Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Phương pháp kể chuyện về bài tập vận động trong giáo dục thể chất cho trẻ 4 5 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 88 trang )

Lời cảm ơn

Khoá luận tốt nghiệp "Phương pháp kể chuyện về bài tập vận
động trong giáo dục thể chất cho trẻ 4 - 5 tuổi đã được hoàn thành
với sự giúp đỡ nhiệt tình của các trường mầm non, của các thầy, cô
giáo trong khoa Giáo dục tiểu học, và đặc biệt là cô giáo Nguyễn Thị
Mỹ Trinh.
Tôi xin chân thành cảm ơn trường mầm non Trường Thi và
một số giáo viên ở các trường mầm non khác đã giúp tơi hồn thành
khố luận. Cảm ơn các thầy, cơ giáo trong khoa Giáo dục Tiểu học,
đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Mỹ Trinh người đã tận tuỵ giúp đỡ tơi hồn thành khố luận này đảm bảo chất
lượng và đúng thời hạn. "Phương pháp kể chuyện về bài tập vận
động cho trẻ 4 - 5 tuổi" là một đề tài mới và khó, nên tơi gặp khơng ít
khó khăn. Do đó, khố luận này khơng tránh khỏi những thiếu sót.
Tơi rất mong được các thầy cơ giáo cũng như q độc giả đóng góp
ý kiến.
Xin chân thành cảm ơn.

Vinh, tháng 5/2003


2

Phần mở đầu
1-Lý do chọn đề tài.
Chúng ta đang sống trong một thời đại văn minh với nhiều thành tựu
khoa học tiến bộ. Xã hội hiện nay đòi hỏi rất nhiều ở con người mới - con
người phát triển toàn diện về mọi mặt: Đức - Trí - Thể - Mĩ… đủ khả năng
đưa đất nước mình "tiến lên sánh vai với các cường quốc năm châu" như
Bác Hồ hằng mong muốn.
Để đào tạo được những con người như vậy chúng ta phải bắt đầu


ngay từ lứa tuổi mầm non. Nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học cho thấy,
giáo dục trẻ ngay từ buổi bình minh của cuộc đời sẽ có hiệu quả cao. Đúng
như lời L.N Tơnxtơi đã nói rằng: “…Tất cả những gì mà đứa trẻ sẽ có sau
này khi trở thành người lớn đều được thu nhận được trong thời thơ ấu.
Trong quãng đời còn lại những cái mà nó thu nhận được chỉ đáng một phần
trăm những cái đã có mà thơi”.Và ơng cũng đưa ra phép so sánh: “… Nếu
từ trẻ 5 tuổi đến người lớn khoảng cách chỉ là một bước thì từ đứa trẻ sơ
sinh đến 5 tuổi khoảng cách dài kinh khủng”.[6].
Thời kỳ từ 0 - 6 tuổi tốc độ phát triển của trẻ rất nhanh, có thể nói là
nhanh nhất trong cuộc đời của con người. Tốc độ phát triển nhanh như vậy
khơng bao giờ cịn thấy được trong những năm tháng về sau. Mặc dù vậy,
sức đề kháng của trẻ đối với những tác động không tốt của môi trường
xung quanh rất yếu ớt, khả năng hoạt động của chúng chưa bền, chưa
mạnh…vì thế, trong giai đoạn này nếu hình thành ở trẻ kỹ năng và thói
quen luyện tập thể dục, thể thao hợp lý thì trẻ sẽ trở nên khoẻ mạnh, rắn
rỏi, độc lập, tự tin hơn trong cuộc sống sau này. Bác Hồ đã nói: “Sức khỏe
là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội, là nhân tố quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…” [2]. Nhà giáo dục
phải biết rõ điều đó để có những phương pháp tác động thích hợp.
Giáo dục thể chất làs một bộ phận quan trọng trong giáo dục tồn
diện, đó là q trình tác động chủ yếu lên cơ thể trẻ (thông qua việc rèn


3

luyện cơ thể và hình thành, phát triển kỹ năng, kỹ xảo vận động cùng các tố
chất vận động), tổ chức các hoạt động - vệ sinh hợp lý nhằm làm cho cơ thể
phát triển một cách hài hoà, cân đối.
Giáo dục thể chất cho trẻ em trước 6 tuổi có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Trước hết, vì cơ thể của trẻ em ở lứa tuổi này đang phát triển mạnh

mẽ: Hệ thần kinh, hệ xương hình thành nhanh, bộ máy hơ hấp đang hồn
thiện… Thứ hai: Cơ thể trẻ còn non yếu, dễ bị phát triển lệch lạc, mất cân
đối. Nếu không quan tâm giáo dục thể chất đúng đắn thì gây nên những
thiếu sót trong sự phát triển cơ thể của trẻ em về sau không thể khắc phục
được. Cuối cùng, sự phát triển thể chất cho trẻ có ảnh hưởng đến sự phát
triển tâm lý, sự phát triển tồn diện nhân cách của trẻ. Có thể nói, sự thành
cơng trong bất cứ hoạt động nào của trẻ (đặc biệt là trước 6 tuổi) đều phụ
thuộc vào trạng thái sức khoẻ của nó.
Trẻ 4 - 5 tuổi cũng khơng nằm ngồi quy luật đó, chúng phải được
chuẩn bị về mọi mặt: tâm thế, kiến thức và điều quan trọng là về sức khoẻ.
Trẻ phải khoẻ mạnh thì chúng mới tự tin vào chính mình, mới có thể tham
gia vào mọi hoạt động của trường, của lớp như vui chơi, học tập… Song,
việc giáo dục thể chất cho trẻ 4 - 5 tuổi như thế nào để đem lại hiệu quả cao
đang là vấn đề quan tâm của các trường mầm non hiện nay. Theo tài liệu
nghiên cứu, để giáo dục thể chất có hiệu quả giáo viên phải biết áp dụng
đồng bộ, linh hoạt nhiều phương pháp, biện pháp trong đó khơng thể khơng
nhắc đến phương pháp kể chuyện về bài tập vận động (trong nhóm phương
pháp dùng lời). Phương pháp kể chuyện về bài tập vận động không những
giúp cho giáo viên dễ dàng thực hiện nhiệm vụ của mình mà quan trọng
hơn là tính tích cực hoá hoạt động của trẻ. Trẻ mẫu giáo rất thích được
nghe người lớn (giáo viên) kể chuyện. Khi nghe kể chuyện về bài tập vận
động, trẻ, không những rất thích thú mà cịn muốn tham gia hoạt động
(làm) giống nhân vật trong chuyện kể. Chính vì vậy, tiết học thể chất trở
nên nhẹ nhàng hơn, sôi nổi hơn, đạt hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, khi dạy


4

những vận động cơ bản khó giáo viên có thể lồng vào một câu chuyện và nhấn
mạnh bằng cách kể chuyện về hậu quả của bài tập vận động đó nếu trẻ thực

hiện không đúng yêu cầu kỹ thuật… Như vậy, trẻ sẽ hứng thú và tập trung chú
ý hơn.
Nhưng hiện nay ở các trường mầm non việc sử dụng phương pháp kể
chuyện về bài tập vận động còn rất hạn chế, nhất là với trẻ 4 - 5 tuổi. Làm
thế nào để phát huy được ưu điểm của phương pháp này? Đây là vấn đề
khiến tơi trăn trở, chính vì vậy mà tơi đã chọn đề tài nghiên cứu cho khố
luận tốt nghiệp của mình là: “ Phương pháp kể chuyện về bài tập vận
động trong giáo dục thể chất cho trẻ 4 - tuổi ở các trường mầm non”.
Hy vọng rằng khi tìm hiểu vấn đề này tơi có thêm nhiều hiểu biết để
sau này làm tốt hơn trong cơng tác của mình, góp phần cùng xã hội chăm
sóc, ni dưỡng trẻ thơ thành những con người mới.
2- Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu việc sử dụng phương pháp kể chuyện về bài tập vận động,
từ đó xây dựng và thử nghiệm các tiết học thể dục dưới dạng những câu
chuyện kể theo chủ điểm trong giáo dục thể chất cho trẻ 4- 5 tuổi.
3- Giả thuyết khoa học:
Nếu giáo viên mầm non biết sử dụng linh hoạt phương pháp kể
chuyện về bài tập vận động trong giáo dục thể chất cho trẻ 4- 5 tuổi, thì sự
phát triển thể lực ở trẻ sẽ hiệu quả hơn.
4- Đối tƣợng nghiên cứu:
Phương pháp kể chuyện về bài tập vận động trong giáo dục thể chất
cho trẻ 4-5 tuổi.
5- Khách thể nghiên cứu:
50 trẻ tại 2 nhóm - lớp mẫu giáo nhỡ ở trường mầm non Trường Thi,
Thành phố Vinh (25 trẻ của lớp thực nghiệm - 4A; 25 trẻ của lớp đối chứng
- 4B).
40 giáo viên mầm non ở các trường: Hoa Hồng; Bình Minh;Trường Thi.


5


4 hiệu phó chun mơn ở các trường: Hoa Hồng; Bình Minh;Trường
Thi; Quang trung II.
6- Phạm vi nghiên cứu:
Trong khố luận này chúng tôi chỉ xây dựng và thử nghiệm các giáo
án tiết thể dục có sử dụng linh hoạt phương pháp kể chuyện về bài tập vận
động dưới hình thức theo chủ đề, chủ diểm.
7- Nhiệm vụ nghiên cứu:
7.1. Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
7.2. Khảo sát thực trạng sử dụng phương pháp kể chuyện về bài tập
vận động cho trẻ mẫu giáo nhỡ.
7.3. Xây dựng các giáo án dạy thể dục cho trẻ mẫu giáo nhỡ (có áp
dụng linh hoạt phương pháp kể chuyện về bài tập vận động) và tiến hành
thử nghiệm chúng.
7.4. Kết luận và đề xuất khoa học .
8- Phƣơng pháp nghiên cứu:
8.1. Nghiên cứu tài liệu lý luận.
Mục đích: Làm rõ vai trị, vị trí, ý nghĩa, của phương pháp kể
chuyện về bài tập vận động đối với sự phát triển của trẻ mầm non.
8.2. Khảo sát bằng bảng hỏi.
Mục đích: Khảo sát việc sử dụng phương pháp kể chuyện về bài tập
vận động cho trẻ mẫu giáo nhỡ ở các trường mầm non.
8.3. Phỏng vấn sâu một số giáo viên dạy ở các lớp mẫu giáo nhỡ.
Mục đích: Tìm hiểu nhận thức của giáo viên mầm non về phương
pháp kể chuyện về bài tập vận động và việc sử dụng chúng trong giáo dục
thể chất cho trẻ mẫu giáo nhỡ.
8.4. Quan sát các tiết dạy thể dục cho trẻ mẫu giáo nhỡ ở các trường
mầm non, tìm hiểu các giáo án dạy thể dục của giáo viên ở các lớp mẫu
giáo nhỡ tại các trường mầm non.



6

8.5. Thực nghiệm sư phạm
- Thực nghiệm kiểm tra : Mục đích kiểm tra mức độ phát triển ban đầu của
các tố chất vận động (cơ bản Nhanh - Mạnh - Khéo) ở hai lớp ĐC và TN.
- Thực nghiệm hình thành:
Mục đích: Thử nghiệm các giáo án có sử dụng linh hoạt phương
pháp kể chuyện về bài tập vận động trong các tiết thể dục cho trẻ ở lớp thực
nghiệm.
- Thực nghiệm kiểm chứng:
Mục đích: Kiểm tra mức độ phát triển các tố chất vận động cơ bản
(nhanh- mạnh- khéo) sau thời gian thử nghiệm việc sử dụng linh hoạt
phương pháp kể chuyện về bài tập vận động trong các giáo án thể dục.
8.6. Sử dụng toán thống kê để xử lý kết quả thu được.
9- Đóng góp mới của đề tài nghiên cứu.
9.1. Làm rõ hơn khái niệm và các hình thức sử dụng phương pháp kể
chuyện về bài tập vận động trong giáo dục thể chất cho trẻ mầm non.
9.2. Xây dựng một số giáo án thể dục cho trẻ 4-5 tuổi có áp dụng linh
hoạt phương pháp kể chuyện về bài tập vận động.
9.3. Làm rõ tính hiệu quả của việc sử dụng linh hoạt phương pháp kể
chuyện về bài tập vận động cho trẻ 4 - 5 tuổi.


7

Phần II
Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
------------------------CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1- Sơ lƣợc về lịch sử vấn đề nghiên cứu.

Phương pháp kể chuyện về bài tập vận động(PPKCVBTVĐ) là một
trong nhóm phương pháp dùng lời trong giáo dục thể chất (GDTC) cho trẻ
Mầm non (MN). Tuy nhiên trong nhiều tài liệu nghiên cứu ở Việt Nam
hiện nay khơng hoặc rất ít đề cập đến phương pháp này cả về mặt khái
niệm cũng như hướng dẫn cách sử dụng trong GDTC cho trẻ MN, mặc dù ý
nghĩa của nó trong tài liệu này hay tài liệu khác đều ít nhiều đề cập đến.
Trong "Vun trồng thể lực cho đàn em nhỏ" PGS.TS Đào Duy Thư nhấn
mạnh "… khi hướng dẫn trò chơi, bài tập thể dục trên theo hình thức kể
chuyện qua các hình tượng con vật trong đời sống, hình ảnh lao động và
sinh hoạt của con người sẽ làm cho các em say sưa và hình dung dễ dàng
động tác hơn…" (1994 tr 97). Hay trong "Thể dục và phương pháp giáo
dục thể chất cho trẻ" Đặng Đức Thao và Trần Tiên Tiến cũng khuyến
khích. "…trong q trình luyện tập có thể dùng thơ, ca, câu chuyện để gây
hứng thú cho trẻ, dẫn dắt trẻ mô phỏng, bắt chước các hành động, động tác
theo ý đồ của giáo viên" (1998).
Trong các tài liệu nước ngồi (đặc biệt là Liên Xơ cũ) có nhiều tác
giả đề cập đến PPKCVBTVĐ, tuy vậy mức độ còn hạn chế, chưa đủ để
người đọc nhận thức sâu sắc và sử dụng linh hoạt phương pháp này. Ví dụ:
Trong giáo trình giảng dạy Đại học "Lý luận và phương pháp giáo dục thể
chất cho trẻ MN" (1985) A.V.Kenheman và Đ.V.Khukhlaieva coi "…
PPKCVBTVĐ tương tự như việc sử dụng một câu chuyện cổ tích ngắn (1,5


8
- 2 phút) nhằm khơi gợi ở trẻ sự tưởng tượng tái tạo, phát triển khả năng
quan sát tất cả các bước của vận động và các tình huống của hành động
chơi, kích thích sự tích cực vận động của trẻ. Thay vào chỗ giải thích đơn
điệu về trị chơi, phân vai chơi, luật chơi (hay bài tập vận động) giáo viên
có thể trình bày nội dung và luật chơi bằng một câu chuyện kể ngắn gọn".
Rõ ràng, cách trình bày như thế chưa đủ để người đọc hiểu thế nào

PPKCVBTVĐ và vì thế hạn chế khả năng sử dụng phương pháp này vào
thực tiễn giáo dục MN.
Tóm lại: Các tác giả trong và ngoài nước chưa thực sự quan tâm đến
PPKCVBTVĐ trong giáo dục thể chất cho trẻ MN
2- Ngơn ngữ và vai trị của ngơn ngữ đối với sự phát triển trẻ em.
2.1- Khái niệm và chức năng của ngôn ngữ.
+ Khái niệm về ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội - lịch sử. Do sống và làm việc
(hoạt động) cùng nhau nên con người có nhu cầu phải giao tiếp (thông báo)
với nhau và nhận thức (khái qt hố) hiện thực. Q trình lao động (hoạt
động) cùng nhau, quá trình giao tiếp và nhận thức không tách rời nhau: để
lao động phải thông báo cho nhau về sự vật, hiện tượng nào đó, nhưng để
thơng báo lại phải khái quát sự vật, hiện tượng đó vào một lớp, một nhóm
các sự vật, hiện tượng nhất định cùng loại. Ngôn ngữ ra đời và thoả mãn
được nhu cầu thống nhất các hoạt động đó.
Tóm lại: Ngơn ngữ là một hệ thống ký hiệu từ ngữ đặc biệt, dùng
làm phương tiện để giao tiếp và làm công cụ để tư duy.[1]
+ Chức năng của ngôn ngữ:
Con người có thể truyền đạt kinh nghiệm của mình cho người khác
và sử dụng kinh nghiệm của người khác vào hoạt động của mình từ đó


9
nhận thức và điều khiển được những quy luật của tự nhiên, xã hội và bản
thân….chính là nhờ có ngơn ngữ.
Ngơn ngữ có 3 chức năng cơ bản sau đây:
- Chức năng chỉ nghĩa: Ngôn ngữ dùng để chỉ định sự vật, hiện tượng làm
vật thay thế cho chúng. Nói cách khác: Ý nghĩa của sự vật, hiện tượng có
thể tồn tại, khách quan hố một lần nữa và có thể di chuyển đi nơi khác,
làm cho con người có thể nhận thức ngay cả khi chúng khơng có mặt (tức

ngồi phạm vi cảm tính). Các kinh nghiệm nhận thức loài người được cố
định lại, được tồn tại và truyền đạt lại cho các thế hệ sau là nhờ ngôn ngữ.
Chính vì vậy, chức năng chỉ nghĩa của ngơn ngữ còn được gọi là chức năng
làm phương tiện tồn tại, truyền đạt và nắm vững kinh nghiệm lịch sử- xã
hội lồi người.
- Chức năng thơng báo (giao tiếp): Ngơn ngữ được dùng để truyền đạt
và tiếp nhận thông tin để biểu cảm và nhờ đó thúc đẩy, điều chỉnh hành
động của con người.
- Chức năng khái qt hố: Ngơn ngữ (từ ngữ) không chỉ một sự vật,
hiện tượng riêng lẻ mà chỉ một lớp, một loại (một phạm trù ) các sự vật,
hiện tượng có cùng thuộc tính bản chất. Chính nhờ vậy nó là phương tiện
đắc lực của hoạt động trí tuệ (tri giác; trí nhớ; tư duy….) Hoạt động trí tuệ
bao giờ cũng có tính khái qt và không thể tự diễn ra mà phải dùng ngôn
ngữ làm phương tiện, công cụ để cố định lại kết quả của hoạt động này.
Chức năng khái qt hố của ngơn ngữ còn gọi là chức năng nhận
thức hay chức năng hoạt động trí tụê [1]
2.2 Vai trị của ngơn ngữ đối với sự phát triển trẻ em.
2.2.1- Khái niệm về sự phát triển và sự phát triển thể lực ở trẻ em:
Theo quan điểm triết học sự phát triển là quá trình biến đổi sự vật,
hiện tượng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đó là quá trình tích


10
luỹ dần về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất ở sự vật, hiện tượng, là quá
trình đấu tranh giải quyết những mâu thuẫn bản chất bên trong sự vật hiện
tượng.
Theo các nhà giáo dục học phát triển là q trình trong đó có sự hình
thành, hồn thiện, đa dạng hoá, phức tạp hoá các chức năng của con người
và sự phát triển mang tính tổng thể. Hai quá trình giáo dục và phát triển
khác biệt nhau nhưng phụ thuộc vào nhau, diễn ra trong suốt quá trình liên

tục phản ứng và thích ứng với những điều kiện bẩm sinh và môi trường xã
hội bao quanh [2].
+ Khái niệm về sự phát triển thể lực ở trẻ em.
Phát triển thể lực là quá trình biến đổi hình thức và chức năng của cơ
thể con người dưới ảnh hưởng của giáo dục và điều kiện sống (nếu xem xét
ở một khía cạnh nào đó thì sự phát triển thể lực còn bị ảnh hưởng bởi
những yếu tố di truyền.)
Phát triển thể lực được hiểu theo hai nghĩa.
-Theo nghĩa rộng:
Phát triển thể lực là quá trình phát triển các tố chất thể lực, tố chất vận
động: Phản xạ nhanh hay chậm, mạnh hay yếu, bền bỉ hay không bền bỉ, mức
độ linh hoạt, khéo léo của cơ thể khi thích nghi với điều kiện sống mới.
- Theo nghĩa hẹp:
Phát triển thể lực là mức độ phát triển cơ thể được biểu hiện bằng
những chỉ số sau: Chiều cao ,cân nặng, chu vi vòng ngực, vòng đầu, vòng
tay…..phù hợp với yêu cầu của giai đoạn lứa tuổi tương ứng [5].
Trong thực tiễn ta có thể hiểu sự phát triển thể lực trẻ em như sau:
Phát triển thể lực ở trẻ em là quá trình biến đổi các tố chất vận động như:
Sức nhanh, sức mạnh, sức bền,sự khéo léo…. phù hợp với điều kiện sống,
phù hợp với hoàn cảnh vận động và yêu cầu của từng giai đoạn lứa tuổi


11
tương ứng. từ đó tạo điều kiện giúp trẻ hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận
động mới hiệu quả hơn.


12
2.2.2- Vai trị của ngơn ngữ đối với sự phát triển tâm lý ở trẻ mầm non.
*Vai trị của ngơn ngữ đối với sự phát triển nhận thứcở trẻ MN.

K.Đu Usinxky đã nhận định rằng "… Tiếng mẹ đẻ là cơ sở của mọi
sự phát triển, là vốn quý của mọi tri thức." [4]. Ngôn ngữ là phương tiện
giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh. Thực tiễn đã chứng minh rằng: Trẻ
em chỉ nhận thức được thế giới xung quanh khi có sự giúp đỡ của người
lớn, bằng con đường giao lưu với họ. Trong quá trình giao lưu (bằng ngơn
ngữ là chính) người lớn giúp trẻ phân biệt sự vật này với sự vật khác, biết
được tên gọi, màu sắc hình dáng, cơng dụng và những thuộc tính cơ bản
của sự vật, hiện tượng. Nếu để cho trẻ tự quan sát, tự nhận thức thế giới
xung quanh (mà khơng được người lớn giải thích, hướng dẫn) thì tri thức
thu được nhất định sẽ hời hợt, nơng cạn có khi cịn bị sai lệch về bản chất.
Ngồi ra, khi nhận biết các sự vật, hiện tượng trẻ dùng từ để gọi tên
sự vật, tên các chi tiết, đặc điểm, tính chất, cơng cụ của sự vật. Nhờ đó, q
trình nhận thức sự vật, hiện tượng ở trẻ trở nên sâu sắc hơn, chính xác hơn.
Khi lớn hơn một chút nữa, nhận thức của trẻ đã phát triển hơn. Trẻ
nhận biết không chỉ những sự vật, hiện tượng trực tiếp mà cả gián tiếp. Trẻ
muốn biết về quá khứ, về tương lai, trẻ muốn biết về công việc và quan hệ
của người lớn trong xã hội…. Để đáp ứng được nhu cầu nhận thức ngày
càng tăng của trẻ, người lớn cần phải tổ chức, hướng dẫn cho trẻ tham gia
nhiều hoạt động đa dạng và phong phú. Khi đó ngơn ngữ là công cụ không
thể thiếu được để nhận thức thế giới xung quanh.
Khi có vốn ngơn ngữ nhất định, trẻ sử dụng ngôn ngữ như phương
tiện hữu hiệu để phát triển nhận thức của mình. Trẻ có thể dùng lời để diễn
đạt những suy nghĩ, những xúc cảm của mình cho người khác hiểu, đồng
thời trẻ hiểu được nhũng lời chỉ dẫn của người lớn. Có thể nói, khi đó các


13
hoạt động nhận thức của trẻ được tăng cường, hoạt động và giao tiếp được
tích cực hơn. Nhờ đó sự hiểu biết của trẻ càng sâu sắc hơn, đầy đủ hơn.
Kết luận: Ngơn ngữ có vai trị hết sức quan trọng trong q trình

phát triển nhận thức của trẻ.
* Ngơn ngữ đối với việc giáo dục tình cảm cho trẻ mầm non.
Phát triển và hồn thiện dần ngơn ngữ cho trẻ ở lứa tuổi mầm non
khơng những có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển nhận thức mà còn có
tác dụng quan trọng trong giáo dục tình cảm ở lứa tuổi này- lứa tuổi bắt đầu
tìm hiểu và lĩnh hội những khái niệm, những quy tắc, những chuẩn mực
đạo đức xã hội. Ở lứa tuổi mầm non việc giáo dục tình cảm đạo đức là rất
quan trọng. Trẻ chưa hiểu nhiều về cuộc sống, về con người cũng như thế
giới xung quanh, giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ ở lứa tuổi này có ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển đời sống tình cảm mai sau của chúng.
Đối với trẻ mầm non (với hình thức tư duy trực quan - hành động là
chủ đạo), người lớn cần phải thơng qua sự việc, hồn cảnh và con người cụ
thể để tác động vào suy nghĩ, vào tình cảm, hình thành thái độ đúng đắn ở
các em, qua đó giúp các em lĩnh hội được những quy tắc đạo đức, những
chuẩn mực hành vi của xã hội. Vì thế, đối với trẻ mầm non người ta thường
giáo dục tình cảm đạo đức thơng qua các câu chuyện kể.
Ví dụ: Khi nghe câu chuyện "Ba cô gái" trẻ sẽ nhận ra rằng cô cả và
cô hai không thương mẹ, chỉ có cơ út mới thực lịng thương mẹ và cuối
cùng cơ được sống cuộc đời hạnh phúc. Từ đó, trẻ suy nghĩ và hành động
sao cho tốt hơn.
Kết luận: Ngôn ngữ có vai trị rất lớn trong việc giáo dục tình cảm
đạo đức cho trẻ.
* Ngơn ngữ đối với sự phát triển hành động ý chí của trẻ mầm non.


14
*Thế nào là ý chí: Là một phẩm chất nhân cách, ý chí thể hiện năng
lực thực hiện hành động có mục đích, địi hỏi có sự nỗ lực khắc phục khó
khăn.
Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, mặt biểu hiện cụ thể của

ý thức trong thực tiễn, ở đó con người tự giác được mục đích của hành
động, đấu tranh động cơ, lựa chọn các phương pháp vượt qua mọi trở ngại,
khó khăn để thực hiện đến cùng mục đích đề ra. Ý chí bao gồm các mặt
năng động của trí tuệ, mặt năng động của tình cảm đạo đức, là hình thức
điều khiển, điều chỉnh hành vi tích cực nhất của con người. Giá trị chân
chính của ý chí khơng phải chỉ ở cường độ ý chí mạnh hay yếu mà chủ yếu
ở nội dung đạo đức có ý nghĩa của mục đích mà ý chí nỗ lực vươn tới [1].
* Hành động và hành động ý chí ở trẻ mầm non.
- Hành động ý chí là một hành động có ý thức, có chủ tâm, địi hỏi sự nỗ
lực khắc phục mọi khó khăn, thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra.
Đối với trẻ mầm non các hành động ý chí đúng nghĩa chưa nhiều
nhưng ngơn ngữ vẫn đóng vai trị quan trọng trong việc điều khiển hành
động (chưa có ý chí, có ý chí) ở chúng.
Trẻ mầm non thường hành động theo ý thích riêng của mình, nếu gặp
khó khăn khơng làm được chúng thường bỏ cuộc. Lúc này trẻ cần có sự
giúp đỡ của người lớn. Người lớn dùng lời ngôn ngữ hướng dẫn trẻ làm và
động viên trẻ thực hiện thành cơng hành động của mình. Qua đó phát triển
ở trẻ tính mục đích, tính chủ động, sự kiên trì, bền bỉ vượt qua khó khăn,
biến những hành động chưa ý chí thành hành động ý chí ở chúng.
Các hành động ý chí của trẻ mầm non hình thành ngày một nhiều
dưới tác động của giáo dục và môi trường sống như các hành động thực
hiện các yêu cầu của giáo viên, các hoạt động chơi…


15
Để thấy rõ hơn vai trị của ngơn ngữ đối với hành động của trẻ mầm
non, chúng ta xem xét ba giai đoạn cơ bản của một hành động ý chí điển
hình:
- Giai đoạn chuẩn bị: Giai đoạn này gồm các khâu:
+ Xác định mục đích, hình thành động cơ, trong giai đoạn này sự đấu

tranh động cơ để chọn lấy một mục đích, một động cơ nổi bật. Việc đấu
tranh động cơ cịn diễn ra suốt q trình hành động.
+ Lập kế hoạch hành động
+ Chọn phương tiện và phương pháp hành động
+ Quyết định hành động.
Ở giai đoạn này sự có mặt của ngơn ngữ (bên trong và bên ngồi)sẽ
giúp cho các q trình tư duy và hành động diễn ra một cách thuận lợi.
Chính vì vậy, ngơn ngữ giữ vai trò chủ đạo trong giai đoạn này.
- Giai đoạn thực hiện:
Việc chuyển từ quyết định hành động đến hành động là sự thay đổi
về chất vì đó là sự chuyển biến nguyện vọng thành hiện thực. Sự thực hiện
quyết định có thể diễn ra dưới hai hình thức
+ Thực hiện hành động bên ngoài
+ Hành động ý chí bên trong (hay kìm hãm các hành động bên
ngồi)
- Giai đoạn đánh giá kết quả của hành động
Giai đoạn này ngơn ngữ đóng vai trị điều chỉnh, điều khiển hành
động theo mục đích đặt ra.
Khi hành động đạt đến mức độ phát triển nào đó con người dùng
ngơn ngữ làm cơng cụ để với mục đích đã định. Khi kết quả hành động phù
hợp với mục đích thì hành động kết thúc. Sự đánh giá thường đem lại sự


16
hài lòng thoả mãn hoặc chưa thoả mãn, chưa hài lịng, sự đánh giá có thể
trở thành động cơ kích thích hoạt động tiếp theo.
Ba giai đoạn trên của một hành động ý .. có liên quan hữu cơ nối tiếp
nhau và bổ sung cho nhau.
Như vậy cả ba giai đoạn của hành động ý chí đến có sự tham gia của
ngơn ngữ, ngơn ngữ đóng vai trị quan trọng và thiết yếu không thể thiếu

được của hành động ý chí.
Tóm lại: Ngơn ngữ có vai trị rất quan trọng đối với sự phát triển tâm
lý của trẻ em, ngôn ngữ giúp trẻ giao tiếp được với thế giới xung quanh,
giúp trẻ đáp ứng được những nhu cầu nhận thức, tình cảm ngày càng tăng.
Ngồi ra ngơn ngữ cịn đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh, điều
khiển các hành động chưa ý chí và ý chí của trẻ.
2.2.3. Vai trị của ngơn ngữ đối với sự phát triển thể lực ở trẻ em
Giáo dục thể chất ở trường mầm non là quá trình tác động chủ yếu
vào cơ thể trẻ, tổ chức cho trẻ em vận động, rèn luyện cơ thể, giữ vệ sinh,
tổ chức các chế độ sinh hoạt hợp lý nhằm bảo vệ và làm cho cơ thể phát
triển một cách hoàn thiện, cân đối, sức khoẻ tăng cường, đạt đến trạng thái
hoàn thiện về mặt thể chất [5].
Để phát triển thể chất cho trẻ cần sử dụng kết hợp nhiều phương tiện
khác nhau: Yếu tố vệ sinh, yếu tố thiên nhiên và bài tập thể dục, (trong đó
các bài tập vận động đóng vai trị quan trọng). Hàng ngày người lớn dùng
ngôn ngữ để hướng dẫn trẻ em thực hiện tốt các yêu cầu về rèn luyện thể
lực, góp phần làm cho cơ thể trẻ phát triển toàn diện, đặc biệt trong giờ học
thể dục, các vận động cơ bản và các trò chơi vận động... Ngoài ra, chế độ
dinh dưỡng, vệ sinh và các yếu tố thiên nhiên cũng góp phần quan trọng
trong sự phát triển thể lực của trẻ. Người lớn cần dùng ngơn ngữ để động
viên, kích thích trẻ thực hiện tốt chế độ vệ sinh, dinh dưỡng hợp lý, hướng


17
dẫn trẻ luyện tập với các yếu tố thiên nhiên để và tẩy rửa các vết bẩn tăng
cường sức đề kháng nhằm phát triển cơ thể một một cách rắn chắc và khoẻ
mạnh.
* Chúng ta có thể thấy rõ hơn điều đó khi xem xét vai trị của ngơn ngữ đối
với sự hình thành kỹ năng- kỹ xảo vận động - một trong những nhiệm vụ
cơ bản trong giáo dục thể chất cho trẻ mầm non.

Hình thành kỹ xảo vận động là quá trình hình thành nhiều động hình,
động lực trong sự tác động qua lại của hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai.
Trong đó hệ thống tín hiệu thứ hai giữ vai trò chủ đạo. Cụ thể:
Quá trình hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động của trẻ trải qua ba
giai đoạn. Giai đoạn 1: Hình thành kỹ năng vận động; Giai đoạn 2: Học sâu
từng phần của bài tập vận động, giai đoạn 3 củng cố và hồn thiện kỹ năng
vận động hình thành kỹ xảo vận động
Trong quá trình hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động cho trẻ mẫu
giáo ngơn ngữ đóng vai trị rất quan trọng. Tuy ngôn ngữ không trực tiếp
tham gia vào q trình vận động của trẻ nhưng nó lại là yếu tố khơng thể
thiếu được trong q trình hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động của trẻ.
Ngôn ngữ giúp trẻ hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn về ý nghĩa của việc thực hiện
các vận động đó, về cách tiến hành vận động (kỹ thuật thực hiện vận động).
Giai đoạn 1: Hình thành kỹ năng vận động ban đầu (tức là dạy cho trẻ làm
quen với các vận động mới). Để trẻ biết và nhớ được tên các bài tập vận
động khơng có cách nào khác là cơ giáo phải nhắc tên các tài tập. Để trẻ
thực hiện được vận động đó và nắm được kỹ thuật của bài tập đó cơ giáo
cũng phải giải thích, hướng dẫn kỹ thuật thực hiện bài tập vận động ….
Nếu khơng có ngơn ngữ thì giáo viên khơng thể hướng dẫn cho trẻ được và
trẻ cũng khó thực hiện được bài tập vận động. Ngơn ngữ đóng vai trị quan
trọng trong q trình hình thành kỹ năng vận động mới.


18
Giai đoạn 2: Học sâu từng phần của bài tập vận động (kỹ thuật của bài tập
vận động)
Giai đoạn này đòi hỏi trẻ tập trung chú ý đến các chi tiết kỹ thuật của
bài tập vận động. Làm sao để trẻ biết dùng sức hợp lý khi thực hiện các
phần của bài tập và biết cách phối hợp các động tác giữa tay và chân? Ở
giai đoạn này cô giáo hướng dẫn cho trẻ các phần cơ bản của bài tập. Để

phối hợp được giữa các phần trên cơ thể cô giáo phải làm tư thế, vừa làm
mẫu vừa dùng lời (ngơn ngữ) giải thích, nhấn mạnh những chi tiết kỹ thuật
cho trẻ ghi nhớ.
Giai đoạn 3: Hoàn thiện kỹ năng vận động (hình thành kỹ xảo vận động)
Giai đoạn này trẻ đã nắm vững kỹ thuật của bài tập vận động nhưng
cần tiếp tục hoàn thiện các chi tiết kỹ thuật. Cho trẻ tập luyện nhiều lần vận
động đã học để trở thành kỹ xảo vận động. Giai đoạn này dễ gây chán nản
cho trẻ vì thực hiện bài tập một cách liên tục không biến đổi. Nếu cô giáo
khơng khuyến khích, động viên (đặc biệt là khen trẻ) thì trẻ khó mà thực
hiện được. Vì thế sự tham gia của ngôn ngữ sẽ giúp trẻ trong suốt quá trình
luyện tập các bài tập vận động ở giai đoạn này.
Kết luận: Sự hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động ở trẻ phụ thuộc
phần lớn vào giáo viên. Giáo viên phải luôn gần gũi với trẻ, hướng dẫn,
động viên trẻ thực hiện bài tập vận động một cách tốt nhất. Như vậy, trong
quá trình hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động của mần non ngơn ngữ đóng
vai trị hết sức quan trọng góp phần to lớn trong việc giáo dục trẻ thành
người phát triển toàn diện.
3-Phƣơng pháp kể chuyện về bài tập vận động.
3.1-Bài tập vận động: khái niệm, bản chất, nội dung, hình thức, phân
loại.
3.1.1.Khái niệm:


19
Theo định nghĩa của A. B Kehemane và A.B Khukhlaieva [10].
Bài tập vận động là những cử động, thao tác vận động và cả những
dạng phức hợp của vận động (trò chơi vận động) được lựa chọn như là
phương tiện để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục thể chất.
Thuật ngữ "Bài tập" được sử dụng để chỉ sự lặp đi lặp lại của vận động.
3.1.2 Sự ra đời của các bài tập vận động.

Các bài tập vận động xuất hiện khi con người ý thức được sự cần
thiết của việc chuẩn bị thể lực cho cuộc sống và hoạt động lao động của
mình (ví dụ: Săn bắn, chế tạo công cụ, lao động …). Kinh nghiệm sống
giúp họ nắm bắt được mối quan hệ giữa kết quả của cuộc săn bắn với sự
chuẩn bị thể lực từ trước cho các thợ săn, từ đó họ coi trọng hơn việc
truyền thục cho thế hệ sau những kinh nghiệm vận động đã tích luỹ đươc.
Trong q trình lặp đi lặp lại nhiều lần các vận động đã phát triển kỹ năng
ném trúng đích, mở rộng tầm nhìn, tăng sức lực và phát triển những tố chất
thể lực khác ở họ.
Tóm lại, bài tập vận động bắt đầu hình thành từ các vận động lao
động. Hoạt động chiến tranh, khoa học, nghệ thuật có ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển tiếp theo của bài tập vận động.
Tiếp theo người ta nắm bắt được mối quan hệ giữa các hình thức
hành động, lao động với các bài tập vận động, từ đó cho phép phân tích
hoạt động vận động phức hợp thành các bài tập vận động đơn lẻ (chạy,
nhảy, ném và sử dụng chúng vào mục đích giáo dục thể chất cho thế hệ
sau).
Trong quá trình phát triển lý luận và thực tiễn giáo dục thể chất đã
hình thành những bài tập đặc biệt dành cho các nhóm cơ khác nhau và cả
những trị chơi thể thao (đá bóng, bóng chuyền …). Hiện nay, có một số
lượng lớn các bài tập vận động và sự phát triển của nó cịn tiếp tục.


20
3.1.3. Nội dung và hình thức của bài tập vận động:
+ Nội dung:
Nội dung bài tập vận động bao gồm các phần (các bước) của bài tập, các
quá trình tâm lý, sinh lý, sinh hoá, vật lý …) diễn ra trong cơ thể khi thực hiện
bài tập vận động và kết quả tác động của q trình đó đến người tập.
+Hình thức: Hình thức của bài tập vận động bao gồm hình thức bên trong

và hình thức bên ngồi.
-Hình thức bên ngoài của bài tập vận động là cái quan sát được thể
hiện ở những mối quan hệ không gian và sự tiêu hao sức lực trong quá trình
thực hiện bài tập vận động.
-Hình thức bên trong của bài tập vận động biểu hiện ở mối quan hệ
giữa các quá trình diễn ra trong cơ thể khi thực hiện bài tập vận động. (sự phối
hợp giữa các quá trình tâm lý, sinh lý, sinh hố …). Hình thức bên trong của
bài tập vận động trong từng trường hợp cụ thể khác nhau thì khác nhau. Ví dụ:
Khi chạy sẽ khác nhảy cho nên cấu trúc bên trong của các bài tập ấy sẽ khác
nhau.
Nội dung và hình thức của bài tập vận động có liên quan với nhau.
Nội dung giữ vai trị chủ yếu hơn so với hình thức, nội dung là phần linh
hoạt hơn, phần không ngừng thay đổi của bài tập vận động - Ví dụ: Chạy
với các tốc độ khác nhau (các thành phần của nội dung) sẽ xuất hiện khác
nhau, các yếu tố hợp thành kỹ thuật chạy: độ dài bước chạy, vị trí thân
người … (là các thành phần của hình thức) cũng sẽ khác nhau. Tuy nhiên
hình thức cũng ảnh hưởng đến nội dung. Ví dụ: Sự xuất hiện cụ thể các tố
chất vận động này hay tố chất vận động khác khi thực hiện bài tập vận động
đều do ảnh hưởng của kỹ năng, kỹ xảo vận động (thành phần của hình thức).
Nếu thực hiện đúng cách vung tay khi ném xa sẽ tăng độ xa của vật ném.


21
Duy trì tương quan giữa nội dung và hình thức của bài tập vận động
là một trong những vấn đề quan trọng của quá trình giáo dục thể chất.
3.1.4. Kỹ thuật của bài tập thể dục
Kỹ thuật của bài tập thể dục là cách thức thực hiện các bài tập thể
dục, nhờ đó nhiệm vụ vận động được giải quyết hợp lý và có hiệu quả nhất.
Kỹ thuật các bài tập thể dục khơng ngừng thay đổi và hồn thiện. Sự hồn
thiện kỹ thuật và thiết lập những hình thức mới của các bài tập thể dục

nhằm mục đích đạt kết quả cao, nâng cao sự chuẩn bị thể lực của người tập,
khám phá những quy luật sinh cơ học của vận động nhờ ứng dụng những
thiết bị thể dục, thể thao hoàn thiện hơn.
Kỹ thuật bài tập vận động bao gồm các khâu.
+ Nguyên lý kỹ thuật: là những thành tố chính của bài tập, cần thiết
dể giải quyết nhiệm vụ bài tập vận động. Nếu thiếu bất cứ một thành tố nào
của nguyên lý kỹ thuật thì bài tập đó khơng thể thực hiện được hoặc bài tập
sai. Ví dụ: Nhảy cao có đà: Các thành tố chính của bài tập là chạy (chân
bước tay vung) "bay" qua dây, "hạ" xuống mặt đất.
+ Khâu cơ bản của kỹ thuật: Là phần quan trọng và quyết định nhất
của cơ chế cơ bản của bài tập: Ví dụ trong nhảy cao có đà thì khâu cơ bản
của kỹ thuật là dậm nhảy kết hợp với chân đà lăng cao và nhanh ("bay" qua
dây). Khâu này thực hiện trong khoảng thời gian ngắn và đòi hỏi sự gắng
sức hơn của cơ bắp.
+ Các chi tiết kỹ thuật: là những đặc điểm thứ yếu của bài tập.
Những đặc điểm này có thể thay đổi mà không ảnh hưởng đến cơ chế cơ
bản của bài tập (thường là tư thế cuối cùng của bài tập).
Chi tiết kỹ thuật của bài tập có thể khác nhau ở những trẻ khác nhau,
đa số các trường hợp chúng phụ thuộc vào đặc điểm chức năng và thể hình
của cá nhân trẻ, vào điều kiện thực hiện bài tập vận động.


22
3.1.5. Phân loại bài tập vận động
Dựa trên những cơ sở sử dụng những phương tiện và phương pháp
tiến hành các bài tập vận động ngươì ta chia các bài tập vận động thành bốn
nhóm. Mỗi nhóm bài tập vận động có giá trị đặc trưng và được chia thành
các nhóm nhỏ hơn.
+ Các bài tập thể dục
Đặc điểm đặc trưng của bài tập thể dục là sự tác động có chọn lọc lên

các bộ phận cơ thể: lên các nhóm cơ, bắp, khớp, dây chằng và tác động lên
những hoạt động khác của cơ thể. Các hệ cơ quan, trạng thái của chúng (co,
giãn cơ bắp), khả năng xác định trường lực, sự đa dạng của bài tập, sử dụng
dụng cụ tập theo nhạc, hội thao thể dục. Những đặc điểm trên của bài tập
vận động cho phép sử dụng chúng để luyện tập cho tất cả các lứa tuổi với
sự chuẩn bị thể lực và tình trạng sức khoẻ khác nhau.
+ Bài tập thể thao
Đó là hệ thống các bài tập thể chất nhằm mục đích đạt thành tích cao
khi tham gia vào cuộc thi.
Thể thao địi hỏi những yêu cầu thể lực và sức mạnh tinh thần của
người luyện tập, do các bài tập thể thao chỉ được phép tiến hành ở các độ
tuổi nhất định và trong điều kiện phù hợp với phát triển và chuẩn bị thể lực
Với trẻ ở cuối độ tuổi mầm non người ta áp dụng những bài tập thể thao
đơn giản như đi xe đạp 4 bánh, tập bơi.
+ Các trò chơi vận động
Các trò chơi vận động được phân biệt với các bài tập vận động bởi
đặc điểm tổ chức các hoạt động của chúng.
Trong trò chơi vận động hoạt động của trẻ được tổ chức trên cơ sở
nội dung hoặc nhiệm vụ của trị chơi đã được dự tính trước.


23
Hoạt động của trò chơi vận động mang đặc điểm tổng hợp và được
xây dựng dựa trên sự kết hợp các thao tác vận động (chạy, nhảy….)
+ Các bài tập vận động sử dụng trong du lịch - thể thao.
Các bài tập vận động sử dụng trong lĩnh vực này nhằm mục đích
củng cố kỹ năng vận động và phát triển tố chất vận động trong điều kiện tự
nhiên (thiên nhiên). Người ta tổ chức cho trẻ nhỏ những cuộc dạo chơi kết
hợp sử dụng các bài tập vận động
Đối với mần non các bài tập thể dục và trò chơi vận động là những

bài tập vận động cơ bản [5].


24
3.2. Khái niệm, vị trí của phương pháp kể chuyện về bài tập vận động
3.2.1. Khái niệm: Phương pháp kể chuyện về bài tập vận động cho 45 tuổi là q trình cơ giáo sử dụng các câu chuyện có liên quan đến bài tập
vận động để kể cho các cháu nghe nhằm tăng sự hấp dẫn của giờ học hay
trị chơi vận động, làm chính xác hố các động tác cơ bản, giúp trẻ tưởng
tượng tốt hơn tình huống chơi hay vận động, kích thích sự cố gắng thực
hiện động tác của trẻ.
Phương pháp kể chuyện về bài tập vận động đựoc sử dụng dưới ba
hình thức cơ bản:
a) Dạy các bài tập vận động cho trẻ dưới hình thức tiết học theo chủ đề,
chủ điểm, có nghĩa là tiết học thể dục được xây dựng bằng một câu chuyện kể.
Xuyên suốt từ phần mở đầu, phần khởi động, trọng động và hồi tỉnh.
b) Dạy vận động cơ bản khó bằng cách lồng vào một câu chuyện hình thức này giúp trẻ thực hiện bài tập một cách dễ dàng, nắm bắt được
chính xác các kỹ thuật của bài tập. Hình thức này thường áp dụng vào thời
gian ngồi tiết học
c) Sử dụng chuyện kể vào đầu tiết học hoặc trị chơi vận động để gây
hứng thú và kích thích sự tích cực hoạt động của trẻ.
3.2.2. Vị trí của phương pháp kể chuyện về bài tập vận động
Trong giáo dục thể chất mầm non người ta sử dụng nhiều phương
pháp khác nhau, có thể chia thành 3 nhóm chính sau đây [5]:
a) Nhóm phương pháp trực quan
Cơ sở của nhóm phương pháp này là những càm giác, tri giác trực
tiếp của trẻ về bài tập vận động.
Nhóm phương pháp này gồm:
- Phương pháp làm mẫu
- Phương pháp mô phỏng



25
- Phương pháp bắt chước
- Phương pháp sử dụng vật chuẩn thính giác và thị giác
- Phương pháp sử dụng tài liệu trực quan
Khi hướng dẫn các bài tập vận động cho trẻ cô giáo cần phối hợp các
phương pháp nói trên một cách linh hoạt, sao cho các bài tập vận động mẫu
của cơ chính xác, rõ ràng, đẹp và hấp dẫn đối với trẻ.
b) Nhóm phương pháp thực hành
Phương pháp này được tiến hành dưới nhiều hình thức như luyện
tập, trị chơi, thi đua.
Sử dụng nhóm phương pháp thực hành để rèn luyện và cũng cố kỹ
năng, kỹ xảo vận động của trẻ. Nhờ đó phát triển cảm giác vận động của
cơ. Khi trẻ thực hiện bài tập vận động cơ giáo có thể dễ dàng quan sát, nhận
xét và đánh giá việc luyện tập của trẻ, từ đó kịp thời phát hiện, sửa sai cho
trẻ theo yêu cầu từng độ tưổi.
c) Nhóm phương pháp dùng lời
Sử dụng phương pháp dùng lời giúp trẻ quan sát bài tập vận động
một cách có mục đích, hiểu sâu hơn các bước thực hiện bài tập vận động,
tạo điều kiện cho trẻ tiếp thu bài tập vận động chính xác và đầy đủ hơn. Khi
sử dụng nhóm phương pháp dùng lời u cầu ngơn ngữ của cơ phải có sức
truyền cảm rõ ràng, mạch lạc và giàu hình ảnh.
Gồm các phương pháp sau:
Phương pháp gọi tên bài tập vận động
Phương pháp miêu tả bài tập vận động
Phương pháp giải thích bài tập vận động
Phương pháp chỉ dẫn bài tập vận động
Phương pháp đàm thoại về bài tập vận động
Phương pháp kể chuyện về bài tập vận động



×