Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

“Vấn đề thời cơ trong cách mạng tháng tám năm 1945 ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.55 KB, 25 trang )

Mục lục :
1 MỞ ĐẦU................................................................1
2 NỘI DUNG.............................................................4
2.1 Lý luận chung về vấn đề thời cơ.........................4
2.1.1Khái niệm thời cơ...........................................4
2.1.2Vai trò của thời cơ...........................................4
2.2 Thời cơ trong cách mạng tháng Tám năm 1945. 7
2.2.1Khái quát về cách mạng tháng Tám...............7
2.2.2Nghệ thuật chớp thời cơ trong cách mạng
tháng tám của Đảng................................................9
2.2.3Tầm quan trọng của việc chớp đúng thời cơ
đối với cách mạng tháng Tám...............................11
2.3 Vận dụng...........................................................12
2.3.1Luận giải ý kiến “ Cách mạng tháng Tám năm
1945 thắng lợi nhanh chóng khi Việt Nam xuất hiện
“khoảng trống quyền lực””...................................12
2.3.2Vận dụng bài học thời cơ trong thực tiễn xây
dựng và phát triển đất nước ta hiện nay................18
3 KẾT LUẬN...........................................................23


1 MỞ ĐẦU
Thời gian đã lùi xa nhưng tầm vóc, ý nghĩa thắng lợi, bài học kinh nghiệm của
Cách mạng Tháng Tám vẫn cịn ngun giá trị. Đó là một trong những trang sử chói
lọi nhất trong lịch sử, một dấu mốc lớn trên con đường phát triển suốt chiều dài mấy
nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam.Có thể khẳng định, thành
cơng lớn nhất trong khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám là nhờ nghệ thuật chỉ đạo tài
tình của Đảng, của chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chuẩn bị và đặc biệt khi thời cơ
đến thì biết chớp lấy thời cơ để ra quyết định tổng khởi nghĩa đúng lúc,dành thắng
lợi nhanh chóng. Việc chọn đúng thời cơ không chỉ là một khoa học mà còn là cả
một nghệ thuật để các thế hệ sinh viên học tập và tự hào về lịch sử của dân tộc


mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng tuyên bố khi ra quyết định Tổng khởi nghĩa dành
chính quyền: “Lúc này, thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy
cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết dành cho được độc lập.”,điều này khẳng định
một lần nữa sự quan trọng trong việc chớp thời cơ và hành động.Bài học về chọn
thời cơ trong cách mạng tháng Tám vẫn cịn đó cho đến tận hơm nay trong giai đoạn
dân tộc ta đang trên đường đổi mới,xây dựng đất nước và hội nhập cùng với thế
giới.
Để hiểu rõ về vấn đề thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám cũng như vai trị của nó
trong thời đại ngày nay chúng ta hãy cùng đi tìm hiểu, nghiên cứu đề tài: “Vấn đề
thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam”.
Vì thời gian có hạn nên nội dung đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót rất
mong sự góp ý của cơ để bài tiểu luận của chúng em được hoàn chỉnh hơn.


2 NỘI DUNG.
2.1 Lý luận chung về vấn đề thời cơ.
2.1.1 Khái niệm thời cơ.
Thời cơ là một hoàn cảnh thuận lợi đến trong một thời gian ngắn, đảm bảo
một việc nào đó có thể tiến hành có kết quả. Do đó, nó là một khái niệm rất quan
trọng, gắn liền với sự thành bại của mỗi cá nhân, của các đảng phái chính trị và của
mỗi cộng đồng với những quy mô khác nhau.
Thời cơ là một thành tố khách quan, hồn tồn khơng phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan của một cá nhân nào, của một tổ chức chính trị nào. Nó xuất hiện một
cách bất ngờ và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Nói như vậy khơng có
nghĩa là thời cơ là một cái gì đó khơng thể biết trước được, khơng thể đốn định
được. Tuy nhiên, điều lý thú là ở chỗ, nó có mà khơng có và ngược lại. Vì thế,
khơng phải ai cũng có thể dự báo được thời cơ, theo dõi, nắm bắt nó và cuối cùng là
lợi dụng nó để đạt tới cái đích của mình.


2.1.2 Vai trị của thời cơ.
Như đã nêu trong khái niệm, thời cơ là một thành tố khách quan, hồn tồn khơng
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của một cá nhân nào, của một tổ chức chính trị nào.
Nó xuất hiện một cách bất ngờ và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Tuy
nhiên, nếu chúng ta biết dự báo, theo dõi nắm bắt và tận dụng thời cơ một cách hợp
lý thì thời cơ sẽ là bệ phóng, là một yếu tố quan trọng mang lại thành công cho cá
nhân, tổ chức cũng như cho xã hội.Thời cơ có vai trò rất quan trọng trong rất nhiều
vấn đề của rất nhiều lĩnh vực,đặc biệt là trong các cuộc cách mạng,khởi nghĩa dành
chính quyền.
Theo chủ nghĩa Mác – Lê nin thì có 3 nhân tố chủ yếu để hợp thành tình thế
cách mạng đó là:


-

Thứ nhất: Giai cấp và tầng lớp thống trị bên trên đã lâm vào một cuộc khủng
hoảng trầm trọng, không thể kiểm soát nổi tình hình, trở nên bất lực, khơng cịn
có chế độ thống trị như cũ nữa.

-

Thứ hai: Các giai cấp và tầng lớp bị trị bên dưới cũng rơi vào tình trạng cơ cực,
bị bần cùng không thể chịu đựng được nữa, không thể sống nổi nữa. Mâu thuẩn
đã gay gắt đến cực độ và quần chúng đã sẵn sàng đi tới một hành động giải
phóng.

-

Thứ ba: Tầng lớp, bộ phận trung gian, những người trí thức yêu nước, có tư
tưởng dân chủ, tiến bộ, những người có tinh thần dân tộc, kể cả một bộ phận

trong giai cấp hữu sản nhưng gần với quần chúng, nhận thức được xu thế lịch
sử, ngả về phía cách mạng, tương quan lực lượng có lợi cho phía cách
mạng.Hội đủ những điều kiện đó, về cơ bản, tình thế cách mạng đã chín muồi.
→Như vậy, một cuộc khởi nghĩa diễn ra thành công không phải dựa vào một

âm mưu, một đảng phái mà phải dựa vào cao trào cách mạng của nhân dân, dựa
vào một chuyển hướng lịch sử quyết định.Nhưng xét trên bình diện đó, chúng ta có
thể nhận thấy ở Việt Nam vào đầu những năm 1940, đặc biệt sau khi cuộc khởi
nghĩa Nam Kỳ nổ ra thất bại thì vấn đề thời cơ mới được bàn luận đến rất nhiều,
trước đó nữa là sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân
Đảng vào đầu tháng 2-1930 là một ví dụ điển hình về việc thời cơ chưa xuất hiện.
Khi đó, những người đứng đầu Việt Nam Quốc dân Đảng đã coi khởi nghĩa như
một giải pháp tình thế, như một trò chơi “khơng thành cơng cũng thành nhân”.Như
vậy thời cơ có thực sự là cần thiêt !
Thế hệ cách mạng Việt Nam tiếp theo liền rút ra bài học: Không được đùa với
khởi nghĩa. Vào tháng 5-1941, trong Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ VIII tại Pắc Bó, Cao Bằng dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc và quyền Tổng Bí thư Trường Chinh. Nghị quyết đã dự báo một cách
chính xác về cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và hệ lụy của nó: “Nếu cuộc đế quốc
chiến tranh lần trước đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc
chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó cách mạng nhiều


nước thành công ” . Như vậy, thời cơ sẽ đến với nhiều nước trên thế giới khi chiến
tranh thế giới thứ hai kết thúc, phần thắng nghiêng về Liên Xơ và phe dân chủ. Đó
là một khả năng làm xuất hiện thời cơ có lợi cho cách mạng nhiều nước, trong đó
có cách mạng nước ta. Hội nghị cịn nhận định rằng cuộc cách mạng Đông Dương
là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới và lúc đó là một bộ phận của
phong trào dân chủ chống phát-xít. Vận mệnh của dân tộc Đơng Dương gắn liền
với vận mệnh của Liên xô, đồng thời cũng gắn liền với cách mạng Trung Quốc.Từ

việc đọc, quan sát, nắm bắt các nhận định chiến lược trên ta có thể thấy rõ rằng,
thời cơ đến khi chúng ta đã chuẩn bị mọi mặt để đón nhận nó,khơng ấp úng,bị động
nếu diễn biến tình hình có thay đổi.
Bài học thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn là bài học đi
cùng năm tháng, nếu chúng ta muốn thành công và khơng muốn tụt hậu. Hồ Chí
Minh đã xác định tầm quan trọng có tính khái qt của khái niệm thời cơ qua hai
câu thơ của bài thơ “Học đánh cờ” trong tác phẩm Nhật ký trong tù: “Lạc nước, hai
xe đành bỏ phí,gặp thời, một tốt cũng thành cơng.”.Ngày nay, khi mà đất nước
chúng ta đang hội nhập toàn diện trên tất cả các lĩnh vực thì vấn đề thời cơ càng
đóng một vai trị hết sức quan trọng. Nếu như chúng ta biết nhận biết, theo dõi và
tận dụng tốt thì thời cơ sẽ mạng lại rất nhiều lợi ích về kinh tế, chính trị - ngoại
giao, văn hóa – xã hội. Ngược lại nếu như chúng ta không vận dụng hợp lý hay bỏ
sót thì sẽ gây ra những thiệt hại đáng tiếc, thậm chí sẽ trở thành vật cản trên con
đường phát triển của đất nước.
Thời cơ khơng chỉ đóng vai trị quan trọng đối với những vấn đề của dân tôc,
của đất nước, của các tổ chức mà nó cịn rất có ý nghĩa đối với mỗi cá nhân, đặc
biệt là trong bối cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay. Một cá nhân nếu biết nắm
bắt thời cơ kết hợp với những kiến thức vốn có thì sẽ sớm vươn đến thành cơng và
ngược lại nếu chỉ có những kiến thức thơi mà khơng biết nắm bắt thời cơ thì rất khó
để thành cơng.


2.2 Thời cơ trong cách mạng tháng Tám năm 1945.
2.2.1 Khái quát về cách mạng tháng Tám.
*Hoàn cảnh lịch sử :
Cách

mạng

tháng


Tám

nổ

ra

trong

thời



chín

muồi.

Thế giới: (Khách quan)Thời cơ thuận lợi đã đến.
-Ở Châu Âu: Tháng 5/1945 phát xít Đức đầu hàng quân đồng minh không điều kiện.
-Ở Châu Á –Thái Bình Dương: 8/1945 Nhật cũng đầu hàng vô điều kiện.
Trong nước: (Chủ quan)
-Quân Nhật ở Đơng Dương rệu rã .Chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim hoang
mang.
-Ngày 13/8/1945 TƯ Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập UB khởi nghĩa toàn quốc, ra
quân lệnh số 1, chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước .
-Từ ngày 14-> 15/8/1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào thông qua
kế hoạch lãnh đạo ND Tống khởi nghĩa và quyết định những vấn đề quan trọng về
chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền
-Từ ngày 16 ->17/8/1945 Đại hội Quốc dân được triệu tập ở Tân Trào tán thành
lệnh tổng khởi nghĩa của Đảng, thơng qua 10 chính sách của Việt Minh, thành lập

UB dân tộc giải phóng do CT Hồ Chí Minh đứng đầu.
*Tổng khởi nghĩa.
Ngày 2-5-1945 Hồng qn Liên Xơ tiêu diệt phát xít Đức, đến ngày 9-5-1945 phát
xít Đức đầu hàng khơng điều kiện. Ở Châu Á, phát xít Nhật cũng đi gần đến chỗ
thất bại hồn tồn.
Trước sự phát triển hết sức nhanh chóng của tình hình, Trung ương quyết định họp
Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào từ 13 đến 15-8-1945.
- Đêm 13-8-1945 Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh tổng khởi nghĩa.
- Ngày 16-8-1945, Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào đã tán thành chủ trương Tổng
khởi nghĩa và 10 chính sách của Việt Minh, quyết định đặt tên nước là Việt Nam


Dân chủ Cộng hòa, xác định quốc kỳ, quốc ca và thành lập Ủy ban dân tộc giải
phóng Việt Nam (Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Ngay sau Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào chiến sĩ cả
nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bao hãy
đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” (Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội – 2002, t.3, tr.554.)
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi
nghĩa giành chính quyền.
Từ ngày 14-8-1945, các đơn vị giải phóng quân đã liên tiếp hạ nhiều đồn Nhật tại
các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái.
Ngày 18-8-1945, nhân dân các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Phúc Yên, Thái Bình,
Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Nam và Khánh Hịa giành chính quyền.
Ngày 19-8-1945 dưới sự chỉ đạo của Thành Ủy Hà Nội hàng chục vạn quần chúng
sau khi dự míttinh đã rầm rộ xuống đường biểu tình. Trước khí thế áp đảo của quần
chúng khởi nghĩa, chính quyền đã về tay nhân dân.
Ngày 23-8-1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Huế.
Ngày 25-8-1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Sài Gòn.
Chỉ trong vòng 15 ngày (từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945) cuộc Tổng khởi nghĩa đã

thành cơng trên cả nước, chính quyền về tay nhân dân.
Kết quả thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám, là ngày 02-9-1945 tại cuộc mít
tinh lớn tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng
bào, với toàn thể thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của lịch sử
dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập, tự


do. Đánh giá ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai
cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này
là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa,
một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành cơng, đã nắm chính quyền tồn
quốc”( Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2002, t.6,
tr.159.)

2.2.2 Nghệ thuật chớp thời cơ trong cách mạng tháng tám của Đảng.
Nói về thời cơ, Đảng ta khơng thụ động chờ thời cơ, mà chạy đua với thời gian
để đón thời cơ và đẩy lùi thách thức. Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, đã
có những chủ trương, biện pháp sáng suốt, tích cực, từng bước tạo thế và lực bên
trong để có thể động viên, tổ chức toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính
quyền khi có thời cơ đến.
Nhìn xa hơn khi Đảng ra đời, Đảng lãnh đạo nhân dân làm nên ba cuộc vận
động cách mạng lớn (ba cuộc diễn tập) cuộc vận động những năm đầu 1930 đỉnh
cao là cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931); Cao trào dân chủ 1936-1939, Đảng
ta lại vượt qua những tổn thất do những cuộc khủng bố của địch để đi tiếp chặng
đường mới; cao trào cách mạng 1939-1945 mà đỉnh cao là Cách mạng Tháng Tám
1945.
Vấn đề xác định thời cơ, chuẩn bị lực lượng cách mạng để chớp thời cơ khởi

nghĩa là những yếu tố hết sức quan trọng, quyết định thành công của mọi cuộc cách
mạng. Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân trong Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 là minh chứng sinh động về sự nhạy bén trong nhận định và
chỉ đạo chớp thời cơ khởi nghĩa của Đảng ta.
Nghệ thuật khởi nghĩa của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám trước hết là nghệ
thuật dự kiến thời cơ, chuẩn bị sẵn sàng mọi điều kiện cho Tổng khởi nghĩa. Với
nhận định thời cơ Cách mạng gắn với chiến tranh đế quốc, Đảng theo dõi sát từng
bước phát triển của chiến tranh thế giới thứ hai để dự kiến thời cơ khởi nghĩa. Trong


các nghị quyết hội nghị Trung ương và nhiều tài liệu, Đảng đã dự kiến thời cơ Cách
mạng nước ta ngày càng cụ thể và chính xác. Tháng 11/1939. Đảng nhận định:
chiến tranh đế quốc sẽ nung nấu Cách mạng Đơng Dương bùng nổ và tiền đồ Cách
mạng giải phóng Đông Dương nhất định sẽ quang minh, rực rỡ. Ngay từ tháng
11/1940, Đảng dự kiến: một cao trào Cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Tháng
5/1941, Đảng đã dự kiến những điều kiện cụ thể của Tổng khởi nghĩa. Đảng đã
phân biệt rõ các loại thời cơ: thời cơ bộ phận và thời cơ toàn cục; thời cơ khởi nghĩa
địa phương, thời cơ khởi nghĩa từng phần và thời cơ khởi nghĩa tồn quốc, thời cơ
chưa chín muồi và thời cơ chín muồi.
Tầm vóc tư duy chiến lược của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ở
chỗ: Sớm nhìn thấy quy luật vận động cách mạng, dự báo thời cơ cách mạng, nhanh
chóng triển khai thực hiện để thúc đẩy tiến trình cách mạng. Tức là không thụ động
chờ thời cơ, mà tích cực, chủ động tiến hành đấu tranh cách mạng để tạo ra thời cơ
cách mạng, mà nổi bật là chủ trương xây dựng các tổ chức Việt Minh, các đoàn thể
yêu nước trên phạm vi cả nước. Từ tháng 3/1945, Đảng đã dự kiến những điều kiện
cụ thể của Tổng khởi nghĩa, trong đó quân Nhật thất bại đầu hàng là thời cơ quan
trọng nhất cho Tổng khởi nghĩa bùng nổ.
Để nắm được thời cơ, Đảng tích cực chuẩn bị lực lượng to lớn- lực lượng chính
trị và lực lượng vũ trang, xây dựng và phát triển Mặt trận Việt Minh, thống nhất
trong toàn quốc Về chuẩn bị điều kiện khởi nghĩa, ngoài dự kiến thời cơ, tổ chức

lực lượng toàn dân, Đảng xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề khởi
nghĩa. Đảng đã xác định đỉnh cao của nghệ thuật khởi nghĩa là chớp đúng thời cơ
thuận lợi nhất, huy động toàn dân khởi nghĩa giành thắng lợi nhanh chóng.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng tám đã chứng tỏ Đảng đã chớp rất đúng thời
cơ nghìn năm có một. Đó là thời điểm giữa tháng 8/1945, khi bọn cầm quyền phát
xít ở Đơng Dương hoang mang đến cực độ ngay kho Nhật đầu hàng, cao trào cách
mạng của nhân dân đã lan rộng ra toàn quốc và hàng triệu nhân dân đã lên trận
tuyến đấu tranh, các thế lực đế quốc với những ý đồ xâm lược nước ta chưa kịp vào
Đông Dương, Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện chủ quan về chủ trương và


lực lượng. Đúng thời điểm đó, Đảng hạ lệnh Tổng khởi nghĩa, nhanh chóng giành
chính quyền trong cả nước, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Giờ tổng
khởi nghĩa đã đánh,dân tộc ta đên lúc vùng dậy cướp lại độc lập của mình.Trước cơ
hội có một khơng hai ấy,toàn thể dân tộc ta phải đem hết lực lượng,dùng hết can
đảm,bao quanh đạo quân giải phóng Việt Nam,tung xương máu ra đánh đuổi giặc
Nhật,dành lấy tự do,hạnh phúc cho nhân dân”(Triệu hiệu của tổng bộ Việt Minh
ngày 14/8/1945).
Thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 chứng tỏ, Ðảng ta, đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn vượt trước thời gian, xác định đúng thời cơ, cho
nên đã chuẩn bị tốt lực lượng, sẵn sàng chủ động, chớp thời cơ lãnh đạo nhân dân ta
đứng lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Ðây là sự vận dụng sáng tạo quy luật vận
động phát triển của khởi nghĩa và cách mạng, khôn khéo trong nghệ thuật chỉ đạo
chớp thời cơ, giành thắng lợi cách mạng.

2.2.3 Tầm quan trọng của việc chớp đúng thời cơ đối với cách mạng tháng
Tám.
Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám 1945 là cuộc Tổng khởi nghĩa vũ
trang của toàn dân, diễn ra đồng thời trong cả nước từ đêm 13/8 và kết thúc vào
cuối tháng 8/1945. Có thể khẳng định, thành cơng lớn nhất của nghệ thuật khởi

nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám: Ðảng ta đã chọn đúng thời cơ "nổ ra đúng lúc".
Việc chớp đúng thời cơ của Đảng ta trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã góp
phần mang lại thắng lợi vẻ vang cho dân tộc, đánh dấu một trong những bước ngoặt
vĩ đại vô cùng quan trọng trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam trong thể kỉ XX.
Thắng lợi ấy đã đập tan ách thống trị của phát xít Nhật trong 5 năm, ách thống trị
của thực dân Pháp 90 năm, lật đổ chế độ phong kiến mấy nghìn năm, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa – Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên
minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo đầu tiên ở Đông Nam Á.
Trong suốt quá trình nhận định, theo dõi, nắm bắt và vận dụng thời cơ Đảng ta
đã đưa ra những quyết định đúng đắn khơng những góp phần mang lại kết quả thắng


lợi to lớn mà còn giúp cho chúng ta tránh được những tổn thất về lực lượng, đánh
mất những điều kiện thuận lợi cũng như là mất đi cơ hội khởi nghĩa.
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin ở các
nước thuộc địa nửa phong kiến, góp phần làm phong phú kho tàng lý luận MácLênin, khẳng định sức sống vô địch của chủ nghĩa Mác-Lênin.Ðây là sự vận dụng
sáng tạo quy luật vận động phát triển của khởi nghĩa và cách mạng, khôn khéo trong
nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi cách mạng .

2.3 Vận dụng.
2.3.1 Luận giải ý kiến “ Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi nhanh
chóng khi Việt Nam xuất hiện “khoảng trống quyền lực””.
Thực tế áp dụng vào Việt Nam năm 1945 có một số quan điểm của các nhà sử học
tư sản, những nhà sử học phương tây... cho rằng có“ khoảng trống quyền lực” trong
cách mạng tháng 8/1945.
-

Theo Sten Tonnesson “Tình trạng chân không quyền lực có thể được mơ tả
chính xác như là một sự vắng mặt của các lực lượng Pháp và Đồng minh, sự
thiếu quyết tâm của người Nhật trong việc nắm giữ quyền kiểm soát cho tới

khi Đồng minh tới và sự bất lực đối với các quan lại và chính quyền…”. Vì
thế ơng nhấn mạnh “Khoảng trống quyền lực sau sự đầu hàng của Nhật ở Hà
Nội, Huế, Sài Gịn... là chủ yếu trong bất cứ sự giải thích nào về cách mạng
Việt Nam.”

-

Tác giả Kim Thanh có bài đăng trên báo quân đội ngày 08/08/2012 trình bày
rằng “Mấy năm gần đây, cứ vào dịp nhân dân Việt Nam kỷ niệm Cách mạng
tháng Tám và Quốc khánh 2-9, trên một vài trang mạng có địa chỉ ở nước
ngồi lại xuất hiện những bài viết của một vài sử gia phương Tây xuyên tạc
lịch sử cho rằng, "thắng lợi cách mạng tháng Tám là ăn may", tình hình
chính trị khi đó “giống như một trái chín cây đang rụng. Việt Minh đã nhanh
tay nhanh chân chìa ra hứng trái rụng đó chứ chẳng có tài ba, cơng trạng
gì…”.


-

Trong quyển sách có tên là “Lịch sử Việt Nam từ năm 1940 đến 1952, Nhà
xuất bản Seuil, Paris, 1952, Philippe Devilers đã xem thắng lợi của Cách
mạng Tháng 8 1945 là “sự ăn may”

-

Nhà sử học S.Tonesson nói rằng “Chính sách Đơng Dương của Roosevelt
với sự phát triển qn sự của cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và kết thúc
ở một sự trống vắng quyền lực (power vacuum) khi Nhật Bản đầu hàng”.

-


Nhà sử học người Nauy S.Tonesson lại khẳng định và đưa ra khái niệm
“Khoảng trống quyền lực” xuất hiện từ lúc Nhật thế chân Pháp tại Đông
Dương nhưng lại bại trận phải đầu hàng Đồng minh. Ông nhận định trong
cuốn The Vietnamese Revolution of 1945 - Roosevelt, Ho Chi Minh and de
Gaulle in a World at War: Bằng việc tạo ra khoảng trống quyền lực, các
cường quốc đã làm đảo lộn toàn bộ tình hình và do đó đã mời Việt Minh
giành chính quyền.

-

Thêm một quan điểm nữa cũng là người phương tây một người cùng thời với
ông là ký giả Pháp Phillip Devillers lại cho rằng “cuộc cách mạng khơng
phải là sự bùng nổ… Chỉ có một sự hội tụ kỳ lạ các điều kiện mới khiến cho
cách mạng thực hiện được”. Các điều kiện ấy là Nhật đảo chính Pháp, nạn
đói năm Ất Dậu, tình trạng (gần như) vơ chính phủ ở Việt Nam. Theo
Devillers, nếu khơng có “sự hội tụ kỳ lạ” những việc này, Việt Minh “khó có
cơ may... để thắng được cấu trúc mạnh mẽ của Pháp.
Sở dĩ các sử gia tư sản cho rằng “Cách mạng tháng Tám là một sự ăn may” vì

họ chỉ nhìn nhận một cách thiện cận.Họ chỉ thấy rằng ,từ sau cuộc đảo chính của
Nhật ở Đơng Dương (9/3/1945) thì Đơng Dương nói chung và Việt Nam nói
riêng khơng cịn là thuộc địa của Pháp mà là thuộc địa của Nhật, mà phát xít
Nhật trong chiến tranh thế giới thứ hai đã bị quân Đồng Minh đánh cho tơi tả,
phải chịu thất bại thảm hại và phải tuyên bố đầu hàng. Như vậy ở Đông Dương
xuất hiện“khoảng trống quyền lực” ( Pháp đã bị Nhật đánh bại, Nhật bị Đồng
Minh đánh bại ), cho nên cách mạng tháng Tám chỉ cần nổ ra là giành thắng lợi.
Chính vì cách nhìn nhận như vậy mà người ta cho rằng “Cách mạng tháng Tám



là một sự ăn may”. Nhưng thực ra cách mạng tháng Tám ở Việt Nam khơng
hồn tồn giống như những gì họ nhìn nhận.
Ta lại xét tiếp những quan điểm cho là khơng có “khoảng trống quyền lực”
trong cách mạng tháng 8/1945.
-

Nhà sử học Alain Ruscio đã thấy những điều hấp dẫn và cảm phục trước
những thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong các cuộc kháng chiến, đặc biệt
là thắng lợi của Cách mạng Tháng 8: “Chiến thắng năm 1945 của Việt Nam
không chỉ là sự kiện gây bất ngờ, mà đó cũng là sự tất yếu mang tính lơgíc
trong lịch sử phong trào đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam
là dân tộc đầu tiên trong số các dân tộc trên thế giới bị thực dân Pháp đô hộ
đã thành công trong cuộc kháng chiến của mình”.

-

Tác giả Ngô Anh Vương đã viết rằng “nỗ lực của nhân dân Việt Nam dưới sự
tổ chức và lãnh đạo của Việt Minh, của Hồ Chí Minh trên con đường đấu
tranh giành lại độc lập tự do cho dân tộc mình. Với lực lượng đông đảo được
tập hợp và rèn luyện đấu tranh trong tổ chức Việt Minh, với một lãnh tụ dẫn
đường xuất sắc, nhân dân Việt Nam đã đứng lên tự giải phóng mình chứ
khơng hề ngồi yên trông mong, chờ đợi một “khoảng trống quyền lực” hay
một khoảng “chân khơng chính trị” nào. Họ đã đón đúng và tận dụng triệt để
thời cơ lịch sử ngàn năm có một để giành thắng lợi trọn vẹn”.

-

Quan điểm của TS Trần Đăng Khởi học viện CT-HC Khu vực III cho rằng
“Trong thời gian diễn ra cuộc tổng khởi nghĩa (từ ngày 14 đến 28/08/1945)
trên lãnh thổ Việt Nam không hề tồn tại một khoảng trống quyền lực nào”.


-

Theo PGS-TS Phạm Xanh khẳng định : “Lịch sử đã chứng minh rằng, tổng
khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, khơng thể lấy thời điểm nào
khác ngồi thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã chọn.
Chính vì phát hiện được thời cơ, nắm bắt được thời cơ, biến thời cơ thành
sức mạnh vật chất, Đảng đã phát động cuộc khởi nghĩa trong toàn quốc và
giành thắng lợi chỉ trong 10 ngày. Đây là cuộc khởi nghĩa vũ trang nhanh


gọn nhất, ít tổn thất nhất, nhưng thành quả thật vơ cùng to lớn.”.Sở dĩ những
nhà sử học trên nói vậy là do họ đã đi sâu vào tìm hiểu lịch sử của cách mạng
tháng 8 và qua đó nêu lên những ý kiến chính sác nhất. Chính nhà sử học
người Nauy S.Tonesson nói rằng :cách mạng tháng 8 xuất hiện khoảng trống
quyền lực, tuy nhiên sau khi xem sét lại vấn đền thì tác giả đã đính chính lại
và khẳng định rằng cách mạng tháng 8/1945 là cuộc cách mạng vĩ đại của
toàn đảng và toàn dân ta.
Vậy thật ra có hay khơng có “khoảng trống quyền lực trong cách mạng tháng
Tám”!
Theo quan điểm của em thì thời điểm Việt Nam lúc bấy giờ có “khoảng trống
quyền lực” nhưng thắng lợi của dân tộc ta trong cuộc khởi nghĩa này không phải là
một sự ăn may.
Trong cuộc cách mạng tháng 8/1945, sự lãnh đạo của Đảng là nguyên nhân tất
yếu nhất đưa cuộc cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. Cơ hội đến mà không biết
tận dụng thì cũng không thể dành được thắng lợi, mà yêu cầu phải có sự chuẩn bị kĩ
lưỡng.Thời cơ là yếu tố khách quan, nó tác động đến tất cả các nước ở khu vực có
bị phát xít Nhật chiếm đóng như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Malaysia… Thế
nhưng, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng được cơ hội đó.Tận dụng được sự
nhu nhược, không kiên quyết của các thể lực thù địch lúc bấy giờ để tiến hành cách

mạng thắng lợi là cả một nghệ thật chớp lấy thời cơ,vận hội của Đảng ta.Chúng ta
đã phải từng trả giá bằng biết bao đầu rơi máu chảy cho những thất bại trước sức
mạnh của cường quyền thực dân và phát xít, mà nạn đói cướp đi 2 triệu mạng người
ngay đêm hôm trước của cuộc cách mạng là một bằng chứng tiêu biểu. Đó cũng là
cả một q trình tơi luyện của một tổ chức cách mạng tuy mới tồn tại được 15 năm,
nhưng đã kinh qua bao nhiêu thử thách, trong đó có những bài học thất bại sâu sắc
của Xô viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931), và Nam Kỳ khởi nghĩa (1940), lần lượt cả
bốn Tổng Bí thư thời kỳ đầu của Đảng từ Trần Phú đến Lê Hồng Phong, Hà Huy
Tập và Nguyễn Văn Cừ đều hy sinh cùng biết bao đồng chí khác.


Nhà sử học X. Tơn-nét-xơn có đưa ra một trạng huống "khoảng trống quyền
lực" như để gợi lên phần nào sự "ăn may" đối với những người cách mạng do tình
thế tạo ra.Nhưng xét tồn diện, nếu khơng có một quá trình vận động lâu dài và chủ
động của Đảng ta thì chắc chắn, khoảng trống đó sẽ nhanh chóng bị lấp đầy bằng
những mưu đồ đen tối của các thế lực ngăn cản nền độc lập dân tộc, của chính
những lực lượng đồng minh, chứ khơng phải nó được lấp đầy bằng quyền lực của
nhân dân Việt Nam đã được thể hiện như lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám
1945.
Cách mạng tháng 8/1945 diễn ra trong vòng 15 ngày và đã đưa Việt Nam thành
một nước độc lập, tuy nhiên để có 15 ngày lịch sử đó là cả khoảng thời gian 15 năm
dài chuẩn bị của đảng và nhân dân ta.
Bác Hồ vị cha già của dân tộc người đã tiên đoán 1945 nước ta sẽ dành độc lập,
cụ thể năm 1941 chủ tịch hồ chí minh đã dự báo rằng “Tháng 10-1944 trong thư gửi
đồng bào tồn quốc người cịn nói “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng ở trong một
năm hoặc năm rưỡu nữa. Thời gian rất gấp ta phải làm nhanh”.
Theo PGS.TS Phạm Quang Minh phân tích “Cách mạng tháng 8 thắng lợi trước
hết là do Đảng cộng sản Đông Dương đã phân tích chính xác tình hình thế giới,
tương quan lực lượng giữa hai phe Đồng minh và Phát xít... Cách mạng tháng 8 là
biểu hiện rõ nhất của kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại...”.

Đảng ta đã chuẩn bị mọi mặt nhằm chuẩn bị tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến
“Song thời cơ khơng phải tự nó đến, một phần lớn do ta sửa soạn nó, thúc đẩy
nó”.Đảng ta khơng thụ động chờ thời cơ, mà chạy đua với thời gian để đón thời cơ
và đẩy lùi thách thức. Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, đã có những chủ
trương, biện pháp sáng suốt, tích cực, từng bước tạo thế và lực bên trong để có thể
động viên, tổ chức tồn dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời
cơ đến. Một lần nữa nhắc lại,từ khi Đảng ra đời, Đảng lãnh đạo nhân dân làm nên
ba cuộc vận động cách mạng lớn (ba cuộc diễn tập) cuộc vận động những năm đầu
1930 đỉnh cao là cao trào Xô viết Nghệ Tỉnh (1930-1931); Cao trào dân chủ 19361939, Đảng ta lại vượt qua những tổn thất do những cuộc khủng bố của địch để đi


tiếp chặng đường mới; cao trào cách mạng 1939-1945 mà đỉnh cao là Cách mạng
Tháng Tám 1945. Cũng trong thời gian ấy Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập đội
Việt Nam tun truyền giải phóng qn 22/12/1944. Chính trải qua ba cuộc vận
động cách mạng, lí luận Chủ nghĩa Mác, đường lối cách mạng vào phong trào quần
chúng nhân dân, tạo thành một khối thống nhất nên khi thời cơ xuất hiện toàn Đảng,
toàn dân đứng dậy cướp chính quyền. Cả nước chiều dài trên 3000 km, nhưng chỉ
hơn một tuần cách mạng Tháng Tám thành công trên cả nước (Hà Nội 19/8, Huế
23/8, Sài Gòn 25/8...).
Cách mạng đã nổ ra và thành công ngay sau khi Nhật đầu hàng Ðồng Minh
chưa đầy một tuần lễ (15/8) .Nhật đầu hàng Đồng Minh thì (19/8) Hà Nội chính
quyền về tay nhân dân. Và cũng với một thời gian không nhiều hơn thế, nền độc lập
thật sự của Việt Nam đã được tuyên bố ngay trước khi quân Ðồng Minh tiến vào
nước ta để giải giáp quân đội Nhật.
Ðiều gì sẽ xảy ra nếu cuộc tổng khởi nghĩa bùng nổ chậm vài tuần? Cả hai thế
lực quân Tưởng ở miền Bắc, quân Anh ở miền Nam đều có dã tâm ngăn chặn cách
mạng Việt Nam thắng lợi, kẻ thì "diệt Cộng", kẻ thì tiếp tay cho thực dân Pháp khôi
phục lại nền thống trị. Qua đây mới thấy tài tình trong chớp thời cơ của của Đảng và
Hồ Chủ tịch. Như vậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, khơng
thể lấy thời điểm nào khác ngồi thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương

Đảng đã chọn. Chính vì phát hiện được thời cơ, nắm bắt được thời cơ, biến thời cơ
thành sức mạnh vật chất, Đảng đã phát động cuộc tổng khởi nghĩa trong toàn quốc
và giành thắng lợi chỉ hơn một tuần. Đây là cuộc khởi nghĩa vũ trang nhanh gọn
nhất, ít tổn thất nhất, nhưng thành quả thật vô cùng to lớn.
Thể hiện quyết tâm đón lấy thời cơ thể hiện rõ trong Hội nghị toàn quốc của
Đảng họp từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945 tại Tân Trào (Tuyên Quang).
Sau khi phân tích những điều kiện chủ quan và khách quan đã chín muồi để cuộc
tổng khởi nghĩa có thể nổ ra và thắng lợi. Hội nghị quyết định: Đảng phải kịp thời
phát động và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít
Nhật trước khi qn Đồng Minh vào Đơng Dương. Hồ Chí Minh đã kiên quyết
khẳng định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy


cả dãy Trường Sơn cũng phải cương quyết giành cho được độc lập”. Trong quá trình
đấu tranh cách mạng, Đảng ta coi khởi nghĩa là một nghệ thuật. Đó là nghệ thuật
chuẩn bị thời cơ, chớp lấy thời cơ, giành thế thắng lợi trong một thời khắc quyết
định.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tun ngơn Ðộc lập, trịnh trọng
tuyên bố trước toàn thế giới rằng "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập,
và sự thật đã thành một nước tự do độc lập". Trong những ngày diễn ra cách mạng
Tháng Tám Đảng ta và Hồ Chủ tịch đón thời cơ nhưng lường trước những thách
thức. Đọc tuyên ngôn độc lập phải trước khi quân Đồng Minh vào giải giáp quân
phát xít, cốt để ta tiếp quân Ðồng Minh với tư cách người làm chủ của đất nước chứ
không phải với thân phận kẻ nằm chờ họ ban ơn.
Tóm lại: “Khoảng trống quyền lực” ở đây được hiểu như một thời cơ ngàn
năm có một để làm cách mạng cho dân tộc trên cơ sở chúng ta đã chuẩn bị kỹ lưỡng
về mọi mặt.Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám 1945 không phải là ăn may như
một số nhận định phiến diện mà là sự đúc kết những truyền thống kiên cường, bất
khuất, anh dũng hy sinh, đồn kết, nhất trí của dân tộc,sự lãnh đạo tài tình, sáng
suốt của Đảng cộng sản Việt Nam. Thắng lợi này đã khẳng định trong thực tế tầm

quan trọng đặc biệt của thời cơ và tận dụng thời cơ, đã chỉ ra nội dung cụ thể của
thời cơ, đã lý giải tại sao thời cơ đến từ phía địch là như nhau nhưng nhiều nước đã
không giành được thắng lợi. Đồng thời nó cũng để lại nhiều bài học quý báu về vấn
đề tạo thời cơ, nắm thời và chớp thời cho những thế hệ chúng ta tiếp tục con đường
xây dựng và phát triển đất nước.

2.3.2 Vận dụng bài học thời cơ trong thực tiễn xây dựng và phát triển đất
nước ta hiện nay.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã 71 năm trôi qua nhưng những bài
học của thắng lợi này đặc biệt là bài học về nhận định thời cơ và chớp thời cơ cách
mạng của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám 1945, vẫn còn nguyên giá trị thời sự
không chỉ với hiện nay mà trong cả tương lai. Vì vậy, việc nhận định, theo dõi, nắm
bắt và vận dụng thời cơ là hết sức cần thiết nhất là trong điều kiện nước ta đang
thực hiện cách mạng Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước, khoa học công nghệ


phát triển mạnh mẽ, thời đại nền kinh tế tri thức với hội nhập kinh tế quốc tế, xu
hướng toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay. Biết cách nhận định,
theo dõi, nắm bắt và vận dụng thời cơ một cách hợp lý trên tất cả các lĩnh vực sẽ tạo
ra một sức mạnh to lớn để đưa đất nước phát triển và ngày càng tiến xa trên bản đồ
vị thế quốc tế.Ở đây chúng em đưa ra hai hướng vấn đề quan trọng trong việc vận
dụng bài học thời cơ để chúng ta có cái nhìn rõ hơn.
Thứ nhất : Vận dụng bài học thời cơ trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước,đặc
biệt là biển đảo quốc gia.
“Dĩ bất biến ứng vạn biến” là câu trả lời của Bác Hồ với cụ Huỳnh Thúc
Kháng trước khi Bác đi họp ở Pháp vào thời điểm tháng 5-1946 (lúc đó cụ Huỳnh
Thúc Kháng là Bộ trưởng Bộ Nội vụ được giao nhiệm vụ quyền Chủ tịch nước
trong thời gian Bác đi vắng). Cụ Kháng hỏi Bác: “... nếu ở nhà xảy ra những chuyện
phức tạp thì nên xử sự như thế nào?”. Bác Hồ điềm tĩnh trả lời ngắn gọn: “Dĩ bất
biến ứng vạn biến”.

“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là một khái niệm thuộc về binh pháp “dùng tĩnh
chế động”. Nếu dịch nguyên nghĩa của chữ Hán có nghĩa là: “Lấy cái bất động để
đối phó với nhiều cái biến động”, hoặc có thể dịch theo cách dễ hiểu là “lấy cái
không thay đổi để đối phó với vạn cái thay đổi”. Tuy nhiên hai từ “bất biến” ở đây
cần được hiểu theo nghĩa tích cực là “lấy sự bình tĩnh, vững vàng để chống lại vạn
sự biến động”.
Câu nói của Bác Hồ hàm chứa cách ứng xử của người lãnh đạo khi có những
sự việc phức tạp xảy ra thì cần phải có: Lập trường kiên định vững vàng; bình tĩnh
sáng suốt để nắm vững thời cơ và lựa chọn phương án giải quyết thích hợp.“Dĩ bất
biến ứng vạn biến” đã trở thành một trong những nguyên lý cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về sách lược khi giải quyết các vấn đề ngoại giao và sách lược trong đấu
tranh cách mạng của Đảng ta. Thể hiện rất rõ mối liên hệ biện chứng của 3 vấn đề:
Tính nguyên tắc, kiên định của mục tiêu chiến lược với tính linh hoạt, uyển chuyển
của sách lược; giữa đường lối cách mạng và phương pháp cách mạng; giữa kế thừa
và đổi mới. Tư tưởng đó vẫn cịn ngun giá trị đối với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc của đất nước ta hiện nay.Để giải quyết vấn đề Biển Đông, Đảng và Nhà


nước ta luôn đặt đấu tranh ngoại giao là giải pháp quan trọng hàng đầu, chúng ta
kiên trì với mục tiêu giữ vững mơi trường hịa bình và giải quyết mọi bất đồng bằng
con đường đối thoại.
Sách lược “Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Bác Hồ đã được Đảng, Nhà nước
vận dụng rất kiên định và linh hoạt. Cái “bất biến” ở đây là độc lập chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, được coi là quyền lợi tối thượng, là điều
thiêng liêng của Tổ quốc. Tại diễn đàn quốc tế, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã
phát biểu: “Việt Nam không đánh đổi chủ quyền thiêng liêng của mình lấy thứ hữu
nghị viển vông, lệ thuộc…”. Thơng điệp cứng rắn này khơng chỉ nói với Trung
Quốc mà nói với tất cả bạn bè trên thế giới để họ thấy lập trường, quan điểm của
Việt Nam trước sau như một. Đó chính là cái “bất biến” trong sách lược đấu tranh
của Đảng, nhà nước ta.Ứng xử với cái “vạn biến”, Đảng, nhà nước ta ln coi trọng

chính nghĩa, coi trọng tình hữu nghị hai nước, coi đó là nhân tố sức mạnh cao nhất
và biết kết hợp nhiều biện pháp đấu tranh với Trung Quốc trên các lĩnh vực.
Trên thực địa, chúng ta kiên quyết và kiên trì yêu cầu Trung Quốc rút giàn
khoan khỏi vùng biển của Việt Nam. Với phương châm là kiềm chế, bình tĩnh và
linh hoạt để ứng phó kịp thời với mọi hành động, thủ đoạn của Trung Quốc, không
để bất ngờ, không mắc mưu, không tạo cớ để Trung Quốc gây xung đột và bảo toàn
được lực lượng (cả quân và dân) của ta trên biển.
Trên lĩnh vực đấu tranh ngoại giao, chúng ta tích cực tuyên truyền, khai thác
mọi phương tiện thông tin, mọi diễn đàn… để làm cho các nước trong khu vực và
trên thế giới hiểu rõ bản chất của sự việc, thơng qua đó ủng hộ lập trường quan
điểm của ta.
Trên lĩnh vực đấu tranh pháp lý, chúng ta đã chuẩn bị đầy đủ hồ sơ và có đủ
các bằng chứng pháp lý để khẳng định Hồng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của
Việt Nam và cũng không loại trừ phương án khởi kiện Trung Quốc ra tồ án quốc
tế. Đó là “Dĩ bất biến ứng vạn biến” được vận dụng một cách linh hoạt trên các lĩnh
vực đấu tranh của Đảng và nhà nước ta.
Tại sao vấn đề thời cơ chưa thấy đề cập ở đây ?Chúng ta đang trên con đường
chuẩn bị mọi mặt về chính trị,quân sự và kinh tế,một khi Việt Nam thật sự là một
nước mạnh,tranh thủ được sự ủng hộ của bè bạn quốc tế,một khi hội tụ được đủ các


nhân tố cần thiết của thời cơ “Thiên thời địa lợi nhân hòa” thì việc chúng ta lấy lại
chủ quyền biển đảo sẽ không xa.
Thư 2 : Vận dụng bài học thời cơ trong phát triển kinh tế trong thời kỳ hội nhập.
Sự nghiệp đổi mới của nước ta đang đứng trước những cơ hội phát triển hết
sức thuận lợi, nhưng cũng đang phải đối đầu với nhiều nguy cơ, trong đó nổi bật là
nguy cơ tụt hậu về kinh tế; nguy cơ chệch hướng XHCN; về tham nhũng... Để tận
dụng được thời cơ và vượt qua các nguy cơ, chúng ta đã và đang tiến hành nhiều
giải pháp trên mọi lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, văn hóa, luật pháp cho đến xây
dựng Đảng.

Ngày nay, khi nhận định về thời cơ, chúng ta nhận thấy bối cảnh tình hình
trong nước và quốc tế đã có những thay đổi căn bản. Vấn đề hội nhập, tồn cầu hóa
nổi lên như một xu thế vận động tất yếu của thế giới hiện đại, do đó yêu cầu và
nhiệm vụ cách mạng cũng phải được phân tích, đánh giá và nhận thức đúng đắn,
phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử.
Trong Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta đã thành công trong việc chỉ đạo xây
dựng lực lượng, chủ động đón thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền; giờ đây với
những điều kiện chủ quan và khách quan mới đang tạo ra thời cơ mới, Đảng ta
khẳng định, cách mạng nước ta đang đứng trước những thời cơ, vận hội mới thuận
lợi chưa từng có, đồng thời cũng đang gặp những khó khăn, thách thức lớn.
Trước hết là những nhân tố thuận lợi: Đó là chúng ta đang sống trong một thế
giới hòa bình, ổn định, phát triển và hội nhập. Về đối ngoại, uy tín và vị thế của Việt
Nam không ngừng được nâng cao. Từ một nước không có tên trên bản đồ thế giới,
sau 71 năm Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 230 tổ chức quốc tế, quốc gia
và vùng lãnh thổ; thiết lập quan hệ ngoại giao với 179 nước(9), trong tổng số hơn
200 nước trên thế giới. Việt Nam đã đổi mới căn bản cả về thế và lực, đang đứng
trước những cơ hội to lớn.
Về nguồn lực và triển vọng phát triển: Việt Nam có nguồn tài nguyên phong
phú, nguồn lao động chất xám trẻ dồi dào, đầy nhiệt huyết và tiềm năng sáng tạo.
Đất nước ta đang ở thời kỳ “Dân số vàng” với hơn 65 triệu người đang ở độ tuổi
lao động. Để nắm bắt được thời cơ, chớp thời cơ trong thời đại phát triển như vũ


bão của khoa học và công nghệ, thời đại văn minh tri thức, Đảng ta chỉ ra rằng,
ngoài quyết tâm chính trị, yếu tố con người, nguồn lực con người có tri thức là yếu
tố quyết định. Do đó,nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, có đủ đức, tài, có khả năng nắm bắt, đón
đầu, làm chủ khoa học cơng nghệ, chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, bởi đó là
sức mạnh nội lực to lớn của toàn dân tộc. Trên cơ sở phát huy nội lực, kết hợp nội
lực với ngoại lực, tạo nên sức mạnh tổng hợp phát triển đất nước. Bởi vì, trong mối

quan hệ biện chứng, một đất nước phát triển sẽ có tiềm lực và vị thế bảo đảm tính
chủ động khi tham gia hội nhập quốc tế. Phát huy nội lực còn nhằm tránh bị lệ
thuộc quá nhiều vào bên ngoài, ảnh hưởng tới sự chủ động quốc gia trên trường
quốc tế.
Tuy nhiên, vấn đề nhận biết được thời cơ và chớp thời cơ để phát triển đất
nước hoàn tồn khơng dễ. Có thể thấy rằng, hiện nay việc sử dụng nguồn lao động ở
Việt Nam vô cùng lãng phí, kể cả nguồn lao động đã qua đào tạo; năng suất lao
động của nước ta gần thấp nhất trong các nước Đơng Nam Á. Chi phí sản xuất trên
giá thành sản phẩm cao, khả năng cạnh tranh yếu. Việt Nam có hơn 300 nghìn
người đang độ tuổi lao động có trình độ cử nhân và thạc sỹ khơng có việc làm, trong
khi nhiều nhà máy, công ty sản xuất lại thiếu lao động. Đó là một nghịch lý hay là
vấn đề chúng ta chưa biết tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức của lịch sử ? Câu
hỏi đó còn đang chờ lời giải của các nhà hoạch định chính sách và sự cố gắng của
cả hệ thống chính trị.
Bên cạnh những nhân tố thuận lợi là những thách thức to lớn. Cuộc khủng
hoảng kinh tế, tài chính thế giới đã, đang và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến tất cả các
quốc gia, trong đó có Việt Nam. Ngồi ra, sự biến đổi khí hậu tồn cầu, sự bùng nổ
dân số, sự chênh lệch giàu nghèo, nạn tham nhũng, sự cản trở phá hoại của các thế
lực thù địch..., là những thách thức lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và
nhân dân ta.
Mặc dù hiện tại vẫn cịn vơ vàn khó khăn, nhưng có thể khẳng định rằng, nếu
chúng ta biết học tập, vận dụng sáng tạo bài học thành công về nhìn nhận thời cơ và
chớp thời cơ giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám 1945 của Hồ Chí Minh;
nếu chúng ta biết phân tích, dự báo tình hình trong nước và thế giới trên cơ sở


khách quan, khoa học, để xác định được nhân tố thuận lợi nảy sinh trong khó khăn
thách thức (nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, nhân công rẻ, nhiều nước sẵn sàng
chuyển giao cơng nghệ mới...), nếu chúng ta quyết tâm, đồn kết, tận dụng, tranh
thủ được thời cơ... chắc chắn sẽ vượt qua mọi thách thức, tiếp tục tiến lên, vững

bước trên con đường đổi mới..
Ngoài ra để làm được điều này, Đảng, Nhà nước ta phải tích cực vận động, giáo dục
đối với mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải tích cực nghiên cứu, vận dụng
tốt những bài học lịch sử trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vào thực tiễn xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để tranh thủ thời cơ, đẩy lùi
nguy cơ trong tình hình mới, Thực hiện đầy đủ ngun tắc khơng vì quyền lợi hay
lợi ích nhất thời, cục bộ của tổ chức, cá nhân nào đó mà bất chấp nguyên tắc, làm
tổn hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc, của tập thể. Phải tuyệt đối đặt lợi ích của
quốc gia, dân tộc, vì sự phát triển của chủ nghĩa xã hội lên trên hết. Thực hiện phát
huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, biết phân tích, dự đốn và mau lẹ
chớp lấy thời cơ, nắm chắc và tận dụng có hiệu quả thời cơ để mang lại lợi ích to
lớn cho quốc gia, cộng đồng, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Đó là thước đo bản lĩnh cách mạng của Đảng ta trong thời kỳ chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

3 KẾT LUẬN.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi là một dấu son chói lọi và hào hùng
trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, mặc dù 71 năm đã qua đi nhưng những
bài học kinh nghiệm từ cuộc Cách mạng vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt là bài học
về chớp thời cơ của Đảng ta , đỉnh cao của nghệ thuật khởi nghĩa. Hiện nay, nước ta
đã có những buớc tiến thần kỳ trong thời kỳ đổi mới, đạt được những thành tựu nhất
định trong tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị - ngoại giao, văn hóa – xã hội.Mục
tiêu trong tương lai của chúng ta đó là: Phát triển bền vững; xây dựng dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; hòa mình với năm châu; ngày
càng rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trên thế giới; vươn lên khẳng
định thế và lực của mình trên trường quốc tế. Để làm được điều này cũng như trong


Cách mạng Tháng Tám, công cuộc đổi mới hiện nay đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta
phải phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh

dân tộc với sức mạnh thời đại,và đặc biệt đó là nghệ thuật tận dụng thời cơ và hành
động,đưa ra những quyết sách đúng đắn. Đó là một trong những bài học quyết định
thành công,đưa đất nước ta vượt qua khó khăn,vững bước trên con đường đổi
mới.Ngồi ra bài học về thời cơ cịn là một bài học giá trị cho mỗi cá nhân,nhất là
thế hệ sinh viên chúng em, để chúng em biết trang bị,chuẩn bị những hành trang cần
thiết và khi cơ hội đến thì đón nhận nó và hành động, cũng như khi đối mặt với
những khó khăn thách thức thì khơng lâm vào tình thế bị động mà sẵng sàng đón
nhận nó.


TÀI LIỆU THAM KHẢO :
1. Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2000.
2. Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam,Nxb
chính trị quốc gia-sự thật,Hà Nội,2014.
3. />4. />5. />6. />7. />8. />9. />10.

/>
11.

/>


×