Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Nhập môn tài chính tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.38 KB, 60 trang )

Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
LỜI MỞ ĐẦU
1.Lí do lựa chọn đề tài
Với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới , các mối quan hệ
kinh tế trên mọi lĩnh vực của một nước ngày càng được mở rộng ra các nước ,
do đó vấn đề thanh toán ,định giá , so sánh ,phân tích đánh giá về mặt giá trị và
hiệu quả trở nên phức tạp hơn nhiều . Đơn vị thanh toán không chỉ là tiền tệ
trong nước mà còn phải sử dụng các loại ngoại tệ khác nhau liên quan đến việc
trao đổi tiền của nước khác . Tiền của mỗi nước được quy định theo pháp luật
của nước đó và đặc điểm riêng của nó ,vì vậy phát sinh nhu cầu tất yếu là phải
so sánh giá trị ,sức mua của đồng tiền trong nước với ngoại tệ và giữa các ngoại
tệ với nhau . Hoạt động chuyển đổi đồng tiền này thành đồng tiền khác trong
quá trình quan hệ giữa các nước nhóm nước với nhau đã làm nảy sinh phạm trù
tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan đến các
phạm trù kinh tế khác và đóng vai trò như là một công cụ có hiệu lực, có hiệu
quả trong việc tác động đến quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nước, đồng thời
là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với chính sách tiền tệ quốc gia. Đã bao thời nay,
loài người đã và đang tiếp tục đứng trước một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt
này và cố gắng tiếp cận nó, mong tìm ra một nhận thức đúng đắn để từ đó xác
định và đưa vào vận hành trong thực tế một tỷ giá hối đoái phù hợp, nhằm biến
nó trở thành một công cụ tích cực trong quản lý nền kinh tế ở mỗi nước.
Xuất phát từ những lý do đó, em chọn đề tài của mình là " Tỷ giá hối đoái
và tác động đến cán cân thanh toán và môi trường tài chính của Việt Nam".
2.Mục đích nghiên cứu:
Việc phân tích cơ sở lí luận của tỷ giá ,cơ chế xác định, những yếu tố ảnh
hưởng và vai trò của tỷ giá đối với nền kinh tế . Từ đó làm sáng tỏ lên tầm quan
trọng của chính sách tỷ giá trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, thực
hiện các giải pháp chính sách nhằm giúp cho môi trường tài chính và cán cân
thanh toán được hoạt động hiệu quả góp phần phát triển nền kinh tế quốc dân.


3.Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về tỷ giá hối đoái như khái niệm,tác động
của nó đến thị trường tài chính ,cán cân thanh toán , hoạt động ngoại hối, các
chính sách điều hành tỷ giá hiện nay … để đúc kết lại và đưa ra các giải pháp
cho nền kinh tế.
4.Nội dung nghiên cứu:
Nội dung nghiên cứu ngoài lời mở đầu bao gồm 3 chương:
-Chương 1:Lí luận chung về Tỷ giá hối đoái
-Chương 2:Thực trạng về chính sách quản lí tỷ giá hối đoái của Việt Nam
trong thời gian qua.
-Chương 3:Đánh giá và dự đoán tình hình tỷ giá hối đoái của Việt Nam
trong năm 2009.
Và cuối cùng là phần kết luận của em toàn bộ đề án.
Do những hạn chế về trình độ, kinh nghiệm cũng như thời gian và việc
sưu tầm tài liệu nên khoá luận không tránh được nhiều thiếu sót. Em rất mong
nhận được ý kiến đánh giá góp ý của các thầy cô và các bạn sinh viên.
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 1
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo Đặng Ngọc Anh -
người trực tiếp hướng dẫn và các bạn đã nhiệt tình giúp đỡ trong việc tìm tài liệu
để em hoàn thành đề án này.
CHƯƠNG I
Lí luận chung về Tỷ giá hối đoái
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 2
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
1.1.Định nghĩa và cơ chế xác định tỷ giá
1.1.1.a.Định nghĩa:
Trong phạm vi thị trường của một nước ,các phương tiện thanh toán quốc

tế được mua và bán trên thị trường hối đoái bằng tiền tệ quốc gia của một nước
theo một tỷ giá nhất định .Do đó có thể hiểu tỷ giá là giá cả của một đơn vị tiền
tệ một được biểu hiện bằng số lượng đơn vị tiền tệ của nước khác hay là bằng số
lượng ngoại tệ nhận được khi đổi một đơn vị nội tệ hoặc bằng số lượng nội tệ
nhận được khi đổi một đơn vị ngoại tệ .Các nước có giá trị đồng nội tệ thấp hơn
giá trị ngoại tệ thường sử dụng cách thứ hai .Chẳng hạn ở Việt Nam người ta
thường nói đến số lượng đồng Việt nam nhận được khi đổi một đồng USD,
DEM hay một FFR …Trong thực tế ,cách sử dụng tỷ giá như vậy thuận lợi
hơn .Tuy nhiên trong nghiên cứu lý thuyết thì cách định nghĩa thứ nhất thuận lợi
hơn
Tỷ giá dùng để biểu hiện và so sánh những quan hệ về mặt giá cả của các
đồng tiền các nước khác nhau . Có hai loại giá : giá trong nước (giá quốc gia )
phản ánh những điều kiện cụ thể của sản xuất trong một nước riêng biệt ,và giá
ngoại thương ( giá quốc tế ) phản ánh những điều kiện sản xuất trên phạm vi thế
giới . Do phạm vi ,điều kiện sản xuất cụ thể trong mỗi nước và trên phạm vi thế
giới khác nhau nên hàng hoá có hai loại giá : giá quốc gia và giá quốc tế . Giá trị
quốc gia được biểu hiện dưới hình thức giá cả trong nước bằng đơn vị tiền tệ
của nước đó . Giá trị quốc tế biểu hiện qua giá cả quốc tế bằng các ngoại tệ trên
thị trường thế giới .Tiền tệ là vật ngang giá chung của toàn bộ khối lượng hàng
hoá và dịch vụ trong nước . Vì vậy trong sức mua của đồng tiền được phản ánh
đầy đủ các quan hệ tái sản xuất trong nước đó ,hay nói cách khác ,sức mua của
một đồng tiền do mức giá cả của toàn bộ các loại hàng hoá dịch vụ trong nước
đó quyết định.Tỷ giá thể hiện sự tương quan giữa mặt bằng giá trong nước và
giá thế giới . Do sự khác nhau giữa hai loại giá cả trong nước và giá cả thế giới
mà tiền tệ vừa làm thước đo giá trị quốc gia vừa làm thước đo giá trị quốc tế.
Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại khi tính đến vấn đề hiệu quả kinh tế ,thì
phải thường xuyên so sánh đối chiếu hai hình thức giá cả với nhau : giá quốc gia
và giá quốc tế. Muốn thế phải chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác ,
phải so sánh giá trị đồng tiền trong nước với ngoại tệ thông qua công cụ tỷ
giá .Tỷ giá dùng để tính toán và thanh toán xuất , nhập khẩu ( không dùng để ổn

định giá hàng hoá sản xuất trong nước ) . Tỷ giá hàng xuất khẩu là lượng tiền
trong nước cần thiết để mua một lượng hàng xuất khẩu tương đương với một
đơn vị ngoại tệ .Tỷ giá hàng nhập khẩu là số lượng tiền trong nước thu được khi
bán một lượng vàng nhập khẩu có giá trị một đơn vị ngoại tệ.
Tỷ giá là tỷ lệ so sánh giữa các đồng tiền với nhau . Do đó muốn so sánh
giá trị giữa các đồng tiền với nhau ,cần phải có vật ngang giá chung làm bản vị
để so sánh .Tiền tệ là vật ngang giá chung để biểu hiện giá trị của các hàng
hoá ,nhưng giờ đây đến lượt cần so sánh giá cả giữa các đồng tiền với nhau lại
phải tìm một vật ngang giá chung làm bản vị để so sánh.
1.1.1.b.Cơ chế xác định tỷ giá :tuỳ thuộc vào chính sách tỷ giá mỗi quốc
gia
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 3
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
● Cơ chế thị trường : tỷ giá cũng là một loại giá cả, nó được xác định dựa
trên các lực lượng cung cầu nội ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Thị trường ngoại hối là nơi mua bán trao đổi đồng nội và ngoại tệ.
- Xuất hiện việc cung tiền của nước A trên thị trường ngoại hối so với
đồng tiền nước B khi người dân nước A mua hàng nhập khẩu từ B hoặc khi
người dân nước A đầu tư sang nước B .
Đường cung về tiền có độ dốc dương trong không gian hai chiều tỷ giá và
lượng cung tiền
- Xuất hiện về cầu tiền nước A trên
B mua hàng xuất khẩu từ nước A hoặc
khi người nước người dân nước B đầu
tư sang nước A. Đường cầu về có độ
dốc âm trong không gian hai chiều tỷ
giá và lượng tiền .
Sự cân bằng cung cầu tiền đạt được khi
hai đường này giao nhau và tỷ giá cân

bằng được xác định.

● Cơ chế hành chính : ở những nước theo đuổi chính sách kiềm chế tài
chính và kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn thường đưa ra một mức tỷ giá neo cố
định .Tỷ giá này có thể được thay đổi điều chỉnh song không phải do các lực
lượng thị trường quyết định. Nó được ấn định lại khi các nhà quản lý cần thấy
phải thay đổi nó để phục vụ cho một mục đích nào đó.
1.1.2. Các loại tỷ giá thông dụng trên thị trường
Để nhận biết được tác động của tỷ giá hối đoái đối với các hoạt động của
nền kinh tế nói chung ,hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng ,người ta thường
phân loại tỷ giá theo các tiêu thức sau đây :
* Dựa trên tiêu thức là đối tượng quản lý :
-Tỷ giá chính thức : đây là loại tỷ giá được biết đến nhiều nhất và là tỷ
giá được nêu trên các phương tiện thông tin đại chúng do ngân hàng công bố
chính thức trên thị trường để làm cơ sở tham chiếu cho các hoạt động giao dịch ,
kinh doanh ,thống kê…
-Tỷ giá thị trường : tỷ giá được hình thành thông qua các giao dịch cụ thể
của các thành viên thị trường .
-Tỷ giá danh nghĩa : là tỷ lệ giữa giá trị của các đồng tiền so với nhau
,đồng này đổi được bao nhiêu đồng kia .
-Tỷ giá thực: là tỷ giá phản ánh tương quan giá cả hàng hoá của hai nước
được tính theo một trong hai loại tiền của hai nước đó hoặc là giá trị tính bằng
cùng một đồng tiền của hàng xuất khẩu so với giá hàng nhập khẩu..v.v.. Tỷ giá
hối đoái thực tế (er) được xác định er = en * Pn/Pf
Pn: chỉ số giá trong nước
Pf: chỉ số giá nước ngoài
-Tỷ giá hối đoái thực tế loại trừ được sự ảnh hưởng của chênh lệch lạm
phát giữa các nước và phản ánh đúng sức mua và sức cạnh tranh của một nước.
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 4
e*

Q* Q (VND)
Q (VND)
e
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
* Dựa trên kỹ thuật giao dịch : cơ bản có hai loại tỷ giá :
-Tỷ giá mua/bán trao ngay, kéo theo việc thay đổi ngay các khoản tiền
-Tỷ giá mua/bán kỳ hạn ,kéo theo việc trao đổi các khoản tiền vào một
ngày tương lai xác định.
Bên cạnh đó ,trong quá trình theo dõi hoạt động kinh doanh của ngân
hàng ,người ta còn đưa ra các khái niệm tỷ giá :
-Tỷ giá điện hối : tức là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện ,thường được
niêm yết tại ngân hàng . Tỷ giá điện hối là tỷ giá cơ sở để xác định các loại tỷ
giá khác.
-Tỷ giá thư hối : là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư .
-Tỷ giá của séc và hối phiếu trả tiền ngay : được mua và bán theo một tỷ
giá mà cơ sở xác định nó bằng tỷ giá điện hối trừ đi số tiền lãi của giá trị toàn bộ
của séc và hối phiếu phát sinh theo số ngày cần thiết của bưu điện để chuyển séc
từ nước này sang nước khác và theo số ngày kể từ lúc ngân hàng bán hối phiếu
đến lúc hối phiếu được trả tiền .
-Tỷ giá hối phiếu có kỳ hạn bằng tỷ giá điện hối trừ đi số tiền lãi phát
sinh tính từ lúc ngân hàng bán hối phiếu đến lúc hối phiếu đó được trả tiền .Thời
hạn này thường là bằng thời hạn trả tiền ghi trên hối phiếu cộng với thời gian
chuyển tờ hối phiếu đó từ ngân hàng bán hối phiếu đến ngân hàng đồng nghiệp
của nó ở nước của con nợ hối phiếu .Thông thường lãi suất được tính theo mức
lãi suất của nước mà đồng tiền được ghi trên hối phiếu.
1.1.3. Vai trò của tỷ giá hối đoái trong nền kinh tế mở .
Đối với từng quốc gia hay nhóm quốc gia ( nếu có sự liên kết và có đồng
tiền chung ) thì tỷ giá hối đoái mà họ quan tâm hàng đầu chính là tỷ giá giữa
đồng tiền của chính quốc gia đó ,hay nhóm các quốc gia đó (đồng nội tệ) với các

đồng tiền của các quốc gia khác ( các đồng ngoại tệ) Tỷ giá giữ vai trò quan
trọng đối với mọi nền kinh tế.Sự vận động của nó có tác động sâu sắc mạnh mẽ
tới mục tiêu,chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia thể hiện trên hai điểm cơ
bản sau :
Thứ nhất, TGHĐ và ngoại thương:Tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ là
quan trọng đối với mỗi quốc gia vì trước tiên nó tác động trực tiếp tới giá cả
hàng hoá xuất nhập khẩu của chính quốc gia đó.Khi đồng tiền của một quốc gia
tăng giá(Tăng trị giá so với đồng tiền khác)thì hàng hoá nước đó ở nước ngoài
trở thành đắt hơn và hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở nên rẻ hơn.Ngược lại
khi đồng tiền một nước sụt giá,hàng hoá của nước đó tại nước ngoài trở nên rẻ
hơn trong khi hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở nên đắt hơn(các yếu tố khác
không đổi).Tỷ giá tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu vì vậy nó tác động tới
cán cân thanh toán quốc tế,gây ra thâm hụt hoặc thặng dư cán cân.
Thứ hai,TGHĐ và sản lượng, công ăn việc làm, lạm phát.Tỷ giá hối đoái
không chỉ quan trọng là vì tác động đến ngoại thương ,mà thông qua đó tỷ giá sẽ
có tác động đến các khía cạnh khác của nền kinh tế như mặt bằng giá cả trong
nước ,lạm phát khả năng sản xuất , công ăn việc làm hay thất nghiệp…
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 5
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
Tỷ giá thay đổi cũng có tác động điều tiết việc di chuyển tư bản (vốn) từ
quốc gia này sang quốc gia khác. Việc di chuyển tư bản trên thế giới nhằm mục
đích kiếm lời nhuận và tránh rủi ro. Do đó, nếu tỷ giá giảm trong trường hợp
người ta dự đoán tỷ giá không tiếp tục giảm nữa thì tư bản nhập khẩu sẽ gia
tăng và tư bản xuất khẩu sẽ giảm .
Với mức tỷ giá hối đoái 1USD =10500VND của năm 1994 thấp hơn mức
1USD = 13500VND của năm 1998 ,tức tiền Việt Nam sụt giá và nếu giả định
mặt bằng giá thế giới không đổi ,thì không chỉ có xe con khi nhập khẩu tính
thành tiền Việt Nam tăng giá mà còn làm tất cả các sản phẩm nhập khẩu đều rơi
vào tình trạng tương tự và trong đó có cả nguyên vật liệu ,máy móc cho sản xuất

. Nếu các yếu tố khác trong nền kinh tế là không đổi,thì điều này tất yếu sẽ làm
mặt bằng giá cả trong nước tăng lên . Nếu tỷ giá hối đoái tiếp tục có sự gia tăng
liên tục qua các năm ( đồng nội tệ Việt Nam liên tục mất giá ) có nghĩa lạm phát
đã tăng . Nhưng bên cạnh đó , đối với lĩnh vực sản xuất chủ yếu dựa trên nguồn
lực trong nước ,thì sự tăng giá của hàng nhập khẩu sẽ giúp tăng khả năng cạnh
tranh cho các lĩnh vực này , giúp phát triển sản xuất và từ đó có thể tạo thêm
công ăn việc làm , giảm thất nghiệp ,sản lượng quốc gia có thể tăng lên . Ngược
lại , nếu các yếu tố khác không đổi thì lạm phát sẽ giảm ,khả năng cạnh tranh
của các lĩnh vực trong nước cũng có xu hướng giảm ,sản lượng quốc gia có thể
giảm ,thất nghiệp của nền kinh tế có thể tăng lên … nếu tỷ gá hối đoái giảm
xuống ( USD giảm giá hay VND tăng giá )
1 .2.Nhân tố tác động đến tỷ giá và tầm quan trọng của tỷ giá
1.2.1.Nhân tố tác động tới tỷ giá.
a)Về dài hạn có 4 nhân tố tác động tới tỷ giá :Năng suất lao động,mức giá
cả tương đối ở thị trường trong nước,thuế quan và hạn mức nhập khẩu,ưa thích
hàng nội so với hàng ngoại.
- Năng suất lao động(NSLĐ)trong nước đóng một vai trò quan trọng trong
việc ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ.NSLĐtrong nước tăng lên
tương đối so với nước ngoài, đồng nghĩa với việc các nhà kinh doanh có thể hạ
giá thành sản phẩm, dịch vụ của mình tương đối so với hàng ngoại nhập,dẫn đến
sự gia tăng mức cầu của hàng nội địa so với hàng ngoại nhập,làm cho hàng nội
địa vẫn bán tốt khi giá đồng nội tệ tăng lên(TGHĐ)giảm xuống và ngược lại.
Thực tế trên thị trường thế giớiTGHĐ của đồng tiền phụ thuộc rất khăng khít
vào NSLĐ tương đối của nước đó.Một nền kinh tế phát triển có NSLĐ cao trong
thời kì nào đó thường sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng giá của đồng tiền nước
đó.
- Thuế quan và hạn mức nhập khẩu là những công cụ kinh tế mà chính phủ
dùng để điều tiết và hạn chế nhập khẩu.Chính công cụ này nhiều hay ít đã tác
động và làm tăng giả cảcủa hàng ngoại nhập,làm giảm tương đối nhu cầu với
hàng nhập khẩu, góp phần bảo hộ và khuyến khích tiêu dùng hàng sản xuất trong

nước.Những công cụ mà nhà nước dùng để hạn chế nhập khẩu sẽ ảnh hưởng và
làm cho tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ có xu hướng giảm về lâu dài.
- Ưa thích hàng nội so với hàng ngoại. Nếu sự ham thích của người nước
ngoài về mặt hàng trong nước tăng lên thì cầu về hàng nội sẽ tăng lên làm đồng
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 6
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
nội tệ tăng giá,bởi hàng nội địa vẫn bán được nhiều ngay cả với giá cao hơn của
đồng nội tệ.Cầu đối với hàng xuất của một nước tăng lên làm cho đồng tiền
nước đó giảm giá.
-Năng suất lao động : Năng suất lao động cao làm giá hàng của một nước
rẻ tương đối so với các nước khác . Cầu hàng xuất nước đó cao lên kéo theo sự
tăng giá của đồng tiền nước đó. Về lâu dài , do năng suất lao động của một nước
cao hơn tương đối so với nước khác , nên đồng tiền của nước đó tăng giá.
-Yếu tố tâm lý cũng ảnh hưởng đến tỷ giá : Phần lớn các nước đang phát
triển đều phải đối mặt với tình trạng “Đôla hoá” trong nền kinh tế.Đó là sự mất
niềm tin vào đồng bản tệ , người dân và các tổ chức kinh tế găm giữ đôla và chỉ
tín nhiệm đồng tiền này trong thanh toán trao đổi . Do vậy cầu USD rất lớn và
giá các đồng bản tệ xuống thấp các nước luôn trong tình trạng căng thẳng về dự
trữ ngoại hối đảm bảo khả năng thanh toán nợ đến hạn .
-Tỷ lệ lạm phát: Nếu tỷ lệ lạm phát nước A cao hơn tỷ lệ lạm phát nước
B,nước A cần nhiều tiền hơn để đổi lấy một lượng tiền nhất định của nước B.
-Giá đồng tiền nước A giảm xuống .
-Cán cân thương mại: Nó liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu .Xuất
khẩu lớn tỷ giá lên giá
b)Các nhân tố thuộc về ngắn hạn
-Lãi suất : Lãi suất là một biến số kinh tế tổng hợp tác động đến nhiều chỉ
tiêu khác nhau trong đó tỷ giá và lãi suất có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với
nhau. Trong một nước nếu lãi suất nội tệ tăng trong khi lãi suất thế giới ổn định
sẽ làm cho các luồng vốn quốc tế đổ vào nhiều vì mức lãi suất quá hấp dẫn . Do

vậy cầu tiền nước này tăng lên và tỷ giá tăng theo .
-Dự trữ, phương tiện thanh toán, đầu cơ: tất cả đều có thể làm dịch chuyển
đường cung và cầu tiền tệ. Đầu cơ có thể gây ra những thay đổi lớn về tiền, đặc
biệt trong điều kiện thông tin liên lạc hiện đại và công nghệ máy tính hiện đại có
thể trao đổi hàng tỷ USD giá trị tiền tệ mỗi ngày.
-Cán cân thanh toán: Cán cân thanh toán quốc tế phản ánh mức cung- cầu
về ngoại tệ trên thị trường ,do đó nó có ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá hối đoái .
Bội thu cán cân thanh toán sẽ làm cho tỷ giá giảm và bội chi cán cân thanh toán
sẽ làm cho tỷ giá tăng.
1.2.2. Tầm quan trọng của tỷ giá.
Bất kì một quốc gia nào cũng luôn luôn tìm cách để đạt được hai mục tiêu
lớn của nền kinh tế : Đó là mục tiêu cân bằng ngoại (cân bằng ngoại thương) và
mục tiêu cân bằng nội(cân bằng sản lượng,công ăn việc làm và lạm phát)
Ta biết rằng, tỷ giá tác động đến giá cả tương đối của hàng hoá trong nước
và hàng hoá nước ngoài . Khi đồng tiền của một nước tăng giá (Tăng giá trị so
với đồng tiền khác ) thì hàng hoá nước đó tại nước ngoài trở lên đắt hơn và hàng
hoá nước ngoài trở lên rẻ hơn(giá nội địa tại hai nước giữ nguyên ) . Ngược lại,
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 7
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
khi đồng tiền của một nước sụt giá , hàng hoá nước đó tại nước ngoài trở lên rẻ
hơn trong khi hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở lên đắt hơn.
Từ đó tỷ giá ảnh hưởng tới quá trình sản xuất và xuất nhập khẩu của các
quốc gia và trở thành yếu tố chính ảnh hưởng tới việc thực hiện 2 mục tiêu lớn
của nền kinh tế . Điều này có thể nhận thấy một cách rõ ràng khi xem xét nền
kinh tế Việt Nam. Hiện nay,đồng VND đang được coi là tăng giá tương đối so
với các đồng tiền trong khu vực ( do đồng tiền của các nước này giảm giá so với
đồng USD ) nên giá cả của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế đang cao hơn
so với hàng hoá cùng chủng loại của các nước trong khu vực dẫn đến bị cạnh
tranh một cách gay gắt và thực tế là tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta trong

năm 2000 và mấy tháng đầu năm 2001 là không tăng mà có tăng thì cũng chỉ
tăng một lượng nhỏ.
1.3.Tác động của tỷ giá hối đoái đến nền kinh tế.
1.3.1.a.Thực trạng quan hệ giữa tỷ giá với ngân sách:
Mọi sự biến động của các loại tỷ giá đều tác động trực tiếp tới thu chi ngân
sách. Trước năm 1990 nhà nước thực hiện chính sách tỷ giá kết toán nội bộ, mức
tỷ giá nhà nước công bố thường cố định trong thời gian tương đối dài. ở thời
điểm công bố mức tỷ giá thấp hơn nhiều so với mức giá trên thị trường và tình
hình sức mua của đồng tiền tính chung thời kỳ 1985 - 1988, 1rúp mua trên dưới
1.500VND hàng xuất khẩu, 1USD trên dưới 3.000VND, trong khi đó tỷ giá kết
toán nội bộ thanh toán trong quan hệ xuất nhập khẩu giữ mức 150VND/Rúp và
225VND/USD. Nhìn chung 1Rúp hàng xuất khẩu phải bù lỗ 1.350VND và
1USD phải bù 2.775VND. Kim ngạch xuất khẩu của năm 1987là 650 triệu R-
USD trong đó khu vực đồng Rúp 500 triệu và khu vực đồng USD 150 triệu,
Ngân sách nhà nước đã phải bù lỗ 900 tỷ. Đối với các ngành, các địa phương
càng giao nhiều hàng xuất khẩu để thực hiện nghĩa vụ với bạn, thì ngân sách nhà
nước càng phải bù lỗ nhiều. Ngân sách nàh nước không bù lỗ đủ hoặc chậm trễ
trong việc thanh toán thì công nợ giữa các doanh nghiệp và các ngành càng tăng
và càng thiếu vốn để tiếp tục kinh doanh. Đối với hàng nhập, thì khi vật tư
nguyên liệu thiết bị về nước nhà nước đứng ra phân phối cho các ngành trong
nền kinh tế quốc dân với mức giá thấp (phù hợp với mức tỷ giá 150 VNĐ/Rúp
và 225VND/USD nêu trên). Như vậy, các ngành, các địa phương được phân
phối các loại vật tư,nguyên liệu đó thì được hưởng phần giá thấp còn ngân sách
nhà nước lại không thu được chênh lệch giá. Việc thực hiện cơ chế tỷ giá kết
toán nội bộ trong thanh toán xuất - nhập khẩu và bù lỗ hàng xuất khẩu đó là:
- Nếu thực hiện nghiêm trọng nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu cho bạn để có
thể đưa hàng nhập về đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, thì mức lỗ của
ngân sách cho hàng xuất khẩu lớn gây trở ngại cho việc điều hành ngân sách -
Nếu trì hoãn cho việc thực hiện nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu nhưng trong khi
đó vẫn yêu cầu bạn giao hàng nhập cho ta theo tiến độ, thì việc bù lỗ hàng xuất

khẩu được giảm ở mức độ nhất định, nhưng nghĩa vụ nợ của ta với bạn lại tăng
lên đáng kể.
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 8
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
+Tỷ giá qui định thấp nên các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ không
bán ngoại tệ cho ngân hàng, vì làm như vậy sẽ bị mất lãi. Các tổ chức đại diện
nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng không chuyển tiền tài khoản ở ngân
hàng ở chi tiêu mà thường đưa hàng từ nước ngoài vào hoặc sử dụng ngoại tệ
tiền mặt trực tiếp trên thị trường. Do đó cơ chế tỷ giá của thời kỳ này đã trở
thành một yếu tố tạo cho ngoại tệ bị thả nổi, mua bán trên thị trường trong nước.
Thực tế này vừa gây thiệt hại về kinh tế cho Nhà nước vừa làm phát sinh thêm
những tiêu cực trong đời sống xã hội. Đồng thời nó tác động trở lại tỷ giá kết
toán nội bộ và làm cho tỷ giá giữa đồng nội tệ giữa các đồng ngoại tệ diễn biến
phức tạp thêm. Từ tình hình trên cho thấy, trước năm 1989 tỷ giá hối đoái giữa
đồng Việt Nam và ngoại tệ do nhà nước qui định không tính đến biến động giá
trên thị trường đang bị trượt ngã nghiêm trọng, nên đã làm cho mức bù lỗ hàng
xuất khẩu trong ngân sách quá lớn, gây khó khăn trong việc điều hành và quản
lý ngân sách và thực hiện nghĩa vụ giao hàng mà ta đã cam kết với nước ngoài,
ngoại tệ bị rối loạn, Nhà nước không điều hành và quản lý được.
+Tỷ giá hối đoái bị bóp méo so với thực tế đã khiến cho thu chi ngân sách
Nhà nước không phản ánh đúng nguồn thu từ nước ngoài và các khoản cấp phát
của ngân sách Nhà nước cho nền kinh tế quốc dân và cho các hoạt động khác có
sử dụng ngoại tệ.
+Việc tạo ra một tỷ giá chính thức tưởng là giữ giá trị đồng Việt Nam so
với ngoại tệ để kế hoạch hoá và ổn định kinh tế, nhưng thực chất là đẩy xuất
khẩu Việt Nam vào ngõ cụt, không khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu và
đẩy mạnh hàng nhập khẩu, hệ quả là cán cân thương mại bị nhập siêu nghiêm
trọng, ngân sách Nhà nước phải gánh chịu thêm các thua thiệt.
+Khi buộc phải thả nổi và phá giá mạnh đã làm cho chi phí của các doanh

nghiệp tăng lên đáng kể và lợi nhuận bị giảm, do đó mức thu từ thuế lợi tức của
các tổ chức kinh tế cho ngân sách Nhà nước cũng bị ảnh hưởng. Mặt khác, các
khoản chi tiêu cho các cơ quan và tổ chức được Nhà nước cấp cũng được tăng
lên tương ứng với mức mất giá của đồng nội tệ. Tình hình đó đã tác động đến
yếu tố làm tăng bội chi ngân.
+Từ năm 1989, cùng với các cải cách kinh tế, tài chính, tiền tệ, Nhà nước
đã bỏ chế độ tỷ giá trước đây (tỷ giá kết toán nội bộ) , giảm căn bản bù lỗ cho
hoạt động xuất - nhập khẩu và thực hiện chính sách giá sát với tỷ giá thị trường.
Ngân hàng nhà nước công bố tỷ giá chính thức của VNĐ với các ngoại tệ mạnh,
nhất là với USD trên cơ sở đó các ngân hàng thương mại xây dựng và công bố
tỷ giá hàng ngày với biên độ chênh lệch cho phép (khoảng 5%) so với tỷ giá
chính thức.
+Về mặt ngân sách Nhà nước, chính sách một tỷ giá hối đoái sát với thị
trường khiến cho việc tính toán thu chi Ngân sách Nhà nước phản ánh trung thực
và chính xác hơn, không bị bóp méo. Tỷ giá đó góp phần làm cho công tác kế
hoạch hoá vay nợ và trả nợ nước ngoài từ ngân sách Nhà nước thuận lợi hơn và
có cơ sở vững chắc hơn.
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 9
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
* Mặc dù có những thành công rất đáng kể trong lĩnh vực tỷ giá và quản lý
ngoại tệ, nhưng vẫn còn một số hạn chế đã làm ảnh hưởng không tốt đến quản
lý, điều hành ngân sách, đó là
- Nguồn ngoại tệ không được quản lý chặt chẽ, còn bị buông lỏng đã khiến
cho lực lượng ngoại tệ của Nhà nước tăng chậm và chưa tương xứng với mức độ
tăng của cán cân thương mại, một cơ sở của sự ổn định thu chi ngân sách Nhà
nước là quỹ ngoại tệ chưa được tăng cường.
- Vì tỷ giá hối đoái chính thức theo sát tỷ giá thị trường nếu không ổn định
thì không những ngân sách bị động mà việc tính toán thu chi Ngân sách bằng
ngoại tệ theo không kịp thời dẫn tới không sát với thực tế thị trường, điều hành

Ngân sách Nhà nước không tránh khỏi lúng túng, nhất là trường hợp bị thiếu hụt
khi trả nợ đến hạn đòi phải giải quyết.
1.3.1.b.Thực trạng quan hệ tỷ giá và nợ nước ngoài
Tỷ giá có mối quan hệ hữu cơ với nợ nước ngoài và công tác quản lý nợ.
Trước năm 1979, Việt Nam có sử dụng 20tỷ Yên Nhật tương đương 92 triệu
USD (tỷ giá 216 Yên = 1USD). Ngày 6/11/1992 chính phủ Nhật mở lại tín dụng
với Việt Nam và cho Việt Nam vay 20 tỷ Yên, tương đương 159 triệu USD (tỷ
giá 126 Yên= 1USD). Ngoài ra, vào thời điểm 1987 trở về trước còn có các
khoản vay các công ty của Nhật 20 tỷ Yên, tương đương 125 triệu USD ( tỷ giá
160 Yên= 1USD). Đầu năm 1995, đồng Yên lên giá, 1USD chỉ còn 90 Yên là
như vậy, xét về góc độ tỷ giá thì trong thời gian qua sự tăng giá của đồng Yên
Nhật, đã làm tăng thêm gánh nặng nợ gốc qui ra USD, làm thiệt thòi cho người
đi vay.
Tương tự như tình hình trên, việc sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp ở
nước ta liên quan đến nhiều yếu tố, trong đó tỷ giá có tác động mạnh đến khả
năng thanh toán của các doanh nghiệp. Trong các năm 1989 - 1990 có 81 doanh
nghiệp vay nợ nước ngoài theo phương thức tự vay tự trả với doanh số vay là
5722 triệu Yên là 10,9 triệu USD, tỷ giá lúc này là 130 Yên=1USD, do đó tổng
vay nợ bằng đồng Yên quy ra USD là 44 triệu USD. Đến năm 1995, do chưa trả
được nợ mà đồng yên lại tăng giá, nên nợ gốc vay tăng từ 44 triệu USD lên 58
triệu USD (chưa tính đến yếu tố lãi suất tiền vay và tỷ giá giữa đồng Việt nam
và USD). Do tổng hợp nhiều yếu tố, rong đó có yếu tố về tỷ giá, nên đại bộ phận
trong số 81 doanh nghiệp vay vốn theo phương thức này đều bị sức ép của cả hai
loại tỷ giá.
- Tỷ giá giữa Yên và USD (đại bộ phận doanh số vay của các doanh nghiệp
kể trên là vay đồng Yên của các công ty Nhật trong khi đó đồng Yên tăng giá).
- Tỷ giá giữa đồng Việt Nam và USD (trong khi đó đồng Việt nam bị giảm
giá).
Sự biến động của tỷ giá cùng các với yếu tố ngoại hối, nhưng nó có ý nghĩa
đặc biệt riêng của nó đối với việc huy động vốn, thực hiện công nghiệp hoá,

SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 10
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
hiện đại hoá, thu chi ngân sách nhà nước, ổn định kinh tế và xã hội. Ngược lại,
vực nợ nước ngoài nếu không quản lý tốt và không sử dụng có hiệu quả sẽ trở
thành gánh năngk đối với nền kinh tế hiện tại và tương lai, có khi còn ảnh hưởng
đến nền độc lập và chủ quyền quốc gia.
Về vay nợ chính phủ phải có quy chế chặt chẽ quy định được vay về trách
nhiệm,nghĩa vụ và quyền hạn của các pháp nhân kinh tế và pháp nhân công
quyền trước các khoản vay và khoản trả nợ. Hiện nay chúng ta có qui định Nhà
nước vay Nhà nước trả, doanh nghiệp vay doanh nghiệp trả, Nhà nước không
gánh hộ nợ doanh nghiệp.
Thiếu vốn phải vay, nhưng không phải ai cho vay với điều kiện nào cũng
chấp nhận cả. Phải thấy rằng, nếu tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam hạ, đồng ngoại
tệ tăng, thì khoản trả nợ của Ngân sách Nhà nước của doanh nghiệp sẽ phải
tăng , nhưng xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ lại có lợi, đó là một bài toán khó, phải
tính xem lợi ích do xuất khẩu mang lại cho phát triển kinh tế có bù lại được thiệt
hại của số tiền Ngân sách Nhà nước và doanh nghiệp phải trả nợ cao hơn không?
Vì lẽ đó, chúng ta phải tỉnh táo đàm phán với các chủ nợ khi vay, không
thể chấp nhận bất cứ điều kiện nào và không thể không nghĩ đến việc trả giá,
đặc biệt phải chú trọng đến các vấn đề chính trị của các khoản vay. Phải thấy
được rằng các chủ nợ cho vay là để lấy lãi chứ không phải làm việc nghĩa. Vấn
đề là ở chỗ làm thế nào để giải quyết hài hoà giữa lợi ích của bên cho vay và bên
vay. Việc quảnlý nợ không chỉ quy định trách nhiệm mà còn phải luôn chú ý tới
hiệu quả sử dụng khoản vay. Vì vậy quản lý đầu tư sử dụng các khoản vay cho
các công trình, mục tiêu là một việc có tầm quan trọng đặc biệt. Các cơ quan tài
chính và ngân hàng phải đặc biệt chú ý tới vấn đề này-vay cho mục tiêu nào
được quản lý theo mục tiêu đó.
Về viện trợ: viện trợ không hoàn lại không nhiều, nhưng cũng phải được
quản lý chặt chẽ. Những khoản viện trợ của nước ngoài cho chính phủ và các

cấp chính quyền phải được đưa vào ngân sách nhà nước để cân đối và sử dụng,
không hình thành quỹ riêng. Tuy các khoản này ngân sách không phải trả lại
nhưng là một nguồn khá quan trọng góp phần giải quyết các vấn đề của đất
nước.
Những khoản tài trợ của các tổ chức quốc tế và cá nhân cho các dự án
ngoài ngân sách và các tổ chức xã hội cũng phải được chuyển vào ngân sách để
quản lý và chỉ cấp phát bằng tiền Việt nam theo tỷ giá chính thức ở thời điểm sử
dụng, không cấp phát bằng ngoại tệ.
Để đáp ứng yêu cầu trên, chính phủ cần thành lập một tổ chức trực tiếp
quản lý nợ, viện trợ. Cơ quan này không những nắm các khoản nợ, viện trợ, tài
trợ của chính phủ, các cấp chính quyền, mà cả các khoản nợ của các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhằm thực hiện yêu cầu quản lý vĩ mô của
nhà nước trong điều kiện kinh tế mở. Chỉ xét riêng trong cán cân vay lãi, cán cân
thanh toán quốc tế, thì không phải chỉ có nợ chính phủ mới nằm trong đó mà
ngay cả nợ của các doanh nghiệp tư nhân các của nước cũng phải đưa vào. Bởi
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 11
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
vì, vốn đưa vào dù ai sử dụng thì vẫn là cho cả nền kinh tế và khi trả, dù ai trả
cũng phải lấy một phần GDP để trả nợ mà việc đó liên quan đến lợi ích quốc
gia, trực tiếp tác động đến sự cân bằng của cán cân thanh toán. là quốc gia có số
nợ nước ngoài lớn nếu so với GDP, trong tương lai còn phải vay và đồng thời
phải trả nợ đến hạn vì vậy với việc hình thành chiến lược vay và trả nợ có ý
nghĩa chiến lược to lớn.
1.3.1.c.Thực trạng tác động của tỷ giá đến lãi suất và trái phiếu chính phủ.
Tỷ giá ngoại hối có liên quan chặt chẽ đến lãi suất và có tác dụng điều
chỉnh lãi suất. Trong nền kinh tế thị trường khi đồng nội tệ mất giá khối lượng
nội tệ cung ứng ngoài thị trường lớn đòi hỏi phải điều chỉnh tăng lãi suất, trong
trường hợp này làm tăng chi ngân sách về thanh toán lãi suất huy động nội tệ.
Khi đồng nội tệ lên giá nhà nước phải điều chỉnh giảm mức lãi suất, điều này sẽ

giảm chi ngân sách về thanh toán lãi suất huy động nội tệ, nếu không điều chỉnh
mức lãi suất thì những nhà sản xuất kinh doanh sẽ bán ngoại tệ cho ngân hàng
lấy nội tệ gửi vào ngân hàng hoặc mua trái phiếu chính phủ để hưởng lãi suất
cao. Điều này sẽ tác động xấu đến sản xuất-kinh doanh trong khi đó ngân sách
phải tiếp tục thanh toán lãi suất về huy động tiền gửi. Kinh nghiệm của một số
nước châu á (như Malaixia, Thái lan, Indonexia) cho thấy việc xử lý hài hoà
phối hợp điều hành lãi suất và tỷ giá ngoại hối đã làm cho tỷ giá giữ được biên
độ ổn định và tiền tệ không có biến động mạnh.
Do đồng USD mất giá ở mức cao, nên hiện nay Mỹ đang đẩy mạnh xu
hướng nâng cao lãi suất. Việc làm này sẽ làm tăng lãi suất tiền vay bằng ngoại tệ
USD, và do đó sẽ tác động trực tiếp đến các khoản vay nợ của Việt nam. Với
diễn biến này đòi hỏi chúng ta cần có sách lược chọn đồng tiền với mức lái suất
thích hợp, nhằm đảm bảo cho việc sử dụng vốn vay đạt hiệu quả.
Tóm lại: từ những vấn đề phân tích trên đây và thực trạng Việt nam cho
thấy, tình hình tài chính quốc gia (đặc biệt là ngân sách nhà nước) và chế độ
ngoại tệ, tỷ giá có quan hệ biện chứng qua lại hết sức chặt chẽ, một mặt tình
hình tài chính (mà biểu hiện tập trung là ngân sách nhà nước) là một nhân tố
hàng đầu quyết định đến sự lựa chọn tỷ giá, phương án điều chỉnh tỷ giá, mặt
khác chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá cũng có ảnh hưởng hết sức mạnh mẽ, toàn
diện đến quản lý. Nền tài chính quốc gia thông qua nhiều kênh, dưới nhiều hình
thức và góc độ khác nhau, chính vì vậy khi đặt vấn đề lựa chọn chính sách,
phương án điều chỉnh tỷ giá sẽ là sai lầm nghiêm trọng nếu như không đề cập,
phân tích thực trạng tài chính hiện hành của quốc gia.
1.3.1.d.Tỷ giá hối đoái đối với điều chỉnh hoạt động kinh tế đối ngoại.
Các nước đang phát triển thường thiết kế chính sách tỷ giá hối đoái nhằm
duy trì sức cạnh tranh quốc tế ở mức phù hợp với vị thế cán cân thanh toán quốc
tế lâu bền. Bằng cách tăng giá các hàng thương mại hoá dược so với các hàng
hoá không thương mại hoá dược; sự phá giá đồng thời chuyển dịch cầu tổng thể
có lợi cho các cho các hàng hoá không thương mại hoá dược, và cung tổng thể
có lợi cho các hàng hoá thương mại hoá dược, và do đó giảm bội dư cầu đối với

SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 12
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
hàng hoá thương mại hoá dược (tức là cải thiện được vị thế của cán cân vãng
lai). Ngoài tác động của chính sách chuyển đổi chi tiêu, phá giá cũng giảm cầu
tổng thể thông qua ảnh hưởng của khối lượng tài sản, một sự tăng giá nội địa sẽ
làm cho sự phá giá đồng tiền nội địa tháp hơn giá trị thực của tài sản tài chính và
giảm hấp thụ.
Do vai trò cốt yếu của tỷ giá hối đoái đối với việc duy trì sức cạnh tranh
đối với bên ngoài tỷ giá có thể làm thay đổi vượt ra khởi điểm cân bằng của nó.
Bởi vì điểm cân bằng này được xác định nội sinh, chính sách tỷ giá hối đoái cần
lưu ý đến các tác động của các cơn sốc khác nhau lên điểm cân bằng của tỷ giá
thực. Phần này đề cập đến các tiếp cận khác nhau trong việc xác định điểm cân
bằng tỷ giá thực và nghiên cứu tác động của các cơn sốc bên trong và bên ngoài
lên điểm cân bằng đó, sau đó sẽ tập trung vào chính sách cụ thể nhằm duy trì
sức cạnh tranh trong quá trình điều chỉnh.
Xác định tỷ giá hối đoái cân bằng:
Nói chung có hai tiếp cận để xác định tỷ giá hối đoái thực "cân bằng". Tiếp
cận đơn giản và phổ biến nhất là dựa vào khái niệm tỷ giá theo sức mua so sánh.
Nguyên lý trung tâm của tỷ giá so sánh sức mua là tỷ thực cân bằng tỷ lệ với
các mức giá tương đối giữa một nước với đối tác ngoại thương của mình, tức là
đối với sức mua so sánh giữa các đồng tiền các quốc gia. Như vậy tỷ giá sức
mua so sánh được coi là chỉ số thích hợp cho cân bằng tỷ giá giữa các đồng tiền
với tỷ lệ lạm phát quy định tỷ lệ thay đổi của tỷ giá danh nghĩa theo thời gian.
Việc áp dụng tỷ giá so sánh sức mua bao gồm việc sử dụng tỷ giá hối đoái hiện
hữu để tính mặt bằng giá tương đối theo các đại lượng tiền tệ thông dụng. Bất
cứ sự sai lệch nào của tỷ giá thực so với giá trị gốc của nó sẽ được coi là dấu
hiệu tỷ giá đã đi lệch ra khỏi giá trị tỷ giá so sánh sức mua cân bằng.
Tiếp cận khác, có sức hấp dẫn hơn là định nghĩa tỷ giá hối đoái thực như là
giá so sánh tương đối giữa hàng hoá mậu dịch và hàng hoá không mậu dịch hoá

dược, nó đưa ra thước đo các động lực quyết định sự phân phối nguồn lực giữa
hai khu vực trọng yếu này của nền kinh tế: nếu giá nội địa của hàng hoá thương
mại hoa so với hàng hoá không thương mại hoá được thì nguồn lực sẽ được
phân phối lại sang khu vực hàng hoá thương mại hoá và cán cân ngoại thương sẽ
được cải thiện. Theo nghĩa đó, thì điểm cân bằng của tỷ giá thực sẽ tương ứng
với giá so sánh giữa hàng hoá thương mại hoá và hàng hoá không thương mại
hoá đem lại đồng thời sự cân bằng nội và cân bằng ngoại. Cân bằng nội có nghĩa
là thị trường hàng hoá không thương mại hoá được thanh toán liên tục, cân bằng
ngoại có nghĩa là thâm hụt cán cân vãng lai được tài trợ một cách bền vững từ
luồng vốn nước ngoài vào.
Ngoài chỉ số giá thực tế thì vẫn còn có các vấn đề tiềm tàng lên quan đến
biến động chỉ số và sức cạnh tranh với bên ngoài. Một số nghiên cứu gần đây
chỉ ra sự thay đổi chỉ số tỷ giá thực quan được có thể là biểu hiện của sự thay
đổi điểm cân bằng của tỷ giá thực do các loại cơn sốc trong nước và nước ngoài
gây ra (ví dụ: sự tác động cẩu chênh lệch mức tăng năng suất, thay đổi điều kiện
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 13
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
ngoại thương, cải cách thuế quan, thay đổi trong điều hành ngân sách chính phủ,
sự tăng lên của lãi suất thực quốc tế) lên cân bằng của tỷ giá thực.
Chênh lệch về mức độ phát triển, tiến bộ trong công nghệ có tác động quan
trọng đến điểm cân bằng của tỷ giá thực, ví dụ: nếu năng suất lao động tăng
nhanh hơn trong khu vực hàng hoá thương mại hoá so với khu vực hàng hoá
không thương mại hoá, thì giá so sánh giữa hàng hoá không thương mại hoá sẽ
tăng do sự tăng đồng nhất của tiền lương trong cả hai khu vực. Với giá hàng hoá
thương mại hoá thị trường quốc tế quy định thì tỷ giá hối đoái thực cân bằng sẽ
giảm. vậy tỷ giá thực cân bằng ở các nước có tốc độ tăng năng suất thấp các
nước đang phát triển thường chịu các cơn sốc về điều kiện ngoại thương. Giả sử
điều kiện ngoại thương xấu đi vì sự giảm giá tương đối của hàng xuất khẩu, sự
xấu đi này tạo nên dư thừa cung đối với hàng hoá không thương mại hoá và dư

thừa cầu đối với hàng hoá thương mại hoá, làm cho cán cân vãng lai xấu đi. Mất
cân bằng cán cân vãng lai được điều chỉnh lại qua việc giảm giá tương đối của
hàng hoá không thương mại hoá-tức là tăng tỷ giá thực và dịch chuyển cung nội
địa từ hàng hoá không thương mại hoá sang hàng hoá xuất nhập khẩu.
Phân tích về tác động của cải cách thuế nhập khẩu cho thấy: giảm thuế
nhập khẩu thường là tương đương với tăng tỷ giá thực cân bằng. về phương diện
định tính thì tác động của tự do hoá nhập khẩu cũng giống như việc cải thiện
điều kiện ngoại thương (do giảm giá xuất khẩu). Thuế nhập khẩu thấp hơn sẽ
giảm giá tương đối của hàng nhập khẩu, tạo nên sự dư thừa cầu đối với hàng hoá
này, và dư thừa cung đối với hàng hoá xuất khẩu. để đưa về cân bằng thì giá
tương đối của hàng hoá không thương mại hoá sẽ giảm. Như vậy phản ứng đối
với việc giảm thuế nhập khẩu là tỷ giá hối đoái thực sẽ tăng lên.
Tỷ giá thực cân bằng cũng bị tác động của các biện pháp ngân sách, ngay
cả khi thiếu hụt ngân sách không thay đổi thì sự thay đổi trong cơ cấu thu chi
ngân sách cũng làm cho tỷ giá thực cân bằng thay đổi, Ví dụ: nếu chính phủ cho
hướng thành phần chi tiêu sang hàng hoá thương mại hoá sẽ giảm và tỷ giá thực
sẽ tăng. Cũng như vậy, một sự thay đổi cơ cấu thuế sẽ tác động tới tỷ giá thực
cân bằng bằng cách gây nên sự dịch chuyển của hành vi đầu tư-tiết kiệm của nền
kinh tế. Về nguyên tắc, nhiều sự kết hợp của biện pháp ngân sách sẽ cho cùng
một kết quả cân bằng ngân sách tổng thể, nhưng với mỗi sự kết hợp sẽ cho một
tỷ giá thực cân bằng. Vì vậy điểm cân bằng của tỷ giá hối đoái thực không chỉ
định do vị thế ngân sách quy định, mà còn do cơ cấu chi và thu của chính phủ
quy định.
Một sự tăng lên lãi suất quốc tế sẽ tác động đến điểm cân bằng của tỷ giá
hối đoái thực thông qua hai kênh: thứ nhất, dưới chế độ tỷ giá cố định thì lãi
suất trong nước tăng lên để giữ được mức so sánh với lãi suất quốc tế, do đó làm
giảm chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm. Một sự cải thiện cán cân vãng lai như
vậy sẽ gây nên việc giảm tỷ giá thực cân bằng. Thứ hai, phụ thuộc vào việc
nước đó là chủ nợ hay con nợ ròng, một sự cải thiện hoặc xấu đi phản ánh sự
thay đổi tương ứng của sự thay đổi vị thế chuyển giao các nhân tố thu nhập, tác

động này sẽ thúc đẩy thêm việc giảm tỷ giá thực cân bằng là không rõ ràng, nếu
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 14
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
một nước là con nợ lớn. Tác động của lãi suất quốc tế cao hơn cũng phụ thuộc
vào phản ứng ngân sách của chính phủ. Nếu chính phủ làm trung hoà tác động
của ngân sách lên sự thay đổi lãi suất bằng cách giảm chi tiêu hàng hoá thương
mại hoá, thì tỷ giá thực cân bằng sẽ có xu hướng giảm trong dài hạn. mặt khác,
tỷ giá thực cân bằng sẽ tăng nếu việc trả lãi suất được tài trợ bằng cách tăng
thuế, hoặc nếu kèm theo việc giảm chi tiêu chính phủ đối với hàng hoá không
thương mại hoá.
1.3.1.e.Tỷ giá hối đoái thực, sức cạnh tranh quốc tế và lạm phát,cán cân
thanh toán của quốc gia
Trong khi tỷ giá thực có thể chênh lệch ra khỏi điểm cân bằng vì một số
các cơn sốc gây nên thì nguyên nhân chủ yếu của việc xấu đi sức cạnh tranh đối
với bên ngoài ở hầu hết các nước đang phát triển là tỷ lệ lạm phát nội địa cao
kèm theo việc duy trì chế độ tỷ giá tỷ giá danh nghĩa cố định. Các tiếp cận để
ngăn ngừa sự xấu đi của sức cạnh tranh quốc tế là thực hiện quy tắc tỷ giá thực.
Như vậy quy tắc tỷ giá có thể ngăn ngừa được sự xuất hiện mất cân đối lớn
và lâu dài của các giá cả tương đối và do đó tránh được mất cân bằng ngoại,
bằng cách cho tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh thường xuyên và theo liều
lượng tương đối nhỏ. Người ta lập luận rằng: tỷ giá hối đoái thực tế có thể giữ
được ở mức đúng đắn, không gây ra cái giá điều chỉnh phải trả cho nền kinh tế,
và do đó che lấp được vấn đề phá giá có thể nổi lên trên chiến trường chính trị.
Hơn thế nữa, người ta còn khẳng định quy tắc tỷ giá thực cung cấp một mức cho
dự đoán. bởi vì nó cung cấp cho những người tham gia thị trường thông tin bổ
ích về chiều hướng có thể xảy ra các giá tương đối và do đó tránh được các
quyết định sản xuất dựa trên các dự đoán mong đợi sai lệch.
Tuy vậy, việc chấp nhận quy tắc tỷ giá thực cũng gây ra một số vấn đề như:
xác định điểm cân bằng của tỷ giá thực là không dễ dàng về lý thuyết, chứ chưa

nói về mặt thực tiễn và một số khó khăn nghiêm trọng có thể phải tính đến nếu
đích tỷ giá đặt sai. Vì vậy, trong khi phát biểu quy tắc tỷ giá thực thì phải cho
phép có một độ sai số so với điểm cân bằng của tỷ giá thực do các cơn sốc bên
ngoài hoặc trong nước gây ra. Nếu cơn sốc là tạm thời, thì có thể kiên trì quy tắc
tỷ giá thực. Nếu cớm sốc là lâu dài thì sự sai biệt lớn của tỷ giá thực so với điểm
cân bằng có thể làm giảm sức cạnh tranh quốc tế.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy: các quy tắc tỷ giá thực có thể tạo nên sự
không an tâm, đối với hệ quả cân bằng vĩ mô, dù nó có tác động tốt về mặt cân
bằng ngoại. Việc thực hiện đích tỷ giá thực, tức là buộc phải theo đuổi đích phần
thực mà lại sử dụng các công cụ đại lượng danh nghĩa với giá cả nội địa. Vì vậy
các cơn sốc đối với lạm phát trong nước có thể mang tính chất lâu dài, và trong
một số trường hợp có thể dẫn đến lạm phát, về phía cạnh khác, trong nền kinh tế
nhỏ, cung tiền tệ có thể bị gia tăng do nguồn bên ngoài tăng lên, thì một sự bùng
nổ giá cũng có thể xảy ra ngay cả khi chính sách tín dụng không bành trướng.
Chính sách hỗ trợ đối với các biến động của giá thông qua điều chỉnh tiền
tệ và tỷ giá sẽ tác động đến quá trình hình thành tiền lương trong nền kinh tế.
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 15
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
Theo chính sách đó thì người lao động sẽ không quan tâm nhiều đến tác động
lên công ăn việc làm của việc định ra tiền lương danh nghĩa cao hơn, vì các công
ty có đủ khả năngchuyển chi phí tiền lương cao hơn sang giá cao hơn, vì vậy sự
tăng lương sẽ phản ánh đầy đủ trong tiền lương và tăng giá cả tiếp tục theo đó.
Tác động lên tổng sản phẩm của các chính sách hỗ trợ tài chính và tỷ giá hối
đoái sẽ phụ thu vào nguồn gây nên biến động. Nếu cơn sốt cung thống trị, thì
biến động của tổng sản phẩm sẽ tăng lên do chỉ số hoá đầy đủ tỷ giá hối đoái.
Ngược lại, nếu cơn sốt cầu thống trị thì các chính sách hỗ trợ sẽ làm ổn định
tổng sản phẩm.
Các nghiên cứu về hệ quả của quy tắc tỷ giá thực và ổn định giá chỉ mới
bắt đầu gần đây và có ít. Ađam và Gros(1966) nghiên cứu vấn đề bằng cách sử

dụng một số mô hình phân tíc đơn giản với các giả thiết khác nhau liên quan đến
cơ cấu hàng hoá, tính cứng nhắc của giá lương, độ tự do lưu chuyển vốn. Họ kết
luận rằng: chính sách tiền tệ có thể mất khả năng kiểm soát lạm phát nếu đặt tỷ
giá danh nghĩa theo quy tắc tỷ giá thực và nếu sau đó lại tìm cách kiểm soát lạm
phát, thì sẽ mất khả năng kiểm soát diễn biển kinh tế vĩ mô khác, họ cũng lập
luận rằng: nếu tỷ giá hối đoái thực nâng quá mức so với điểm cân bằng thì lạm
phát chắc chắn sẽ cao hơn.
Hoạt động của quy tắc tỷ giá thực và chính sách ngân sách liên quan chặt
chẽ với nhau Lizondc(1989) đưa ra lược đồ mối quan hệ giữa in tiền do thiếu
hụt ngân sách và tốc độ phá giá tỷ giá. Trong đó, giá trị cân bằng lâu bền của tỷ
giá thực là hàm không chỉ biến thực nêu trên mà còn của tỷ lệ lạm phát trong
nước. Đại lượng sau quyết định tổng thu được của chính phủ thông qua thuế lạm
phát, đến lượt nó lại tác động lên giá trị tài sản của tư nhân và chi tiêu trong dài
hạn, và do đó lên điểm cân bằng của tỷ giá thực. Mỗi một đích tỷ giá thực gây ra
một tỷ lệ lạm phát nội địa về dài hạn, khi các điều kiện khác không thay đổi.
Bên cạnh đó cần lưu ý không phải tất cả các đích tỷ giá thực là khả thi và không
phải tất cả các quy tắc tỷ giá đều đưa nền kinh tế đến đích, ngay như nếu đích đó
là khả thi.
Kinh nghiệm các nước lạm phát cao đã làm tăng sự phản đối việc chấp
nhận các quy tắc tỷ giá thực. Nhiều nước trên đã trải qua tình trạng tỷ lệ lạm
phát cao trong thập kỷ trước mà đặc trưng "mặt bằng cao". Lạm phát nhảy từng
bước đến các thời kỳ lạm phát cao hơn nhưng lại tương đối ổn định. Trong một
số trường hợp thì bước nhảy như vậy liên quan đến phá giá từng đợt, tiếp theo là
"cố định" dựa vào các quy tắc tỷ giá so sánh sức mua. Trong các nỗ lực lớn hơn,
gần đây họ cố định tỷ giá danh nghĩa để cung cấp một mốc meo danh nghĩa.
Điều này cũng không kết luận rằng: gắn cố định dựa trên cơ sở tỷ giá so sánh
sức mua là gây nên lạm phát cao, nhưng thực tiễn cho thấy nguy cơ ngày càng
cao.
Tuy vậy, cũng cần nhận thấy một số lợi thế của quy tắc tỷ giá thực, ví dụ:
tỷ giá thực sẽ không cho phép chênh lệch xa điểm cân bằng, vì vậy không phải

lo lắng trước sự mất ổn định của giá nội địa.
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 16
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
Tóm lại, một khi đích mục tiêu đặt ra đối với tỷ giá thực vẫn còn đúng, thì
tiềm năng gây lạm phát do sử dụng đích mục tiêu tỷ giá thực gây ra có thể được
kìm hãm bằng cách sử dụng các chính sách ngân sách và tiền tệ thắt chặt, tiếp
cận này sẽ ngăn ngừa sự xuất hiện biến động gây mất ổn định của giá cả, ngay
cả khi nếu tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh để duy trì sức cạnh tranh quốc tế.
Khi không biết chắc chắn giá trị cân bằng của tỷ giá thực thì không nên quá chú
trọng vào việc đặt ra đích mục tiêu tỷ giá thực, ngay cả khi nếu các chính sách
ngân sách và tiền tệ được sử dụng một cách thận trọng. Gánh nặng của điều
chỉnh ít nhất là một phần do các chính sách tài chính chịu, hơn là hoàn toàn dồn
cho điều chỉnh tỷ giá. Theo nghĩa đó thì cần phải chú ý rằng các chính sách như
vậy bản thân chúng có thể chịu tác động bởi chế độ tỷ giá hối đoái mà chính phủ
đưa ra.
Để phân tích tác động của tỷ giá hối đoái tới nền kinh tế ta đưa ra khái
niệm khả năng cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh = E*Po/P
Trong đó:
Po: giá sản phẩm ngoài tính theo giá thị trường nước ngoài.
P: giá sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước tính theo đồng nội tệ.
E:tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước ngoài tính theo đồng nội địa.
Với P và Po không đổi khi E tăng , EPo sẽ tăng. Giá của sản phẩm nước
ngoài trở nên đắt tương đối so với giá của sản phẩm trong nước và ngược lại, giá
của sản phẩm trong nước trở nên rẻ, tương đối so với sản phẩm nước ngoài. Sản
phẩm trong nước do đó có khả năng cạnh tranh cao hơn xuất khẩu sẽ tăng ( X
tăng ), nhập khẩu giảm đi (IMgiảm), điều này làm cho xuất khẩu ròng (NX=
X_IM) tăng lên. Vì AD=C+I+G+NV nên NX tăng lên làm cho AD dịch phải,
trên hình vẽ ta thấy sản lượng cân bằng Q tăng lên tỷ lệ thất nghiệp giảm.
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 17

Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
AD'
P AS
LR

AS
SR
AD
Q* Q
Như vậy sự thay đổi tỷ giá hối đoái danh nghĩa và do đó tỷ giá hối đoái
thực tế sẽ tác động đến cân bằng cán cân thương mại, do đó tác động đến sản
lượng, việc làm giá cả.
Hãy mở rộng tác động của tỷ giá hối đoái với cán cân thanh toán, ở đây có
mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái.
Khi lãi suất tăng lên, đồng tiền nội địa trở nên có giá trị hơn, tỷ giá hối đoái
của đồng nội địa tăng lên, trong điều kiện tư bản vận động một cách tự do thì tư
bản nước ngoài sẽ tràn vào thị trường trong nước, giả định cán cân thương mại
là công bằng thì cán cân thanh toán là thặng dư.
Như vậy tỷ giá hối đoái là một biến cố rất quan trong, tác động đến sự cân
bằng của cán cân thương mại và cán cân thanh toán, do đó tác động đến sản
lượng, việc làm cũng như sự cân bằng của nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy,
một số nước trên thế giới vẫn còn duy trì tỷ giá hối đoái cố định, còn phần lớn
các nước theo đuổi chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý nhằm giữ cho tỷ
giá hối đoái chỉ biến động trong một phạm vi nhất định, để ổn định và phát triển
nền kinh tế.
1.4.Các chính sách điều hành tỷ giá hối đoái trên thế giới.
1.4.1.Khái niệm:
Chính sách TGHĐ là một hệ thống các công cụ dùng để tác động tới cung
cầu ngoại tệ trên thị trường từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm đạt tới

những mục tiêu cần thiết.
Về cơ bản , chính sách tỷ giá hối đoái tập trung chú trọng vào hai vấn đề
lớn là : vấn đề lựa chọn chế độ ( hệ thống ) tỷ giá hối đoái ( cơ chế vận động của
tỷ giá hối đoái ) và vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đoái .
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 18
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
1.4.2.Các chế độ tỷ giá hối đoái
1.4.2.1.Chế độ tỷ giá hối đoái cố định
1.4.2.1.a.Chế độ đồng giá vàng (1880 - 1932):
Sau một quá trình phát triển lâu dài, tiền thống nhất từ các dạng sơ khai
thành hai loại: vàng và bạc sau đó cố định ở vàng. Chế độ bản vị vàng là chế độ
ở đó, vàng đóng vai trò là vật ngang giá chung, chỉ có tiền đúc bằng vàng hoặc
dấu hiệu của nó mới có thể đổi lấy nó. Theo đó, đồng tiền của các nước được
đổi trực tiếp ra vàng, tỷ giá hối đoái được hình thành trên cơ sở so sánh hàm
lượng vàng của các đồng tiền, sự so sánh đó được gọi là ngang giá vàng (gold
parity).
Ví dụ: 1 GBP = 5 USD có nghĩa là: 1GBP có chứa "một hàm lượng vàng"
tương đương với 5 lần hàm lượng vàng của 1 USD. Nói cách khác, ngang giá
vàng của GBP so với USD là: GBP/USD = 5.
Trong chế độ bản vị vàng, khi việc đúc tiền vàng , đổi tiền ra vàng và xuất
nhập khẩu vàng được thực hiện tự do thì tỷ giá hối đoái tách khỏi ngang giá
vàng là rất ít vì nó bị giới hạn bởi các điểm vàng. Thực hiện xuất nhập khẩu
vàng sẽ quay quanh "điểm vàng". Giới hạn lên xuống của tỷ giá hối đoái là
ngang giá vàng cộng (hoặc trừ) chi phí vận chuyển vàng giữa các nước hữu
quan. Điểm cao nhất của tỷ giá hối đoái gọi là "điểm xuất vàng" vì vượt quá giới
hạn này, vàng bắt đầu "chảy ra khỏi nước". Điểm thấp nhất của tỷ giá hối đoái là
"điểm nhập vàng" vì xuống dưới giới hạn này, vàng bắt đầu "chảy vào trong
nước".
Nhờ có đặc điểm trên, chế độ bản vị vàng có tính ổn định cao, tiền tệ

không bị mất giá, tỷ giá ít biến động, cán cân thương mại tự động cân bằng. Chế
độ này có khả năng tự điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông mà không cần
đến sự can thiệp của Nhà nước, do đó nó có tác động tích cực đối với nền kinh
tế tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn đầu phát triển. Đây cũng là thời kỳ phát triển
rực rỡ của thương mại quốc tế.
Tuy nhiên chế độ bản vị vàng tồn tại không lâu, đến 1914 nó sụp đổ do
hàng loạt các nguyên nhân sau:
- Do xu thế phát triển kinh tế thế giới không đồng đều khiến cho một số
nước công nghiệp phát triển ngày càng giàu lên, dự trữ vàng lớn do xuất khẩu
được nhiều hàng hoá. Còn ở các nước kém phát triển kho vàng ngày càng cạn
kiệt do phải nhập khẩu hàng hoá. Do đó, thế giới được chia thành hai khối: các
nước kinh tế phát triển và các nước kinh tế kém phát triển.
- Lạm hành việc phát hành tiền vàng, các Chính phủ đã chi tiêu quá lớn dẫn
đến việc dự trữ vàng trong kho nhà nước không đủ để đảm bảo cho việc đổi tiền
phù hiệu ra tiền vàng, làm cho công chúng có tâm lý sử dụng tiền phù hiệu và
cất tiền vàng đi. Ai có vàng không đúc tiền vàng nữa mà dùng để đổi lấy tiền
phù hiệu. Dẫn đến tiền phù hiệu được lưu thông rộng rãi trên cơ sở ngang giá
vàng. Các nước kinh tế phát triển có đồng tiền được coi là tiền chủ chốt. Các
nước kinh tế kém phát triển có đồng tiền được coi là tiền phụ thuộc. Tiền phụ
thuộc đến với tiền chủ chốt sẽ đến được với vàng. Vì chỉ tiêu tiền phù hiệu nên
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 19
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
các nước lớn đã phát hành một lượng tiền phù hiệu lớn để thao túng kinh tế,
chính trị, vơ vét của cải, tài nguyên, xâm chiếm thuộc địa ở các nước kém phát
triển. Khi lượng tiền phù hiệu ở trong lưu thông quá lớn thì nó trở lại để đổi lấy
tiền vàng sẽ không có lượng vàng đủ lớn để đúc tiền vàng nữa.
Mặt khác, trước đại chiến thế giới I, chính phủ các nước chạy đua vũ trang
đã tìm mọi cách vơ vét vàng, vì thế lượng vàng trong lưu thông giảm mạnh, các
dấu hiệu tiền tệ, tiền giấy tăng lên, đến khi chiến tranh thế giới năm 1914 bùng

nổ, chế độ bản vị vàng tan vỡ. Các nước bắt đầu áp dụng các hình thức biến
tướng của ngang giá vàng là chế độ bản vị vàng thoi và chế độ bản vị vàng hối
đoái. Các chế độ này không có tính chất ổn định như chế độ bản vị tiền vàng
trước năm 1914. Đến năm 1923, Anh kêu gọi các nước thực hiện lại chế độ bản
vị vàng nhưng không nước nào tham gia. Năm 1925, Anh đơn phương thực hiện
lại chế độ bản vị vàng, các nước cùng nhau phá giá đồng tiền của mình mua
GBP, đổi lấy vàng gây nên nạn chảy máu vàng ở Anh. Năm 1931, Anh buộc
phải xoá bỏ chế độ đồng giá vàng - bảng Anh.
Đến cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 - 1933 đã đánh dấu sự
sụp đổ hoàn toàn của chế độ bản vị vàng dưới mọi hình thức và điều đó cũng có
nghĩa là đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ tỷ giá hối đoái ổn định và sức mua của
đồng tiền được giữ vững.
1.4.2.1.b.Chế độ tỷ giá cố định theo thoả ước Bretton Woods (1946 - 1971)
Nhằm ổn định lại sự phát triển thương mại quốc tế và thiết lập một trật tự
thế giới mới sau thế chiến thứ hai, Mỹ, Anh và 42 nước đồng minh đã họp hội
nghị tại Bretton Woods (Mỹ) tháng 7/1944 để bàn bạc xây dựng hệ thống tiền tệ
và thanh toán chung. Hội nghị được đánh giá là hội nghị thành công nhất thế kỷ.
Tại đây 56 nước ký tên hiệp định chấp nhận thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),
Ngân hàng Thế giới (WB) và một chế độ tỷ giá hối đoái mới. Theo chế độ này,
các nước cam kết duy trì giá trị đồng tiền của mình theo đồng USD hoặc theo
nội dung vàng trong phạm vi biến động không quá ( 1% tỷ giá đăng ký chính
thức tại quỹ. Nếu các nước tự thay đổi tỷ giá mà không được sự đồng ý của IMF
thì sẽ bị phạt cấm vận. NHTW các nước phải can thiệp vào thị trường tiền tệ
nước mình để giữ cho tỷ giá nước mình không thay đổi bằng cách mua bán đồng
USD. Điều này cũng có nghĩa là các nước phải cùng nhau bảo vệ giá trị cho
đồng USD. Đổi lại, Mỹ cam kết ổn định giá vàng ở mức 35USD/ounce vàng
( biến động giá cả không quá 24 cent/ounce). USD là đồng tiền chủ chốt số 1 với
tiêu chuẩn giá cả 1USD = 0,88714 gram vàng.
Ví dụ: Trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng: 1USD = 5,55 FRF thì NHTW
Pháp phải duy trì tỷ giá ở mức 1USD = 5,4945 FRF (5,55*99%) đến 1USD =

5,6055 FRF (5,5*101%).
Trong thời kỳ đầu cứ 1USD giấy phát hành ra đã có từ 4 đến 8 USD vàng
bảo đảm. Lượng vàng đảm bảo đồ sộ như vậy nên cả thế giới tư bản chỉ lo có
vàng để đổi lấy USD mà mua hàng Mỹ chứ không quan tâm đến việc USD có
đổi lấy vàng được không. Chính vì vậy, các nước có xu hướng chuyển đổi từ dự
trữ vàng sang dự trữ USD để tiết kiệm chi phí. USD đã trở thành tài sản dự trữ
quốc tế của các nước vì Mỹ cam kết với các NHTW rằng sẽ chuyển đổi không
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 20
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
hạn chế USD ra vàng. Các nước ngày càng mở rộng thương mại với Mỹ, gia
tăng dự trữ USD của họ, khiến cho sức hút USD ra ngoài ngày càng tăng. Tổng
khối lượng USD trên toàn thế giới vào cuối năm 1944là 28,5 tỷ USD, thì đến
cuối năm 1968 đã lên đến gần 100 tỷ USD. Trong 25 năm độc quyền phát hành
tiền tệ, Mỹ đã lợi dụng đồng USD để thu hút của cải các nơi trên thế giới về tay
mình. Hàng trăm tỷ USD được thả lang thang đi khắp các nước mà không có gì
bảo đảm, gây ra lạm phát USD. Chế độ Bretton Woods ngày càng bộc lộ những
hạn chế mà bản thân nó không tự khắc phục được:
- Dự trữ không tương xứng: Do quy mô thương mại quốc tế ngày càng tăng
gắn liền với những dòng vận động tiền tệ lớn, đòi hỏi các NHTW phải mua và
bán khối lượng lớn đồng USD để duy trì tỷ giá hối đoái đã thoả thuận. Về dài
hạn, một số ngân hàng nhận thấy dự trữ USD và vàng của mình không đủ đáp
ứng nhu cầu trên.
- Các cuộc khủng hoảng có nguyên nhân đầu cơ: Khi có sự thay đổi về mức
giá cả tương đối giữa các đồng tiền làm cho một số đồng tiền được đánh giá quá
cao hoặc quá thấp. Vì tỷ giá là luôn cố định, việc các nhà đầu cơ mua, bán lượng
tiền lớn khiến cho NHTW phải chi tiêu những lượng ngoại tệ lớn để cố gắng duy
trì tỷ giá đã định theo thoả ước cho đến khi nó được thay đổi.
- Sức ép từ tương quan thực tế giữa các đồng tiền: Sự tăng trưởng khác
nhau về xuất nhập khẩu cũng như tỷ lệ lạm phát rất chênh lệch giữa các nước và

hàng loạt các nhân tố tác động khác đã làm cho có sự thay đổi tương đối về giá
trị tương đối giữa các đồng tiền xét về dài hạn. Vì vậy, một số nước đã xin thay
đổi lại tỷ giá, gây sức ép cho tỷ giá cố định.
Vào những năm 60, bối cảnh kinh tế xã hội có nhiều thay đổi, khoa học kỹ
thuật phát triển làm cho các nước phục hồi kinh tế, thế giới chia làm 3 cực: Mỹ,
Nhật và Tây Âu. Do đó, các nước đã xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ và Mỹ trở
thành nước nhập siêu. Về phía mình, hàng hoá Mỹ không còn sức hấp dẫn như
trước làm cho cán cân thương mại Mỹ thường xuyên thâm hụt, dự trữ vàng ngày
càng giảm, nợ nước ngoài tăng, USD mất giá nghiêm trọng. Thêm vào đó Mỹ sa
lầy vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam và một số nước khác khiến chính phủ Mỹ
chi tiêu ngày càng nhiều tiền. Các nước khủng hoảng lòng tin với USD, đã
chuyển đổi USD dự trữ ra vàng, làm cho dự trữ vàng của Mỹ giảm sút nhanh
chóng. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình trong nước và thế giới,
tổng thống Mỹ Nixon sau 2 lần tuyên bố phá giá: Lần 1(tháng8/1971) 1USD =
0,81gram vàng ròng và 42 USD = 1ounce vàng, lần 2 (tháng 3/1973) 1USD =
0,7369 gram vàng ròng và 45 USD = 1 ounce vàng. Đồng USD bị phá giá
(-10%) thì chế độ tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods hoàn toàn sụp đổ.
1.4.2.1.c.Nhận định chung về chế độ tỷ giá cố định:
Đây là chế độ tỷ giá hối đoái mà ở đó Nhà nước, cụ thể là NHTW tuyên
bố sẽ duy trì tỷ giá giữa đồng tiền của quốc gia mình với một hoặc một số đồng
tiền nào đó ở một mức độ nhất định. ở đây, NHTW đóng vai trò điều tiết lượng
dư cầu hoặc dư cung về ngoại tệ để giữ tỷ giá hối đoái cố định bằng cách bán ra
hoặc mua vào số dư đó.
- Ưu điểm của chế độ tỷ giá cố định:
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 21
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
+ Thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế vì nó mang lại một môi trường
ổn định, thuận lợi, ít rủi ro cho các hoạt động kinh doanh.
+ Buộc các chính phủ phải hoạch định và thực thi các chính sách vĩ mô.

+ Thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm tránh những xung đột về
mục tiêu chính sách và những biến động về tỷ giá.
- Hạn chế của chế độ tỷ giá cố định:
+ Thường chịu sức ép lớn mỗi khi xảy ra các cơn sốc từ bên ngoài hoặc từ
thi trường hàng hoá trong nước, bởi khi đó mức chênh lệch thực tế quá lớn về
giá trị giữa nội tệ và ngoại tệ sẽ dẫn đến phá vỡ mức cân bằng tỷ giá.
+ Chế độ tỷ giá cố định làm mất tính chủ động của chính sách tiền tệ, khiến
cho NHTW gặp khó khăn trong việc thay đổi lượng tiền cung ứng.
+ Đặc biệt, nó làm cho các quốc gia dễ rơi vào tình trạng "nhập khẩu lạm
phát" không mong muốn.
1.4.2.2.Chế độ tỷ giá thả nổi (từ năm 1973 đến nay):
Sau thất bại của hệ thống tỷ giá hối đoái Bretton Woods, vào tháng 7/1976,
tại hội nghị Jamaica, các thành viên của IMF đã thống nhất đưa ra những quy
định mới cho hệ thống tiền tệ quốc tế. Đó là "tỷ giá linh hoạt" hay "tỷ giá thả
nổi" được các thành viên IMF chấp nhận. Theo chế độ mới, tỷ giá được xác định
và vận động một cách tự do theo quy luật thị trường mà cụ thể là quy luật cung -
cầu ngoại tệ. NHTW các nước không có bất kỳ một tuyên bố hay cam kết nào về
chỉ đạo, điều hành tỷ giá.
- Ưu điểm của chế độ tỷ giá thả nổi:
+ Giúp cán cân thanh toán cân bằng: Giả sử một nước nào đó có cán cân
vãng lai thâm hụt khiến nội tệ giảm giá. Điều đó thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế
nhập khẩu cho đến khi cán cân thanh toán trở nên cân bằng.
+ Đảm bảo tính độc lập của chính sách tiền tệ.
+ Góp phần ổn định kinh tế, tránh được những cú sốc bất lợi từ bên ngoài,
vì khi giá cả nước ngoài tăng sẽ làm cho tỷ giá tự điều chỉnh theo cơ chế PPP để
ngăn ngừa các tác động ngoại lai.
- Nhược điểm:
+ Là nguyên nhân gây nên sự bất ổn do các hoạt động đầu cơ làm méo mó,
sai lệch thị trường, có khả năng gây nên lạm phát cao và tăng nợ nước ngoài.
+ Hạn chế các hoạt động đầu tư và tín dụng do tâm lý lo sợ sự biến động

theo hướng bất lợi của tỷ giá.
Khi mới ra đời, chế độ tỷ giá thả nổi tự do được cho là phương thức hữu
hiệu vạn năng cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tế chứng minh
rằng, càng thả nổi tỷ giá thì sự phát triển kinh tế càng kém ổn định. Bởi lẽ, biến
động của tỷ giá rất phức tạp, chịu tác động của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị,
tâm lý, xã hội... đặc biệt là nạn đầu cơ. Trên thực tế thì lại không có thị trường
thuần tuý nên không thể có một chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn. Sự can thiệp của
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 22
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
Chính phủ vào thị trường ngoại hối làm cho tỷ giá hối đoái có những diễn biến
thuận lợi hơn nên chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý ngày càng được nhiều quốc
gia lựa chọn đặc biệt là các nước đang phát triển.
1.4.2.3.Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý (bán thả nổi):
Đây là chế độ tỷ giá hối đoái có sự can thiệp của hai chế độ cố định và thả
nổi. ở đó, tỷ giá được xác định và hoạt động theo quy luật thị trường, chính phủ
chỉ can thiệp khi có những biến động mạnh vượt quá mức độ cho phép.
Có 3 kiểu can thiệp của chính phủ:
- Kiểu can thiệp vùng mục tiêu: Chính phủ quy định tỷ giá tối đa, tối thiểu
và sẽ can thiệp nếu tỷ giá vượt quá các giới hạn đó.
- Kiểu can thiệp tỷ giá chính thức kết hợp với biên độ dao động: Tỷ giá
chính thức có vai trò dẫn đường, chính phủ sẽ thay đổi biên độ dao động cho
phù hợp với từng thời kỳ.
- Kiểu tỷ giá đeo bám: Chính phủ lấy tỷ giá đóng cửa ngày hôm trước làm
tỷ giá mở cửa ngày hôm sau và cho phép tỷ giá dao động với biên độ hẹp.
Hiện nay, chế độ tỷ giá "bán thả nổi" hay "cố định bò trườn" có nhiều tính
ưu việt hơn và được nhiều nước sử dụng, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là "thả nổi" hay "bò trườn" ở mức độ bao nhiêu nên
gần với thả nổi hay gần với cố định hơn? biên độ dao động là bao nhiêu? Rất
khó để đưa ra một câu trả lời chung cho mọi quốc gia mà phải tuỳ thuộc vào

điều kiện thực tiễn và mục tiêu của từng quốc gia theo đuổi. Nhìn chung, đối với
các nước kinh tế đang phát triển trong đó có Việt Nam, với một hệ thống công
cụ tài chính còn nhiều yếu kém, sự phối hợp giữa các chính sách còn thiếu đồng
bộ, đồng tiền yếu và dự trữ ngoại tệ còn hạn hẹp thì tỷ giá hối đoái thả nổi có
quản lý tỏ ra là một chính sách hợp lý nhất.
1.4.3.Cơ sở lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái
Việc lựa chọn chế độ tỷ giá xoay quanh 2 vấn đề chính : Mối quan hệ giữa
các nền kinh tế quốc gia với cả hệ thống toàn cầu và mức độ linh hoạt của các
chính sách kinh tế trong nước.
Thứ nhất, lựa chọn chế độ tỷ giá là lựa chọn hệ thống mở của hay đóng
cửa.Các phương án lựa chọn hệ thống tỷ giá thiên về hoặc tỷ giá cố định hoặc tỷ
giá linh hoạt.Một quốc gia lựa chọn tỷ giá cố định tức là chấp nhận sự ràng buộc
đối với các chính sách kinh tế quốc gia.Các chính sách kinh tế của quốc gia phải
phù hợp với duy trì tỷ giá hối đoái cố định,vì vậy việc hoạch định chính sách đối
nội trở thành ngoại sinh và tuân thủ theo thoả ước tỷ giá.Từ đó có thể thấy rằng
sự lựa chọn này ngang với việc áp đặt các ràng buộc quốc tế vào các chính sách
kinh tế quốc gia.Nói rộng hơn, lựa chọn cơ chế tỷ giá cố định tương đương với
lựa chọn một hệ thống mở cửa,trong đó luôn có sự tương tác giữa các nhân tố
quốc gia và cả hệ thống thế giới.Ngược lại,phương án tỷ giá linh hoạt, về
nguyên tắc không chấp nhận một sự ràng buộc nào vào các chính sách kinh tế
đối nội.Các chính sách có tác động gì đi nữa thì sự dao động tỷ giá sẽ giữ chúng
chỉ gây ảnh hưởng trong phạm vi quốc gia.Và tương ứng với điều đó,kết quả của
các chính sách kinh tế nước ngoài dù thế nào đi chăng nữa thì điều chỉnh tỷ giá
sẽ giữ chúng ngoài phạm vi quốc gia.Thực tế, lựa chọn này giữ cho chính sách
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 23
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
quốc gia không bị ràng buộc quốc tế.Nói rộng hơn,lựa chọn cơ chế hối đoái linh
hoạt sẽ tách rời nền kinh tế quốc gia khỏi môi trường quốc tế.
Thứ hai, chúng ta cần quan tâm đến mức độ linh hoạt của các chính sách

kinh tế đối nội.Mức độ này khác nhau rõ ràng giữa việc lựa chọn nột trong hai
loại chế độ tỷ giá.Vì tỷ giá cố định thể hiện sự cam kết áp đặt các ràng buộc đối
với các chính sách kinh tế quốc gia, có nghĩa rằng không thể theo đuổi các chính
sách kinh tế đối nội một cách độc lập.Ngược lại,tỷ giá linh hoạt là một công cụ
có thể sử dụng để giữ cho các hoạt động kinh tế của hệ thống quốc tế không ảnh
hưởng tới các chính sách quốc gia.Vì vậy có thể theo đuổi các chính sách quốc
gia mà không cần quan tâm đến thế giới bên ngoài và như vậy đặc thù của chúng
là hệ thống đóng.
1.5. Các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
1.5.1.Nguồn gốc phát sinh các rủi ro tỷ giá.
1.5.1.a.Đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
Có thể nói rủi ro tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu là loại rủi ro tỷ giá
thường xuyên gặp phải và đáng lo ngại nhất đối với các công ty có hoạt động
xuất nhập khẩu mạnh.
●Rủi ro tỷ giá đối với hợp đồng xuất khẩu.
Giả sử ngày 04/08 công ty Sagonimex đang thương lượng ký kết hợp đồng
xuất khẩu trị giá 200.000USD. Hợp đồng sẽ đến hạn thanh toán sáu tháng sau kể
từ ngày ký hợp đồng. Ở thời điểm thương lượng hợp đồng, tỷ giá USD/VND =
15.888 trong khi tỷ giá ở thời điểm thanh toán chưa biết, vì chưa đến hạn. Sự
không chắc chắn của tỷ giá USD/VND vào thời điểm thanh toán khiến cho hợp
đồng xuất khẩu của Sagonimex chứa đựng rủi ro tỷ giá.
●Rủi ro tỷ giá đối với hợp đồng nhập khẩu.
Giả sử ngày 04/08 công ty Cholonimex đang thương lượng ký kết hợp
đồng nhập khẩu trị giá 200.000USD. Hợp đồng sẽ đến hạn thanh toán sáu tháng
sau kể từ ngày ký hợp đồng. Ở thời điểm thương lượng hợp đồng, tỷ giá
USD/VND = 15.888 trong khi tỷ giá ở thời điểm thanh toán chưa biết. Sự không
chắc chắn của tỷ giá USD/VND vào thời điểm thanh toán khiến cho hợp đồng
nhập khẩu của Cholonimex chứa đựng rủi ro tỷ giá.
1.5.2.b.Đối với hoạt động đầu tư
Rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư thường phát sinh đối với công ty đa

quốc gia (multinational corporations) hoặc đối với các nhà đầu tư tài chính có
danh mục đầu tư đa dạng hoá trên bình diện quốc tế. Bên cạnh ảnh hưởng đến
hoạt động đầu tư trực tiếp như vừa đề cập, rủi ro tỷ giá cũng có thể ảnh hưởng
đến hoạt động đầu tư gián tiếp, tức là đầu tư trên thị trường tài chính. Chẳng hạn
một nhà đầu tư Hongkong vừa rút vốn đầu tư 500.000 USD khỏi thị trường Mỹ
do lãi suất USD giảm và tình hình kinh tế Mỹ không mấy khả quan. Giả sử bây
giờ, do hưởng ứng lời kêu gọi và khuyến khích đầu tư của Chính phủ Việt Nam,
nhà đầu tư muốn đầu tư mua cổ phiếu SAM. Giá thị trường của SAM hiện tại là
30.000VND/cổ phiếu và tỷ giá USD/VND = 15.400. Như vậy, với 500 nghìn
USD nhà đầu tư có thể mua được (500.000 x 15.400)/30.000 = 256.666 cổ
phiếu. Giả sử một năm sau, nhà đầu tư vì lý do nào đó muốn bán cổ phiếu SAM
để rút vốn về đầu tư nơi khác. Lúc này giá cổ phiếu SAM tăng đến 31.000 VND/
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 24
Đề án môn học: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Đặng Ngọc
Anh
cổ phiếu trong khi giá USD cũng tăng so với VND lên đến 16.000 VND/USD.
Số USD nhà đầu tư rút về bây giờ sẽ là (256.666 x 31.000)/16.000 =
496.000USD thấp hơn vốn đầu tư ban đầu 4000USD mặc dù giá cổ phiếu SAM
tăng 1000VND! Trong trường hợp này nhà đầu tư tổn thất 4000USD (giả sử bỏ
qua cổ tức nhà đầu tư nhận được sau một năm). Sự tổn thất này do biến động tỷ
giá gây ra vì giá cổ phiếu SAM tăng 1000 đồng không đủ bù đắp sự mất giá của
VND.
1.5.1.c.Đối với hoạt động tín dụng.
Đứng trên giác độ doanh nghiệp, việc vay vốn bằng ngoại tệ cũng bị ảnh
hưởng bởi rủi ro tỷ giá. Ví dụ công ty Giadimex đang thương lượng xin vay vốn
tài trợ xuất khẩu của HSBC số tiền 3 triệu USD để thu mua và chế biến hàng
xuất khẩu. Do lãi suất USD trên thị trường giảm nên HSBC đồng ý cho
Giadimex vay với lãi suất 3%/năm trong thời hạn 6 tháng. Ở thời điểm vay vốn,
tỷ giá USD/VND = 15.381. Sáu tháng sau khi nợ đáo hạn, tỷ giá USD/VND là
bao nhiêu công ty chưa biết, do đó, công ty đối mặt với rủi ro tỷ giá nếu ký kết

hợp đồng vay vốn này.
1.5.1.d.Đối với hoạt động khác
Ngoài ba hoạt động tiêu biểu bao gồm hoạt động xuất nhập khẩu, hoạt
động đầu tư và hoạt động tín dụng, các hoạt động khác có liên quan đến giao
dịch ngoại tệ như du lịch, du học, kiều hối, … cũng chịu ảnh hưởng của rủi ro tỷ
giá.
1.5.2.Tác động của rủi ro tỷ giá.
1.5.2.a.Tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp tập trung ở khả năng quyết định giá cả
của doanh nghiệp so với đối thủ trên thị trường. Hoạt động trong điều kiện có
rủi ro tỷ giá tác động khiến doanh nghiệp luôn phải đối phó với tổn thất ngoại
hối, bằng cách nâng giá bán để trang trải tổn thất nếu xảy ra. Điều này làm cho
giá cả của doanh nghiệp trở nên kém hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp giảm sút. Nhìn chung, rủi ro tỷ giá phát sinh trong hoạt động của doanh
nghiệp có thể gây ra ba loại tổn thất ngoại hối : (1) Tổn thất giao dịch, (2) tổn
thất kinh tế, (3) tổn thất chuyển đổi kế toán3.
1.5.2.1.a. Tổn thất giao dịch (transaction exposure)
Tổn thất giao dịch phát sinh khi có các khoản phải thu hoặc phải trả bằng
ngoại tệ. Tổn thất các khoản phải thu ngoại tệ là tổn thất phát sinh khi giá trị qui
ra nội tệ thu về sụt giảm do ngoại tệ xuống giá so với nội tệ. Tổn thất các khoản
phải trả ngoại tệ là tổn thất phát sinh khi giá trị qui ra nội tệ chi ra tăng lên do
ngoại tệ lên giá so với nội tệ.
1.5.2.1.b.Tổn thất kinh tế (economic exposure)
Tổn thất kinh tế là tổn thất phát sinh do sự thay đổi của tỷ giá làm ảnh
hưởng đến ngân lưu qui ra nội tệ hoặc ngoại tệ của doanh nghiệp. Tổn thất kinh
tế xảy ra tương tự như tổn thất giao dịch, chỉ khác biệt ở chỗ nó là những khoản
tổn thất không xuất phát từ các khoản phải thu hoặc phải trả có hợp đồng rõ ràng
mà từ ngân lưu hoạt động của doanh nghiệp. Chẳng hạn, sự lên giá của nội tệ
làm sụt giảm doanh thu xuất khẩu của doanh nghiệp, do hàng xuất khẩu bây giờ
trở nên đắt đỏ hơn đối với người tiêu dùng nước ngoài. Tổn thất kinh tế có thể

xác định theo công thức sau: ”V = CFt.”St, trong đó:
SVTH: Nguyễn Đức Toàn - Lớp 33K15 Trang 25

×