Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
PHẦN I - MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, thế giới đang hướng tới xây dựng xã hội tri thức nên đòi hỏi
ngành giáo dục phải đào tạo được nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của xã hội
mới. Đi cùng với xu hướng đó, Đảng và Nhà nước ta cũng đã xác định: “Đầu tư
cho giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Đặc biệt là trong thời đại ngày nay, khi mà
công nghệ khoa học đang phát triển như vũ bão trên quy mơ tồn cầu, mỗi ngày
tri thức nhân loại khơng ngừng tăng lên thì vai trị của giáo dục ngày càng quan
trong cơng tác đào tạo nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của xã hội mới.
Trong xã hội mới đòi hỏi con người phải có trí tụê, phải có tri thức, phải có năng
lực hành động, tính sáng tạo, năng động, tự lực và có trách nhiệm, có năng lực
cộng tác làm việc, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp và khả năng học tập
suốt đời. Để đáp ứng những đòi hỏi này của xã hội, giáo dục Việt Nam đã và
đang tập trung đổi mới, hướng tới một nền giáo dục tiến bộ, hiện đại ngang tầm
với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để có được nền giáo dục đó, ngành
giáo dục đã triển khai hàng loạt các biện pháp mang tính đồng bộ như: đổi mới
phương pháp dạy học và chương trình giáo dục ở các cấp, thực hiện luật giáo
dục mới…
Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 4 – khoá VII đã xác định: “ Phải
khuyến khích tự học, phải áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi
dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”. Điều
27 - Luật giáo dục cũng đã xác định rõ: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là
giúp HS phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành
nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao
động; tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Vì thế: “ Phương pháp giáo dục
phổ thơng phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh,
phù hợp với đặc điểm của từng lớp, từng môn học, bồi dưỡng phương pháp tự
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
1
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” (Điều 24 - Luật giáo dục ).
Nói chung khơng có phương pháp nào phát huy được hiệu quả ở mọi lúc
đối với tất cả mọi người học, vì dạy học là những tiến trình rất phức tạp và chịu
ảnh hưởng bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Tuỳ vào nội dung, mục tiêu bài
học và đối tượng người học mà giáo viên lựa chọn phương pháp giáo dục tối ưu
nhất. Hoạt động dạy học thường được mơ tả theo hai hình thức: hoặc là lấy giáo
viên làm trung tâm ( teacher – centered), hoặc là lấy người học làm trung tâm
(student – centered). Phương pháp lấy giáo viên làm trung tâm lien quan đến
cách truyền đạt thông tin trực tiếp từ giáo viên đến học sinh như: dạy học suy
diễn, dạy học có tính chất mơ tả… Trái lại, phương pháp lấy người học làm
trung tâm lien quan đến học tập khám phá, học tập quy nạp, học tập nêu vấn
đề…nhấn mạnh nhiều đến vai trị của người học hơn trong tiến trình học tập.
Năm 2006, UNESCO đã đề ra bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI là học để biết,
học để làm, học để cùng chung sống và học để khẳng định mình
(Edobseroy@unesco. Org – The four pillars of education). Tinh thần chung là
giáo dục phải góp phần vào sự nghiệp phát triển toàn diện của mỗi cá nhân, cả
về thể xác lẫn tinh thần. Trong khi đó, giáo dục hiện nay chủ yếu mới tập trung
vào việc trang bị tri thức, chưa quan tâm đến phát triển toàn diện cho học sinh.
Ở trường trung học phổ thông, tất cả các môn học đều hướng tới vấn đề
đổi mới phương pháp dạy học như thế nào để hình thành và phát triển cho học
sinh những năng lực cần thiết mà xã hội yêu cầu, nhất là năng lực cộng tác, hợp
tác cùng làm việc. Riêng bộ mơn hố học cũng đã nêu rõ yêu cầu đổi mới
phương pháp dạy học góp phần thực hiện mục tiêu của ngành giáo dục đề ra.
Phương pháp dạy học hợp tác đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới và bắt
đầu được chú ý trong ngành giáo dục ở Việt Nam.
Dạy học hợp tác đã được nghiên cứu và áp dụng ở các nước trên thế giới.
Phương pháp dạy học hợp tác đã huy động được sự tham gia tích cực của mọi
học sinh vào quá trình học tập, tăng cường khả năng tiếp thu kiến thức và phát
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
2
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
triển kĩ năng xã hội cho học sinh một cách rõ rệt. Nội dung của phương pháp
dạy học hợp tác đề cập đến việc huy động sự phối hợp, sự hợp tác giữa các chủ
thể học tập, có sự tổng hợp ý tưởng của nhiều cá nhân để tạo nên sức mạnh của
trí tuệ. Những kiến thức mà học sinh thu nhận được trong phương pháp dạy học
hợp tác là những kiến thức thu được qua quá trình trao đổi, thảo luận, chia sẻ,
hợp tác giữa những người cùng học, chứ không phải là kết quả riêng biệt của
một cá nhân nào đó. Phương pháp dạy học hợp tác khơng chỉ chú trọng phát huy
tính tích cực cao, tính chủ thể sáng tạo của người học mà còn chú trọng đến sự
phồi hợp, hợp tác cao giữa các chủ thể trong quá trình học tập. Vì thế, vấn đề
nghiên cứu và vận dụng phương pháp dạy học hợp tác trong dạy học hố học
mang tính thiết thực và ý nghĩa thực tiễn to lớn.
Trên thế giới đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu, đề xuất và tổ chức
thành công phương pháp dạy học hợp tác mà chúng ta phải kể đến như: Qintilian
(thế kỉ I), Gian Anốt Kômenxky (thế kỉ XVII), Joseph Lancaster và Andrew Bell
(cuối thế kỉ XVIII), đại tá Francis Parker (cuối thế kỉ XIX), John Dewey (đầu
những năm 1890), Sherif và Hovland (năm 1961), Stuart Cook (năm 1969),
Slavin và Xlơ – mô Sa – ran và Rat – chơ Het – Ladarovit (năm 1980), Xpen –
xơ Kanga (năm 1985), Astin (năm 1992), hai anh em David và Roger Jóhnon,
Shlomo Shara, Robert Slavin, Giăng - giắc – Rút Xô, Pêxtalogi, Đisxtecvéc,
Usinxki, Fower, Consimet, Dewey…
Ở Việt Nam, cùng với quá trình hội nhập quốc tế đang phát triển mạnh mẽ
thì địi hỏi phải có một nền giáo dục toàn diện, sâu sắc, kết hợp hài hoà với các
phương pháp dạy học khác. Hiện nay, ở nước ta cũng đã có nhiều người quan
tâm đến phương pháp dạy học hợp tác, có thể nói đến những thầy giáo – cô giáo,
những nhà nghiên cứu như: Nguyễn Hữu Châu, Nguyễn Bá Kim, Phan Trọng
Ngọ, Hoàng Lê Minh, Nguyễn Thanh Bình, Ngơ Thị Thu Dung, Nguyễn Thị
Phương Hoa, Nguyễn Triệu Sơn…
Tuy nhiên, cũng có những lúc, ở một số nới vẫn cịn có những ý kiến đánh
giá và tranh luận khác nhau về phương pháp dạy học này. Có thể nói, hợp tác là
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
3
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
một biểu hiện văn minh của xã hội hiện đại. Muốn có những người biết làm việc
hợp tác trong một cộng đồng thì ngay từ khi bước chân vào trường học, phẩm
chất này phải nên được hình thành và rèn luyện. Lớp học với sự đa dạng của các
đối tượng là một mơi trường tốt để hình thành và phát triển các kĩ năng hợp tác
cho mỗi học sinh.
Vậy, dạy học hợp tác có nên được sử dụng trong dạy học hố học ở
trường phổ thơng hay khơng? Nếu áp dụng phương pháp dạy học hợp tác thì đáp
ứng được mục tiêu giáo dục ở mức độ nào? Vai ttrò của giáo viên trong dạy học
hợp tác như thế nào? Vai trò của học sinh ra sao? Để áp dụng dạy học hợp tác có
hiệu quả thì phải đảm bảo những điều kiện gì?...
Với tất cả những lí do nêu trên, tôi đã chọn đề tài: “Sử dụng dạy học hợp
tác theo nhóm vào dạy học hố học 10 THPT cơ bản, chương Oxi – Lưu
huỳnh”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng quan về cơ sở lí luận của dạy học hợp tác theo nhóm.
- Vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm vào dạy học hoá học
10 cơ bản, chương Oxi – Lưu huỳnh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu:
Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm trong dạy học hố học ở trường
trung học phổ thơng.
- Đối tượng nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm trong dạy học hoá học
10 cơ bản, chương Oxi – Lưu huỳnh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng quan cơ sở lí luận về dạy học hợp tác theo nhóm.
- Nghiên cứu nội dung của chương trình hóa học 10 cơ bản, cụ thể là nội
dung chương Oxi – Lưu huỳnh.
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
4
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
- Nghiên cứu việc áp dụng dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong dạy học
hố học 10 THPT cơ bản, chương Oxi – Lưu huỳnh.
- Thực nghiệm sư phạm đánh giá hiệu quả của việc áp dụng dạy học hợp
tác theo nhóm nhỏ trong dạy học hố học 10 THPT cơ bản, chương Oxi – Lưu
huỳnh.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận:
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết
+ Phương pháp giả thuyết
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp điều tra:
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục
- Phương pháp thống kê toán học
6. Điểm mới của đề tài
Vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong dạy học hố
học 10 THPT cơ bản, chương Oxi – Lưu huỳnh nhằm phát huy năng lực người
học, đặc biệt là năng lực cộng tác trong quá trình học tập.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn bao gồm 3 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận.
Phần II - Nội dung gồm:
Chương 1 – Cơ sở lí luận của đề tài
Chương 2 - Sử dụng dạy học hợp tác trong dạy học hoá học 10 THPT
cơ bản, chương oxi – lưu huỳnh
Chương 3 - Thực nghiệm sư phạm
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
5
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
PHẦN II - NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 – CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học và vấn đề hợp tác học tập
của học sinh
1.1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay
Phương hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được xác định bằng Nghị
quyết Trung ương 4 – khoá VII ( tháng 1 – 1993), Nghị quyết Trung ương 2 –
khoá VIII ( tháng 12 – 1996) và được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ giáo
dục và đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15 ( tháng 4 – 1999).
Luật giáo dục, điều 24.2 đã ghi rõ: “ Phương pháp giáo dục phổ thơng
phải phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học,
rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
1.1.1.1. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học
- Sự chuyển dời nền kinh tế của đất nước đòi hỏi phải đổi mới giáo dục.
Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta đã và đang có những
chuyển biến mạnh mẽ từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường , nhiều
thành phần kinh tế dưới sự quản lí của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Cùng với mục tiêu cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước, áp dụng
những thành tựu khoa học công nghệ, tăng cường hội nhập với các nước trong
khu vực và trên thế giới, đòi hỏi giáo dục phải đào tạo nên những con người lao
động có tính sáng tạo, thích ứng với sự phát triển nhanh và đa dạng của xã hội.
Nước ta cũng đã gia nhập WTO, hướng tới xây dựng một xã hội tri thức phù hợp
với sự phát triển trên thế giới.
Cùng với xu hướng mới, đòi hỏi giáo dục phải đổi mới để đáp ứng yêu
cầu đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội mới – xã hội tri thức.
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
6
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
Xã hội tri thức là xã hội toàn cầu hố, trình độ giáo dục trở thành yếu tố
tranh đua quốc tế, mang lại lợi ích cho đất nước. Xã hội tri thức đã đặt ra cho
giáo dục những yêu cầu cơ bản cần đạt được, cụ thể là:
Thứ nhất, giáo dục cần giải quyết mâu thuẫn, đó là tri thức ngày càng tăng
nhanh mà thời gian đào tạo có hạn nên địi hỏi giáo dục phải ln đổi mới nội
dung, cập nhật kiến thức trong quá trình đào tạo.
Thứ hai, giáo dục cần đào tạo con người đáp ứng được những yêu cầu của
thị trường lao động và nghề nghiệp cũng như cuộc sống, có khả năng hồ nhập
và cạnh tranh quốc tế.
Các phẩm chất của người lao động mà giáo dục đào tạo cần chú ý đặc bịêt
là: năng lực hành động, tính tự lực và trách nhiệm, năng lực cộng tác làm việc,
năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, khả năng học tập suốt đời.
Từ các yêu cầu này, đòi hỏi giáo dục nước ta cần có sự đổi mới tồn diện
về mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học, phương tiện và hình thức tổ chức
dạy học.
- Thực trạng giáo dục ở nước ta trong giai đoạn hiện nay đặt ra yêu cầu
cấp thiết phải đổi mới phương pháp dạy học.
Trong những năm gần đây, giáo dục Việt Nam cũng đã có những bước
chuyển đáng kể. Nhưng thực tế thì hiện nay, giáo dục vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển của xã hội với sự phát triển ngày càng hiện đại của giáo dục
thế giới. Các phương pháp dạy học truyền thống tuy đã đạt được những thành
công nhất định, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Hiện nay, trong giáo dục còn tồn
tại nhiều vấn đề như:
+ Học sinh học tập thụ động, thiếu động lực học tập, ỷ lại vào nhà trường,
gia đình…
+ Giáo viên cịn dạy theo phương pháp thơng báo, sử dụng các phương
pháp dạy học tích cực chưa nhiều…
+ Tiêu cực trong xã hội ảnh hưởng đến tâm lí và nhận thức của học sinh…
vvv…
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
7
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
Thực trạng giáo dục đặt ra yêu cầu đổi mới chuyển từ nền giáo dục mang
tính hàn lâm, lí thuyết, xa rời thực tiễn sang nền giáo dục mới chú trọng cơng tác
hình thành năng lực hành động, phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo của
người học.
1.1.1.2. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học
Để đáp ứng yêu cầu đào tạo nhân lực và xu thế hội nhập hiện nay thì đổi
mới phương pháp dạy học có thể định hướng theo các hướng sau:
- Cải tiến, hoàn thiện các phương pháp dạy học đang được sử dụng, góp
phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của dạy học.
- Bổ sung, phối hợp nhiều phương pháp dạy học, khắc phục hạn chế của
các phương pháp dạy học đang sử dụng nhằm đạt được các mục tiêu bài học đặt
ra.
- Thay đổi phương pháp dạy học đang sử dụng bằng các phương pháp dạy
học mới, tối ưu, kết hợp với việc sử dụng các phương tiện truyền thông đa
phương tiện nhằm đem lại hiệu quả dạy học cao hơn.
Định hướng đổi mới giáo dục đã được pháp chế hoá trong Luật giáo dục
(điều 24.2) đã đề cập ở trên. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học được thể
hiện cô đọng ở hai nội dung sau:
Một là, đổi mới giáo dục hướng đến việc phát huy tính tích cực chủ động,
độc lập, sáng tạo trong nhận thức học tập của học sinh. Phát huy tính tích cực
học tập của học sinh là nguyên tắc nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của dạy
học.
Hai là, trong dạy học xem học sinh là chủ thể hoạt động, giáo viên chỉ là
người tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ học sinh khám phá, tìm tịi và tiếp nhận kiến
thức.
1.1.2. Vấn đề hợp tác học tập của học sinh
Học tập là công việc do chính học sinh thực hiện, chứ khơng phải được
người khác làm sẵn cho các em. Q trình học tập khơng phải là một mơn thể
thao nào đó có khán giả. Nó địi hỏi sự tham gia trực tiếp và tích cực của học
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
8
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
sinh. Giống như những vận động viên leo núi, học sinh sẽ dễ dàng đạt được kết
quả hơn khi chính các em là một bộ phận của nhóm học hợp tác nào đó. Hợp tác
ở đây có nghĩa là cùng chung sức để đạt được những mục tiêu chung. Trong các
tình huống hợp tác, cá nhân người học tìm kiếm những kết quả có ích cho họ và
đồng thời có ích cho tất cả các thành viên khác trong nhóm.
Học hợp tác là việc sử dụng các nhóm nhỏ để học sinh làm việc cùng
nhau nhằm tối đa hoá kết quả học tập của bản thân mình cũng như của người
khác. Nó có thể đối lập với kiểu học cạnh tranh (học cạnh tranh nghĩa là học
sinh tranh đấu với nhau để đạt được mục tiêu mà chỉ một hoặc vài người mới
giành được) và học hợp tác cũng khác với kiểu học cá nhân (học cá nhân nghĩa
là học sinh tự làm việc một mình để đạt được những mục tiêu học tập của mình,
khơng liên quan đến mục tiêu của người khác).
1.2. Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ
Trong xu hướng tồn cầu hố đang phát triển rộng thì nhu cầu hợp tác
xuyên quốc gia ngày càng phổ biến rộng rãi. Cùng với xu hướng đó, năng lực
hợp tác trong dạy học cũng trở thành mục tiêu đào tạo của ngành giáo dục nói
chung và nhà trường trung học phổ thơng nói riêng.
Một số quan điểm khoa học gần đây đã làm rõ bản chất của việc học theo
cách nhìn mới. Theo quan điểm tâm lí học lịch sử, L.X.Vưgotsky cho rằng các
chức năng tâm lí cấp cao xuất hiện trước hết ở mức độ liên nhân cách giữa các
cá nhân trước khi chúng tồn tại ở mức độ tâm lí bên trong. Vì thế theo ông, một
lớp học cần xem trọng sự khám phá có trợ giúp hơn là sự tự khám phá. Theo
Vưgotsky: “ Điều người học có thể làm qua hợp tác hơm nay thì họ có thể làm
một mình ngày mai”, và học tập hợp tác cùng nhau có thể phát triển được kĩ
năng nhận thức về xã hội. Vấn đề “ khơng phải là đưa chân lí đến cho học sinh
mà phải làm thế nào để lúc nào học sinh cũng biết cách tìm đến chân lí”.
Theo quan điểm tâm lí học hoạt động, khi nghiên cứu bản chất tâm lí
người đã cho rằng tâm lí hình thành hoạt động. Giáo sư Nguyễn Minh Hạc đã
từng khẳng định rằng: “ nhà trường hiện đại ngày nay là nhà trường hoạt động
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
9
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
dùng phương pháp hoạt động… thu hẹp sự cưỡng bức của nhà trường thành sự
hợp tác bậc cao. Phương pháp giáo dục bằng hoạt động là dẫn dắt học sinh tự
xây dựng công cụ làm học sinh thay đổi từ bên trong… Hoạt động cùng nhau,
hoạt động hợp tác giữa thầy và trò, hoạt động hợp tác giữa trò và trị có một tác
dụng lớn lao. Cần kết hợp hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm. Dạy học là tổ
chức các dạng hoạt động khác nhau cho học sinh, dạy học cần thay đổi phương
thức cưỡng bức học sinh học tập bằng phương thức học tập hợp tác cùng nhau”.
1.2.1. Khái niệm dạy học hợp tác
1.2.1.1. Một số quan điểm về dạy học hợp tác
Theo D. Johnson, R. Johnson và Holubec (năm 1990): học tập hợp tác là
toàn bộ những hoạt động học tập mà học sinh thực hiện cùng nhau trong các
nhóm trong hoặc ngồi phạm vi lớp học. Có năm đặc điểm quan trọng nhất mà
mỗi giờ học hợp tác phải đảm bảo được là:
- Sự phụ thuộc lẫn nhau một cách tích cực.
- Ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân.
- Sự tác động qua lại.
- Các năng lực xã hội.
- Đánh giá nhóm.
Theo J. Cooper và các tác giả khác ( năm 1990): học tập hợp tác là một
chiến lược học tập có cấu trúc, có chỉ dẫn một cách có hệ thống, được thực hiện
cùng nhau trong các nhóm nhỏ nhằm đạt được nhiệm vụ chung.
Hai anh em David và Roger Johnson đã đưa ra quan điểm rằng: khi
nghiên cứu đưa ra một phương pháp dạy học người ta cần phải quan tâm đến cấu
trúc, mục tiêu, quá trình học tập và kết quả dạy học. Hai ông đã đứng trên quan
điểm triết học với sự tồn tại khách quan của các quy luật sống cịn trong xã hội
lồi người để đưa ra tính tất yếu của việc sử dụng phương pháp dạy học hợp tác.
Phương pháp dạy học hợp tác được xem như một cách thức để phát triển sự phụ
thuộc lẫn nhau tích cực giữa các mối quan hệ người - người nhằm đạt được mục
tiêu xã hội là loài người ngày càng phát triển theo chiều hướng tốt đẹp.
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
10
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
Năm 1983, David và Roger Johnson đã phát biểu: “ Nơi nào thực sự áp
dụng dạy học hợp tác, nơi đó học sinh được học nhiều hơn, nhà trường dường
như tốt hơn, học sinh thân thiện với nhau hơn, tự trọng hơn và học các kĩ năng
xã hội hiệu quả hơn”. Theo tài liệu “ Learning to gether and alone” ( Học cùng
nhau và học một mình) của David và Roger Johnson ( NXB Prentice Hall, năm
1961): trong mỗi lớp học, giáo viên có thể xây dựng bài học sao cho học sinh
làm việc một cách hợp tác trong các nhóm nhỏ, bảo đảm mọi thành viên nắm
vững tài liệu được giao… nhằm đạt được các tiêu chí đặt ra từ trước ở mức độ
xuất sắc.
Theo Francis Parker: “ Các thúc đẩy mạnh mẽ việc học tập cũng như dạng
hoạt động khác là tinh thần giúp đỡ lẫn nhau”. Ở đây, dạy học hợp tác là một
chiến lược dạy học nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, trong đó các thành
viên tham gia hoạt động và học tập cùng nhau trong những nhóm nhỏ và giữa
các nhóm với nhau nhằm mục đích phát triển sự hiểu biết và rèn luyện phong
cách sống cho học sinh. Qua sự phát triển của loài người, chúng ta nhận thấy:
hợp tác là phương thức chủ yếu không thể thiếu cho sự tồn tại của xã hội. Xã hội
loài người tồn tại và phát triển được là do sự hợp tác giữa những con người lại
với nhau. Vì thế, dạy học hợp tác cho học sinh nhằm tạo tiền đề và phát triển
khả năng hợp tác của con người nhằm tạo một xã hội ngày càng phát triển văn
minh, hiện đại. Dạy học hợp tác không chỉ giúp học sinh lĩnh hội kiến thức mà
cịn có mục đích cao hơn là dạy cách sống cho học sinh. Đặc điểm của dạy học
hợp tác là tạo nên sự chấp nhận, tôn trọng, liên kết và tin tưởng lẫn nhau giữa
các đối tượng trong giáo dục.
Để đạt được thành tích trong học tập, các học sinh cần cùng nhau tìm
kiếm và khai thác thơng tin. Việc học tập hợp tác sẽ giúp học sinh làm được điều
đó.
Vấn đề mà các nhà giáo dục quan tâm là kết quả học tập của học sinh. Uốt
– đơ – râu Uyn – sơn đã khẳng định: “ hình thức tối cao của tính hiệu quả là sự
hợp tác tự nguyện giữa những người tự do”. Như vậy, để mang lại thành tích và
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
11
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
sản phẩm tốt nhất thì việc hợp tác cùng nhau nhằm đạt đến mục tiêu chung là
một trong những nguyên lí quan trọng nhất của tâm lí học quản lí và tâm lí học
xã hội. Học tập hợp tác sẽ khẳng định rõ điều đó khi có các mục tiêu học tập
quan trọng, địi hỏi sự thơng thạo kiến thức, kĩ năng và khả năng ghi nhớ dài lâu.
Đặc biệt là khi nhiệm vụ học tập phức tạp thì địi hỏi các thành viên phải có lịng
quyết tâm, sự kiên trì, bền bỉ và gắn kết chặt chẽ để từ đó xây dựng nên nhiều
cách suy nghĩ khác nhau, các cách lập luận khác nhau.
Riêng cá nhân tôi cho rằng, dạy học hợp tác là một phương pháp dạy học
tích cực, trong một nhóm có các học sinh cùng học tập, các học sinh trong nhóm
có sự cộng tác học tập, giữa các nhóm cũng có sợ cộng tác để đạt được các mục
tiêu chung. Trong phương pháp dạy học hợp tác, giáo viên đóng vai trị là người
tổ chức, thiết kế và điều khiển việc học của học sinh thông qua học hợp tác bằng
việc thiết kế các giờ học hợp tác. Vai trò của học sinh là người học tập, trau dồi
kiến thức trong sự hợp tác. Do đó, hợp tác chính là phương tiện, là mục tiêu dạy
học.
Phương pháp dạy học hợp tác là nhân tố quan trọng trong q trình dạy
học nói chung và trong dạy học hố học nói riêng. Dạy học hợp tác có ý nghĩa to
lớn, đó là khi học sinh tham gia vào các nhóm học tập sẽ thúc đẩy quá trình học
tập, khơng khí học tập và đưa đến hiệu quả cao, tăng tính chủ động tư duy, tính
sáng tạo và khả năng ghi nhớ của học sinh trong quá trình học tập, tăng tính
hứng thú học tập cho học sinh, giúp học sinh phát triển các kĩ năng giao tiếp
bằng ngôn ngữ, phát triển tư duy hội thoại, nâng cao ý thức trách nhiệm và sự
tin tưởng của người học, thúc đẩy những mối quan hệ cạnh tranh mang tính tích
cực trong học tập.
Như vậy, dạy học hợp tác là một phương pháp dạy học tích cực, có tính
xã hội cao và phát huy được tối đa mục tiêu đặt ra đối với người học.
1.2.1.2. Các cơ sở khoa học về phương pháp dạy học hợp tác
Phương pháp dạy học hợp tác được xây dựng trên cơ sở các thuyết sau:
a. Thuyết làm việc đồng đội ( tức là học tập mang tính xã hội)
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
12
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
Thuyết này có tư tưởng chính là khi các cá nhân làm việc cùng nhau và
cùng hướng tới một mục tiêu chung thì sự phụ thuộc lẫn nhau sẽ thúc đẩy họ
hoạt động tích cực hơn. Từ đó sẽ giúp nhóm và giúp chính cá nhân trong nhóm
đạt đến thành cơng. Để cùng nhau thành cơng, nhóm thường tìm cách giúp đỡ
những thành viên đặc biệt, mọi người đều có xu hướng vươn tới sự thống nhất
và coi trọng thành viên của nhóm mình.
Thuyết này đã được nhiều nhà giáo dục học trên thế giới áp dụng thực
nghiệm trong các nhà trường bằng các hình thức học tập như: học cùng nhau, tổ
học tập, tổ hỗ trợ cá nhân. Các thực nghiệm đã chứng tỏ các mơ hình học tập
hợp tác xây dựng trên thuyết này có tính chất xã hội và mang lại kết quả vượt xa
các cách học truyền thống.
b. Thuyết dạy học lẫn nhau ( còn gọi là thuyết khoa học nhận thức mới)
Palincsar và Brown đã xây dựng và phát triển phương pháp dạy lẫn nhau
này. Theo phương pháp này thì giáo viên và học sinh thay phiên nhau đóng vai
trị người dạy ( sau khi cùng nghiên cứu tài liệu học tập). Giáo viên làm mẫu,
đưa ra cách thức nêu ra vấn đề, đặt ra các câu hỏi, cách trả lời các câu hỏi đó,
cách bình luận, cách tìm ngơn ngữ để diễn đạt chính xác, thích hợp nội dung
kiến thức, khái quát và rút ra các kết luận. Học sinh học cách làm của giáo viên
và áp dụng vào trong nhóm học tập của mình. Vai trị của từng thành viên được
ln phiên thay đổi.
c. Thuyết giải quyết mâu thuẫn ( còn gọi là thuyết G. Piaget)
Theo G. Piaget, để thúc đẩy sự phát triển trí tuệ cho học sinh, giáo viên
nên đưa học sinh vào những tình huống làm xuất hiện những quan điểm mâu
thuẫn với nhau. Sau đó, giáo viên tổ chức học sinh vào các nhóm để thảo luận,
suy nghĩ, trao đổi, tư duy hội thoại có phê phán… cho đến khi có sự thống nhất,
nhất trí trong nhóm hoặc có câu trả lời đúng thì đi đến kết luận về bài học. Sau
khi học sinh đã thống nhất kiến thức, giáo viên tiến hành kiểm tra riêng từng em.
Kết quả cho thấy những em khi đầu còn kém về một vài vấn đề nào đó thì bây
giờ có thể tự mình giải quyết nội dung bài học một cách đúng đắn một vấn đề.
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
13
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
Thông qua việc chứng kiến cách lập luận của bạn và cách suy nghĩ của mình,
học sinh học cách tìm ra những nguyên nhân của sự mâu thuẫn. Từ đó, tìm ra
được phong cách tự học có tác dụng phát triển tư duy độc lập, sáng tạo.
d. Thuyết hợp tác tập thể
L. X. Vưgotsky cho rằng: “ mọi chức năng tâm lí cao cấp đều có nguồn
gốc xã hội và xuất hiện đầu tiên ở cấp độ liên cá nhân, sau đó mới được chuyển
vào trong và tồn tại ở cấp độ nội cá nhân”.
L. X. Vưgotsky khẳng định: “ Trong sự phát triển của trẻ, mọi chức năng
tâm lí cao cấp đều xuất hiện hai lần: lần thứ nhất như là một hoạt động tập thể,
một hoạt động xã hội, nghĩa là như một chức năng biên tâm lí; lần thứ hai như là
một hoạt động cá nhân, như là một chức năng tâm lí bên trong”.
L. X. Vưgotsky đã đưa ra khái niệm và xây dựng lí thuyết về vùng phát
triển gần nhất. Ông thấy rằng: dạy học chỉ có hiệu quả đối với việc thúc đẩy sự
phát triển khi tác động của nó nằm ở vùng phát triển gần nhất của học sinh. Quá
trình chuyển vào trong và hoạt động bên trong của đứa trẻ chỉ xảy ra trong mối
quan hệ với những người xung quanh và sự hợp tác với bạn bè. Nhiệm vụ của
giáo viên là tìm phương án để kích thích và làm thức tỉnh quá trình chuyển vào
trong và hoạt động bên trong của học sinh với quan điểm: “Điều người học có
thể làm qua hợp tác hơm nay thỉ họ có thể làm một mình ngày mai”.
1.2.2. Khái niệm dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ
Dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ là một phương pháp dạy học tích cực.
Dạy học hợp tác, từ trước đến nay có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng
đều được hiểu là phương pháp dạy học trong đó học sinh dưới sự hướng dẫn của
giáo viên làm việc phối hợp với nhau theo những nhóm nhỏ để hồn thành mục
đích chung của nhóm đã được đặt ra.
Để sự phối hợp trong học tập hợp tác theo nhóm nhỏ thật sự mang lại hiệu
quả, các thành viên phải làm việc trong những tổ với những đặc trưng tương tự
nhau về tâm lí và phối hợp hành động để thực hiện mục đích chung.
Dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ có những nét đặc trưng sau:
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
14
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
1.2.2.1. Sự phụ thuộc lẫn nhau một cách tích cực
Học sinh cộng tác với nhau theo những nhóm nhỏ. Sự phụ thuộc lẫn nhau
một cách tích cực thể hiện ở những điểm sau:
- Các thành viên trong nhóm nỗ lực, phấn đấu hồn thành phần việc của
mình để đạt được mục tiêu chung của cả nhóm. Qua đó, tất cả các thành viên
trong nhóm đều tiến bộ. Ở đây sự nỗ lực của mỗi cá nhân trong nhóm là rất cần
thiết và không thể thiếu đối với sự thành cơng của nhóm. Sự đóng góp của cá
nhân này xuất phát từ khả năng của mỗi người hoặc từ vai trị và trách nhiệm
của người đó đối với cơng việc chung. Thành công của mỗi cá nhân chỉ mang ý
nghĩa góp phần tạo nên sự thành cơng của nhóm.
- Các thành viên trong nhóm cùng chia sẻ số phận chung khi tất cả cùng
thắng hoặc thua dựa trên nền tảng thành tích chung.
- Sự phụ thuộc lẫn nhau của các thành viên trong nhóm là thành tích.
Trong một nhóm hợp tác, mỗi thành viên có trách nhiệm và nghĩa vụ giúp đỡ, hỗ
trợ các thành viên khác và ngược lại. Mỗi thành viên là một nhân tố đem lại hiệu
quả cho nhóm. Do đó, hiệu quả học tập của mỗi học sinh có được là nhờ sự nỗ
lực, khả năng của bản thân cùng với sự nổ lực và khả năng của các học sinh
khác trong nhóm.
- Tính đồng đội: mỗi học sinh là một thành viên của đội, do đó tính đồng
đội được phát huy và chia sẻ, kết hợp các thành viên cùng hợp tác một cách có
tình cảm.
- Sự phân cơng hài hồ và thích hợp: mỗi học sinh được tham gia và hồn
thành cơng việc phù hợp với năng lực của bản thân, không xảy ra sự chồng chéo
cơng việc giữa các thành viên trong nhóm. Sự phân cơng hợp lí sẽ giúp nhóm
gặt hái được nhiều thành công trong sự nỗ lực phấn đấu của từng cá nhân và
thành cơng đó khơng phải là thành tích của một người mà là kết quả của sự hợp
tác giữa các thành viên.
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
15
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
- Sự cảm nhận hương vị chiến thắng: đôi khi cần có những lúc để học sinh
cảm nhận được cảm xúc chiến thắng cũng như xúc cảm khi chưa thành cơng.
Qua đó mang đến cho học sinh cảm giác thân thiện, niềm tự hào.
1.2.2.2. Hoạt động xây dựng nhóm
Hoạt động xây dựng nhóm địi hỏi sự nỗ lực của từng cá nhân. Nhóm
thường gồm 4 – 5 học sinh do giáo viên phân cơng, trong đó có tính đến tỉ lệ cân
đối về sức khoẻ, giới tính, thành phần bản thân học sinh … hoặc có thể cho học
sinh tự chọn nhóm. Các thành viên trong nhóm cùng chia sẻ trách nhiệm lãnh
đạo nhóm, trực diện trao đổi với nhau.
1.2.2.3. Ràng buộc trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm nhóm
Đây là nét đặc trưng cơ bản của học tập hợp tác. Cá nhân thể hiện trách
nhiệm đối với bản thân và đối với các thành viên khác trong nhóm. Mỗi cá nhân
cần có sự nỗ lực cá nhân trong sự ràng buộc trách nhiệm của các cá nhân trong
nhóm với nhau. Mỗi cá nhân phải hết sức nỗ lực và cùng nhau hỗ trợ thực hiện
mục tiêu chung của cả nhóm. Khi mà cá nhân và tập thể nhóm khơng thống nhất
quan điểm với nhau thì hợp tác theo nhóm chỉ là hình thức và sớm muộn cũng sẽ
bị tan rã. Để đảm bảo việc kết hợp trách nhiệm cá nhân và nhóm đạt kết quả tốt,
mỗi thành viên trong nhóm cần được phân cơng thực hiện một vai trò nhất định
(được luân phiên nhau trong các hoạt động học tập khác nhau) và mỗi thành
viên phải hiểu rằng: không thể dựa dẫm vào người khác mà tất cả mọi người
đều phải học, phải đóng góp phần vào cơng việc chung và thành cơng của nhóm.
Một số tác giả khi thử nghiệm dạy học hợp tác đã đưa ra một số biện
pháp như sau:
+ Biện pháp 1: giữ quy mơ nhóm ở mức độ vừa phải. Kích thước nhóm
càng nhỏ thì trách nhiệm cá nhân càng lớn, nhưng kích thước nhóm nhỏ q thì
tính hợp tác lại giảm đi. Vì vậy, phải chọn kích thước nhóm phù hợp với từng
nội dung.
+ Biện pháp 2: Mỗi học sinh có phiếu học tập riêng để thể hiện năng lực
của bản thân.
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
16
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
+ Biện pháp 3: Bất ngờ kiểm tra bằng cách gọi một học sinh bất kì trong
nhóm trình bày cơng việc và kết quả của nhóm.
+ Biện pháp 4: giáo viên quan sát từng nhóm, quan tâm đến mức độ đóng
góp của mỗi cá nhân để có cách hướng dẫn, nhắc nhở và điều chỉnh nhóm.
+ Biện pháp 5: hướng dẫn nhóm trưởng cùng các thành viên kiểm tra chéo
nhau về việc lĩnh hội kiến thức và cách trình bày, lập luận để sẵn sàng đại diện
cho nhóm.
+ Biện pháp 6: tạo điều kiện để học sinh dạy lại những gì đã học được cho
người khác.
1.2.2.4. Quá trình hoạt động nhóm, học sinh nhận thức được tầm quan trọng
của các kĩ năng học hợp tác.
Trong học tập hợp tác, học sinh dành cho nhau những sự hỗ trợ và cộng
tác có ý nghĩa và hiệu quả, trao đổi thơng tin kiến thức cũng như cách lập luận
về kiến thức có hiệu quả hơn. Học sinh dành cho nhau sự phản hồi để tiếp tục
nâng cao khả năng thể hiện của mình trước nhiệm vụ được giao. Học sinh được
thử thách các lí lẽ và kết luận của nhau nhằm đưa ra các kết luận đúng và chính
xác về nội dung học tập đang trao đổi. Học sinh cùng nhau ủng hộ những quyết
định đúng đắn, tác động lẫn nhau, phấn đấu cho mục tiêu chung. Học sinh được
hành động trong sự hợp tác và cảm thấy ở các bạn khác có sự tin tưởng đối với
mình, thơi thúc phấn đấu để cùng có lợi. Đặc biệt, học sinh khơng còn cảm thấy
lo âu và căng thẳng trong học tập mà lại được học tập trong bầu khơng khí chân
tình, cởi mở, thân thiện, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau. Trong q trình hoạt động
nhóm, sự tương tác trực tiếp giữa các thành viên thể hiện qua việc chia sẻ tri
thức của mình cho những người khác trong nhóm, thảo luận nội dung đang học
với tư duy hội thoại có phê phán. Thông qua sự tương tác này, học sinh được tự
kiểm tra kiến thức của mình, được giải thích bằng lời cách thức giải quyết vấn
đề của mình. Trong q trình hoạt động nhóm tất yếu sẽ có những ý kiến đối lập,
nhưng qua thảo luận, những ý kiến đối lập dễ dàng tìm được tiếng nói chung. Sự
tương tác trực tiếp giữa các thành viên trong học tập hợp tác sẽ tác động tốt đối
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
17
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
với học sinh như: tăng cường động cơ học tập, kích thích sự giao tiếp, tăng
cường bản năng xã hội như thái độ, cách biểu đạt, khích lệ các thành viên tham
gia phát triển mối quan hệ gắn bó, quan tâm đến nhau.
1.2.2.5. Kĩ năng hợp tác
Trong học tập hợp tác, học sinh không chỉ lĩnh hội được kiến thức liên
quan đến nội dung – chương trình mơn học mà còn được học, được thực hành và
được thể hiện, củng cố và nâng cao các năng lực và kĩ năng xá hội như: kĩ năng
lắng nghe, kĩ năng hỏi - trả lời, kĩ năng sử dụng ngữ điệu khi giao tiếp… Đây là
yếu tố cần thiết cho hoạt động học tập hợp tác có hiệu quả. Hoạt động hợp tác
theo nhóm địi hỏi ở học sinh tính tổ chức, sự xây dựng và duy trì khơng khí tin
tưởng lẫn nhau, kĩ năng giao tiếp có hiệu quả, cách giải quyết mâu thuẫn trên
tinh thần xây dựng. Đó là năng lực tư duy hội thoại có phê phán.
Trong học tập hợp tác, học sinh càng có nhiều kĩ năng xã hội, giáo viên
càng quan tâm và động viên khen thưởng việc sử dụng các kĩ năng đó thì thành
tích học tập đạt được sẽ càng cao hơn. Các kĩ năng xã hội, đó là: kĩ năng lãnh
đạo, kĩ năng quyết đốn, kĩ năng tạo lịng tin, kĩ năng giải quyết các bất đồng
như: biết cách lắng nghe, biết cách kiềm chế, biết cách lập luận cho quan điểm
của mình một cách thuyết phục.
1.2.3. Cấu trúc của dạy học hợp tác theo nhóm
Một tác giả người Đức đã đưa ra sơ đồ cấu trúc của quá trình tổ chức dạy
học hợp tác theo nhóm như sau:
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
18
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
(1)
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
Vấn đề
(2)
Nhiệm vụ
Lớp học
(3)
Nhóm
(4)
Nhóm
Nhóm
Thống nhất kết quả làm việc
(5)
Đánh giá kết quả
Trong đó: (1) - Tạo động cơ, hứng thú
(2) - Phân tích vấn đề
(3) - Phân cơng cơng việc
(4) - Các nhóm trình bày kết quả, đánh giá giữa học sinh - học
sinh, học sinh – giáo viên và đi đến kết luận
(5) – Giáo viên đánh giá chung kết quả của học sinh
Trong tài liệu lí luận cơ bản về dạy và học tích cực của giáo sư Trần Bá
Hoành và một số tác giả khác đã đưa ra và cụ thể hóa cấu tạo một tiết học hoặc
một buổi làm việc theo nhóm như sau:
1- Làm việc chung cả lớp
a. Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức
b. Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ
c. Hướng dẫn cách làm việc trong nhóm
2- Làm việc theo nhóm
a. Phân cơng trong nhóm
b. Cá nhân làm việc độc lập rồi trao đổi hoặc tổ chức thảo luận trong
nhóm
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
19
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
c. Cử đại diện (hoặc phân cơng) trình bày kết quả làm việc theo nhóm
3- Tổng kết trước lớp
a. Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả
b. Thảo luận chung
c. Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo hoặc vấn đề tiếp theo
trong bài
Hai cách biểu diễn mặc dù khác nhau về hình thức nhưng về cơ bản đều
phản ánh các bước chung nhất trong quy trình thực hiện dạy học hợp tác mà
người giáo phải đặc biệt chú ý và vận dụng linh hoạt, sáng tạo.
Sơ đồ tóm tắt cấu trúc hoạt động tương tác giữa giáo viên và học sinh trong
quá trình dạy học hợp tác theo nhóm được mơ tả như sau:
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
Hướng dẫn HS tự
nghiên cứu
Tự nghiên cứu cá nhân
Tổ chức thảo luận
nhóm
Hợp tác với bạn trong nhóm
Tổ chức thảo luận lớp
Hợp tác với bạn trong lớp
Kết luận đánh giá
Tự đánh giá, tự điều chỉnh
1.2.4. Quản lí tổ chức hoạt động dạy học hợp tác theo nhóm
1.2.4.1. Quan niệm về tổ chức giờ học theo nhóm
Tổ chức giờ học theo nhóm là một kiểu tổ chức giờ học lên lớp, nhưng
tuỳ từng nhiệm vụ của mỗi giai đoạn tiết học, nếu thoã mãn một số điều kiện thì
có thể tổ chức học sinh thành các nhóm nhỏ, tiến hành các hình thức học tập để
giải quyết bài tập của nhóm mình, qua đó đạt được mục tiêu của giờ học.
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
20
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
Trong giờ học theo nhóm, giáo viên dẫn dắt học sinh khám phá, lĩnh hội
kiến thức qua từng bước nhận thức, tổ chức sự tác động tương hỗ giữa học sinh
với học sinh, để các nhóm học sinh tự tiến hành các hoạt động của họ, qua đó có
thể rút ra các tri thức cần thiết cho mình. Giáo viên từ vai trò là người chủ của
giờ học trở thành người tổ chức, điều khiển học sinh tự điều hành các hoạt động
trong giờ học. Tuy nhiên để giúp học sinh tránh những sai lầm trong tổ chức giờ
học theo nhóm cần có một khoảng thời gian để giáo viên tổ chức cho học sinh
làm việc, thảo luận chung cả lớp.
Dạy học hợp tác theo nhóm có một số ưu điểm như: huy động trực tiếp sự
tham gia của học sinh vào các hoạt động trong giờ học. Ngoài sự tự lực học tập,
học sinh cịn hình thành được thói quen làm việc hợp tác, khả năng giao tiếp,
biết phân cơng và hình thành tinh thần trách nhiệm vì mục tiêu chung của cả
nhóm.
1.2.4.2. Quy trình tổ chức giờ học theo nhóm
Trong tổ chức giờ học theo nhóm có 3 nhân tố cơ bản nhất tác động với
nhau đó là: giáo viên, học sinh và đối tượng học tập. Quy trình tổ chức giờ học
theo nhóm phải làm rõ được mối liên hệ của ba nhân tố này và sự vận động của
chúng trong các bước dạy học.
Quy trình tổ chức giờ học theo nhóm bao gồm bốn bước cơ bản sau:
Giáo viên
↔
Bước 1: Hướng dẫn –
Học sinh
Tự nghiên cứu
↔ Đối tượng học tập
– Kinh nghiệm cá nhân
Bước 2: Tổ chức – Nhóm:học sinh ↔ học sinh – Kinh nghiệm nhóm
(Hợp tác, thảo luận)
Bước 3: Tổ chức – Nhóm 1↔ Nhóm 2 ↔ Nhóm 3 – Nội dung học tập
(Thảo luận)
Bước 4: Trọng tài, cố vấn – Tự điều chỉnh – Tri thức cá nhân, kiến
thức thu nhận được
Cụ thể các bước như sau:
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
21
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
Giáo viên
Bước 1: Hướng dẫn:
Học sinh
Tự tiếp nhận (huy động
kinh nghiệm cá nhân):
- nêu vấn đề, hình
- nhận xét, phát hiện vấn đề
thành tình huống có vấn đề
- thành lập nhóm
- tái hiện kiến thức
- nêu nhiêum vụ của mỗi nhóm
- tổ chức nhóm
Học sinh ↔ Học sinh
Bước 2: Điều khiển
(hợp tác,thảo luận theo nhóm)
- khích lệ học sinh làm việc
- tự đóng vai
- nêu câu hỏi gợi ý
- nêu giả thuyết, tự bảo vệ giả thuyết
- điều chỉnh khi hoạt động
- thảo luận, ghi chép
của học sinh chệch hướng
Nhóm ↔ Nhóm: thảo luận giữa
Bước 3: Tổ chức các nhóm thảo
luận với nhau
- yêu cầu mỗi một nhóm
các nhóm
- đại diện từng nhóm trình bày kết quả
báo cáo kết quả thu được
- ghi lại những vấn đề đã nhất
- bổ sung ý kiến
trí và chưa nhất trí
- tổ chức thảo luận
- ghi lại các ý kiến phản hồi
Bước 4: Trọng tài, kiểm tra
Học sinh làm việc cá nhân
( tự điều chỉnh)
- tóm tắt lại, tổng kết từng vấn
- So sánh giả thuyết của mình với kết
đề đã đưa ra ở bước 1
luận của lớp
- đưa ra nhận xét, đánh giá
- tự sửa sai
- rút kinh nghiệm
Trong bốn bước trên cần lưu ý : bước 1 và bước 4 là làm việc cá nhân, còn
bước 2 và bước 3 học sinh hoạt động theo từng nhóm. Bước 1 giúp học sinh
huy động và tái hiện kinh nghiệm cá nhân, tự nghiên cứu, suy nghĩ, khám phá,
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
22
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
tìm tịi. Bước 4 giúp học sinh tự lĩnh hội, tự điều chỉnh kiến thức thu nhận được,
giúp học sinh lĩnh hội kiến thức vững chắc hơn.
Để tổ chức học tập cho học sinh theo dạy học hợp tác theo nhóm thì giáo
viên cần lập kế hoạch, mục tiêu cụ thể của từng bài dạy. Giáo viên cần xác định
rõ mục tiêu trước khi tiến hành giờ học hợp tác theo nhóm. Có thể đưa ra hai
mục tiêu như sau :
Thứ nhất, mục tiêu về kiến thức, bao gồm kiến thức, kĩ năng, thái độ.
Thứ hai, mục tiêu về kĩ năng hợp tác.
Với cách thức sau có thể giúp giáo viên lập kế hoạch một bài dạy giúp
cho học sinh học tập hợp tác theo nhóm một cách có ý thức:
- Thảo luận có trọng tâm ( bước thảo luận đầu tiên): giáo viên tạo ra
những câu hỏi mà bài học cần làm rõ. Các câu hỏi nên chuẩn bị công phu, rõ
ràng trên giấy, viết lên bảng, hoặc dùng máy chiếu để học sinh có thể nhìn thấy
rõ và đọc chính xác. Cho học sinh thảo luận theo từng nhóm, mục đích là tăng
cường tổ chức trước những ý tưởng của học sinh về đề tài sẽ trình bày và thiết
lập những mong muốn, kì vọng mà bài giảng sẽ đề cập tới.
- Thảo luận thông qua trao đổi với bạn: chia bài học ra thành từng phần
nội dung nhỏ, khoảng 10 – 15 phút chuẩn bị nhiệm vụ cho một thảo luận ngắn
của từng nhóm học sinh sau mỗi phần của bài học. Nhiệm vụ thảo luận phải
ngắn gọn để học sinh có thể hồn thành trong khoảng 3 – 4 phút, với mục đích
bảo đảm rằng mọi học sinh đều tư duy một cách tích cực về vấn đề sẽ được trình
bày. Nhiệm vụ của thảo luận có thể là: tóm tắt câu trả lời cho những vấn đề được
thảo luận; phản hồi những lí thuyết, khái niệm, nội dung hay thơng tin được
trình bày; mơ tả chi tiết tài liệu được trình bày; dự đốn vấn đề được trình bày
tiếp theo; nỗ lực giải quyết những mâu thuẫn; giả định câu trả lời cho những vấn
đề được đặt ra; tiếp cận kiến thức mới; tìm quy trình giải bài tốn… Mỗi nhiệm
vụ thảo luận cần có bốn phần: trình bày câu trả lời, chia sẻ câu trả lời, lắng nghe
câu trả lời và đưa ra câu trả lời mới, hoàn chỉnh hơn câu trả lời ban đầu. Học
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
23
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
sinh cần nắm vững những kinh nghiệm trong thảo luận dể có kĩ năng thực hiện
nhiệm vụ trong một thời gian nhất định.
- Thảo luận có trọng tâm ( bước thảo luận cuối cùng): giáo viên chuẩn bị
nhiệm vụ để tóm tắt lại những kiến thức học sinh học được từ bài học, giúp học
sinh gắn những kiến thức vừa học vào vốn kiến thức đã có, hoặc chỉ ra cho học
sinh thấy nhiệm vụ ở nhà sẽ đề cập tới vấn đề gì, có liên hệ như thế nào với bài
học.
Giờ học có thể tiến hành như sau:
* Tạo ra các nhóm học sinh tự nguyện và ngẫu nhiên, thường là những
học sinh ngồi gần nhau. Giáo viên có thể sắp xếp chỗ ngồi khác nhau
trong từng giờ học để học sinh được gặp gỡ và trao đổi với nhiều bạn
khác trong lớp.
* Phân cơng cho mỗi nhóm hoàn thành nhiệm vụ ban đầu.
* Thực hiện phần đầu của bài học. Đưa ra nhiệm vụ thảo luận cho mỗi
nhóm từ 3 – 4 phút để hồn thành. Sử dụng cách thức: trình bày – chia sẻ
- lắng nghe – đưa ra câu trả lời mới. Chọn ngẫu nhiên 2 – 3 học sinh trình
bày tóm tắt phần thảo luận của nhóm mình.
* Thực hiện phần hai của bài giảng và đưa ra nhiệm vụ thảo luận thứ hai.
Cứ lặp lại như vậy cho đến khi bài học hoàn thành.
* Đưa ra nhiệm vụ học tập có trọng tâm cuối cùng để kết thúc bài học.
Dành 5 – 6 phút để tóm tắt và thảo luận về những vấn đề đã đề cập trong
giờ học.
* Thực hiện trình tự này một cách đều đặn để giúp học sinh nâng cao kĩ
năng và đẩy nhanh tốc độ hình thành những nhiệm vụ thành những nhiệm
vụ thảo luận ngắn.
1.2.4.3. Các hình thức tổ chức giờ học theo nhóm
Tuỳ vào nội dung, phương pháp dạy học của mỗi giờ học mà giáo viên
lựa chọn hình thức tổ chức giờ học theo nhóm thích hợp. Có thể có các hình
thức tổ chức sau:
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
24
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền
Khóa luận tốt nghiệp
Chun ngành lí luận và phương pháp dạy học
a. Nhóm 2 – 3 người
Ghép 2 học sinh ngồi cạnh nhau thành một nhóm, nhóm này thường được
sử dụng khi giao cho học sinh chấm và sửa bài cho nhau qua phiếu học tập, qua
các bài tập lựa chọn trong sách giáo khoa… hoặc sử dụng khi giao việc cá nhân,
học sinh phải huy động kinh nghiệm cá nhân để suy nghĩ, tìm tịi, sau đó trao đổi
kinh nghiệm nhằm giải quyết tình huống đề ra theo cách tốt nhất.
Ưu điểm của hình thức này là khơng mất thời gian tổ chức nhóm, khơng
xáo trộn chỗ ngồi mà vẫn huy động học sinh hoạt động hợp tác cùng nhau, sử
dụng ưu thế của tổ chức giờ học theo nhóm.
b. Nhóm từ 3 – 5 học sinh
Hình thức tổ chức nhóm nhỏ này có ưu điểm nổi bật là tổ chức gọn nhẹ,
huy động được tất cả học sinh vào giải quyết nhiệm vụ của nhóm. Đồng thời
trong lớp không cần xáo trộn bàn ghế mà sử dụng ngay học sinh ở hai dãy bàn
trên và dưới sát nhau tạo thành một nhóm.
Nhóm nhỏ thường được sử dụng để huy động học sinh trong nhóm giải
quyết các bài tập tình huống nhận thức, thực hành hoặc bài tập vận dụng kiến
thức giải quyết tình huống thực tiễn.
c. Nhóm từ 6 – 10 học sinh
Nhóm này thường được sử dụng trong các giờ có thí nghiệm thực hành,
học sinh phải thực hành, quan sát, phân tích hoặc rèn luyện kĩ năng tổ chức.
Nhóm này có tính tổ chức, hợp tác, phân cơng nhiệm vụ rõ ràng. Vì thế,
khi thành lập nhóm phải phân cơng nhiệm vụ từng thành viên. Xét về mặt tổ
chức trong lớp thì cần phải kê lại bàn ghế sao cho thuận lợi cho việc tổ chức dạy
học trong lớp, có khơng gian đủ rộng để giáo viên có thể đi lại điều khiển hoạt
động của các nhóm.
d. Nhóm theo dãy bàn trong lớp học (2 – 4 nhóm)
Hình thức này được sử dụng trong các trị chơi học tập hoặc giải một bài
tập nhận thức có tính thi đua. Cách tổ chức nhóm kiểu này thường nhanh, đơn
giản nhưng cần phải tổ chức sao cho giữa các nhóm có sự đồng đều. Giáo viên
GVHD: PGS.TS Lê Văn Năm
25
SV: Hồ Thị Ngọc Huyền