Đ-ờng luật, lục bát, song thất lục bát ...); Thơ không cách luật (thơ
tự do số tiếng, số câu không hạn chế )
Khi tìm hiểu thơ Nguyễn Đình Thi, chúng tôi nhận thấy trong số 107 bài có:
Thơ Đ-ờng luật: 5 bài, thơ lục bát:1 bài, thơ tự do: 101bài (trong đó một bài tr-ờng
ca có xen kẽ lục bát (Bàt thơ Hắc Hải). Sau đây xin điểm qua một số thể thơ tiêu
biểu trong thơ Nguyễn Đình Thi.
2.2 Thể thơ lục bát :
Lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc. Đặc điểm nổi bật của thể thơ này
là câu 6 và câu 8 luân phiên nối tiếp nhau, tiết tấu làm nên đặc tr-ng của thể thơ
này trên cơ sở sự hài hoà về hiệp vần và hài âm .
Trong sáng tác của mình, Nguyễn Đình Thi ít sử dụng thể lục bát nh-ng bài

thơ lục bát của ông lại tạo nên một đặc tr-ng rất là ấn t-ợng .
19


Đoạn thơ lục bát trong tr-ờng ca Bài thơ Hắc Hải có thể tách ra nh- một bài
có tính độc lËp, nãi vỊ ®Êt n-íc ViƯt Nam.
ViƯt Nam ®Êt n-íc ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Tr-ờng Sơn sớm chiều
Quê h-ơng biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đà chịu nhiều th-ơng đau
Mặt ng-ời vất vả in sâu
Gái trai cùng một áo nâu nhuộm bùn
Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu chảy lại vùng đứng lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng g-ơm vứt bỏ lại hiền nh- x-a
Việt Nam đất nắng chan hoà
Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh
Mắt đen cô gái long lanh
Yêu ai yêu trọn tấm tình thuỷ chung
Đất trăm nghề của trăm vùng
Khách ph-ơng xa tới lạ lùng tìm xem
Tay ng-ời nh- có phép tiên
Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ
.
Ta đi ta nhớ núi rừng
Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ
Nhớ đồng ruộng nhớ khoai ngô

Bát canh rau muống quả cà dòn tan
Cả đoạn thơ -bài thơ này, trừ những câu thơ nói về cảnh khổ lầm than của
con ng-ời, mang phong vị ca dao, rất quen thuộc, gần gũi với những bài ca dao nói
về quê h-ơng đất n-ớc. Đó là tiếng hát vọng về từ trong sâu thẳm trái tim, từ cách
gieo vần ngắt nhịp, hoà phối âm thanh đến hình ảnh:
20


Việt Nam đất n-ớc ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay là rập rờn
Mây mờ che đỉnh Tr-ờng Sơn sớm chiều ...
Mắt đen cô gái long lanh
Yêu ai yêu trọn tấm tình thuỷ chung ...
Nhớ đồng ruộng nhớ khoai ngô
Bát canh rau muống quả cà dòn tan...
Bài thuần nhất theo thể lục bát là Chiều thu nhớ Bác Hồ:
Nắng chiều trên lúa xôn xao
Mây chiều l-ng núi cao cao rạng ngời ...
Nổi bật ở bài thơ này là cách gieo vần, sự hài thanh rất chuẩn mực và đạt tới
sự nhuần nhuyễn cổ điển .
Đó là sự tuân thủ luật Bằng Trắc ở các tiếng 2, 4, 6, ë c©u lơc, 2, 4, 6, 8, ở
câu bát, là sự gieo vần ở các vị trí đúng luật, là sự đối lập bổng trầm ở các tiếng
trong một câu thơ :
Nắng chiều trên lúa xôn xao
T

B

B


T

B B

Mây chiều / l-ng núi / cao cao rạng ngêi
B

B

B

T

B B

T

B

N-íc non / non n-íc / båi håi
T

B

B

T

B


B

Nghe th©n yêu / vọng tiếng ng-ời / đâu đây
B

B

B

T

T

B

B

Mây hồng / chim vút / cánh bay
B

B

B

T

T

B


Sông xa / một dải/ dâng đầy / nhớ th-ơng
B

B

T

T

B

B

T

B

Tấm lòng / vẫn ở quê h-ơng
T

B

T T B B

Nụ c-ời/ gửi lại / lên đ-ờng nghìn thu
21

B



T B

T T

B

B

B

B

Tác giả đà khai thác, sử dụng những đặc tr-ng của thể thơ lục bát truyền
thống: vần chân (ở câu lục) và vần l-ng (ở câu bát) hiệp vần với nhau, ở thanh
bằng tạo thanh điệu hài hoà, nhẹ nhàng. Các tiếng ở trong câu cũng chủ yếu là
nhịp chẵn. Các từ láy, từ ghép sóng đôi suất hiện (xôn xao, cao cao, bồi hồi, n-ớc
non, nhớ th-ơng, rạng ngời,...) Các từ ngữ chỉ không gian đ-ợc đ-a vào: nắng
chiều, mây chiều, mây hồng, sông xa, quê h-ơng ...
Tất cả những yếu tố đó đà tạo ra ở bài thơ một không gian thơ tràn ngập tình
cảm bâng khuâng nh-ng sâu lắng. Bài thơ chỉ có 8 câu, nhỏ gọn nh- một nén tâm
h-ơng, nhớ th-ơng ngậm ngùi viếng Bác.
2.3- Thể thơ Đ-ờng luật :
Thơ Đ-ờng luật ngoài quy tắc chặt chẽ về niêm luật (vần, nhịp, đối ...), còn
có sự quy định về số tiếng (5 hoặc 7 tiếng) và số câu: tứ tuyệt (4 câu) bát cú (8
câu) và tr-ờng thiên (trên 8 câu ).
Khảo sát thơ Nguyễn Đình Thi, ta thấy trong số 107 bài, ông chỉ sáng tác ba
bài theo thể Đ-ờng luật. Trong đó có hai bài ở dạng tứ tuyệt:
V-ờn bàng rụng đầy mặt đất
S-ơng lạnh bên đ-ờng đoá cúc hoang

Chầm chậm n-ớc sông trôi lấp loáng
Ai một mình đi trong ánh trăng
(S-ơng lạnh ) .
Năm m-ơi năm nh- một bóng mây
Gió thu lại thổi suốt đêm dài
Vẫn nghe khúc hát ng-ời năm ấy
Chén r-ợu bên đèn n-ớc mắt đầy
(Gió thu )
Đối chiếu với thể tứ tuyệt nguyên thể, thơ tứ tuyệt của Nguyễn Đình Thi
niêm luật không hoàn toàn theo thể Đ-ờng luật nghiêm nhặt. Chẳng hạn: Chén
r-ợu bên đèn n-ớc mắt đầy là một câu thơ tạo cảm giác ngang ngang vì trong
dòng thơ tiếng thứ t- và tiếng thứ 7 cùng vần bằng nh-ng phải khác về âm vực
(cao thấp) nh-ng trong câu thơ này lại cùng dấu huyền (đèn - đầy )
22


Những bài thơ khác tuy có dạng thất ngôn bát cú (Nh- dòng sông, Nhớ) hay
dạng tr-ờng thiên (Bài thơ Hắc Hải , Dòng sông vẫn rì rào ...), nh-ng về âm luật
đều có h-ớng của thơ tự do. Tác giả th-ờng tự do trong gieo vần, nhịp và nhất là
trong bố cục (không theo cấu trúc, đề, thực, luận, kết )
Nói chung những bài thơ này không còn ở dạng nguyên thể mà có dạng phối
hợp xen kẻ giữa các thể. Do đó khi xem xét loại này , chúng tôi khảo sát chúng ở
dạng thể thơ tự do .
2.4 Thơ tự do :
2.4.1 Một số đặc điểm của thơ tự do
Theo các nhà nghiên cứu, thơ tự do xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 30
của thế kỷ XX, cùng với phong trào thơ mới. ở Việt Nam, sau Cách mạng tháng
Tám 1945, nhất là những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, thơ tự do
khá phát triển, trở thành một xu h-ớng mới, ngày càng đ-ợc khẳng định.
Đặc điểm nổi bật của thơ tự do là nó không tuân theo những quy tắc về cách

luật (nh- thơ Đ-ờng luật, lục bát...). Do đó, hình thức thơ tự do không cố định số
tiếng, số câu trong bài. Mạch thơ có thể liên tục hoặc ngắt quÃng...
Ví dụ, trong bài Tiếng trúc tuyệt vời Thế Lữ đà dùng những câu thơ dài ngắn
khác nhau, tạo nên âm điệu, tiết tấu đầy chất vang ngân thoải mái trog việc thể
hiện cảm xúc:
Tiếng địch thổi đâu dây
Cớ sao mà réo rắt ?
Lơ lửng cao đ-a tận chân trời xanh ngắt
Mây bay ... gió quyến mây bay
Tiếng vi vút nh- khuyên van nh- dìu dặt
Nh- hắt hiu cùng hơi gió heo may
ánh chiều thu
L-ớt mặt hồ thu
S-ơng hồng lan nhẹ trên sóng biếc
Rặng lau già xao xác tiếng reo khô
Nh- khua động nỗi nhớ nhung th-ơng tiếc
Trong lòng ng-ời đứng bªn hå
23


Trong bài thơ, yếu tố vần vẫn đ-ợc thể hiện qua các câu, các khổ, có tác dụng
liên kết bài thơ, nh-ng d-ờng nh- mạch thơ, hình ảnh thơ có sức liên kết mạnh mẽ,
hơi thơ phóng khoáng, tự do hơn.
Nh- vậy, về mặt hình thức, thơ tự do vẫn có thể có vần, nh-ng nó không còn
trở thành một qui tắc chặt chẽ,mà nhịp điệu lại nổi lên nh- một yếu tố chủ đạo.
Nhịp điệu ở đây không do các yếu tố cách luật xác định và cấu tạo nh- thơ Đ-ờng
luật, thơ lục bát ... (nói chung là không xác định bởi những yếu tố và nguyên tắc cụ
thể) mà th-ờng do những qui tắc nôị tại, thậm chí rất vô hình, chi phối.
Về nội dung, thơ tự do cũng nh- các thể thơ khác, phản ánh những rung động
của tâm hồn về con ng-ời và cuộc đời với những hình ảnh cô đọng, chắt lọc, tinh

tế.
Thơ tự do không đồng nghĩa với tuỳ tiện, Xuân Diệu phát biểu: Tự do là
mình đặt cho mình một kỷ luật linh động, tuỳ theo mỗi tr-ờng hợp, nh-ng luôn
luôn có kỷ luật. Muốn ca hát mà chẳng theo tiết tấu nhịp nhàng thì ai nghe? Làm
thơ tự do tức là mỗi đề tài tự tạo ra một nhịp điệu riêng cho thích hợp, cái điệu ấy
không đ-ợc ph-u l-u mà cần thiết. Phải cao tay lắm mới sai khiến đ-ợc thơ tự do.
Tự do không có nghĩa là muốn làm gì thì làm (18; tr.408) .
Một xu h-ớng tìm tòi mới từ thơ tự do là thơ không vần. Thơ không vần là
một trong những vấn đề đ-ợc đ-a ra tranh luận tại Hội nghị văn nghệ Việt Bắc
tháng 9-1949 nhân các bài thơ tự do không vần của Nguyễn Đình Thi.
Nh- vậy, khi văn học ph-ơng Tây tràn vào Việt Nam, dòng thơ mới xuất
hiện. Bên cạnh các thể thơ khác là sự lên ngôi của thơ tự do với nhiều tìm tòi sáng
tạo mới .
2.4.2 Thể thơ tự do trong thơ Nguyễn Đình Thi:
Qua thống kê các thể thơ của Nguyễn Đình Thi,ta thấy tình hình nhsau:Trong tổng số 107 bài (tất cả các thể thơ) thì thơ tự do có đến 94 bài (chiếm tỉ
lệ 87, 800/0).
Nh- vậy đại đa số thơ Nguyễn Đình Thi thuộc thể thơ t- do.
Nh-ng thơ tự do Nguyễn Đình Thi cũng có nhiều loại. Cụ thể là trong số 94 bài
thơ tự do, có:
- Thơ tự do có vần: 41 bài trong tỉng sè 94 bµi (tØ lƯ : 43,73 0/0)
- Thơ tự do không vần: 24 bài trong tổng số 94 bµi (tØ lƯ : 25,53 0/0)
24


- Thơ tự do phối hợp có vần với không vần: 29 bài trong tổng số 94 bài (tỉ lệ
30,740/0)
Qua số liệu trên, có thể thấy: bài thơ tự do có vần có số l-ợng ít hơn so với
hai loại kia (thơ tự do không vần và loại thơ phối hợp). Trong đó đáng chú ý là
trong thể thơ tự do này, nhà thơ rất chú trọng loại thơ phối hợp xen kẽ giữa có vần
và không vần trong một bài thơ (có thể gọi đó là thể thơ phối xen).

Có thể nói, sự phối xen giữa vần với không vần (cùng với việc sử dụng các
thể hỗn hợp (thể lục bát xen kẽ với thơ tự do hoặc thể thơ tự do xen kẽ với thơ
Đ-ờng luật) đà tạo cho thơ Nguyễn Đình Thi một hình thức mới, tự do, phóng
khoáng .
Xin nêu một số dẫn chứng về các loại trên :
Về thể thơ tự do có vần :
Đêm nay trong v-ên hoa ngỉn ngang ơ sóng / Bªn ven hồ lốm đốm trăng
xanh / Nghe quanh ta đêm hè nóng bỏng / Mắt bồi hồi em đi bên anh .(Chia tay
trong đêm Hà Nội )
Về thể thơ tự do không vần:
Đêm nhạt nắng / M-a thầm lòng phố cũ / Ngà t- đèn đảo gió / ánh mắt kia
nh- thanh g-ơm. (Hà Nội đêm nay)
Thể thơ xen kẻ có vần không vần:
Ôi những vạt ruộng vàng / Chiều rung rinh lúa ngả / Bờ tre đang reo ánh lửa/
Mái nhà sàn toả khói xanh / H-ơng gào xa văng vẳng / Một mảnh trăng dốc ngả
chập chùng / B-ớc chân bóng động nghiêng bờ núi . (Đ-ờng núi)
Bên cạnh những câu thơ, bài thơ có vần, không vần và xen kẽ nh- vậy, ta còn
gặp trong thơ Nguyễn Đình Thi có sự phối hợp câu thơ dài, ngắn khác nhau:
Đất n-ớc muôn nơi / Nghèo xơ xác hôm nay chói lọi / Gió thổi đ-ờng xa t-ơi
đỏ / Dạt dào lúa ngà thân yêu ... ( Lúa ).
Qua tháng năm / Tôi đà đi / Gập ghềnh nhiều đoạn đ-ờng / S-ơng mù gió lửa
/ Trải buồn vui ngọt đắng ... ( Dòng sông trong xanh )
Hoặc phối hợp các thể thơ tự do lục bát :
Tôi ngắt những hoa rừng tím đỏ / Ngắt nhiều hoa nữa nhiều trên tay / Chị áo
choàng khiêng súng mê say / Nhìn anh bộ đội má hây hây hồng / Mấy năm hoang
25


×