Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Khóa luận tốt nghiệp ngành Triết học: Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.06 KB, 72 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
--------------------------

THÁI THỊ CHÚC

VẤN ĐỀ SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X

Hà Nội – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
--------------------------

THÁI THỊ CHÚC

VẤN ĐỀ SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy


Khóa học: QH-2015-X
Người hướng dẫn: PGS. TS. Trần Ngọc Liêu

Hà Nội – 2019


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm
ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cơ giáo trong khoa Triết học, trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời
gian em học tập tại khoa, tại trường.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Trần Ngọc Liêu đã trực
tiếp hướng dẫn tận tình và chu đáo trong quá trình em thực hiện và hoàn thiện
khóa luận tốt nghiệp này. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận
sẽ khơng tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các thầy, các cơ, cùng tồn thể các bạn để khóa
ḷn này được hồn thiện hơn.
Hà Nợi, ngày 26 tháng 4 năm 2019

Thái Thị Chúc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VÀ CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ SỞ HỮU ............................................ 7
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về sở hữu ................................. 7
1.2. Quan điểm của Đảng về vấn đề sở hữu ở Việt Nam qua các kỳ Đại
hội Đảng từ năm 1986 đến nay..................................................................... 14
Chương 2. ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .. 23

2.1. Nền kinh tế thị trường và vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị
trường .................................................................................................. 23
2.1.1. Kinh tế thị trường và vấn đề sở hữu. .................................................. 23
2.1.2. Kết quả đạt được trong quá trình đổi mới của Đảng về vấn đề sở hữu.
......................................................................................................................... 27
2.2. Những hình thức sở hữu cơ bản trong quá trình đổi mới Việt Nam
hiện nay. ......................................................................................................... 34
2.2.1. Sở hữu nhà nước.................................................................................. 36
2.2.2. Sở hữu tập thể ...................................................................................... 40
2.2.3. Sở hữu tư nhân .................................................................................... 43
2.2.4. Sở hữu hỗn hợp .................................................................................... 47
2.3. Một số hạn chế và vấn đề đặt ra ........................................................... 50
KẾT LUẬN .................................................................................................... 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 64


MỞ ĐẦU
1.

Lý do lựa chọn đề tài
Sở hữu luôn được coi là vấn đề quan trọng của mỗi quốc gia. Giải quyết

vấn đề sở hữu sẽ tạo động lực cho phát huy kinh tế- xã hội, nhưng nếu không
nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề sở hữu sẽ làm cản trở đến quá trình xây dựng và
phát triển đất nước. Sự phát triển của khoa học công nghệ như vũ bão, xu
hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng nhanh cuốn hút các quốc gia
vào một sân chơi chung. Vì vậy, mỗi quốc gia phải nhanh chóng thay đổi, bắt
nhịp được xu thế chung của thế giới. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam. Với tình hình đất nước ta hiện nay, đặt
ra nhiều vấn đề liên quan đến sở hữu địi hỏi phải nghiên cứu và tìm ra các

giải pháp giải quyết vấn đề.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển sẽ làm
thay đổi vấn đề sở hữu theo hướng có lợi cho việc phát triển và đảm bảo lợi
ích cho chủ thể kinh tế như các hình thức sở hữu đa dạng giúp cho chủ thể
kinh tế có điều kiện tự do sản xuất, kinh doanh và phát huy tính năng động
sáng tạo của mình. Từ đó, họ đảm bảo cuộc sống và mang lại lợi ích kinh tế
cho đất nước. Ngày nay, khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, xu hướng phát triển nền kinh tế tri thức, làm thay đổi các hình thức
sở hữu. Bối cảnh phát triển mới của đất nước cũng đang đặt ra hàng loạt vấn
đề liên quan đến sở hữu đòi hỏi phải nghiên cứu giải quyết. Đó là hiện thực
khách quan ảnh hưởng hệ thống và sâu sắc trực tiếp đến tiến trình phát triển
của Việt Nam, nhưng lại chưa được nghiên cứu. Vì vậy, trong bối cảnh tồn
cầu hóa, đứng trước những thời cơ và thách thức của thời đại, trước yêu cầu
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường mà vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa thì Việt Nam nhất thiết
phải tiếp tục giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu. Từ đây, đòi hỏi Đảng và nhà
1


nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải thay đổi tư duy lãnh đạo, đổi mới
đường lối và chính sách cho phù hợp với công cuộc hội nhập và phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước. Việt Nam đã tiến hành cơng cuộc đổi mới tồn
diện đất nước từ năm 1986 đến nay và vấn đề sở hữu luôn là đề tài được giới
lý luận quan tâm nghiên cứu. Thành tựu hơn 30 năm đổi mới đã khẳng định
chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
Đảng và Nhà nước ta là hồn tồn đúng đắn. Chúng ta đã có nhiều chính sách
kịp thời nhằm đa dạng hóa các hình thức sở hữu và phát triển các thành phần
kinh tế.
Từ đó đến nay, vấn đề sở hữu luôn là đề tài được giới lý luận quan tâm
nghiên cứu. Song, thực tiễn xây dựng đất nước ln đặt ra những u cầu

mới, địi hỏi chúng ta phải giải quyết các vấn đề xung quanh sở hữu về bản
chất của sở hữu, sự tồn tại, vai trị của các hình thức sở hữu hiện nay và
những vấn đề đặt ra vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu
“Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.” có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Trong cơng cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, vấn đề sở hữu luôn thu hút
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận trên nhiều phương diện
kinh tế, chính trị- xã hội. Việc giải quyết vấn đề sở hữu là giải quyết vấn đề
cơ bản trong việc xác định mơ hình cũng như phương hướng phát triển nền
kinh tế của mỗi quốc gia. Những tác động của thời cuộc đã ảnh hưởng sâu
rộng đến sự thay đổi của sở hữu và những quan niệm của con người về sở
hữu. Vấn đề đã và đang thu hút sự quan tâm không những là những nhà
nghiên cứu khoa học về luật pháp hay kinh tế, xã hội mà còn cả người dân
trong nước mà còn có cả nước ngoài.

2


Trong đó, có thể kể ra một số cơng trình đề cập đến vấn đề sở hữu tiêu
biểu sau đây:
- Cuốn “Chủ nghĩa Mác- Lênin và công cuộc đổi mới ở Việt Nam”
NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002 của PGS. TS. Đặng Hữu Tồn, tác
giả đã phân tích vấn đề đa dạng hóa và tính chất đan xen của các hình thức sở
hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và
nhấn mạnh sự phát triển kinh tế tư nhân. Cuốn “Về vấn đề sở hữu” do

Nguyễn Thị Luyến (chủ biên), tác giả chỉ ra rằng vấn đề sở hữu rất phức tạp
và đang còn nhiều ý kiến khác nhau. “Một số vấn đề sở hữu ở nước ta hiện
nay” do Nguyễn Văn Thạo và Nguyễn Hữu Đạt đồng chủ biên, NXB. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, đã trình bày một số vấn đề lý luận về sở hữu,
quan điểm về sở hữu. Bài viết “Vấn đề sở hữu trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội” của Phó giáo sư Tiến sĩ Lê Hữu Nghĩa trên tạp chí Cộng sản,
tháng 6/1989. Đổi mới sở hữu ở Việt Nam: Một số cơ sở lý luận của Phạm
Văn Đức (tạp chí Triết học, số 2- 2005) chỉ ra cơ sở lý luận căn bản của việc
đổi mới về sở hữu ở Việt Nam là sự đổi mới quan niệm về chủ nghĩa xã hội
và khẳng định sự thành công tiếp theo của công cuộc đổi mới phần nhiều phụ
thuộc vào những chủ trương và giải pháp nhằm sử dụng một cách tối ưu các
loại hình sở hữu. Bài viết: Phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (tạp chí Lý luận Chính trị, số 032006) của tác giả Nguyễn Nhâm đã làm rõ tính khách quan của các hình thức
sở hữu, xác định rõ các thành phần kinh tế và vai trò của nó trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Các đề tài nghiên cứu khoa học như: kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ
“Những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề sở hữu trong chủ
nghĩa xã hội và ý nghĩa của những quan điểm đó đối với quá trình phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay”, Hà Nội, 2001 do TS Trần
Ngọc Linh làm chủ nhiệm đề tài; cơng trình “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế
3


thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội do GS. TS Nguyễn Kế Tuấn làm chủ biên. Các cơng trình đã nghiên
cứu nhiều mặt của vấn đề sở hữu và đề cập khá sâu sắc, toàn diện và có hệ
thống về vấn đề sở hữu. cơng trình “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luậnthực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986- 2006)” do Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận
biên tập và nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản (lưu hành nội bộ) đã đề
cập toàn diện và sâu sắc quá trình đổi mới và bài học rút ra về vấn đề sở hữu.
- Các luận văn, luận án nghiên cứu như: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Sở

hữu tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, Nguyễn Thị Huyền, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
2004, trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề sở hữu, ḷn văn trình bày một số vấn đề lý luận
về sở hữu, sở hữu tư liệu sản xuất và những nhân tố tác động đến quá trình hình
thành, biến đổi của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất trong nền kinh tế. Luận án
Tiến sĩ Triết học: Xu hướng và đặc điểm của quá trình đa dạng hóa các hình
thức sở hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Vũ Hồng Sơn
(2000), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, trên cơ sở quan điểm,
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, thơng qua phân tích sự đa dạng
hóa các hình thức sở hữu trên thế giới và trong công cuộc đổi mới ở nước ta, đã
nêu lên xu hướng và đặc điểm của quá trình đa dạng hóa các hình thức sở hữu
theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Các đề tài trên là có đóng góp rất lớn trong việc nhận thức quan điểm
chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề sở hữu. Luận chứng khoa học một số nhận
thức mới về phạm trù sở hữu. Và góp phần làm sáng tỏ nội dung quan điểm
đổi mới của Đảng về vấn đề sở hữu hiện nay. Tuy nhiên, như vậy không có
nghĩa đây là vấn đề đã được giải quyết thấu đáo. Thực tiễn khi xây dựng đất
nước luôn luôn vận động, biến đổi và sở hữu với có sự ảnh hưởng quan trọng
và luôn có những vấn đề mới nảy sinh cần được tiếp tục nghiên cứu. Song đây

4


sở hữu vẫn là vấn đề phức tạp và có rất nhiều những ý kiến khác nhau. Các
cơng trình nghiên cứu kể trên sẽ là những tài liệu tham khảo quý báu cho triển
khai đề tài nghiên cứu của mình.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.

- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và

Đảng Cộng sản Việt Nam về sở hữu, đánh giá vấn đề sở hữu đặc biệt là các
hình thức sở hữu và bước đầu luận giải những vấn đề đặt ra đối với sở hữu
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt mục đích như đã nêu ở trên, khóa luận
có những nhiệm vụ cụ thể như sau:
• Trình bày quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin và của Đảng về
sở hữu.
• Đánh giá vấn đề sở hữu tập trung vào các hình thức sở hữu ở Việt
Nam. Nêu ra những hạn chế và luận giải những vấn đề đặt ra đối với sở hữu
trong bối cảnh nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở

Việt Nam, đặc biệt là các hình thức sở hữu.
- Phạm vi nghiên cứu:
• Về nội dung: Khi bàn về sở hữu dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn có
rất nhiều vấn đề đặt ra. Có thể kể đến như các chủ đề như chủ thể sở hữu, đối
tượng sở hữu, quyền sở hữu đối tượng sở hữu, loại hình sở hữu và hình thức
sở hữu. Trong phạm vi của khóa luận, chúng tôi tập trung nghiên cứu khảo sát
vào các hình thức sở hữu của Việt Nam hiện nay.
• Về thời gian: Q trình đổi mới từ năm 1986 cho đến nay.
5.

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong báo cáo là: phân tích, tổng


hợp, quy nạp, diễn dịch, logic- lịch sử, khái quát hóa, trừu tượng hóa và các
phương pháp chung của khoa học xã hội.

5


6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận.
- Ý nghĩa lý luận: Vì vậy, việc nắm vững vấn đề sở hữu, đặc biệt là luận

điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin sẽ là cơ sở lý luận nền tảng tư tưởng cho việc
vận dụng của Đảng trong hoạch định, định hướng phát triển cho đất nước. Đó
là căn cứ để đấu tranh chống các tư tưởng phản động, chống đối và xuyên tạc
quan điểm của Đảng và nhà nước.
- Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần vào việc đánh giá có tính khái quát, nhận
diện thực trạng về sở hữu trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta đang
có q trình hồ quyện, đan xem, bổ sung cho nhau để phát triển trong một
hành lang định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là việc lựa chọn hợp quy luật và
có hiệu quả, phát huy được các mặt của sở hữu. Trong đó, vẫn còn tồn tại mặt
hạn chế và cần đưa ra những vấn đề đặt ra của sở hữu.
7.

Kết cấu của khóa ḷn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của

khóa luận gồm 2 chương, 5 tiết.

6



Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VÀ CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ SỞ HỮU
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về sở hữu
Khái niệm sở hữu đã trải qua một quá trình lịch sử phát triển lâu đời.
Trong suốt nhiều thế kỷ trước, khái niệm “sở hữu” hoặc là tuyệt nhiên không
được sử dụng, hoặc đã được dùng với những nghĩa khác xa nghĩa ngày nay
[25; Tr. 9]. C. Mác là người đầu tiên đứng trên quan điểm duy vật biện chứng
để phân tích xã hội và sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. Từ đó, ơng tìm ra
quy ḷt khách quan về sự phát triển của xã hội loài người. C. Mác khác với
những nhà tư tưởng cùng thời, ông đi sâu vào nghiên cứu vấn đề sở hữu gắn
với các hình thái kinh tế- xã hội chứ không nghiên cứu khái niệm sở hữu một
cách chung chung trừu tượng. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin
rất quan tâm vấn đề sở hữu, các ông đã tiếp thu một cách có chọn lọc những
quan điểm về sở hữu và đã đưa ra những quan điểm khoa học về sở hữu dựa
trên lập trường của chủ nghĩa duy vật, nhưng hầu như các ông không đưa ra
một định nghĩa cụ thể nào về sở hữu.
Trong các nghiên cứu của mình, C. Mác coi vấn đề sở hữu giữ vị trí cực
kỳ quan trọng cả về mặt kinh tế và mặt chính trị. Về mặt kinh tế, vấn đề sở
hữu có quan hệ mật thiết với quá trình sản xuất của cải vật chất. Sở hữu chính
là mối quan hệ xã hội tồn tại một cách khách quan giữa người với người trong
quá trình lao động sản xuất. Đó chính là quan hệ về các điều kiện khách quan
của sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải xã hội. Nhờ có
mối quan hệ khách quan này, con người có thể tiến hành được quá trình sản
xuất ra của cải vật chất và tinh thần và nhờ có quá trình sản xuất này mà xã
hội loài người có thể tồn tại và phát triển. C. Mác viết: “Nơi nào không có
một hình thái sở hữu nào cả, thì ở đó cũng không có một tên sản xuất nào cả.
Do đó cũng không có một xã hội nào cả”[8; Tr. 43]. Về mặt chính trị, C. Mác
7



cho rằng, giai cấp nào nắm được quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ
yếu, thì giai cấp đó nắm quyền tổ chức quản lý sản xuất, nắm quyền phân
phối sản phẩm xã hội; giai cấp nào nắm quyền chi phối lĩnh vực sản xuất các
giá trị vật chất, thì giai cấp đó cùng năm quyền chi phối mọi lĩnh vực khác
của đời sống xã hội, là giai cấp thống trị trong xã hội. Ông viết: “Tất cả các
cuộc cách mạng gọi là những cuộc cách mạng chính trị, từ cuộc cách mạng
đầu tiên cho đến cuộc cách mạng cuối cùng, đều được tiến hành để bảo hộ chế
độ sản xuất thuộc một loại nào đó.”[7;Tr. 173]
Đồng thời, C. Mác coi vấn đề sở hữu là vấn đề sống cịn của bất kỳ giai
cấp nào trong xã hội, ơng viết: “Vấn đề sở hữu bao giờ cũng là vấn đề sống
còn của giai cấp này hay giai cấp khác- tùy thuộc vào trình độ phát triển của
cơng nghiệp.”[2; Tr. 428]. Trong các tác phẩm mang tính cương lĩnh, C. Mác
và Ph. Ăngghen cũng đã xác định một cách triệt để và dứt khoát rằng sở hữu
là “vấn đề cơ bản”, then chốt của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quan niệm của
Mác về sở hữu được trình bày ở nhiều tác phẩm Trong đó, có những tác phẩm
viết riêng như “Tư bản”, “Bản thảo kinh tế- triết học năm 1844; có những tác
phẩm viết chung với Ph. Ăngghen như “Hệ tư tưởng Đức”, “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản”...
Trước hết, C. Mác khẳng định: “định nghĩa sở hữu tư sản khơng phải là
gì khác mà là trình bày tất cả những quan hệ xã hội của sản xuất tư sản”[3;
Tr.234]. Đồng thời C. Mác và Ph. Ăngghen đều coi sở hữu không chỉ là một
quan hệ xã hội, mà trước hết về thực chất và cơ bản, sở hữu là là mối quan hệ
giữa người với người trong đời sống sản xuất xã hội, trước hết là tư liệu sản
xuất và kết quả của lao động sản xuất. Con người chỉ đặt ra vấn đề sở hữu khi
có sự hiện diện của người khác, cần khẳng định sự chiếm hữu của họ nhằm
thực hiện một lợi ích nào đó được thừa nhận cả về kinh tế và pháp lý[27; Tr.
14]. Đồng thời, C. Mác và Ph. Ăngghen cũng khẳng định sở hữu là một quan
hệ xã hội mang tính lịch sử cụ thể[5; Tr. 745- 746], C. Mác đã viết trong tác

8


phẩm “Sự khốn cùng của triết học” (1847): “Trong các thời đại lịch sử, quyền
sở hữu đã phát triển một cách khác nhau và trong một loạt quan hệ xã hội
hoàn toàn khác nhau.”[4; Tr. 234]. Khi định nghĩa về sở hữu C. Mác đã chỉ ra
phương pháp luận để nghiên cứu khái niệm sở hữu đó là phân tích nền sản
xuất xã hội. Vì chỉ có dựa vào nghiên cứu những điều kiện vật chất của đời
sống xã hội mới đưa ra được định nghĩa, vị trí và vai trò của sở hữu. Sở hữu là
quan hệ đối với những điều kiện của sản xuất. Sở hữu luôn có hai nội dung
kinh tế và pháp lý. Có thể hiểu một cách đơn giản nội dung pháp lý của phạm
trù sở hữu thừa nhận về mặt pháp luật một vật phẩm nào đó (đối tượng sở
hữu) là của ai và nội dung pháp lý của sở hữu thể hiện ở chỗ, pháp luật quy
định bảo vệ đối với chủ thể sở hữu như thế nào. Như trong tác phẩm “Quốc
hữu hóa ruộng đất”, C. Mác đã nhận định rằng, trong tiến trình lịch sử, những
kẻ chiếm đoạt đều nhận thấy cần phải thơng qua ḷt pháp do chính họ đặt ra
để đem lại tính ổn định về mặt xã hội (một sự thừa nhận nào đó) cho cái
quyền nguyên thủy nảy sinh từ sức mạnh thơ bạo. Cịn nội dung kinh tế là
những lợi ích mà người sở hữu được hưởng từ vật phẩm đó. Nội dung kinh tế
của sở hữu trước hết thể hiện ở chỗ, nó là cơ sở, là điều kiện của sản xuất. Hai
nội dung trên của sở hữu có quan hệ biện chứng với nhau. Sự phát triển của
các quan hệ sở hữu về mặt kinh tế sẽ kéo theo những thay đổi của quan hệ
pháp lý. Còn, nội dung kinh tế của phạm trù sở hữu rất phức tạp, bao hàm
nhiều khâu, nhiều mối quan hệ, nó không chỉ dừng lại ở câu hỏi đối tượng sở
hữu thuộc về ai, ai quản lý kinh doanh mà còn xem xét đến cơ chế thực hiện
lợi ích kinh tế như thế nào, dưới hình thức nào? Vì vậy, khi xác định được nội
dung kinh tế của phạm trù sở hữu trong một giai đoạn lịch sử nhất định thì
cần phải đặt nó trong tất cả những mối liên hệ vốn có của nó. Sở hữu chính là
biểu hiện về mặt xã hội của sự chiếm hữu, nó thay đổi theo sự thay đổi của
những điều kiện kinh tế- xã hội của một giai đoạn lịch sử nhất định. Nói cách


9


khác, sở hữu là quan hệ xã hội mang tính lịch sử cụ thể biến đổi cùng với quá
trình phát triển của lịch sử loài người.
Quan niệm của C. Mác về sở hữu tư liệu sản xuất quyết định bởi tính
chất, trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Theo Ph. Ăngghen trong “Nguồn
gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” thì sự phát triển của lực
lượng sản xuất, việc phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, cũng như
việc tăng cường trao đổi hàng hóa là nguồn gốc nảy sinh hình thức sở hữu tư
hữu. Bởi không ai có thể tiến hành sản xuất nếu như không sở hữu bất cứ tư
liệu sản xuất nào vì sở hữu tư liệu sản xuất là tiền đề tạo ra của cải vật chất và
mang lại lợi ích cho chủ sở hữu. Các ơng đã tiến hành phân tích những giai
đoạn chủ yếu trong sự phát triển lịch sử của sản xuất mà cơ sở nền tảng của
nó là sự phát triển của các lực lượng sản xuất. Ở đây, quan điểm này được
trình bày lần đầu tiên, các ông đã chỉ rõ, mỗi một nấc thang mới trong sự phát
triển lịch sử của sản xuất đã làm nảy sinh những hình thức phân cơng lao
động mới và tương ứng với mỗi hình thức phân cơng lao động ấy là những
hình thức sở hữu mới và đến lượt mình, mỗi hình thức sở hữu này lại sản sinh
ra những quan hệ xã hội và chính trị tương ứng với nó. C. Mác cho rằng:
“không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng
sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa
phát triển và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất
hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa
chín muồi trong lịng bản thân xã hội cũ. Cho nên, nhân loại bao giờ cũng chỉ
đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được, vì khi xét kỹ
hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi
những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra cũng
đang trong q trình hình thành”[6; Tr. 15- 16]. Khi phát triển tới một giai

đoạn nhất định, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với
những quan hệ sản xuất hiện có, hay mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu,
10


trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Những quan
hệ cũ đã cản trở sản xuất, chứ không làm cho sản xuất tiến triển lên. Từ chỗ là
những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở
thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó, bắt đầu thời đại
của một cuộc cách mạng xã hội. Ví dụ như cuộc cách mạng tư sản Pháp đã
xóa bỏ chế độ sở hữu phong kiến để thay bằng chế độ sở hữu tư sản. Nói cách
khác, một chế độ xã hội mới không thể ra đời, không thế chiến thắng chế độ
xã hội cũ hay đứng vững khi mà các lực lượng sản xuất quá thấp kém hoặc
quá trì trệ. Như vậy, lực lượng sản xuất phát triển sẽ dẫn đến thay đổi quan hệ
sở hữu; bất cứ một sự cải biến nào về quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất
yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, khơng cịn phù hợp với
các quan hệ sở hữu cũ nữa. Nhưng C. Mác cũng chỉ ra rằng tuy quan hệ sản
xuất chịu sự quyết định trực tiếp của lực lượng sản xuất, nhưng với tư cách là
thành tố quan trọng nhất, quyết định bản chất quan hệ sản xuất, quyết định
bản chất chế độ kinh tế, quan hệ sở hữu là tiêu chí để phân biệt các hình thái
kinh tế- xã hội khác nhau.
Đặc biệt, để xóa bỏ chế độ tư hữu, theo C. Mác sẽ phải “kinh qua một quá
trình rất khó khăn và lâu dài trong hiện thực”. Bởi vì, sự xuất hiện, tồn tại và
phát triển của chế độ tư hữu có tính lịch sử của nó, với những ý nghĩa lịch sử
của nó. Điều đó có nghĩa là, mặc dù chúng ta hiểu được thế nào là chế độ tư
hữu và hơn thế, hiểu được bản chất của chế độ đó, nhưng chúng ta hồn tồn
khơng thể xóa bỏ chế độ tư hữu ở bất kỳ trình độ phát triển nào của nền sản
xuất xã hội bằng mệnh lệnh hành chính, hay theo ý muốn chủ quan của con
người. Ngay cả khi nhiệm vụ đó được đặt ra thì việc xóa bỏ chế độ tư hữu cũng
không thể thực hiện được ngay lập tức, như Ph. Ăngghen đã viết trong tác

phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”. Trả lời câu hỏi: Liệu có thể
thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không? Ph. Ăngghen nêu rõ: “Không,
không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng
11


lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu”[2;
Tr. 469]. Việc xóa bỏ chế độ tư hữu phải tuân theo các quy luật khách quan của
sự vận động, phát triển xã hội và được thực hiện triệt để khi sự tập trung tư liệu
sản xuất và xã hội hóa lao động không cịn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ
nghĩa của chúng nữa. Khi đó, cái vỏ ấy sẽ vỡ tung ra với phương thức sản xuất
mới có quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. C. Mác gọi đó là “sự phủ định cái phủ định”.
Kế thừa những quan điểm của C. Mác về sở hữu, Lênin đã nhận thấy rõ
tầm quan trọng của việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Ông khẳng
định: “Để thực sự giải phóng giai cấp công nhân, cần phải có cuộc cách mạng
xã hội, xuất phát một cách tự nhiên từ toàn bộ sự phát triển của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là phải thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, chuyển các tư liệu đó thành sở hữu công cộng và thay thế nền sản xuất
hàng hóa tư bản chủ nghĩa bằng việc tổ chức sản xuất sản phẩm theo lối xã
hội chủ nghĩa...”[28; Tr. 518]. Đồng thời, Lênin đã vạch ra đặc trưng của thời
đại mới, về sự biến đổi sở hữu tư bản tư nhân thuần túy sang sở hữu tư bản
độc quyền và từ sở hữu tư bản độc quyền sang sở hữu tư bản độc quyền nhà
nước. Trong tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư
bản, Lênin đã chỉ ra quy luật chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
sang chủ nghĩa tư bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc) là do sự tích tụ sản xuất
đã đạt đến trình độ cao vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Cuối thế kỷ XIX,
tích tụ và tập trung tư bản dẫn đến tích tụ sản xuất diễn ra mạnh mẽ trong nền
kinh tế ở các nước tư bản phát triển. Sở dĩ như vậy là do sự phát triển nhanh
của lực lượng sản xuất và việc ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật

mới vào sản xuất. Lênin cũng chỉ rõ đặc điểm kinh tế xuyên suốt và bao trùm
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành
phần. Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế có tính chất q độ: khơng cịn là nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế xã hội chủ
12


nghĩa. Ơng giải thích: “Danh từ q độ nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có
phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có cả những thành phần, những bộ
phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất
cứ ai cũng phải thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận điểm
ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế- xã hội khác nhau
hiện có ở Nga, chính là như thế nào. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính
là ở chỗ đó”[29; Tr. 362]. Những thành phần, những bộ phận, những mảnh đó
hợp thành hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất và có quan hệ tương tác với
nhau. Bộ phận kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ giữ vị trí thống trị và chi phối khi
kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội. Để thực hiện tư tưởng này những năm sau Cách mạng Tháng
Mười Nga, Lênin đã đề ra và chỉ đạo thi hành Chính sách kinh tế mới (NEP),
làm sống lại nền kinh tế của đất nước với chế độ đa sở hữu, đa thành phần
kinh tế, kể cả các thành phần phú nông và tư sản thành thị, đem lại sự khởi
sắc nền kinh tế- xã hội, góp phần quan trọng tăng cường tiềm lực quốc phòng
để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới. Trong những năm
thực hiện Chính sách kinh tế mới, những xí nghiệp vừa và nhỏ khơng thuộc
quyền sở hữu của nhà nước phát triển mạnh, kể cả những xí nghiệp đã chuyển
sang sở hữu nhà nước trong những năm thực hiện Chính sách Cộng sản thời
chiến song khơng hoạt động hoặc hoạt động kém hiệu quả thì trả lại cho chủ
cũ. Việc phục hồi các xí nghiệp tư nhân, việc phát triển thành phần kinh tế tư
bản tư nhân góp phần quan trọng phát triển nền kinh tế Nga đưa đất nước
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế. Lênin cho rằng: “Chủ nghĩa tư bản là xấu so

với chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản lại là tốt so với thời trung cổ, với nền
tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình trạng phân tán của những người
tiêu sản xuất tạo nên. Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ
nên tiêu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy, trong một mức độ nào đó, chủ
nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nên tiêu sản
13


xuất và trao đổi, bởi vậy, chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là
bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích
trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con
đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”. [30; Tr.
276] Nhưng, những tư tưởng của Lênin về thời kỳ quá độ, về phát triển kinh
tế nhiều thành phần, về phát triển đa dạng các hình thức sở hữu và về phát
triển nền kinh tế thị trường đã không được những người kế tục sau này kế
thừa và phát triển, mà lại đưa nền kinh tế phát triển theo quỹ đạo của nền kinh
tế chỉ huy.
Học thuyết Mác- Lênin là nền tảng tư tưởng và phương pháp luận cho
chính đáng của giai cấp công nhân, là cơ sở khoa học để hoạch định đường lối
đấu tranh giành chính quyền và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Song việc vận
dụng các nguyên lý về vấn đề sở hữu địi hỏi phải tính đến những điều kiện
lịch sử xã hội cụ thể. Sự cứng nhắc giáo điều chắc chắn sẽ dẫn đến thất bại.
Chính C. Mác đã từng chỉ rõ, học thuyết mang tên ông “không phải là một
giáo điều, mà là sự vận động”[29; Tr. 363]. Điều đó có nghĩa, các nguyên lý
của chủ nghĩa Mác- Lênin phải được vận dụng một cách sáng tạo phù hợp với
những điều kiện lịch sử cụ thể và cũng phải được nghiên cứu.
Như vậy, nội dung phạm trù sở hữu khá rộng, phức tạp, bao hàm nhiều
vấn đề, mối quan hệ, ở đây, chúng tôi chọn định nghĩa được nhiều người chấp
nhận: “Sở hữu là phạm trù chỉ toàn bộ các mối quan hệ giữa người với người
đối với đối tượng sở hữu và những sản vật đã tạo ra từ sự tác động của người

lao động vào đối tượng sở hữu ấy bằng những công cụ lao động do lịch sử
quy định.”[40; Tr. 17]
1.2. Quan điểm của Đảng về vấn đề sở hữu ở Việt Nam qua các kỳ Đại
hội Đảng từ năm 1986 đến nay.
Năm 1975, sau khi giành được hoàn toàn độc lập, thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ, Việt Nam bước vào công cuộc xây dựng lên xã hội chủ nghĩa cả 2
14


miền Bắc- Nam. Thời kỳ đầu chúng ta gặp rất nhiều khó khăn vì Việt Nam
xuất phát điểm là nền kinh tế nơng nghiệp lạc hậu, nền cơng nghiệp cịn hạn
chế, đồng thời chịu hậu quả của chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ để lại. Mặc dù đã xây dựng và đã mất rất nhiều cơng sức để tiến
hành cơng hữu, thậm chí đã phải cưỡng bức người dân để công hữu tư liệu
sản xuất nhằm mau chóng xây dựng chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ chế độ người
bóc lột người, tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Đáng tiếc là do việc công hữu được
tiến hành ồ ạt, thậm chí bất chấp cả hệ quả kinh tế- xã hội nên chế độ công
hữu cao độ ở Việt Nam nói riêng, ở các nước xã hội chủ nghĩa nói chung đã
chưa phát huy được tác dụng trong thực tế sản xuất, kinh doanh và quản lý,
bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu cấp bách đặt ra là phải đổi mới toàn
diện đất nước, trong đó có đổi mới kinh tế, thay đổi nội dung, cách quản lý,
khai thác chế độ công hữu về tài sản.
Trong quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh
đạo đất nước đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tưư
tưởng Hồ Chí Minh vào thay đổi tư duy về vấn đề sở hữu, quan điểm của
Đảng về vấn đề sở hữu được phát triển và hoàn thiện hơn qua các kỳ Đại hội
và Hội nghị Trung ương như: Nghị quyết Trung ương 6 khóa IV (Tháng
8/1979), Chỉ thị 100 CT/TW của Ban Bí thư (tháng 1/1981), Quyết định
25/CP của Thủ Tướng Chính phủ (1/1987).
Bắt đầu từ Đại hội III của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc cải tạo hệ

thống các quan hệ sản xuất cũ thành quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa
với 2 hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, đã được
thực hiện. Hai hình thức sở hữu này là cơ sở để xây dựng và phát triển thành
phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, trong Nghị quyết Trung ương 6 khóa
IV (tháng 8/1979) thị trường được công nhận như là một phạm trù khách quan
độc lập với kế hoạch, chúng ta có thể sử dụng để phục vụ cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
15


Từ năm 1986 đến nay, kế thừa các quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lấy phát triển lực
lượng sản xuất làm động lực để hoàn thiện và đổi mới quan hệ sản xuất, từ
chỗ coi sở hữu là mục đích của cách mạng xã hội (thời kỳ trước đổi mới)
chuyển thành phương tiện để phát triển kinh tế- xã hội. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI đã có bước phát triển mới về tư duy lý luận, khắc phục sai
lầm chủ quan duy ý chí khi chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa để xác lập hai
hình thức sở hữu là nhà nước và tập thể. Đảng đánh dấu bước đột phá là trước
đây coi sở hữu là mục đích của cách mạng thì bây giờ được coi là phương tiện
để đạt mục tiêu trong phát triển kinh tế- xã hội. Sự đổi mới quan niệm về vấn
đề sở hữu mà cịn tập đúng vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế trong
nền kinh tế quốc dân. Có thể nói, nó tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân,
tổ chức trong toàn xã hội phát huy mọi tiềm năng, sáng tạo, tạo ra sức mạnh
to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đồng thời nó là
động lực to lớn cho chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đi đến một quyết định lịch
sử với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần là chiến lược lâu dài
trong suốt thời kỳ quá độ. Đại hội VI đã rút ra: “lực lượng sản xuất bị kìm
hãm khơng chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ

sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.”[12; Tr. 57] Đây chính là hướng tư duy
khoa học tôn trọng sự vận động khách quan của kinh tế xã hội. Đặc biệt, Văn
kiện Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khố VII và Văn kiện các Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra mục
tiêu là phấn đấu xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”[14; Tr. 26 và 15; Tr. 19- 80]. Đó cũng là căn cứ để
chúng ta xác định thế nào là đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Áp dụng vào
16


vấn đề sở hữu, chúng ta có thể nói rằng, chủ trương đa dạng hố các loại hình
sở hữu, cho phép nhiều thành phần kinh tế tồn tại và phát triển là một chủ
trương đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo chúng tôi, đó là những
quan điểm đầu tiên cho sự thay đổi quan điệm của Đảng về sở hữu ở Việt
Nam. Quan điểm trên được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VII năm 1991 và được thể chế trong Hiến pháp 1991 Điều
15 của Hiến pháp quy định: “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể là nền tảng”. Đây là lần đầu tiên trên diễn đàn cao nhất,
chúng ta đề ra lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Tuy nhiên, chúng ta tạm thời chưa có sự khẳng định rõ ràng về kinh tế
thị trường và mới chấp nhận nó.
Kết hợp với tư tưởng thay đổi vai trò của sở hữu là chủ trương đa dạng
hóa hình thức sở hữu đã nảy mầm dựa trên cơ sở của ba loại hình sở hữu cơ
bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Những điều vừa nêu
về sở hữu, cũng đã được nêu ra từ Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VII (năm

1991) và được ḷt hố ở Hiến pháp năm 1992. Ngồi ba hình thức sở hữu cơ
bản trên đây, Hiến pháp năm 1992 còn thừa nhận một số hình thức sở hữu
hỗn hợp, đan xen, được hình thành từ mối liên hệ liên doanh liên kết giữa các
thành phần kinh tế. Điều 22 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức
kinh tế trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật.” Đây là cơ sở
pháp lý để thừa nhận sự tồn tại hình thức sở hữu của các tổ chức kinh tế do
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế liên kết liên doanh như sở hữu
của các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, sở hữu của xí nghiệp
17


liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài; đồng thời là một trong những đổi mới
quan trọng góp phần làm nên thắng lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng xã
hội chủ nghĩa. Trên cơ sở xác định sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ
nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại
khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ
nghĩa xã hội đã được xây dựng. Đại hội VIII đã nhấn mạnh việc thực hiện các
chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh
tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân phát
triển; khẳng định “tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa…”[17; Tr. 545]
Như vậy, qua các kỳ Đại hội Đảng, các thành phần kinh tế ở Việt Nam
có sự thay đổi: từ chỗ lúc đầu (Đại hội VI) chỉ thừa nhận nền kinh tế có 5
thành phần (trừ tư bản thương nghiệp) đến chỗ “phát triển một nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đại hội VII- 1991), “nắm vững
định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần” và “thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng

hoá nhiều thành phần”[15; Tr. 91] (Đại hội VIII- 1996) là một bước tiến dài
trong lĩnh vực nhận thức và tổng kết thực tiễn những thành tựu của cơng cuộc
đổi mới.
Trong xây dựng mơ hình kinh tế thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã xác định:
“Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế”[17; Tr. 733]. Trong báo cáo chính trị
tại đại hội lần thứ IX, Đảng ta xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối trong đó có ba hình
thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân,
18


“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc”
và “từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu tồn dân, sở hữu tập thể và sở hữu
tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh
doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp”[16; Tr. 87- 96]. Đa dạng hóa các hình thức
sở hữu trong nền kinh tế có ý nghĩa quan trọng cho sự hình thành và phát triển
đa dạng các loại hình doanh nghiệp, phát huy tối ưu các tiềm năng, thế mạnh
của các chủ sở hữu và nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực
phát triển. Do đó, tạo nên sự cạnh tranh trong nền kinh tế và đó là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội.
Đến Đại hội X (2006), Đảng ta bổ sung: “Có một nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp”[17; Tr. 91]. Điều này thể hiện Đảng ta đã thay đổi hoàn toàn tư duy cũ
và đưa ra những chủ trương mới về chế độ sở hữu của nền kinh tế nước ta.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã có những khái quát mới về lý luận: “Phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức

sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức
phân phối.”[19; Tr. 73] Trong văn kiện, Đảng ta lần đầu tiên nêu ra đa dạng
hóa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp.
Đây là một bước phát triển mới trong nhận thức lý luận của Đảng về nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các hình thức
sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng
ngày càng phát triển. Trong các hình thức sở hữu, chủ yếu là những doanh
nghiệp cổ phần cần có cơ chế và chính sách khuyến khích phát triển để chúng
trở thành phổ biến trong nền kinh tế, góp phần quan trọng thúc đẩy xã hội hóa
sản xuất kinh doanh và sở hữu.
19


Văn kiện Đại hội XII cũng đã nêu khái quát những nội dung quan trọng
về các bộ phận cấu thành, vai trò của thị trường, vai trò của nhà nước, vai trò
của nhân dân và mục tiêu bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc
các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị
trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn
lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực
nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ
chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hồn thiện thể
chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử
dụng các cơng cụ, chính sách, các nguồn lực của nhà nước để định hướng và

điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Phát huy vai trị làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế- xã hội”[20; Tr.
102- 103]…
Đổi mới về vấn đề sở hữu được Đảng ta thực hiện trước tiên trên lĩnh
vực kinh tế, sau đó mới bắt đầu thực hiện đổi mới trên các lĩnh vực chính trị,
văn hóa, xã hội. Quan điểm kinh tế của thời kỳ kế hoạch hóa tập trung từ
trước những năm 1980 cho rằng, nền kinh tế thị trường là sản phẩm riêng có
của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, luôn luôn đối lập với nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa và là nguyên nhân sản sinh ra bất công xã hội và chế độ người bóc lột
người. Tư duy đổi mới Đảng ta cho rằng quan điểm về kinh tế thị trường
trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung đã làm cho sức sản xuất không được giải
phóng, các nguồn lực xã hội không được khai thác triệt để, đã dẫn đến kìm
20


hãm sự phát triển xã hội. Tư duy đổi mới kinh tế của Đảng ta đã chỉ ra rằng,
kinh tế thị trường không chỉ gắn liền với chủ nghĩa tư bản, mà là thành tựu
của cả nhân loại [23; Tr. 8]. Quan điểm tư duy đổi mới về kinh tế đã được
hồn thiện dần trong q trình lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động thực tiễn ở nước
ta. Ngày nay, quan điểm tư duy đổi mới về kinh tế đã cụ thể hóa thành cơ chế,
chính sách đó là: Q trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Công cuộc đổi mới tiến hành hơn 30 năm đã mang lại những thành tựu
to lớn về kinh tế- xã hội và khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới
về vấn đề sở hữu, của chính sách đa dạng các hình thức sở hữu do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Những đổi mới về hình thức sở
hữu này đã đem lại những thành tựu to lớn, đưa đất nước thoát khỏi khủng
hoảng về kinh tế và tiến lên phát triển đất nước giàu mạnh. “Đất nước đã ra

khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, có những thay đổi cơ bản và toàn diện.
Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiêp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang được đẩy mạnh.
Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn
kết toàn dân được củng cố và tăng cường. Chính trị- xã hội được ổn định.
Quốc phịng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế
không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia được tăng lên
rất nhiều, tạo thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên con đường chủ nghĩa
xã hội ngày càng sáng tỏ,...”[17; Tr. 17]

21


×