Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng tại rừng thực nghiệm núi Luốt, Xuân Mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------------------------------

NGUYỄN ĐỨC VINH

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA TẦNG CÂY CAO ĐẾN SINH
TRƯỞNG CÂY BẢN ĐỊA DƯỚI TÁN RỪNG TẠI RỪNG
THỰC NGHIỆM NÚI LUỐT, XUÂN MAI

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG
Mã số: 60.62.68

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thế Nhã

Hà Nội - Năm 2011


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Khu nghiên cứu thực nghiệm núi Luốt Trường Đại học Lâm nghiệp có diện tích
là 130 ha. Trước kia, nơi đây toàn là Sim, Mua, Cỏ tranh, Cỏ lào và cây bụi nhỏ. Từ năm
1985 - 1986 trường Đại học Lâm nghiệp đã triển khai trồng rừng phủ xanh đất trống đồi
núi trọc bằng các lồi cây: Thơng, Keo, Bạch đàn,… Đến năm 1995 - 1996 Trung tâm
NCTN&PT rừng đã triển khai trồng thử các loài cây bản địa được sưu tầm ở khắp nơi và


trồng bổ sung vào năm 1996 - 2002.
Trong những năm qua, rừng trồng Thông mã vĩ và Keo lá tràm đã khép tán. Tiểu
hoàn cảnh rừng đã được thiết lập, đất đai bước đầu đã phục hồi được độ phì. Các lồi cây
bản địa đã được 9 - 16 tuổi, một số loài sinh trưởng tương đối nhanh và có triển vọng tốt.
Tầng cây cao trong khu vực đã được tỉa thưa một lần để loại bỏ những cây sinh trưởng
kém, vì thế mật độ và độ tàn che ở khu vực không cao lắm. Mặc dù vậy, tầng cây cao
trong khu vực này đang có những ảnh hưởng bất lợi đến sinh trưởng của các loài cây bản
địa.
Các loài cây bản địa thường sinh trưởng thích hợp trong điều kiện chịu bóng khi
tuổi còn nhỏ, nhưng trong giai đoạn hiện nay nhu cầu ánh sáng và dinh dưỡng của chúng
đã tăng lên. Do đó, tầng cây cao đã có những ảnh hưởng theo hướng tích cực hoặc tiêu
cực đến sinh trưởng của chúng và sự tồn tại của lâm phần. Vì thế, hiện nay trong khu vực
này đang tồn tại mâu thuẫn giữa tầng cây bản địa phía dưới và tầng cây cao phía trên về
nhu cầu dinh dưỡng và ánh sáng. Cho nên, việc nghiên cứu sinh trưởng cây bản địa cũng
như những ảnh hưởng của các nhân tố như độ tàn che, chiều cao tầng cây trên... đến sinh
trưởng cây bản địa ở tầng dưới là hợp lý, từ đó làm cơ sở xác định các biện pháp tác
động hợp lý cho các cá thể trong mỗi loài nhằm xúc tiến sinh trưởng và phát triển của các
loài cây bản địa trong khu vực.
Để có cơ sở khoa học cho việc xúc tiến sinh trưởng và phát triển của những lồi
cây bản địa dưới tán rừng thì vấn đề cần phải nghiên cứu là: Sinh trưởng tầng cây cao,
cây bản địa dưới tán; ảnh hưởng của độ tàn che đến sinh trưởng cây bản địa dưới


2

tán; cấu trúc rừng đến đặc điểm thổ nhưỡng và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy
sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng.
Vì vậy việc nghiên cứu ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng và phát triển
của cây bản địa dưới tán rừng và đề xuất những giải pháp tác động đúng đắn về mặt lâm
sinh nhằm thúc đẩy sinh trưởng của cây bản địa tại các trạng thái rừng ở núi Luốt là điều

kiện thiết yếu góp phần tích cực cho đào tạo, nghiên cứu khoa học và tham quan du lịch
của nhà trường.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng
của tầng cây cao đến sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng tại rừng thực nghiệm núi
Luốt, Xuân Mai”. Kết quả của đề tài sẽ góp phần làm rõ cơ sở khoa học cho việc đánh
giá ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng trồng thuần
loài ở núi Luốt nói riêng và Việt Nam nói chung.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới:
Trong những năm gần đây, rất nhiều nơi trên thế giới đã và đang nghiên cứu,
thử nghiệm và trồng rừng thành cơng bằng những lồi cây bản địa. Một số nước
trên thế giới đã có những nghiên cứu trồng cây bản địa dưới tán rừng cây lá kim
hoặc cây lá rộng thuần lồi và có những kết luận về khả năng sinh trưởng cũng như
giá trị kinh tế của những loại cây rừng.
Tại Đài Loan và một số nước Châu Á sau khi trồng phủ xanh đất trống đồi núi
trọc bằng cây lá kim đã tiến hành gây trồng cây bản địa dưới tán rừng này. Kết quả
đã tạo ra những mơ hình rừng hỗn giao bền vững, đạt năng suất cao, có tác dụng tốt
trong việc bảo vệ chống xói mòn đất [10].
Tại Malaysia, năm 1999 trong dự án xây dựng rừng nhiều tầng đã giới thiệu
cách thiết lập mô hình rừng hỗn lồi trên 3 đối tượng: Rừng tự nhiên, rừng trồng
Keo tai tượng (Acacia mangium) 10 - 15 tuổi và 2 - 3 tuổi. Dự án đã sử dụng 23 lồi
cây bản địa có giá trị, trồng theo băng 30m trong rừng tự nhiên, trên băng trồng 6
hàng cây bản địa. Trồng 14 loài cây bản địa dưới tán rừng Keo tai tượng theo 2 khối
thí nghiệm.
Khối A:


Mở băng 10m trồng 3 hàng cây bản địa;
Mở băng 20m trồng 7 hàng cây bản địa;
Mở băng 40m trồng 15 hàng cây bản địa;

Khối B:

Chặt 1 hàng Keo trồng 1 hàng cây bản địa;
Chặt 2 hàng Keo trồng 2 hàng cây bản địa;
Chặt 4 hàng Keo trồng 4 hàng cây bản địa…

Kết quả cho thấy, trong 14 loài cây trồng trong khối A, có 3 lồi: Shorea
roxburrghii; S. ovalis; S. leprosula sinh trưởng chiều cao và đường kính tốt nhất.


4

Tỷ lệ sống không khác biệt, sinh trưởng chiều cao cây trồng tốt nhất ở băng 10m và
băng 40m. Băng 20m không thỏa mãn điều kiện sinh trưởng chiều cao. Khối B có tỷ
lệ sống, sinh trưởng chiều cao tốt khi trồng 1 hàng; sinh trưởng đường kính tốt cho
cơng thức trồng 6 hàng và 16 hàng. Dự án còn vạch ra kế hoạch điều chỉnh các công
thức trồng tại những thời điểm 2, 8, 12, 18, 28, 34, 41, 47 năm sau khi trồng [10].
Tại Đan Mạch, thông qua nghiên cứu sinh trưởng Jensen năm 1983 thấy rằng
Vân sam (Abies) trong hỗn giao với Linh sam bạc (Abies alba) có sản lượng cao
hơn chính nó trồng thuần lồi. Tương tự, Bulô hỗn giao với Thông mọc tốt hơn
Bulô thuần loài. Hỗn giao 25-50% giữa Betula pendula với Abies đã làm tăng sản
lượng của Abies ở tất cả các tuổi [30].
Tại Costa Rica, ba kiểu rừng trồng, mỗi kiểu rừng trồng là hỗn giao của 4 lồi cây
bản địa có sự chịu bóng khác nhau trong vùng đất thấp ẩm ướt của Costa Rica cho thấy
từ 2 - 4 năm tuổi, đường kính ngang ngực trong các quần thụ hỗn giao là lớn hơn trong

các quần thụ thuần loài của những loài mọc nhanh [30].
Một nghiên cứu khác của Haggar.J và J.Ewel năm 1995 và năm 1997 ở vùng
đất thấp thuộc vùng Đại Tây Dương của Costa Rica chỉ ra rằng thơng thường tăng
trưởng của lồi Hyeronima alchorneoides và Cordia alliodora trong rừng trồng hỗn
loài nhanh hơn trong các quần thụ thuần lồi. Điều đó có thể là do sự khác nhau
trong hình học hệ thống rễ và tán cho phép phối hợp lồi trong khơng gian một cách
hiệu quả. Haggar và Ewel (1995) đã nhận định rằng tăng trưởng của các cá thể
Cordia alliodora ở Costa Rica trong rừng hỗn loài nhanh hơn trong các quần thụ
thuần loài (7,9m trong hỗn giao và 4,9m trong thuần loài ở 2 năm tuổi) [30].
Việc tạo lập các loài cây hỗ trợ ban đầu cho cây trồng chính trước khi xây
dựng các mơ hình rừng trồng hỗn lồi là rất cần thiết. Nghiên cứu về lĩnh vực này
điển hình có tác giả Mathew năm 1995. Ơng đã nghiên cứu tạo lập mơ hình rừng
trồng hỗn lồi giữa cây thân gỗ với cây họ đậu. Kết quả cho thấy cây họ đậu có tác
dụng hỗ trợ rất tốt cho cây trồng chính. Như vậy, nghiên cứu này cho thấy sử dụng
các loài cây họ đậu làm cây phù trợ cho các loài cây trồng chính trong mơ hình rừng


5

trồng hỗn loài là rất phù hợp. Ngoài việc xác định được lồi cây phù trợ thích hợp
thì việc nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật điều chỉnh lâm phần rừng trồng hỗn lồi
theo q trình sinh trưởng cũng rất quan trọng. Các tác giả Ball, Wormald và Russo
năm 1994 đã tác động vào các lâm phần rừng trồng hỗn lồi thơng qua việc giảm
bớt sự cạnh tranh giữa các loài cây. Kết quả cho thấy sau khi được tác động các
biện pháp tỉa cành, tỉa thưa nên các loài cây mục đích đã được tạo điều kiện thuận
lợi để sinh trưởng phát triển tốt hơn [28].
Đặc điểm nổi bật của rừng hỗn lồi là có kết cấu nhiều tầng tán. Vì thế
nghiên cứu tạo rừng hỗn lồi nhiều tầng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm. Khi
nghiên cứu về cấu trúc tầng tán của lâm phần hỗn loài tác giả Bennar Dupuy năm
1995 thấy rằng kết cấu tầng tán của rừng trồng hỗn loài phụ thuộc vào đặc tính sinh

trưởng và tính hợp quần của các lồi cây trong trong lâm phần (dẫn theo Hoàng Văn
Thắng, 2007). Điều này cho thấy để tạo được các mơ hình rừng trồng hỗn lồi có
cấu trúc hợp lý, tận dụng được tối đa khơng gian dinh dưỡng thì cần phải dựa vào
tính sinh trưởng cũng như phải quan tâm đến mối quan hệ qua lại giữa các loài cây
để lựa chọn các loài cây trồng cho phù hợp. Đây là cơ sở quan trọng quyết định đến
sự thành công hay thất bại của các mơ hình rừng trồng hỗn lồi.
Kết quả nghiên cứu về rừng trồng hỗn loài các tác giả đều cho rằng việc bố
trí các lồi cây trong mơ hình rừng trồng hỗn lồi thường có ảnh hưởng tới sinh
trưởng của chúng tùy theo số cá thể và cự ly trồng từng loài. Kolexnitsenko (1997)
khi nghiên cứu về sự phối hợp giữa các loài cây gỗ trong trồng rừng hỗn loài đã đúc
kết được 5 nguyên tắc lựa chọn lồi cây trồng, đó là:
 Ngun tắc kinh nghiệm.
 Ngun tắc kiểu lâm hình học.
 Nguyên tắc lý sinh.
 Nguyên tắc sinh vật dinh dưỡng.
 Nguyên tắc cảm nhiễm tương hỗ.


6

Có thể nói đây là những nguyên tắc rất cơ bản và tương đối toàn diện về
các lĩnh vực của rừng trồng hỗn lồi. Để xây dựng thành cơng các mơ hình rừng
trồng hỗn lồi cần phải dựa vào 5 nguyên tắc trên. Trong đó nguyên tắc cảm
nhiễm tương hỗ là rất quan trọng và cần phải có thời gian dài nghiên cứu. Nhìn
chung, các nguyên tắc này phản ánh được mối quan hệ bên trong và có tính chi
phối tới sự tồn tại và sinh trưởng của các loài. Sự phân loại theo đặc điểm hoạt hóa
của chúng như kích thích, ức chế hoặc kìm hãm q trình sống thông qua ảnh
hưởng của phitonxits là căn cứ để quyết định tỷ lệ tổ thành các loài cây trong lâm
phần hỗn loài. Nghiên cứu về vấn đề này tác giả Kolexnitsenko đã đề nghị mật độ
lồi cây trồng chính trong mơ hình trồng rừng hỗn lồi khơng nên ít hơn 50%, lồi

cây hoạt hóa khơng nên q 30 - 40%, lồi cây ức chế khơng q 10 - 20% trong
tổng số các lồi cây [37].
Tóm lại, các kết quả nghiên cứu về cây bản địa và trồng rừng hỗn loài trên
thế giới tuy chưa nhiều song với những thông tin thu thập được về cách lợi dụng độ
tàn che tầng cây cao, cách sử dụng cây phù trợ và các phương thức bố trí lồi cây
trong mơ hình thí nghiệm và với những thơng tin về tiểu hồn cảnh rừng ảnh hưởng
tới sinh trưởng, phát triển các loài cây bản địa là những tài liệu tham khảo và bài
học kinh nghiệm rất có ích cho đề tài.
Với đặc thù riêng của rừng nhiệt đới người ta thường tác động theo các
hướng sau:
a. Hướng thứ nhất:
Từ những lâm phần rừng tự nhiên hỗn giao lá rộng, thông qua sự tác động
của những biện pháp kỹ thuật lâm sinh trở thành những lâm phần có cấu trúc ít phức
tạp. Ưu thế thuộc về một số lồi cây có giá trị kinh tế, tuổi ít chênh lệch nhau. Tại
một số nước Châu Phi thuộc khu vực nói tiếng Pháp, người ta sử dụng phương thức
trồng dặm dưới tán theo kiểu quảng canh. Fomy năm 1956 đã tóm tắt kinh nghiệm
thu được về kiểu rừng trồng dặm và nêu ra 7 điểm cần thiết về kỹ thuật để đi đến
thành công như sau:


7

1. Đặt cây theo khoảng cách hẹp, dọc trên rạch trồng để có được sự lựa chọn
về số cây cần giữ lại và hạ được chi phí về nhân cơng chăm sóc.
2. Chỉ dùng những lồi cây ưa sáng.
3. Rạch trồng theo hướng Đông - Tây để thu được ánh sáng tối đa.
4. Khai thác rừng đầy đủ trước khi trồng
5. Phương pháp khơng đem lại hiệu quả gì nếu có thú lớn.
6. Khơng bao giờ đánh giá thấp sự cạnh tranh của rễ cây và bóng rợp ở trên
đầu và bên sườn.

7. Xử lý toàn bộ quần thể coi như đã được tái sinh một cách tự nhiên sau khi
trồng cây.
b. Hướng thứ hai.
Thay thế hoàn toàn lâm phần cũ bằng lâm phần mới (phương pháp cải tạo
triệt để) đã được nhiều quốc gia áp dụng nhằm tạo diện tích rừng đều tuổi thuần lồi
có giá trị kinh tế cao. Theo tài liệu của Baur, Catino đã giới thiệu và đánh giá các
phương thức tái sinh rừng tự nhiên và nhân tạo ở Châu Phi, Ấn Độ và một số nước
Đông Nam Á đều đi đến kết luận: Việc đưa cây rừng vào các thảm rừng tự nhiên
nhằm bổ xung tổ thành nâng cao chất lượng rừng tùy thuộc vào cách xử lý, điều
kiện ánh sáng, xử lý các thảm rừng cũ một cách thích hợp đối với đặc tính sinh thái
của từng lồi ở từng giai đoạn tuổi khác nhau mới có thể đem lại hiệu quả [11].
1.2. Ở Việt Nam:
1.2.1. Nghiên cứu về trồng rừng hỗn giao
Trồng rừng hỗn loài ở Việt Nam đã được nghiên cứu từ những năm 1931.
Điển hình là cơng trình nghiên cứu của tác giả người Pháp Maurand tại Trảng Bom
- Đồng Nai về thử nghiệm gây trồng rừng hỗn loài Sao đen (Hopera odorata Roxb),
Dầu rái (Dipterocarpus alatus Roxb), và Vên vên (Anisoptera costata Korth) trong


8

rạch hẹp 1 - 2m, sau đó mở rộng 5m. Cây bụi thảm tươi trong rạch được phát dọn
nhưng vẫn giữ lại che bóng ở tầng trên. Ơng đã gọi đây là phương thức “trồng rừng
dưới tán che dày và thấp”. Sau 2 năm, thí nghiệm này của ơng đã bị cỏ lấn át, tác
giả đã cải tiến bằng cách cho tiến hành phát quang các tầng trên và chỉ để lại loài
cây ưu thế. Phương pháp này được gọi là phương pháp “trồng rừng dưới tàn che
cao và nhẹ”. Nhưng thí nghiệm này của ơng đến năm thứ 3 lại nảy sinh vấn đề là
cây trong rạch sinh trưởng khơng bình thường. Ơng lại tiếp tục dùng thảm che nhân
tạo với các loài cây họ đậu như Muồng đen (Cassia siamea), Đậu tràm (Indigofora
teysmanii) và ông cho rằng việc dùng cây che phủ ban đầu kết hợp với cây che phủ

trung gian là có hiệu quả. Tác giả cịn kết luận nhân tố ánh sáng trong rạch chừa đã
ảnh hưởng tới cây trồng chính [11].
Năm 1962 các nhà lâm học Học viện Nơng lâm đã tiến hành thí nghiệm
trồng rừng hỗn loài, lấy cây Mỡ (Manglietia glauca Wull. BL) làm đối tượng chính
của rừng hỗn lồi và dùng các loài cây bạn theo từng cặp: Mỡ + Lim Xanh
(Erythrophloeum fordii); Mỡ + Xà cừ (Khây senegalensis Benth), Mỡ + Tếch
(Tectona grandis Linn). Mỗi loài trồng 1 hàng, hàng cách hàng 2m, cây cách cây
2m, kết quả cho thấy: Xà cừ, Tếch khơng thích hợp với đất và kỹ thuật trồng chưa
đúng nên 2 lồi cây này có tốc độ sinh trưởng chậm và bị các loài cây khác cạnh
tranh, cuối cùng chỉ cịn Mỡ thuần lồi. Đối với Lim xanh, 2 năm đầu sinh trưởng
kém, nhưng giai đoạn tiếp theo Lim xanh phát triển chiều cao nhanh hơn, do đó đến
tuổi 10 - 12 Lim xanh đã vươn lên cùng tầng với Mỡ. Trần Nguyên Giảng đã nhận
xét: Lim xanh có khả năng trồng hỗn lồi với Mỡ nhưng chưa tìm được tỷ lệ thích
hợp. Xét về mặt cải thiện đất, cây Lim xanh có thể đáp ứng song Xà cừ và Tếch tác
dụng này không rõ [11].
Năm 1971 - 1976, Nguyễn Bá Chất và các cộng sự đã sử dụng cây phù trợ là
các lồi cây có khả năng cố định đạm như: Cốt khí, Ràng rang mít, Lim xẹt để tiến
hành thí nghiệm trồng rừng hỗn lồi Bồ đề với Mỡ và Xoan đào ở Tuyên Quang và
Phú Thọ. Thí nghiệm trồng theo băng và theo hàng, kết quả sau 5 năm cho thấy
năng suất của rừng Bồ đề trồng hỗn lồi có cây phù trợ tăng 15 - 20% so với rừng


9

Bồ đề trồng thuần loài. Lượng thảm mục dưới rừng trồng hỗn loài được cải thiện
hơn so với rừng trồng thuần loài [11].
Từ năm 1980 trở lại đây, việc phục hồi rừng bằng các loài cây bản địa lá rộng
đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Nổi bật là cơng trình nghiên cứu phục hồi
rừng vùng Sơng Hiếu thơng qua việc xây dựng cấu trúc hỗn lồi Lát hoa với một số
loài cây khác của Nguyễn Bá Chất (1981 -1985). Tác giả đã trồng hỗn loài Lát hoa

với một số loài cây lá rộng bản địa như: Lim xẹt, Giổi xanh, Thôi chanh, Lõi thọ,
Ràng ràng nhằm tạo được một cấu trúc rừng hợp lý. Mơ hình này được theo dõi đến
năm thứ 10 và cho thấy: Sinh trưởng rừng Lát hoa trồng hỗn loài tốt hơn rừng Lát
hoa trồng thuần loài [11].
Năm 1985 - 1990, Nguyễn Xuân Quát đã tiến hành trồng thử nghiệm Tếch
kết hợp với Đậu tràm và Muồng đen ở Tây Nguyên. Từ kết quả nghiên cứu tác giả
nhận xét: “Bước đầu cho thấy chưa rõ hiệu quả sinh trưởng của Tếch là tốt hơn
hoặc xấu hơn, nhưng đã tạo được cấu trúc rừng kết hợp giữa cây rụng lá mùa khô,
cây phù trợ là cây Đậu tràm và cây bạn Muồng đen thường xanh” [11].
Nguyễn Bá Chất (1996) đã nhận thấy việc chọn lồi phối hợp với Lát hoa
(Chukrasia tabularis A.Juss) đang cịn khoảng trống cơ sở lý luận và thực tiễn. Thí
nghiệm trồng hỗn giao Lát hoa với các loài Trai (Garcinia fagraeo ides A.Chew),
Nghiến (Burretiodendron tonkinense), Bứa (Garcinia oblongifolia Champ), … ở
tuổi 5 chưa thấy có ảnh hưởng đến sinh trưởng của Lát hoa [7].
Khi so sánh mười tám loài cây bản địa và nhập nội (trong đó có Giổi xanh
(Michelia mediocris Dandy), Lát hoa (Chukrasia tabularis A.Juss) cùng với Bạch
đàn (urophylla) trồng thử nghiệm thuần loài tại 5 tỉnh miền núi phía Bắc ở 18 tháng
tuổi Hồng Văn Sơn (1996) nhận thấy hầu hết các lồi đều có tỷ lệ sống thấp và
chúng khơng thích hợp với việc phát quang thực bì khi trồng [11].
Đánh giá kết quả trồng rừng cây bản địa lá rộng ở Trung Trung Bộ, Lại Hữu
Hoàn (2004) nhận thấy Trám trắng được trồng theo phương thức hỗn giao có tỷ lệ
sống cao đạt 80%, tăng trưởng chiều cao 1,25m/năm và đường kính 1,3cm/năm.


10

Nguyễn Minh Đức (1998) nghiên cứu sinh trưởng loài Lim xanh tại vườn
quốc gia Bến En - Thanh Hóa đã nhận xét: Sự thay đổi cường độ ánh sáng dẫn tới
sự thay đổi nhiệt độ từ đó làm thay đổi ẩm độ dưới tán rừng và điều này có ảnh
hưởng đến sinh trưởng của cây rừng đặc biệt là lớp cây tái sinh (dẫn theo Hoàng

Văn Thắng, 2007).
Nghiên cứu tạo rừng trồng hỗn loài nhiều tầng, Trần Ngũ Phương (2000) đã
đề xuất mơ hình thiết kế rừng hỗn lồi nhiều tầng cho mục đích phịng hộ và sản
xuất thơng qua các phương thức hỗn loài khác nhau như: Hỗn loài giữa cây cao và
cây bụi, hỗn loài giữa cây cao với cây cao. Căn cứ trên cơng trình nghiên cứu các
quy luật chủ yếu của rừng tự nhiên miền Bắc – Việt Nam tác giả đã chỉ ra rằng:
Thảm thực vật rừng ở nước ta đều phân thành nhiều tầng, từ 2 đến 3 tầng cây gỗ
chưa kể tầng cây nhỡ và thảm tươi. Dựa trên quy luật đó tác giả đã đề xuất mơ hình
trồng rừng hỗn lồi đáp ứng mục tiêu phòng hộ đầu nguồn cho các vùng xung yếu,
trong đó có 2 mơ hình hỗn lồi nổi bật là mơ hình rừng sản xuất khí hậu vĩnh viễn
nhiều tầng và rừng sản xuất thứ sinh tạm thời nhiều tầng.
Khi đánh giá một số mơ hình trồng rừng hỗn giao ở các tỉnh phía Bắc của
Hồng Văn Thắng và cộng sự (2005) nhận xét: Nhiều loài cây được lựa chọn sử
dụng, bao gồm cả các loài cây mọc chậm, cây mọc nhanh; cây lá kim, cây lá rộng;
cây bản địa và cây nhập nội... Đa số các mô hình bố trí trồng hỗn giao gồm 2 lồi
cây và 3 phương pháp hỗn giao chính là hỗn giao giữa các cây trong cùng hàng
hoặc hỗn giao theo hàng hoặc hỗn giao theo đám. Loài Keo được sử dụng làm cây
phù trợ là chủ yếu bất luận mối quan hệ giữa cây trồng chính với Keo như thế nào.
Vì thế nhiều mơ hình sau 2 đến 3 năm trồng các lồi cây chính đều sinh trưởng kém
và bị keo lấn át. Tuy nhiên, cũng có được một số mơ hình như ở Cầu Hai do được
chọn loại cây trồng và cự ly bố trí giữa các cây tương đối hợp lí (3x4m) nên cây phù
trợ phát huy được tác dụng hỗ trợ cho cây trồng chính sinh trưởng và phát triển bình thường.
Một nghiên cứu khác của Hồng Văn Thắng và cộng sự (2005) về trồng rừng
hỗn giao Keo trắng (Paraserianthes falcataria) và Lõi thọ (Gmelia arboria) ở


11

Lương Sơn - Hồ Bình cho thấy trên đất rừng sau nương rẫy, có độ dốc từ 15 đến
200, hỗn giao theo băng đã được thực hiện, cả Keo trắng và Lõi thọ đều sinh trưởng

tốt, không thấy xuất hiện sâu, bệnh hại và lõi thọ đã bắt đầu ra hoa, có thể chuyển
hố thành rừng giống.
Trong dự án nghiên cứu về rừng trồng hỗn giao các loài cây gỗ giá trị cao
hợp tác giữa Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy và Trường đại học Queensland,
đã thiết lập hàng loạt các thí nghiệm hỗn giao các lồi cây bản địa và cây nhập nội ở
cả phía Bắc và Nam Việt Nam. Dự án đã tìm ra tại Đoan Hùng, Phú Thọ hai loài
cây Giổi xanh (Michelia mediocris) và Bạch đàn (Eucalyptus urophylla) trồng hỗn
giao theo hàng cho năng suất cao gấp 1,5 lần so với trồng thuần loại [30].
Ngoài các cơng trình nghiên cứu tạo lập các lâm phần rừng trồng hỗn lồi bằng
các lồi cây lá rộng cịn có một số cơng trình nghiên cứu tạo ra rừng hỗn loài giữa cây lá
kim và cây lá rộng, giữa các loài cây nhập nội với nhau. Năm 1986, Phùng Ngọc Lan đã
nghiên cứu thử nghiệm tạo rừng hỗn loài ở Núi Luốt – Trường Đại học Lâm nghiệp Xuân Mai, Thông mã vĩ (Pinus massoniana Lamb) được chọn làm đối tượng chính. Tác
giả đã tiến hành trồng hỗn lồi Thông mã vĩ với Keo lá tràm (Acacia auriculiformis) và
Bạch đàn trắng theo các tỷ lệ, mật độ, phương thức, thời điểm khác nhau. Căn cứ vào các
chỉ tiêu sinh trưởng, động thái đất, sâu bệnh hại tác giả đã có những nhận xét sau [11]:
+ Sau 2 năm sinh trưởng của Thơng trồng hỗn lồi tốt hơn so với thơng trồng
thuần lồi. Tỷ lệ hỗn giao chưa có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng của Thông trên
các công thức thí nghiệm.
+ Trong các cơng thức hỗn giao đã tiến hành trồng, hiệu quả thấy giun đất
phát triển nhiều hơn so với các cơng thức đối chứng thuần lồi. Điều này chứng tỏ
tại các mơ hình trồng rừng hỗn lồi thì các tính chất của đất đã được cải thiện rõ rệt.
Với thí nghiệm trên sau 2 năm tác giả nhận thấy sinh trưởng chiều cao của
Thông trồng thuần lồi là 2,53m trong khi đó chiều cao Thơng được trồng hỗn loài
với Keo theo tỷ lệ 1:1 là 2,8m và tỷ lệ 1:2 là 2,72m. Sinh trưởng đường kính của


12

Thơng trồng hỗn lồi với keo theo tỷ lệ 2:1 cũng lớn hơn, nhanh hơn, với mật độ
trồng hỗn giao giữa Thông mã vĩ và Bạch đàn trắng sinh trưởng của Thông chưa rõ [11].

1.2.2. Các nghiên cứu về cây bản địa trồng dưới tán rừng trồng
Đa số rừng trồng trong những năm trước đây là rừng thuần loài, mà rừng
trồng thuần loài rất kém bền vững, nhất là ở những khu vực phòng hộ xung yếu hay
ở những khu rừng đặc dụng. Vì thế, việc nghiên cứu trồng các loài cây bản địa dưới
tán các khu rừng trồng thuần loài là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay, nhất là
trong tình trạng biến đổi khí hậu tồn cầu. Do tính cấp thiết cả về lý luận và thực
tiễn như vậy, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu trồng cây bản địa dưới tán, điển
hình là những cơng trình sau đây:
Phạm Xuân Hoàn (2002) tiến hành nghiên cứu đặc điểm một số nhân tố tiểu
hoàn cảnh rừng trồng thử nghiệm một số loài cây lá rộng nhiệt đới dưới tán rừng
Keo lá tràm và Keo tai tượng tại khu phục hồi sinh thái Vườn quốc gia Cát Bà – Hải
Phịng đã có một số kết quả sau:
Hai lồi cây tạo môi trường là Keo lá tràm và Keo tai tượng được trồng
thuần loài với mật độ ban đầu là 3.300 cây/ha vào năm 1992. Năm 1994 rừng Keo
tai tượng khép tán và năm 1995 rừng Keo lá tràm khép tán. Đây cũng là thời điểm
cây bản địa được đưa vào trồng dưới tán rừng. Điểm khác biệt cơ bản ở 2 lồi cây
tạo mơi trường này là sau khi khép tán, với tán lá dầy dưới tán rừng Keo tai tượng
cây bụi thảm tươi không phát triển và hầu như bị diệt hồn tồn. Bề mặt đất rừng rất
khơ. Ngược lại dưới tán rừng Keo lá tràm có tán lá thưa do đó dưới tán rừng có tới
12 lồi cây bụi thảm tươi mọc với độ che phủ trên 75% và đạt chiều cao trung bình
0,83m. Với đặc điểm đó, độ ẩm tầng đất mặt đươc duy trì ổn định, đây là một yếu tố
rất quan trọng ảnh hưởng tới tỷ lệ sống cung như chất lượng sinh trưởng của cây
bản địa.
Với 10 loài cây bản địa, bao gồm Gội trắng (Aphanamixis grandifolia
Blume), Re hương (Cinnamomum inners), Nhội (Bischofia trifoliate Roxb), Trám


13

(Cinnamomum sp), Sấu (Dracontomelon duperreanum), Lát hoa


(Chukrasia

tabularis A.Juss), Lim xanh (Erythrophloeum fordii), Lim xẹt (Peltophorum
tonkinense A.Chev), Dẻ (Castanopsis sp) và Kim giao (Podocarpus fleurgi Hickel )
đã được đưa vào trồng dưới tán các lâm phần Keo lá tràm (A. auriculiformis) và
Keo tai tượng (A. mangium Wild) ở Vườn quốc gia Cát Bà (Hải Phòng) theo
phương thức trồng hỗn giao theo hàng. Kết quả theo dõi từ năm 1995 – 2000 cho
thấy dưới tán rừng Keo tai tượng các loài cây bản địa sinh trưởng kém hơn dưới tán
của Keo lá tràm. Tỷ lệ sống của các loài cây bản địa trồng hỗn giao dưới tán Keo tai
tượng đạt 79,1%, thậm chí lồi Sấu chết hồn tồn. Trong khi đó ở dưới tán Keo lá
tràm tỷ lệ này là 95,3%, lượng tăng trưởng thường xuyên và tăng trưởng bình quân
của cây bản địa cao hơn so với các cây cùng loài dưới tán rừng Keo tai tượng.
Chẳng hạn loài Gội trắng có ZDoo = 0,61cm, ZHvn = 0,45m, ZDt = 0,08m. Tác giả cho
rằng tầng cây cao là một trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự sinh
trưởng và phát triển của các loài cây bản địa tầng dưới [11].
Hoàng Vũ Thơ năm 1998 đã nghiên cứu ảnh hưởng của một số nhân tố
sinh thái đến sinh trưởng của cây Lim xanh (Erythrophloeum fordii) trồng dưới
tán rừng, kết quả thấy Lim xanh sinh trưởng tốt nhất ở độ tàn che tầng cây cao từ
0,1- 0,4% [10].
Nguyễn Đức Thế năm 2007 đã nghiên cứu 10 loài cây bản địa dưới tán rừng
Keo lá tràm (A. auriculiformis) và Keo tai tượng (A. mangium Wild) tại Vườn quốc gia
Cát Bà. Kết quả thấy rằng sau một năm trồng các loài cây bản địa bước đầu sinh trưởng
tương đối tốt, nhưng sang năm thứ 2 thì cây trồng dưới tán rừng Keo lá tràm sinh
trưởng tốt hơn trồng dưới tán rừng Keo tai tượng.
1.2.3. Các nghiên cứu về cây bản địa trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ
Thực tế đã chứng minh rằng rừng trồng thuần loài, nhất là rừng trồng một số
loài thơng thuần lồi ở nước ta trong những năm qua rất kém bền vững, dịch sâu
róm thơng thường xun xuất hiện không những hạn chế sinh trưởng, cung cấp



14

nhựa mà cịn làm ảnh hưởng đến mơi trường sinh thái nặng nề. Để khắc phục vần đề
này, gần đây đã có nhiều cơng trình nghiên cứu trồng một số lồi cây bản địa dưới
tán nhằm chuyển hóa rừng thơng thuần lồi thành rừng hỗn lồi, điển hình là một số
cơng trình nghiên cứu sau đây:
Dẫn theo Phạm Xn Hồn năm 2002 tại Núi Luốt - Đại học Lâm Nghiệp Xn Mai, đã có cơng trình nghiên cứu điển hình về cây bản địa trồng dưới tán rừng
Thông mã vĩ và Keo lá tràm. Hai loài cây này được sử dụng để tạo môi trường đều
trồng từ năm 1985, khi độ tàn che của rừng đạt 0,7 - 0,8 vào các năm 1990 - 1991
thì các lồi cây bản địa được đưa vào trồng dưới tán rừng. Tại khu thực nghiệm này,
số loài cây bản địa được đưa vào trồng dưới tán rừng Keo và Thơng là 165 lồi khác
nhau. Cây con được thu tập từ rừng tự nhiên và gieo ươm tại vườn ươm, phương thức
trồng hoàn toàn ngẫu nhiên và hỗn giao theo đám. Dưới tán rừng Thông trồng 27
loài, dưới tán rừng Keo trồng 21 loài, số còn lại được trồng dưới tán các trạng thái
rừng hỗn giao Thông - Keo lá tràm, Thông - Keo tai tượng, Bạch đàn…Kết quả theo
dõi đến cuối năm 2001 cho thấy:
Dưới tán rừng Thông tỷ lệ sống của cây bản địa là 93,2% và ở rừng Keo lá
tràm là 91,2%. Tăng trưởng thường xuyên và tăng trưởng bình quân của cây bản địa
có sự phân hóa rõ rệt ở các loài. Tuy nhiên đáng chú ý nhất là một số loài cây
thường được đánh giá là sinh trưởng chậm như Đinh thối, Re hương, Lim xanh,
Sưa,…nhưng ở giai đoạn chịu bóng dưới tán rừng Thơng và Keo lại có tăng trưởng
rất tốt.
Ví dụ: Re hương có ZDoo = 0,5cm, ZHvn = 0,5m, ZDt = 0,2m
Lim xanh có ZDoo = 0,5cm, ZHvn = 0,45m, ZDt = 0,15m
Cá biệt có một số loài đạt D1.3 tới 1cm và Hvn lớn hơn 7m như Re, Lim, Đinh
thối, Trám.
Sự sinh trưởng và phát triển các loài cây bản địa trên chịu sự chi phối, ảnh
hưởng rất lớn của các nhân tố: Độ tàn che của tầng cây cao (giai đoạn chịu bóng…),
cường độ ánh sáng, nhân tố đất [11].



15

Nghiên cứu về đặc điểm sinh lý, sinh thái học của một số loài cây gỗ bản địa
trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ và Keo lá tràm tại Núi Luốt – Trường Đại học
Lâm Nghiệp - Xuân Mai, Đỗ Thị Quế Lâm (2003) đã nhận định các loài Lim xanh
(Erythrophloeum fordii), Re hương (Cinnamomum iners Reinw), Đinh thối
(F.brilletii) có khả năng sinh trưởng tương đối tốt ở giai đoạn chịu bóng, tuy nhiên
trong từng giai đoạn khác nhau yêu cầu về độ tàn che cũng khác nhau. Tại khu vực
nghiên cứu Lồi Lim xanh, sinh trưởng thích hợp nhất ở độ tàn che từ 0,47 - 0,52.
Loài Đinh thối sinh trưởng thích hợp nhất với độ tàn che từ 0,51 - 0,58. Re hương
sinh trưởng tốt nhất với độ tàn che trong khoảng 0,48 - 0,52. Trong giai đoạn hiện
nay, lồi Lim xanh có nhu cầu về ánh sáng cao nhất, sau đó đến Re hương, nhu cầu
về ánh sáng của Đinh thối thấp nhất.
Lê Minh Cường (2007) đã nghiên cứu và đề xuất được 3 loài cây bản địa có
triển vọng trồng dưới tán rừng Thơng mã vĩ (Pinus massoniana Lamb) ở Đại Lại –
Vĩnh Phúc gồm: Lim xanh (Erythrophloeum fordii), Re hương (Cinnamomum iners
Reinw) và Sao đen (Hopea odorata Roxb). Trong đó Lim xanh là lồi cây có khả năng
sinh trưởng tốt nhất dưới tán rừng Thơng mã vĩ. Đây là cơ sở có thể ứng dụng cho
những vùng có điều kiện sinh thái tương tự.
Tóm lại, điểm qua các cơng trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước về
các vấn đề có liên quan đến đề tài có thể rút ra một số nhận xét sau:
Các cơng trình nghiên cứu trên thế giới về rừng trồng hỗn loài tương đối
phong phú và toàn diện về nhiều mặt nhưng tập trung nhiều vào chọn loài cây trồng
và các biện pháp kỹ thuật nuôi dưỡng rừng trồng hỗn lồi theo q trình sinh
trưởng. Nhiều thí nghiệm được bố trí định vị lâu dài tới vài chục năm. Đây là những
tài liệu tham khảo có giá trị cho việc thiết lập rừng trồng hỗn loài trên thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng.
Các nghiên cứu, thực nghiệm về trồng rừng hỗn loài ở Việt Nam đã được

nghiên cứu từ rất sớm và được đẩy mạnh vào những năm 1990. Vấn đề nghiên cứu
trọng tâm là xác định loài cây trồng, tạo cây phù trợ, phương thức và phương pháp


16

trồng. Phần lớn các nghiên cứu đều quan tâm đến tạo rừng trồng hỗn loài bằng các
loài cây lá rộng bản địa trong đó có những lồi như: Đinh thối, Lim xanh, Lát hoa, Re
hương, Re gừng, Trám đen, Trám trắng …đã được chọn để phục vụ trồng rừng. Các
nghiên cứu trên đã đề cập đến phương thức trồng cây bản địa được áp dụng là trồng
theo băng hoặc theo đám; nghiên cứu về sự ảnh hưởng lẫn nhau khi trồng hỗn giao;
nghiên cứu độ tàn che tầng cây cao ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây bản địa trồng
dưới tán.
Tuy các cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước đã đề cập đến nhiều vấn
đề và khá đầy đủ về cây bản địa nhưng địa điểm khác nhau, lập địa khác nhau, lồi
cây khác nhau,…thì kỹ thuật trồng sẽ khác nhau. Để có thể triển khai kỹ thuật trồng
cây nói chung và cây bản địa nói riêng thì cần phải có nghiên cứu tỷ mỉ mà các tác
giả trong và ngoài nước đã đề cập ở trên tại khu vực tiến hành trồng cây bản địa.
Do vậy tại khu vực nghiên cứu để làm luận văn của tác giả hiện chưa có
nghiên cứu nào đề cập đến ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng cây bản địa
dưới tán rừng Keo lá tràm và Thông mã vĩ ở khu thực nghiệm núi Luốt, Xuân Mai.
Không những vậy hầu như các nghiên cứu trên chưa đề cập đến hướng dẫn về thiết
kế rừng trồng hỗn giao để đảm bảo lợi ích thiết thực, chưa đề cập đến biện pháp tác
động vào tầng cây cao, các biện pháp kỹ thuật chăm sóc, ni dưỡng các lồi cây
bản địa trồng dưới tán. Chính vì vậy việc nghiên cứu ảnh hưởng của những nhân tố
vừa trình bày trên đây đến sinh trưởng của các loài cây bản địa trồng dưới tán rừng
Keo lá tràm và Thông mã vĩ là việc làm cần thiết. Ngoài ra việc nghiên cứu các biện
pháp tác động vào tầng cây cao, xác định độ tàn che thích hợp đối với từng lồi và
chăm sóc ni dưỡng các loài cây bản địa trồng dưới tán rừng cũng rất quan trọng
để có cơ sở khoa học xác đáng trong việc gây trồng trồng và nhân rộng mơ hình

trồng rừng hỗn loài.


17

Chương 2
MỤC TIÊU- NỘI DUNG- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu chung
- Xác định được một số cơ sở khoa học nhằm chuyển hóa rừng Keo lá tràm,

Thơng mã vĩ thành rừng hỗn lồi với đa số loài cây lá rộng bản địa để phát triển rừng
bền vững cả về kinh tế và sinh thái môi trường.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá sinh trưởng tầng cây cao, cây bản địa trồng dưới tán rừng.
- Đánh giá đặc điểm, điều kiện thổ nhưỡng khu vực nghiên cứu.
- Đánh giá ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng cây bản địa dưới
tán rừng.
- Đề xuất giải pháp thúc đẩy sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng.
2.2. Nội dung nghiên cứu

Để đạt được các mục tiêu trên, luận văn thực hiện các nội dung nghiên cứu sau:
2.2.1. Đặc điểm sinh trưởng tầng cây cao và cây bản địa khu vực nghiên cứu
- Đặc điểm sinh trưởng tầng cây cao.
- Đặc điểm sinh tưởng tầng cây bản địa.
2.2.2. Đặc điểm điều kiện thổ nhưỡng khu vực nghiên cứu
- Tính chất lý, hóa (pHKCl, dung trọng, tỷ trọng, độ xốp, hàm lượng mùn, NP-K dễ tiêu).
2.2.3. Ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng cây bản địa khu vực nghiên cứu
- Ảnh hưởng của độ tàn che đến sinh trưởng cây bản địa.



18

2.2.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của rừng trồng đến tính chất đất
2.2.5. Đề xuất giải pháp thúc đẩy sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng
- Biện pháp kỹ thuật ni dưỡng các lồi cây bản địa được nghiên cứu.
- Kỹ thuật chăm sóc các lồi cây bản địa được nghiên cứu.
2.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Từ năm 1985 - 1986 trường Đại học Lâm nghiệp đã triển khai trồng rừng phủ
xanh đất trống đồi núi trọc bằng các lồi cây: Thơng, Keo, Bạch đàn,… Đến năm 1995 1996 Trung tâm NCTN&PT rừng đã triển khai trồng thử các loài cây bản địa được sưu
tầm ở khắp nơi và trồng bổ sung vào năm 1995 - 2002. Những loại cây bản địa hiện nay
ở độ tuổi phổ biến từ 9 - 16 tuổi. Do thời gian trồng các lồi khơng giống nhau và hạn
chế về thời gian nên đề tài chỉ chọn ra 3 lồi có cùng thời gian trồng để nghiên cứu,
đó là:
- Lim xanh (Erythrophloeum fordii Oliv)
Đây là loài cây gỗ lớn, thân thẳng trịn, có bạnh nhỏ. Tán xịe rộng, vỏ
màu nâu có nhiều nốt sần màu nâu nhạt. Cây mọc lẻ, phân cành thấp, cành non
có màu xanh lục. Lá kép lơng chim 2 lần, mọc cách, lá chét hình trái xoan hoặc
trứng trái xoan, đầu có mũi nhọn, đi gần trịn, hai mặt lá nhẵn bóng. Gân lá nổi
rõ cả hai mặt...
Cây mọc chậm, tốc độ sinh trưởng thay đổi theo từng giai đoạn tuổi và vùng
phân bố. Sinh trưởng tốt trong điều kiện khí hậu nhiệt đới nơi có nhiệt độ trung bình
năm 22,4 - 24,10C. Cây ưa sáng nhưng khi cịn nhỏ chịu bóng.
Lim xanh phân bố nơi đất sét hoặc đất pha sâu dầy. Mọc nhiều và sinh
trưởng tốt ở độ cao 300m trở xuống…
- Re hương (Cinnamomum inners Reinw)


19


Cây cỡ nhỏ, cao 15-20m. Thân thẳng, tròn đều, vở nứt vẩy vng cạnh. Cành
non mùa xanh lục. Tồn thân có mùi thơm, lá đơn mọc đối, phiến lá hình trứng trái
xoan hay trái xoan dài, đầu nhọn dần, đuôi nêm rộng hoặc gần tròn. Re hương
thường mọc tự nhiên nơi đất ẩm, tơi xốp. Tái sinh hạt tốt dưới độ tàn che 0,4. Khả
năng sinh trưởng chồi mạnh.
- Đinh thối (Fernandoa brilletii)
Cây cỡ nhỏ, cao 25-30m, đường kính có thể đến 50cm. Vỏ có màu xám tro
bong mảng. Lá kép lông chim một lần lẻ mọc đối. Lá chét lơng hình trái xoan hay
chứng trái xoan. Hoa tự xim viên trùy ở đầu cành. Quả nang hình trụ dài, có 4 cạnh,
đầu quả nhọn.
Cây mọc chậm, mọc rải rác trong rừng kín lá rậm thường xanh ở miền Bắc.
2.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu sinh trưởng tầng cây cao, cây bản địa dưới tán;
ảnh hưởng của độ tàn che đến sinh trưởng cây bản địa dưới tán; cấu trúc rừng đến
đặc điểm thổ nhưỡng và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy sinh trưởng cây bản địa
dưới tán rừng, tại rừng thực nghiệm núi Luốt, Trường Đại học Lâm Nghiệp.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp luận
Sử dụng phương pháp sinh thái thực nghiệm và phương pháp điều tra ơ tiêu
chuẩn (OTC) điển hình kết hợp với phương pháp kế thừa và phương pháp phân tích
trong phịng để định lượng các chỉ tiêu cần thiết. Dung lượng mẫu đo đếm đủ lớn.
Chỉ tiêu sinh trưởng thu thập gồm D1.3, Hvn, Ddc, Dt,... Xử lý số liệu theo phương
pháp thống kê sinh học có sự trợ giúp của các phần mềm Excel, và SPSS 16.0.
2.4.2. Phương pháp kế thừa
Đề tài kế thừa các số liệu có liên quan tại Viện sinh thái rừng và Mơi trường,
Trường Đại học Lâm nghiệp và một số nghiên cứu khác trong khu vực, đó là:


20


+ Kế thừa các loại bản đồ có sẵn.
+ Tài liệu cơ bản khu vực nghiên cứu.
+ Số liệu điều tra đất và các loài cây nghiên cứu từ năm 2006 - 2010.
2.4.3. Phương pháp nghiên cứu từng nội dung cụ thể
Trong khuôn khổ luận văn cho phép, tác giả đã tiến hành đánh giá khả
năng sinh trưởng của tầng cây cao và một số loài cây bản địa. Xác định ảnh
hưởng của độ tàn che đến sinh trưởng cây bản địa dưới tán; xác định đặc điểm,
điều kiện đất đai khu vực nghiên cứu làm cơ sở khoa học để đề xuất các biện
pháp kỹ thuật chuyển hóa rừng Keo lá tràm, Thơng mã vĩ thành rừng hỗn lồi
với đa số loài cây lá rộng bản địa.
2.4.3.1. Phương pháp nghiên cứu một số đặc điểm sinh lý
a. Phương pháp ngoại nghiệp
Để nghiên cứu một số đặc điểm sinh lý của tầng cây cao và cây bản địa trong
các OTC định vị chúng tôi tiến hành các nội dung sau:
- Chiều cao vút ngọn và chiều cao dưới cành được đo bằng thước đo cao điện
tử Forester Vertex III có độ chính xác đến cm.
- Đường kính tán được đo bằng thước dây theo hình chiếu tán trên mặt phẳng
nằm ngang. Đo hai chiều Đông Tây và Nam Bắc rồi tính trị số bình qn.
- Đường kính ngang ngực được đo bằng thước dây để đo chu vi, từ chu vi
tính ra đường kính bằng cơng thức chuyển đổi trên máy tính.
- Đánh giá chất lượng sinh trưởng: Sau khi thu thập số liệu, căn cứ vào tình
hình sinh trưởng cụ thể của từng cây và từng loài ở ngoài thực địa, căn cứ vào các
chỉ tiêu sinh trưởng (Hvn, D1.3, Dt, Hdc) của từng cây và các chỉ tiêu sinh trưởng
trung bình (Hvn,Hdc,D1.3,Dt) của mỗi lồi chúng tơi phân chia cây bản địa ra
làm 3 nhóm sinh trưởng: tốt, xấu, trung bình.


21


+ Cây tốt: Là những cây thân thẳng, cân đối, tán trịn đều, khơng sâu bệnh,
có Hvn , D1.3 lớn hơn Hvn , D1.3 của cây trung bình.
+ Cây trung bình: sinh trưởng bình thường, tán nhỏ hoặc hơi lệch, phân cành
sớm, có Hvn, D1.3 tương đương với Hvn , D1.3 của cây trung bình.
+ Cây xấu là những cây thân cong queo, tán lệch, bị sâu bệnh, có Hvn, D1.3
nhỏ hơn Hvn , D1.3 của cây trung bình.
- Xác định độ tàn che: Độ tàn che của ô tiêu chuẩn được xác định theo hệ

thống xấp xỉ 200 điểm điều tra trong ô. Tại mỗi điểm điều tra độ tàn che, dùng
thước ngắm lên theo phương thẳng đứng. Nếu gặp tán cây thì giá trị được ghi là 1,
nếu khơng gặp tán cây thì giá trị ghi là 0, nếu ở vị trí mép tán lá thì giá trị là 0,5. Độ
tàn che chung của ô tiêu chuẩn là trị số trung bình của các điểm ngắm.
- Rừng Thơng mã vĩ và Keo lá tràm trồng năm 1985 đã qua tỉa thưa mật độ
hiện tại từ 170 - 540cây/ha. Để xác định ảnh hưởng của độ tàn che đến sinh trưởng
của các loài cây bản địa tác giả đã phân cấp độ tàn che thành 3 cấp như sau:
Công thức 1: Độ tàn che dưới 0,35
Công thức 2: Độ tàn che từ 0,35 - 0,45
Công thức 3: Độ tàn che trên 0,45
- Điều tra đất tại khu vực nghiên cứu:
Trên các OTC lấy mẫu đất tổng hợp theo phương pháp phổ biến ở CHLB Đức,
cụ thể như sau:
+ Tầng 0 - 10 cm, mẫu tổng hợp được lấy từ 9 mẫu đơn lẻ. 01 mẫu lấy ở thành
phẫu diện chính, 08 mẫu cịn lại lấy ở 08 hướng cách phẫu diện chính 8 - 10m.
+ Tầng 10 - 30 cm, mẫu tổng hợp được lấy từ 05 mẫu đơn lẻ. 01 mẫu lấy ở
thành phẫu diện chính, 04 mẫu cịn lại lấy ở 04 phương cách phẫu diện chính 8 10m.


22

+ Tầng 30 - 60 cm, mẫu tổng hợp được lấy từ 5 mẫu đơn lẻ. 01 mẫu lấy ở

thành phẫu diện chính, 04 mẫu cịn lại lấy ở 04 phương cách phẫu diện chính 8 10m.
+ Lấy mẫu phân tích dung trọng bằng ống dung trọng có thể tích 100cm3.
b. Phương pháp nội nghiệp
- Sử dụng phương pháp thống kê sinh học để xử lý số liệu thu thập bằng máy
vi tính theo phần mềm Excel, SPSS 16.0.
- Xử lý đất
Phơi mẫu đất nơi râm mát đến khi khô, sau đó rây qua rây 2mm, 1mm và
0,25mm nhằm loại bỏ tạp chất và mẫu chất. Tiến hành cho vào túi Nilon và ghi
nhãn.
Sau khi xử lý mẫu đem phân tích tại phong phân tích đất và mơi trường Viện
quy hoạch và thiết kế nông nghiệp. Các nội dung phân tích bao gồm:
- Phương pháp phân tích lý tính của đất
+ Xác định tỷ trọng bằng phương pháp Picnomel
+ Xác định dung trọng bằng phương pháp ống dung trọng (100cm3)
d D
+ Xác định độ xốp bằng cơng thức: P%=
d
Trong đó:

d: Tỷ trọng
D: Dung trọng

+ Xác định thành phần cơ giới bằng phương pháp ống hút RobinXon
- Phương pháp phân tích tính chất hóa học của đất
+ Định lượng mùn (OM%): bằng phương pháp Tiurin
+ Định lượng đạm dễ tiêu: Bằng phương pháp Kononova
+ Định lượng lân dễ tiêu: Bằng phương pháp Oniani
+ Định lượng K2O: Bằng phương pháp quang kế ngọn lửa
+ Xác định PhKCl: Bằng phương pháp Ph-mét



23

Chương 3
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1. Vị trí địa lý
Núi Luốt, trường Đại học Lâm nghiệp thuộc thị trấn Xuân Mai, huyện Chương
Mỹ, thành phố Hà Nội, cách Hà Đơng 22km về phía Đơng Nam, cách thị xã Hồ
Bình 40km về phía Tây Bắc.
Tọa độ địa lý: 20050’30’’ vĩ độ Bắc; 105030’45’’ kinh độ Đơng.
Phía Tây và Tây Bắc giáp xã Hoà Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình.
Phía Nam giáp thị trấn Xn Mai và quốc lộ 6.
Phía Đơng giáp quốc lộ 21A.
Phía Bắc giáp đội 6 nơng trường chè Cửu Long.
3.1.2. Địa hình
Khu thực nghiệm núi Luốt nằm trên khu vực chuyển tiếp giữa một bên là đồng
bằng ở phía Đơng và một bên là đồi núi ở phía Tây, nên có địa hình tương đối đơn
giản và đồng nhất. Gồm hai quả đồi nối tiếp nhau tạo thành một dải dài. Đỉnh cao
nhất có độ cao tuyệt đối (so với mặt nước biển) là 133m và đỉnh cao thứ hai có độ
cao tuyệt đối là 90m. Độ dốc trung bình của khu vực nghiên cứu là 150.
3.1.3. Địa chất thổ nhưỡng
Theo kết quả nghiên cứu của bộ môn Đất trường Đại học Lâm nghiệp, đất
thuộc khu vực núi Luốt có nguồn gốc đá mẹ gần như thuần nhất. Chủ yếu là đá
Poocfiarit, ngồi ra cịn có một tỷ lệ rất ít đá Poocfia thạch anh. Đá Poocfiarit là đá


24

mắc ma trung tính, thành phần chủ yếu gồm: Al2O3, FeO, MgO, CaO, NaCl, SiO2,

Fe2O3. Do nằm trong điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, mưa nhiều nên
đá Poocfiarit rất dễ bị phong hóa. Điều này thể hiện ở tầng C, tầng C dầy và dễ bóp
vụn. Đá lộ đầu xuất hiện chủ yếu ở đỉnh và sườn đỉnh của đỉnh 133m, rất ít gặp ở
đỉnh 90m.
Nhìn chung đất ở khu vực nghiên cứu tương đối thuần nhất bởi được phát
triển trên cùng một loại đá mẹ, cùng điều kiện, hoàn cảnh. Cũng theo kết quả
nghiên cứu của bộ môn Đất trường Đại học Lâm nghiệp, đất núi Luốt là đất Feralit
nâu vàng phát triển trên đá mẹ Poocfiarit. Đất có màu sắc từ vàng nâu tới nâu
vàng, tầng đất từ trung bình đến dày, diện tích đất có tầng đất mỏng rất ít, những
nơi tầng đất dày tập trung chủ yếu ở chân hai quả đồi, sườn Đông Nam quả đồi
thấp (90m so với mặt nước biển) và sườn Tây Nam quả đồi cao (133m so với mặt
nước biển), tầng đất mỏng tập trung ở đỉnh đồi, sườn phía Đơng Bắc quả đồi thấp
và sườn Tây Bắc quả đồi cao.
Đất trong khu vực khá chặt, đặc biệt là những lớp đất mặt ở khu vực chân đồi
và những lớp đất sâu ở khu vực đỉnh yên ngựa. Kết von thật và giả được tìm thấy ở
khắp nơi trong khu vực, có những nơi kết von thật chiếm tới 60 - 70% trọng lượng
đất. Điều này chứng tỏ sự tích luỹ sắt khá phổ biến và trầm trọng trong đất, ở một
số nơi đá ong được phát hiện với mức độ nhiều hoặc ít. Đá ong tập trung chủ yếu ở
chân đồi phía Tây Nam, Đơng Nam đồi cao. Hàm lượng mùn trong đất nhìn chung
thấp, điều đó chứng tỏ q trình tích lũy mùn kém.
Những đặc điểm trên phần nào nói lên mức độ Feralít khá mạnh trong khu
vực núi Luốt.
Trong những năm trước đây, quá trình xói mịn và rửa trơi khá nghiêm trọng.
Điều đó được thể hiện qua kết cấu phẫu diện đất: Tầng A thường mỏng có tỷ lệ sét
cao nên khi mưa rất dính. Tầng B nằm trong khoảng từ 10 - 110 cm có tỷ lệ sét 25 26%. Tầng C thường dày và một số đá lẫn đã bị phong hóa tạo ra tầng BC xen kẽ.


×