Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Lợi ích kinh tế và tác động của nó đối với các hoạt động kinh tế của các chủ thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 49 trang )

Tiểu luận:
Lợi ích kinh tế và tác
động của nó đối với các
hoạt động kinh tế của
các chủ thể
Nhóm 10:
Dương Thị Hồng Mai

K194151755

Phạm Thị Mỹ Hằng

K194151766

Đỗ Thị Hồng Ngọc

K194151777

Hồ Thị Ngọc

K194151778

Huỳnh Tố Nguyệt

K194151781

Nguyễn Huỳnh Như

K194151787

Phan Thị Thu Phương



K194151788

Nguyễn Thị Bích Phượng

K194151789

Nguyễn Thị Hồng Quyên

K194151790

Đỗ Phương Thảo

K194151798

Phạm Thị Thanh Thảo

K194151800

Trần Ngọc Quý Trân

K194151810

Mơn học: Kinh Tế Chính Trị Mác – Lê Nin
Giảng Viên: Thầy Nguyễn Đình Bình
Mã Học Phần: 202EC0309

1



MỞ ĐẦU:
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Lợi ích là một trong những động lực thúc đẩy hoạt động của con người. Trong
quá trình tồn tại và phát triển, sự tác động lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế
nhằm thỏa mãn nhu cầu sẽ hình thành quan hệ lợi ích. Mối quan hệ giữa các lợi
ích thúc đẩy hoạt động của con người và sự vận động của xã hội theo những
chiều hướng và mức độ khác nhau. Tuy nhiên, quan hệ lợi ích của các chủ thể
ln nảy sinh vấn đề phức tạp bởi lợi ích ln biến đổi theo nhu cầu của các chủ
thể, của xã hội.
Ở nước ta, trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò làm động lực của lợi ích
đối với sự tiến bộ xã hội. Trong những năm gần đây, càng đi sâu vào nền kinh
tế thị trường, vấn đề lợi ích nói chung, lợi ích kinh tế của cá nhân, lợi ích kinh
tế tập thể và lợi ích kinh tế xã hội hay các mối quan hệ giữa các lợi ích càng trở
nên phức tạp, tạo ra những vấn đề “nóng” cần phải giải quyết, xuất hiện những
biểu hiện của sự mất cân bằng, thiên lệch trong giải quyết quan hệ giữa lợi ích
của các chủ thể kinh tế. Thực chất đó là việc đề cao quá mức lợi ích cá nhân,
tập thể bất chấp luật pháp, đạo đức để đạt được lợi ích. Song ở thái cực ngược
lại, lại có những lợi ích cá nhân, tập thể chính đáng chưa được quan tâm đúng
mức, tạo điều kiện phát triển, nhiều giá trị cho sự phát triển cá nhân, tập thể
chưa được tạo lập, thành phần kinh tế tư nhân chưa thực sự phát huy một cách
hiệu quả tối đa. Cùng với đó, càng hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị
trường mạnh mẽ thì càng đặt ra vấn đề là phải làm cho cá nhân thỏa mãn lợi ích
chính đáng, đồng thời phải thúc đẩy đạt được những lợi ích xã hội để vừa bảo
đảm sự phát triển, vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Khơng ít các
chính sách của Đảng, của Nhà nước liên quan đến các chủ đề trên đã được ban
hành và đi vào sử dụng. Tuy nhiên, các mâu thuẫn cần giải quyết vẫn không
được giải quyết triệt để dẫn đến sự mất cân bằng trong giải quyết quan hệ lợi
ích giữa các chủ thể ngày càng lớn.
Đứng trước thực tế đó, nghiên cứu thực trạng lợi ích kinh tế của chủ thể kinh

tế, đề ra giải pháp cơ bản để hạn chế mâu thuẫn hướng tới xây dựng mối quan
hệ gắn kết và đảm bảo hài hồ lợi ích trong các quan hệ lợi ích cụ thể trong phát
triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là công việc hết sức cấp thiết.
Với ý nghĩa đó, nhóm lựa chọn chủ đề “Lợi ích kinh tế và những tác động của
nó đối với hoạt động kinh tế của các chủ thể” làm đề tài tiểu luận của mình.

2


2. Đối tượng nghiên cứu:
Sự tác động của lợi ích kinh tế đối với hoạt động kinh tế của các chủ thể ở Việt
Nam.

3. Mục tiêu:
3.1.

Mục tiêu chung:

Làm rõ hoạt động kinh tế của các chủ thể chịu tác động như thế nào bởi lợi ích
kinh tế. Từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của
hoạt động kinh tế thông qua các mâu thuẫn đã tìm ra qua nghiên cứu.
3.2.

Mục tiêu riêng:

Phân tích quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể, xác định những hạn chế trong
các mối quan hệ này; xác định các giải pháp đảm bảo hài hồ lợi ích kinh tế
giữa các chủ thể; kiến nghị các giải pháp để tối ưu hoá quan hệ nhà nước và thị
trường, tạo sự đồng thuận trong phân phối thu nhập, đề ra các biện pháp để xử
lý kịp thời những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế.


4. Phương pháp nghiên cứu:
Để phân tích, nghiên cứu về vấn đề “Lợi ích kinh tế và những tác động của nó
đối với hoạt động kinh tế của các chủ thể” nhóm đã sử dụng một số phương
pháp như: phân tích, nghiên cứu tài liệu, quan sát, điều tra, tham khảo thực tế
và tổng kết kinh nghiệm để làm rõ những tác động của lợi ích kinh tế đối với
hoạt động kinh tế của các chủ thể hiện nay.
5. Kết cấu tiểu luận: Gồm 3 chương với các nội dung chính sau đây
Chương 1: Cơ sở lý luận về lợi ích kinh tế
Tìm hiểu về các khái niệm liên quan đến lợi ích kinh tế, vai trị, đặc trưng của

Chương 2: Thực trạng về các quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam hiện nay
Tìm hiểu, phân tích về thực trạng về các quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam hiện
nay, quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động với người lao động, giữa doanh
nghiệp với doanh nghiệp, giữa cá nhân, tập thể và xã hội
Chương 3: Định hướng, giải pháp đảm bảo hài hịa lợi ích kinh tế trong xã hội
Từ những thông tin trên đưa ra các định hướng, giải pháp để đảm bảo sự hài
hịa lợi ích kinh tế trong xã hội
3


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ
1. Một số khái niệm liên quan
1.1.

Lợi ích kinh tế:

Để tồn tại, phát triển, con người cần được thỏa mãn các nhu cầu vật chất cũng
như nhu cầu về tinh thần. Lợi ích thu được khi con người được thỏa mãn nhu
cầu của mình. Lợi ích có thể là lợi ích vật chất, có thể là lợi ích tinh thần

Lợi ích là sự thỏa mãn nhu cầu của con người mà sự thỏa mãn nhu cầu này phải
được nhận thức và đặt trong mối quan hệ xã hội ứng với trình độ phát triển nhất
định của nền sản xuất xã hội đó
Trong mỗi điều kiện lịch sử, tùy từng bối cảnh mà vai trò quyết định đối với
hoạt động của con người là lợi ích vật chất hay lợi ích tinh thần. Nhưng xuyên
suốt quá trình tồn tại của con người và đời sống xã hội thì lợi ích vật chất đóng
vai trị quyết định thúc đẩy hoạt động của mỗi cá nhân, tổ chức cũng như xã hội
Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, lợi ích thu được khi thực hiện các hoạt động
kinh tế của con người. Bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế

1.2.

Quan hệ lợi ích kinh tế:

Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập tương tác giữa con người với con người,
giữa các cộng đồng người, giữa các tổ chức kinh tế, giữa các bộ phận hợp thành
nền kinh tế, giữa con người với các tổ chức kinh tế, giữa quốc gia với phần còn
lại của thế giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế trong mối liên hệ với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng
của một giai đoạn phát triển xã hội nhất định.
Như vậy, quan hệ lợi ích kinh tế có biểu hiện hết sức phong phú, quan hệ đó có
thể là quan hệ theo chiều dọc, giữa một tổ chức kinh tế với một cá nhân trong tổ
chức kinh tế đó. Cũng có thể theo chiều ngang giữa các chủ thể, các cộng đồng
người, giữa các tổ chức, các bộ phận hợp thành nền kinh tế khác nhau. Trong
điều kiện hội nhập ngày nay, quan hệ lợi ích kinh tế cịn phải xét tới quan hệ
giữa quốc gia với phần còn lại của thế giới.

1.3.

Quan niệm về sự hài hịa giữa các lợi ích kinh tế:


Hài hịa các lợi ích kinh tế là sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích kinh tế của
các chủ thể, trong đó mặt mâu thuẫn, xung đột lợi ích kinh tế được hạn chế; mặt
thống nhất được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển cả chiều rộng và chiều
sâu, từ đó tạo động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế, góp phần thực hiện tốt
hơn các lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích xã hội.
4


Để có sự hài hịa giữa các lợi ích kinh tế chỉ có kinh tế thị trường là khơng đủ vì
các lợi ích kinh tế ln vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau, mà cần có sự
can thiệp của nhà nước. Bảo đảm hài hịa các lợi ích kinh tế là sự can thiệp của
nhà nước và các quan hệ lợi ích kinh tế bằng các cơng cụ giáo dục, pháp luật,
hành chính, kinh tế… nhằm gia tăng thu nhập cho các chủ thể kinh tế, hạn chế
mâu thuẫn, tăng cường sự thống nhất, xử lý kịp thời khi có xung đột.

2. Các loại lợi ích kinh tế:
Tùy góc độ xem xét mà ta có thể phân chia thành các nhóm, các loại lợi ích kinh
tế khác nhau sau đây:
- Dưới góc độ khái quát nhất có thể phân chia hệ thống lợi ích kinh tế thành: Lợi
ích kinh tế cá nhân, lợi ích kinh tế tập thể và lợi ích kinh tế xã hội.
- Dưới góc độ các thành phần kinh tế, có lợi ích kinh tế tương ứng với các thành
phần kinh tế đó
- Dưới góc độ các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, có lợi ích kinh tế của
người sản xuất, người phân phối, người trao đổi, người tiêu dùng.

3. Vai trò lợi ích kinh tế:
Trong hệ thống lợi ích của con người nói chung bao gồm lợi ích kinh tế, chính
trị, tư tưởng, văn hóa - xã hội, thì lợi ích kinh tế giữ vai trò quyết định nhất, chi
phối các lợi ích khác.

Bởi vì, nó gắn liền với nhu cầu vật chất, nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất - là nhu
cầu đầu tiên, cơ bản nhất cho sự tồn tại và phát triển của con người, của xã hội.
Đồng thời, khi lợi ích kinh tế được thực hiện thì nó cũng tạo cơ sở, tiền đề để
thực hiện các lợi ích khác. Đời sống vật chất của xã hội được phồn thịnh, thì đời
sống tinh thần cũng mới được nâng cao.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh tế được biểu hiện vô cùng phong
phú. Măc dù vậy, điểm chung của hết thảy các hoạt động đó là hướng tới lợi ích.
Ta có thể khái qt vai trị của lợi ích kinh tế trên các khía cạnh sau:
- Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể và hoạt động kinh tế - xã
hội:
Con người tiến hành các hoạt động kinh tế trước hết là để thỏa mãn các nhu cầu
vật chất, nâng cao phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của
mình. Trong nền kinh tế thị trường, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu
cầu vật chất tùy thuộc vào mức thu nhập. Do đó, mức thu nhập càng cao, mức
độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất càng tốt. Vì vậy, mọi chủ thể kinh tế để phải
hành động để nâng cao thu nhập của mình. Thực hiện lợi ích kinh tế của các giai
5


tầng xã hội, đặc biệt của người dân vừa là cơ sở đảm bảo cho sự ổn định và phát
triển xã hội, vừa là biểu hiện của sự phát triển.
Về khía cạnh kinh tế, tất cả các chủ thể kinh tế đều hành động trước hết vì lợi
ích chính đáng của mình. Tất nhiên, lợi ích này phải đảm bảo trong sự liên hệ
với các chủ thể khác trong xã hội. Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu
vật chất trước hết phụ thuộc vào số lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ mà
xã hội có được. Mà tất cả các nhân tố đó lại là sản phẩm của nền kinh tế và phụ
thuộc vào quy mô và trình độ phát triển của nó. Theo đuổi lợi ích kinh tế chính
đáng của mình, các chủ thể kinh tế đã góp phần đóng góp vào lợi ích kinh tế. Vì
lợi ích chính đáng của mình, người lao động phải tích cực lao động sản xuất,
nâng cao tay nghề, cải tiến công cụ lao động, chủ doanh nghiệp phải tìm cách

nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của khách
hàng bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã, nâng cao tinh
thần trách nhiệm trong phục vụ người tiêu dùng... Tất cả những điều đó đều có
tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, của nền kinh tế và nâng
cao đời sống của người dân.
- Lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển của các lợi ích khác:
Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất còn phụ thuộc địa vị của
con người trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội nên để thực hiện được lợi ích
của mình các chủ thể phải đấu tranh với nhau để thực hiện quyền làm chủ đối
với tư liệu sản xuất. Đó là cội nguồn sâu xa của các cuộc đấu tranh giữa các giai
cấp trong lịch sử - một động lực quan trọng của tiến bộ xã hội. Như vậy, mọi
vận động của lịch sử dù dưới hình thức như thế nào, xét đến cùng đều xoay
quanh lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ tạo điều kiện vật chất
cho sự hình thành và thực hiện lợi ích chính trị, lợi ích xã hội, lợi ích văn hóa
của các chủ thể xã hội.
Ở Việt Nam, trong một thời gian rất dài, vì nhiều lí do, các lợi ích kinh tế nhất
là lợi ích cá nhân không được chú ý đúng mức. Hiện nay, trong điều kiện cơ chế
thị trường, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là: coi lợi ích kinh tế là động
lực của các hoạt động kinh tế, phải tôn trọng lợi ích cá nhân chính đáng. Điều
này góp phần tạo động lực cho sự phát triển đất nước ta trong những năm vừa
qua.

4. Những đặc trưng cơ bản của lợi ích kinh tế:
Lợi ích kinh tế bao gồm cơ bản những đặc trưng sau:
- Lợi ích kinh tế mang tính khách quan:
Xã hội phát triển dẫn đến nhu cầu con người càng cao, phương thức và mức độ
thỏa mãn các nhu cầu vật chất phụ thuộc vào các yếu tố khách quan như: số
lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ, thu nhập của các chủ thể, … Bản chất
6



khách quan địi hỏi các lợi ích kinh tế phải xuất phát từ các điều kiện khách
quan.
- Lợi ích kinh tế là kết quả trực tiếp của quan hệ phân phối:
Thu nhập là biểu hiện, là thước đo việc thực hiện các lợi ích kinh tế vì mức thu
nhập quyết định trực tiếp đến phương thức và mức độ thỏa mãn nhu cầu của các
chủ thể trong cơ chế thị trường. Phân phối thu nhập lại được thực hiện theo
những nguyên tắc khác nhau, tùy thuộc trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất và cơ chế kinh tế. Nếu các chủ thể kinh tế nhận thức đúng
đắn các nguyên tắc phân phối, và hành động phù hợp thì lợi ích kinh tế sẽ trở
thành động lực cho sự phát triển. Ngược lại, những đòi hỏi khơng hợp lí về thu
nhập hay lợi ích kinh tế sẽ là rào cản cho sự phát triển.
-

Lợi ích kinh tế là quan hệ xã hội:

Lợi ích kinh tế của mỗi chủ thể không giản đơn tùy thuộc vào số lượng, chất
lượng hàng hóa và dịch vụ họ nhận được, mà luôn được đặt trong quan hệ so
sánh với những chủ thể khác. Do đó, giải quyết vấn đề lợi ích kinh tế thực chất
là giải quyết quan hệ giữa con người với con người, để tạo sự công bằng, hợp lý
và đồng thuận trong phân phối thu nhập.
-

Lợi ích kinh tế mang tính lịch sử:

Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người do nhiều
nhân tố quyết định, mà các nhân tố đó lại khơng ngừng vận động, biến đổi nên
lợi ích kinh tế cũng khơng ngừng vận động, biến đổi. Điều đó có nghĩa là lợi ích
kinh tế mang tính lịch sử. Khi nghiên cứu tính lịch sử của lợi ích kinh tế đòi hỏi
việc nghiên cứu, giải quyết các vấn đề phải đặt trong những hồn cảnh cụ thể,

trong tiến trình vận động, biến đổi không ngừng.
Từ nội hàm, những đặc trưng chủ yếu của lợi ích kinh tế, có thể thấy rằng: lợi
ích kinh tế là phạm trù kinh tế xuất hiện khi các hoạt động kinh tế mang tính xã
hội; là sự thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người được quy định bởi trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và địa vị của họ trong hệ thống các quan hệ
sản xuất xã hội; là kết quả trực tiếp của quan hệ phân phối và được thể hiện bằng
thu nhập; là động lực của các hoạt động kinh tế khi có sự cơng bằng, hợp lý và
đồng thuận của các chủ thể trong phân phối thu nhập.

5. Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế:
- Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
Lợi ích kinh tế trước hết phụ thuộc vào số lượng, chất lượng hàng hóa và dịch
vụ, mà điều này lại phụ thuộc vào trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Do đó,
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao, việc đáp ứng lợi ích kinh tế
7


của các chủ thể càng tốt. Chính vì vậy, phát triển lực lượng sản xuất trở thành
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các quốc gia.
- Địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội:
Quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quyết định vị
trí, vai trị của mỗi con người, mỗi chủ thể trong quá trình tham gia các hoạt
động kinh tế - xã hội. Do đó, khơng có lợi ích kinh tế nằm ngồi những quan hệ
sản xuất, mà nó là sản phẩm của quan hệ sản xuất, là hình thức tồn tại và biểu
hiện của các quan hệ sản xuất. Chính vì vậy, theo Ph.Ăngghen, các quan hệ lợi
ích kinh tế của một xã hội nhất định biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích.
- Chính sách phân phối thu nhập của nhà nước:
Sự can thiệp tất yếu của nhà nước vào nền kinh tế thị trường là tất yếu khách
quan, bằng nhiều loại cơng cụ, trong đó có các chính sách kinh tế - xã hội. Chính
sách phân phối thu nhập của nhà nước làm thay đổi mức thu nhập và tương quan

thu nhập thay đổi, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất cũng
thay đổi, tức là lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể cũng
thay đổi.
- Hội nhập kinh tế quốc tế:
Bản chất của kinh tế thị trường là mở cửa hội nhập. Khi mở cửa hội nhập, các
quốc gia có thể tăng lợi ích kinh tế từ thương mại kinh tế, đầu tư quốc tế. Tuy
nhiên, lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp, hộ gia đình sản xuất hàng hóa tiêu
thụ trên thị trường nội địa có thể bị ảnh hưởng bởi cạnh tranh của hàng hóa nước
ngồi. Đất nước có thể phát triển nhanh hơn nhưng cũng phải đối mặt với các
nguy cơ cạn kiệt tài ngun, ơ nhiễm mơi trường, … Điều đó có nghĩa là hội
nhập kinh tế quốc tế sẽ tác động mạnh mẽ và nhiều chiều đến lợi ích kinh tế của
các chủ thể.

8


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CÁC QUAN HỆ
LỢI ÍCH KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.

Tổng quan tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam:

Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhận. Đổi mới
kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng đưa
Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc
gia thu nhập trung bình thấp. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng 2,7 lần,
đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỷ lệ nghèo
giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua ngang
giá). Đại bộ phận người nghèo còn lại ở Việt Nam là dân tộc thiểu số, chiếm
86%.

Năm 2019, kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục cho thấy có nền tảng mạnh và khả
năng chống chịu cao, nhờ nhu cầu trong nước và sản xuất định hướng xuất khẩu
vẫn ở mức cao. GDP thực tăng ước khoảng 7% trong năm 2019, tương tự tỉ lệ
tăng trưởng năm 2018, là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao
nhất trong khu vực.
Năm 2020, bối cảnh kinh tế toàn cầu là bức tranh khủng hoảng kinh tế trầm
trọng bởi đại dịch Covid 19 bùng phát và lan rộng chưa từng có trong lịch sử,
9


các vấn đề căng thẳng địa chính trị, xung đột cục bộ, mâu thuẫn sâu sắc trong
quan hệ thương mại, cạnh tranh chiến lược giữa các quốc gia, nền kinh tế lớn:
sự gia tăng khuynh hướng bảo hộ, chủ nghĩa dân tộc cực đoan sự ly khai giữa
các nước lớn trong các tổ chức quốc tế và khu vực, tình hình biến đổi khí hậu,
…Trong nước nhiều hoạt động kinh tế văn hóa, xã hội bị ảnh hưởng nghiêm
trọng, tiêu thụ hàng hóa bị giảm sút, sản xuất kinh doanh bị ngưng trệ hàng triệu
lao động bị mất việc làm, thiếu việc làm, giảm sâu thu nhập. Trong khi đó biến
đổi khí hậu thời tiết cực đoan, bão, lũ sụt lún, sạt lở, hạn hán, xâm nhập mặn,
dịch tả lợn châu Phi, … diễn biến phức tạp, ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất và
đời sống của nhân dân.
Mặc dù trong bối cảnh đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức to lớn chính phủ
đã đặt quyết tâm thực hiến tốt nhất mục tiêu, nhiệm vụ đề ra của năm 2020 và
đã báo cáo tại kỳ họp Quốc hội thứ 10 với nhiều kết quả tích cực. Trên cơ sở
tổng hợp kết quả thực hiện trong suốt năm 2020, Việt Nam ta đã đạt được kết
quả khá quan trọng là toàn diện trên tất cả các lĩnh vực nổi bật là: thực hiện
thành cơng mục tiêu kép, tình hình kinh tế vĩ mô ổn định, nền kinh tế tăng trưởng
dương, phát triển văn hóa, xã hội, mơi trường có nhiều tiến bộ, cải cách thủ tục
hành chính đạt nhiều kết quả, quốc phịng, an ninh trật tự an tồn xã hội được
giữ vững, đặc biệt thành công trong đối ngoại.
Bên cạnh những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được thì vẫn cịn tồn tại nhiều

hạn chế, bất cập như: Tăng trưởng kinh tế còn chưa tương xứng với tiềm năng
và chưa thực sự bền vững, năng lực cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế
cịn hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu
cầu. Khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo chưa được phát huy mạnh mẽ.
Khoảng cách phát triển giữa các vùng chậm được thu hẹp, đời sống của một bộ
phận nhân dân cịn khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số. Cải cách hành chính, sắp xếp bộ máy, tinh giảm biên chế cịn
khó khăn. Bảo vệ chủ quyền quốc gia cịn nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình
tội phạm trên một số lĩnh vực, địa bàn diễn biến phức tạp, kéo dài. Tham nhũng
lãng phí ở một số nơi còn chưa được phát hiện, xử lý kịp thời vẫn còn một số vụ
việc khiếu kiện phức tạp về đất đai kéo dài. Việc làm của một số bộ phận người
dân chưa đảm bảo, nhất là ở vùng nông thơn, khu vực nơng nghiệp và khu vực
phi chính thức. Ơ nhiễm mơi trường cải thiện cịn chậm. Dịch bệnh, thiên tai,
bão lũ diễn biến ngày càng thất thường.
Sang quý I năm 2021, nền kinh tế - xã hội của Việt Nam cịn gặp nhiều khó khăn
bởi cịn ảnh hưởng của đại dịch covid 19. Cụ thể như sau “Sản xuất cơng nghiệp
tháng 02/2021 ước tính giảm so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước do
số ngày làm việc của tháng Hai năm nay ít hơn 8 ngày và ảnh hưởng của dịch
Covid-19 tại một số địa phương”. Tuy nhiên sản xuất công nghiệp tháng 01/2021
10


tăng khá so với tháng 01/2020 (22,5%) nên tính chung 2 tháng đầu năm 2021,
chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước.

2.

Hệ thống quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam hiện nay:

Dựa trên những căn cứ khác nhau, các nhà nghiên cứu đã chia lợi ích thành

nhiều loại khác nhau: dựa vào các lĩnh vực của đời sống xã hội: chia thành lợi
ích kinh tế, lợi ích văn hố, lợi ích chính trị.... khái quát hơn là lợi ích vật chất
và lợi ích tinh thần; dựa vào phạm vi hoạt động của chủ thể: chia thành lợi ích
cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích giai cấp, lợi ích toàn xã hội, lợi ích quốc gia, lợi
ích nhân loại... khái quát hơn là lợi ích riêng và lợi ích chung; dựa vào thời gian
tồn tại của lợi ích: chia thành lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; dựa vào tầm
quan trọng của lợi ích: chia thành lợi ích căn bản và lợi ích khơng căn bản, lợi
ích cấp bách và lợi ích khơng cấp bách; dựa vào tính chất và các biện pháp thực
hiện lợi ích: chia thành lợi ích chính đáng và lợi ích khơng chính đáng; dựa vào
xu hướng khách quan của sự phát triển xã hội, chia thành lợi ích tiến bộ, lợi ích
bảo thủ …
Tổng quan chung thì một số kiểu quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản trong nền kinh
tế thị trường như sau. Xét theo chiều ngang, với các giai tầng trong xã hội thì
có: Quan hệ lợi ích giữa Người lao động và Doanh nghiệp (tức là giữa giai cấp
Công nhân và giai cấp Tư sản). Quan hệ lợi ích giữa doanh nghiệp với nhau (tức
là nội bộ giai cấp Tư sản, tiểu Tư sản). Quan hệ lợi ích giữa Người lao động với
nhau (tức là nội bộ giai cấp công nhân, người dân lao động). Xét theo chiều dọc,
với các cấp độ thì có: Quan hệ giữa Lợi ích cá nhân, Lợi ích nhóm, Lợi ích xã
hội.
Ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò làm động lực của lợi ích
đối với sự tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, trong khoảng 20 năm trở lại đây, khi chúng
ta đi ngày càng sâu vào nền kinh tế thị trường, vấn đề lợi ích nói chung, lợi ích
cá nhân và lợi ích xã hội nói riêng lại trở nên phức tạp, tạo ra những vấn đề
“nóng” cần phải giải quyết, xuất hiện những biểu hiện của sự mất cân bằng,
thiên lệch trong giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Một số
lực lượng xã hội nhân danh lợi ích xã hội, để mưu cầu lợi ích cá nhân khơng
chính đáng, xâm phạm lợi ích xã hội. Những hiện tượng tham ơ, tham nhũng,
lãng phí, gây thất thốt tài sản Nhà nước, bn lậu, trốn thuế, hàng giả, hàng
kém chất lượng, lừa đảo, lợi ích nhóm tiêu cực lũng đoạn việc quản lý, điều

hành, phân phối nói chung... Thực chất đó là việc đề cao quá mức lợi ích cá
nhân, bất chấp luật pháp, đạo đức để đạt được lợi ích cá nhân. Song ở thái cực
ngược lại, lại có những lợi ích cá nhân chính đáng chưa được quan tâm đúng
mức, tạo điều kiện phát triển, nhiều giá trị cho sự phát triển cá nhân chưa được
11


tạo lập, thành phần kinh tế tư nhân chưa thực sự phát huy một cách hiệu quả tối
đa... Cùng với đó, càng hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường mạnh
mẽ thì càng đặt ra vấn đề là phải làm cho cá nhân thỏa mãn lợi ích chính đáng,
đồng thời phải thúc đẩy đạt được những lợi ích xã hội để vừa bảo đảm sự phát
triển, vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. trong giai đoạn tiếp tục đẩy
mạnh đổi mới hiện nay. Cụ thể, Đảng ta xác định: “Bảo đảm lợi ích, sự kết hợp
hài hịa các lợi ích và phương thức thực hiện lợi ích cơng bằng, hợp lý cho mọi
người, cho các chủ thể, nhất là lợi ích kinh tế”. Chính vì vậy, việc giải quyết các
quan hệ lợi ích một cách hài hịa, nhất là giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
chính là tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Thực chất
của việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay là quá trình tác động vào việc nhận thức
và thực hiện lợi ích của cá nhân và xã hội, tạo ra sự hài hòa, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.

3.

Thực trạng về quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam hiện nay:

3.1.

Quan hệ lợi ích kinh tế giữa những người lao động với người lao động:


Trong nền kinh tế thị trường, nhiều người muốn bán sức lao động. Để thực hiện
lợi ích kinh tế của mình, người lao động không chỉ phải quan hệ với người sử
dụng lao động mà cịn phải quan hệ với nhau cho nên hình thành quan hệ lợi ích
kinh tế giữa những người lao động với người lao động. Nếu có quá nhiều người
bán sức lao động thì người lao động phải cạnh tranh với nhau. Hậu quả là tiền
lương của người lao động bị giảm xuống, một bộ phận người lao động bị sa thải.
Nếu những người lao động thống nhất được với nhau, họ có thể thực hiện được
những yêu sách của mình đối với những người sử dụng lao động.
Để hạn chế mâu thuẫn lợi ích kinh tế trong nội bộ, đặc trưng với những người
sử dụng lao động, những người lao động đã thành lập tổ chức riêng. Sự đoàn kết
giúp đỡ lẫn nhau giữa những người lao động trong giải quyết các mối quan hệ
là rất cần thiết nhưng phải dựa trên những quy định của pháp luật.
Tại Việt Nam hiện nay nhiều người lao động làm việc trong các doanh nghiệp
có nguồn gốc xuất thân từ nơng thơn nên quan hệ họ hàng, đồng hương có ý
nghĩa nhất định trong việc giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế giữa họ với nhau.
Nhìn chung người lao động ít có xung đột về lợi ích kinh tế, hoặc nếu có thì vấn
đề xung đột cũng được những người lao động dễ dàng giải quyết với nhau.

12


3.2. Quan hệ lợi ích kinh tế giữa những người lao động với người sử dụng lao
động:
Người lao động là người có đủ thể lực và trí lực để lao động, tức là có khả năng
lao động. Khi họ bán sức lao động sẽ nhận được tiền lương (hay tiền công) và
chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động. Bản chất của tiền lương
là giá cả của hàng hóa sức lao động, chỉ đủ để tái sản xuất sức lao động. Người
sử dụng lao động là chủ doanh nghiệp (nhà tư bản trong CNTB), cơ quan, tổ
chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp

đồng lao động. Là người trả tiền mua hàng hóa sức lao động nên người sử dụng
lao động có quyền tổ chức, quản lý q trình làm việc của người lao động. Lợi
ích kinh tế của người sử dụng lao động thể hiện tập trung ở lợi nhuận mà họ thu
được trong quá trình kinh doanh. Lợi ích kinh tế của người lao động thể hiện tập
trung ở thu nhập (trước hết là tiền lương, tiền thưởng) mà họ nhận được từ việc
bán sức lao động của mình cho người sử dụng lao động. Lợi ích kinh tế của
người lao động và người sử dụng lao động có quan hệ chặt chẽ, vừa thống nhất,
vừa mâu thuẫn nhau.
Sự thống nhất về lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động
thể hiện: nếu người sử dụng lao động thực hiện các hoạt động kinh tế trong điều
kiện bình thường họ sẽ thu được lợi nhuận, thực hiện được các lợi ích kinh tế
của mình; đồng thời, họ sẽ tiếp tục sử dụng lao động nên người lao động cũng
thực hiện được lợi ích kinh tế của mình vì có việc làm, nhận được tiền lương.
Ngược lại, nếu người lao động tích cực làm việc, lợi ích kinh tế của họ được
thực hiện thông qua tiền lương được nhận, đồng thời, góp phần vào sự gia tăng
lợi nhuận của người sử dụng lao động. Vì vậy, tạo lập sự thống nhất trong quan
hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động là điều kiện quan trọng
thực hiện lợi ích kinh tế của cả hai bên.
Tuy nhiên, quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao
động cịn có mâu thuẫn. Tại một thời điểm nhất định, thu nhập từ các hoạt động
kinh tế là xác định nên lợi nhuận của người sử dụng lao động tăng lên thì tiền
lương của người lao động giảm xuống và ngược lại. Vì lợi ích của mình, người
sử dụng lao động ln tìm cách cắt giảm tới mức thấp nhất các khoản chi phí
trong đó có tiền lương của người lao động để tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, tiền
lương là điều kiện để tái sản xuất sức lao động nên mức tiền lương thấp nhất
người sử dụng lao động phải trả cho người lao động là mức tiền lương tối thiểu.
Vì lợi ích của mình, người lao động sẽ đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm,
bãi công… Nếu mâu thuẫn không được giải quyết hợp lý sẽ ảnh hưởng xấu đến
các hoạt động kinh tế.
Để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình, người lao động và người sử dụng lao động

đã thành lập các tổ chức riêng. Cơng đồn là tổ chức quan trọng nhất bảo vệ
13


quyền lợi người lao động. Người sử dụng lao động có các nghiệp đồn, hội nghề
nghiệp… Trong xã hội hiện đại, đấu tranh giữa các bên cần phải tuân thủ các
quy định của pháp luật.
Báo cáo chính trị trình Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã đề ra chủ trương mở
rộng hình thức thuê mướn lao động. “Trong việc thuê mướn lao động, người lao
động và người sử dụng lao động bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước, với sự
tham gia của cơng đồn, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, phải kiểm tra, kiểm
soát việc thuê mướn, sử dụng và trả công lao động, cải thiện điều kiện lao động;
bảo đảm thực hiện những quy định về bảo hộ, an toàn lao động; giải quyết tốt
mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động theo pháp luật, bảo
vệ lợi ích chính đáng của người lao động”. Đại hội lần thứ IX và các kỳ Đại hội
tiếp theo của Đảng đều nhấn mạnh vai trị của thị trường lao động: tiếp tục hồn
chỉnh thị trường lao động, bảo đảm hài hịa lợi ích của người lao động và người
sử dụng lao động; chế độ hợp đồng lao động được mở rộng, áp dụng phổ biến
cho các đối tượng lao động; tiền lương, tiền công phải được coi là giá cả sức lao
động, được hình thành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
3.3.

Quan hệ lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp:

Giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp có quan hệ lợi ích kinh tế chặt chẽ với
nhau. Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp vừa là đối tác, vừa là đối thủ
của nhau, từ đó tạo ra sự thống nhất và mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa họ. Các
doanh nghiệp liên kết và cạnh tranh với nhau trong ứng xử với người lao động,
với những người cho vay vốn, cho thuê đất, với nhà nước, trong chiếm lĩnh thị
trường… Trong cơ chế thị trường, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các doanh

nghiệp làm cho họ cạnh tranh với nhau quyết liệt. Hệ quả tất yếu là các doanh
nghiệp có giá trị cá jbiệt cao hơn giá trị xã hội và các rủi ro khác bị thua lỗ, phá
sản… bị loại bỏ khỏi thương trường. Đồng thời, những người thu được nhiều
lợi nhuận sẽ phát triển nhanh chóng.
Các doanh nghiệp khơng chỉ cạnh tranh trong cùng ngành, mà còn cạnh tranh
giữa các ngành, bằng việc di chuyển vốn (tư bản) từ ngành này sang ngành khác.
Từ đó hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, tức là các doanh nghiệp đã chia
nhau lợi nhuận theo vốn đóng góp. Sự thống nhất và mâu thuẫn về lợi ích kinh
tế giữa các doanh nghiệp biểu hiện tập trung ở lợi nhuận bình quân mà họ nhận
được.
Sự thống nhất về lợi ích kinh tế làm cho doanh nghiệp liên kết chặt chẽ với nhau,
hỗ trợ lẫn nhau. Quan hệ chặt chẽ về lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp với doanh
nghiệp làm cho họ trở thành đội ngũ doanh nhân. Trong cơ chế thị trường, đội
14


ngũ này đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội nên cần được tôn
vinh, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển.
3.4.

Quan hệ lợi ích kinh tế giữa cá nhân, tập thể, xã hội:

Trong cơ chế thị trường, cá nhân tồn tại dưới nhiều hình thức. Người lao động,
người sử dụng lao động đều là thành viên của xã hội nên mỗi người đều có lợi
ích cá nhân và có quan hệ chặt chẽ với lợi ích xã hội. Nếu người lao động và
người sử dụng lao động làm việc theo đúng các quy định của pháp luật và thực
hiện được các lợi ích kinh tế của mình thì họ đã góp phần phát triển nền kinh tế,
thực hiện lợi ích kinh tế của xã hội. Khi lợi ích kinh tế của xã hội được thực
hiện, xã hội phát triển sẽ tạo lập môi trường thuận lợi để người lao động và
người sử dụng lao động thực hiện tốt hơn các lợi ích kinh tế của mình. Ngược

lại, nếu giữa người lao động và người sử dụng lao động nảy sinh mâu thuẫn
không giải quyết được; hoặc người lao động và người sử dụng lao động cộng
tác với nhau làm hàng giả, hàng nhái, trốn thuế… thì lợi ích kinh tế của xã hội
sẽ bị tổn hại. Biểu hiện là nền kinh tế chậm phát triển, chất lượng cuộc sống của
người dân chậm được cải thiện… Từ đó ảnh hưởng xấu đến lợi ích kinh tế của
các chủ thể, trong đó có lợi ích kinh tế của người lao động và người sử dụng lao
động.
Sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, xã hội quyết định sự tồn tại, phát triển
của cá nhân nên lợi ích xã hội đóng vai trị định hướng cho lợi ích cá nhân và
các hoạt động thực hiện lợi ích cá nhân. Lợi ích xã hội là cơ sở của sự thống
nhất giữa các lợi ích cá nhân, tạo ra sự thống nhất trong hoạt động của các chủ
thể khác nhau trong xã hội. Ph. Ăngghen đã từng khẳng định: “Ở đâu khơng có
lợi ích chung thì ở đó khơng thể có sự thống nhất về mục đích và cũng khơng
thể có sự thống nhất về hành động được”. Quan hệ lợi ích giữa các chủ thể trên
cho thấy, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội có quan hệ nhiều chiều.
Quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội bao gồm cả mặt thống nhất và
mâu thuẫn với nhau; trong đó thường thể hiện ở trạng thái mất cân bằng do các
chủ thể lợi ích khi thì đề cao lợi ích này, khi thì đề cao lợi ích kia. Điều này thể
hiện sự phức tạp của quan hệ lợi ích trong một hồn cảnh lịch sử cụ thể. Trong
q trình thực hiện lợi ích của mình, mỗi chủ thể ln có xu hướng bảo vệ lợi
ích thiết thân, khó chấp nhận từ bỏ lợi ích bản thân, dù điều đó có thể tạo mâu
thuẫn, xung đột với các chủ thể lợi ích khác. Thực chất của việc giải quyết quan
hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay là quá trình tác động vào việc nhận thức và thực hiện lợi ích của
cá nhân và xã hội, tạo ra sự hài hòa, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
Các cá nhân, tổ chức hoạt động trong cùng ngành, cùng lĩnh vực, liên kết với
nhau trong hành động để thực hiện tốt hơn lợi ích riêng (lợi ích cá nhân, tổ chức)
15



của họ hình thành nên “lợi ích nhóm”. Đó là các hiệp hội ngành nghề, các tổ
chức chính trị, xã hội, các nhóm dân cư chung một số lợi ích theo vùng, theo sở
thích… Các cá nhân, tổ chức hoạt động trong các ngành, lĩnh vực khác nhau
nhưng có mối liên hệ với nhau, liên kết với nhau trong hành động để thực hiện
tốt hơn lợi ích riêng mình hình thành nên “nhóm lợi ích”. Đó là mơ hình liên kết
giữa 4 nhà trong nông nghiệp: nhà nông – nhà doanh nghiệp – nhà khoa học –
nhà nước; mơ hình liên kết trên thị trường nhà ở: nhà doanh nghiệp kinh doanh
bất động sản – ngân hàng thương mại – người mua nhà…
“Lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” nếu phù hợp với lợi ích quốc gia, khơng gây
tổn hại đến các lợi ích khác cần được tơn trọng, bảo vệ và tạo điều kiện vì đất
nước có thêm động lực phát triển; ngược lại, khi chúng mâu thuẫn với lợi ích
quốc gia, làm tổn hại các lợi ích khác thì cần phải ngăn chặn.
Trong thực tế, “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” có sự tham gia của cơng chức,
viên chức hoặc các cơ quan công quyền nhiều khả năng sẽ tác động tiêu cực đến
lợi ích xã hội và các lợi ích kinh tế khác vì quyền lực nhà nước sẽ bị lạm dụng
và phục vụ cho lợi ích của các cá nhân. Điều cần lưu ý, “lợi ích nhóm” và “nhóm
lợi ích” tiêu cực thường khơng lộ diện. Vì vậy, việc chống “lợi ích nhóm” và
“nhóm lợi ích” tiêu cực vơ cùng khó khăn. Đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích
cá nhân và lợi ích xã hội, việc chống “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” tiêu cực
phải được thực hiện quyết liệt, thường xuyên.
3.5.

Quan hệ lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp với xã hội:

Trong cơ chế thị trường, lợi ích doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ, gắn liền với
lợi ích xã hội. Có thể nói chúng thống nhất với nhau vì doanh nghiệp là bộ phận
cấu thành của xã hội. Do đó, lợi ích của doanh nghiệp được thực hiện thì lợi ích
của xã hội cũng được thực hiện. Doanh nghiệp hoạt động ngày càng có hiệu quả,
lợi ích doanh nghiệp ngày càng được đảm bảo thì lợi ích xã hội càng phát triển,

nền kinh tế đi lên, đảm bảo việc làm và thu nhập ổn định đối với người lao động.
Ngược lại, lợi ích xã hội càng được thực hiện tốt thì xã hội có mơi trường tốt,
tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp gia tăng lợi ích kinh tế của mình.
Trong nền kinh tế thị trường, sản lượng đầu ra và các yếu tố đầu vào đều được
thực hiện thông qua thị trường. Do đó, mục tiêu của doanh nghiệp chỉ được thực
hiện trong mối quan hệ và phù hợp với mục tiêu của xã hội và ngược lại. Khi
doanh nghiệp và xã hội hành động vì mục tiêu chung hoặc các mục tiêu thống
nhất với nhau thì các lợi ích kinh tế giữa chúng thống nhất với nhau. Ví dụ như
để thực hiện lợi ích của mình, doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất
lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã sản phẩm… thì lợi ích doanh nghiệp và lợi
16


ích xã hội thống nhất với nhau. Chủ doanh nghiệp càng thu được nhiều lợi nhuận
thì nền kinh tế, đất nước ngày càng phát triển.
Tuy nhiên, quan hệ lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp với xã hội cũng có những
mâu thuẫn với nhau. Vì lợi ích của mình, các doanh nghiệp có thể làm hàng giả,
trốn thuế, bn lậu…lúc đó xã hội sẽ xuất hiện những sản phẩm khơng đạt tiêu
chuẩn, những khoản phí thiếu sót dẫn đến người dân bị ảnh hưởng tới sức khỏe,
ngân sách nhà nước bị thâm hụt. Do đó, lợi ích của xã hội sẽ bị tổn hại. Hay vì
tiết kiệm chi phí, doanh nghiệp có thể cắt giảm những khâu xử lý rác thải, hoặc
trực tiếp xả chất thải của doanh nghiệp mình ra ngồi mơi trường. Ví dụ như ở
nước ta cũng đã xuất hiện nhiều vụ việc gây bức xúc trong dư luận như: Công
ty Vedan làm ô nhiễm sông Thị Vải hay vụ Formosa Hà Tĩnh gây ô nhiễm biển
miền Trung…Khơng chỉ vậy, một số doanh nghiệp cịn khơng đảm bảo vệ sinh
an toàn thực phẩm, các khâu bảo quản sơ sài, dụng cụ không đảm bảo chất
lượng, cơ sở hạ tầng và thiết bị lỏng lẻo, tất cả chỉ để gia tăng lợi nhuận một
cách phi chân chính. Hậu quả là gì? Mơi trường bị ơ nhiễm: khơng khí, nguồn
nước… ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân. Vậy xã hội làm sao phát triển,
lợi ích xã hội làm sao có thể gia tăng.

Do đó, để đảm bảo lợi ích xã hội, cần nâng cao nhận thức, đạo đức kinh doanh
và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Các bộ,
ngành, các quy pháp pháp luật lần lượt ra đời để điều chỉnh hành vi, hoạt động
của từng doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu, lợi ích và sự phát triển của kinh tế,
đất nước và của xã hội. Bên cạnh đó, các bộ, ngành cần có trách nhiệm, làm việc
hiệu quả và nghiêm túc. Các quy pháp pháp luật nên điều chỉnh kịp thời, phù
hợp với doanh nghiệp và xã hội trong từng giai đoạn, thời kì nhất định.

4.

Đánh giá chung về quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

4.1.

Những kết quả đạt được:

Sau gần 35 năm đổi mới, mối quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể kinh tế ở
Việt Nam đã từng bước được điều chỉnh phù hợp với trình độ của nền kinh tế
và cam kết hội nhập quốc tế. Có nhiều kết quả đã đạt được khẳng định quá trình
nỗ lực và phấn đấu của tất cả mọi người, từ các nhân, doanh nghiệp đến Đảng
và nhà nước. Như đã đề cập đến, mối quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể là
mối quan hệ biện chứng, có tác động qua lại lẫn nhau. Ví dụ như nhà nước quản
lý và tác động đến doanh nghiệp, người dân và người lao động thơng qua hệ
thống luật pháp và chính sách kinh tế, tổ chức duy trì hoạt động của các cơ quan
quản lý nhà nước về kinh tế, giám sát, sử dụng tài chế bắt buộc doanh nghiệp,
người dân và người lao động cư xử đúng pháp luật. Doanh nghiệp tác động trở
lại nhà nước, người dân và người lao động thông qua những hành vi như: đóng
17



thuế cho nhà nước, xác định giá cả, quy mô thị trường, tạo công ăn việc làm cho
người lao động. Người dân, người lao động thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình đối với nhà nước và doanh nghiệp theo hiến pháp và pháp luật, đó là quyền
sở hữu tài sản hợp pháp, tư liệu sản xuất, hay quyền được lao động và thụ hưởng
xứng đáng với đóng góp của mình. Những tác động tích cực sẽ góp phần đưa
nền kinh tế phát triển, lợi ích xã hội được nâng cao. Những kết quả đã đạt được
có thể kể đến như:
Thứ nhất, Việt Nam là quốc gia có thể chế chính trị ổn định so với các quốc gia
trên thế giới cũng như trong khu vực. Do đó, nước ta trở thành miền đất màu
mỡ để các doanh nghiệp quốc tế chuyển hướng đầu tư. Nhà nước đã tạo nên môi
trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi và kinh doanh phục vụ lợi ích của mình. Có
thể thấy rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã chọn Việt Nam mở rộng quy mô
sản xuất như: Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam đặt trụ sở tại KCN
Yên Phong (Bắc Ninh), công ty Honda Việt Nam, hay công ty ô tô TOYOTA
Việt Nam…Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng ngày càng tiết kiệm chi phí và nâng
cao sức mạnh do nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng hoàn
thiện, phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và hội nhập quốc tế. Công
tác quản lý của nhà nước cũng ngày càng có hiệu quả và được cải thiện, cải cách
thủ tục hành chính theo hướng đơn giản.
Các doanh nghiệp, người dân và người lao động tích cực tham gia thị trường,
phát triển sản xuất kinh doanh và tiêu dùng các hàng hóa sản phẩm dịch vụ, góp
phần vào việc tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Nhà nước
cũng đã tích cực cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh, tạo môi trường thuận
lợi để các doanh nghiệp có động lực khởi nghiệp. Có thể thấy, số doanh nghiệp
khởi nghiệp khơng ngừng tăng lên qua các năm, làm cho Việt Nam trở thành
nền kinh tế năng động, sôi nổi. Đặc biệt hơn, với những chính sách cải cách, đổi
mới với mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, nhà nước đã thu hút các
doanh nghiệp đầu tư làm thay đổi bộ mặt của nông thôn, đất nước. Đời sống của
người dân ngày càng được sung túc, đủ đầy hơn với những điều kiện thuận lợi
hơn trước kia rất nhiều. Từ đó, nhân dân sống mới hơn, tỷ lệ hộ nghèo và cận

nghèo giảm xuống, mức thu nhập bình quân đầu người lại tăng lên đáng kể.
Nguồn huy động vốn đầu tư phát triển xã hội ngày càng tăng lên, hiệu quả sử
dụng dần được nâng cao, vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh làm cho kinh tế Việt
Nam ngày càng phát triển. Các loại hình doanh nghiệp ra đời tạo việc làm, thu
nhập cho người lao động càng nhiều. Đặc biệt, việc làm cho doanh nghiệp, các
cơ sở kinh tế phi nông nhiệp đã giúp hàng triệu lao động chuyển từ công việc có
mức lương thấp sang làm các ngành có mức lương cao hơn, thúc đẩy dịch
chuyển lao động từ nông nghiệp sang cơng nghiệp và dịch vụ. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp cịn góp phần thực hiện an sinh xã hội: xây dựng nhà tình nghĩa,
trường học, cầu cống… ở các vùng sâu vùng xa, các vùng khó khăn và vùng dân
18


tộc ít người. Sự phát triển đó đã giúp những người nghèo và các tầng lớp yếu
thế trong xã hội được tiếp cận hàng hóa, dịch vụ với giá cả hợp lý, bình dân, làm
gia tăng chất lượng cuộc sống của họ.
4.2.

Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế:

a)

Những hạn chế:

Trong thời gian qua, nhận thức và thực hiện mối quan hệ giữa Nhà nước, thị
trường, doanh nghiệp và xã hội đã có những chuyển biến tích cực và có nhiều
kết quả khả quan, Nhà nước đã thực hiện chức năng, vai trị của mình trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở tơn trọng vai trị, chức
năng và ngun tắc của thị trường và đề cao vai trò giám sát, phản biện của các
tổ chức xã hội. Tuy vậy, trong từng thành tố của mối quan hệ này hoạt động cịn

có những hạn chế, yếu kém chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Thứ nhất, trong gần 35 năm đổi mới còn chậm đổi mới về vai trò, chức năng của
Nhà nước theo mơ hình kinh tế thị trường hiện đại do nhận thức chưa đầy đủ về
bản chất, vai trò, chức năng của Nhà nước và thị trường, cũng như mối quan hệ
giữa Nhà nước và thị trường, chưa coi thị trường là thực thể khách quan, đề cao
vai trị Nhà nước. Bên cạnh đó, bộ máy nhà nước cịn yếu kém trong cơng tác
quản lý và thực thi nhiệm vụ, sự hạn chế về trình độ và năng lực của đội ngũ
công nhân, viên chức nhà nước đã làm cho thị trường chưa phát huy đầy đủ chức
năng, vai trị của nó. Trong việc điều hành nền kinh tế, cơng cụ hành chính vẫn
là thứ chủ lực, được sử dụng phổ biến nên vai trò điều tiết nền kinh tế có phần
mờ nhạt, trong khi lại nặng về xử lý tình huống, can thiệp hành chính, lấn át thị
trường hoặc làm thay thị trường; Nhà nước chưa thực sự là người "trọng tài"
công minh trong điều khiển “cuộc chơi” của các chủ thể kinh tế trên thị trường.
Thứ hai, tình trạng thiếu bình đẳng, hạn chế tính cạnh tranh và làm suy giảm
năng lực kinh doanh của cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngồi nhà
nước. Tình trạng độc quyền, trái với quy luật cạnh tranh ở một số lĩnh vực vẫn
còn tồn tại. Quyền tự do kinh doanh chưa được tơn trọng đầy đủ, tình trạng phân
biệt đối xử trên thực tế trong việc tiếp cận nguồn lực, ưu đãi đầu tư giữa các loại
hình doanh nghiệp vẫn còn, đặc biệt là trong việc thực thi những chính sách, quy
định. Bên cạnh đó, nhà nước chưa tạo được mơi trường kinh doanh bình đẳng,
ổn định, thơng thống giữa các loại hình doanh nghiệp. Thực tế cho thấy cịn có
nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn lực, chi phí gia nhập
thị trường cao. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự tuân theo
nguyên tắc thị trường; một số loại hình thị trường, phương thức giao dịch thị
trường hiện đại chậm hình thành và phát triển. Những quy định về gia nhập và
rút khỏi thị trường, phá sản doanh nghiệp, xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế, vi
19



phạm pháp luật kinh tế, kinh doanh... vẫn còn phức tạp. Bên cạnh đó, các tình
trạng nhũng nhiễu, tiêu cực cịn nhiều, các thủ tục hành chính gây khó khăn, trở
ngại cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận thị trường, làm gia tăng chi phí.
Thứ ba, thể chế kinh tế thị trường ở nước ta vẫn chưa coi vai trò, chức năng của
thị trường là một thực thể khách quan, vận động và phát triển theo quy luật vốn
có, khơng phụ thuộc vào ý chí cá nhân và tổ chức xã hội. Thể hiện rõ nhất là vẫn
còn tồn tại cơ chế xin - cho, cơ chế xét - duyệt, chính sách bao cấp ở một số
ngành, lĩnh vực và địa phương... Các yếu tố thị trường thì vẫn chưa thực sự được
đồng bộ, thị trường các yếu tố sản xuất thì chậm phát triển. Tình trạng này cho
thấy, Nhà nước chưa làm tốt vai trò kiến tạo, tạo lập điều kiện thuận lợi để doanh
nghiệp, người dân, người lao động huy động nguồn lực vào kinh doanh và sản
xuất.
Thứ tư, Nhà nước ban hành những chính sách chưa phù hợp, chưa nghĩ đến lợi
ích của những tầng lớp yếu thế hơn trong xã hội. Có thể thấy trong thực tế, chính
phủ ban hành những chính sách chỉ có lợi cho doanh nghiệp mà qn mất vai
trị, lợi ích của người lao động, người dân. Ví dụ như chính sách thu hồi đất nông
nghiệp để mở rộng khu công nghiệp, xây dựng những khu đô thị, chợ đầu mối…
khiến người dân bị mất đất đai, tuy nhiên những chính sắp bù đắp sự mất mát
ấy của người dân vẫn chưa được thoả đáng khiến họ trở nên khó khăn hơn, mất
đất, mất việc (người dân chủ yếu lao động trên đất nơng nghiệp). Nhiều người
dân vì thế đã phải bỏ quên lên thành phố tham gia vào đội ngũ lao động phi
chính thức, phi nơng nghiệp, việc làm bấp bênh, đời sống không được đảm bảo.
Thứ năm, nhận thức và hoạt động của các tổ chức xã hội còn một số hạn chế.
Cần nhận thức rằng, các tổ chức xã hội là sản phẩm, thành quả của quá trình
phát triển xã hội loài người, là một kiểu xã hội văn minh, hiện đại, khơng phải
là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản. Hiện nay, cơ sở pháp lý về các tổ
chức xã hội còn thiếu nên hoạt động chưa có sự bảo đảm đầy đủ bằng pháp luật
(ngoại trừ các doanh nghiệp xã hội có cơ sở pháp lý đã được đề cập đến trong
Luật Doanh nghiệp sửa đổi năm 2014). Vì chức năng, nhiệm vụ, cơ sở pháp lý
chưa rõ ràng nên nhiều tổ chức xã hội ở Việt Nam chưa chủ động trong chức

năng, nhiệm vụ giám sát, phản biện pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước
và giám sát các cơ quan, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước thực thi pháp luật...
Một số tổ chức xã hội ở Việt Nam lợi dụng danh nghĩa là tổ chức phi nhà nước
đã thực hiện những ý đồ thu lợi cho cá nhân, các nhóm lợi ích riêng, lấy tiền từ
kinh phí của Nhà nước, từ các tổ chức quốc tế nhằm mục tiêu thu lợi riêng,
khơng vì mục tiêu chung của xã hội. Một số tổ chức xã hội đã câu kết với những
phần tử phản động quốc tế, chống đối đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước, đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
20


Cuối cùng, một vài những doanh nghiệp còn chưa tuân thủ quy tắc thị trường,
vi phạm quy tắc, đạo đức kinh doanh, ảnh hưởng đến lợi ích cộng đồng và xã
hội. Tình trạng doanh nghiệp khuyến mại, cạnh tranh khơng lành mạnh, bán
hàng đa cấp không rõ nguồn gốc, cung cấp thơng tin sai lệch, ngăn cản hoặc tìm
cách kìm hãm không cho các doanh nghiệp khác gia nhập thị trường ngày càng
gia tăng. Để tiết kiệm chi phí kinh doanh, các doanh nghiệp đã cắt giảm các
khâu xử lý rác thải hoặc trực tiếp xả thải rác công nghiệp ra ngồi mơi trường,
khiến nguồn tài ngun mơi trường càng ô nhiễm và thiệt hại. Ngoài ra, các
doanh nghiệp vẫn cịn tìm cách trốn thuế, trây ỳ khi đóng bảo hiểm y tế, bảo
hiểm xã hội gây ra một lượng thâm hụt ngân sách đáng kể.
b)

Nguyên nhân của những hạn chế:

Nguyên nhân của những hạn chế có thể bắt nguồn từ nhiều phía:
Thứ nhất, Nhà nước thiên về kiểm sốt và sở hữu, chưa phải là Nhà nước điều
tiết và tạo điều kiện để phát triển. Những chính sách của Nhà nước vẫn cịn mang
nặng tính lý thuyết, khi áp dụng vào thực tiễn chưa phát huy được hết những ưu
điểm. Bên cạnh đó, Nhà nước vẫn chưa linh hoạt đa dạng trong việc quản lý và

nâng cao trách nhiệm của mình đối với doanh nghiệp, người dân và người lao
động. Nhà nước nhiều khi còn lấn sân làm thay nhiệm vụ của doanh nghiệp,
chưa xử lý tốt mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người dân dẫn đến còn nhiều
mâu thuẫn và xung đột. Khi nhà nước bảo vệ được lợi ích của người dân nhưng
lại khơng để tâm đến lợi ích của doanh nghiệp, khi làm tốt lợi ích của doanh
nghiệp thì lại khơng nghĩ đến lợi ích của người dân và người lao động. Việc thực
hiện chính sách, thực thi những quy định, thể chế của đội ngũ cán bộ, cơng chức
nhà nước cịn nhiều bất cập, chưa theo kịp sự phát triển của nền kinh tế thị
trường, chưa có những thay đổi, xử lý phù hợp với môi trường xã hội. Hệ thống
luật pháp về kinh tế cịn chưa hồn thiện, đầy đủ, cịn chồng chéo chưa rõ ràng
và còn chưa thống nhất ở một số những điều luật. Việc thực thi của cán bộ công
chức không khách quan, kéo dài thời gian gây ra những bức xúc, cho doanh
nghiệp, người dân… gây khó khăn về mặt tài chính, gia tăng chi phí làm thay
đổi bộ mặt của một số bộ phận.
Thứ hai, việc nhận thức về mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, người
lao động và xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa rõ, chưa
phân định rõ ràng vai trò, chức năng của nhà nước, doanh nghiệp và người dân
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Đồng thời, mối
quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, người lao động, xã hội chưa
được giải quyết triệt để cả về lý luận và thực tiễn, gây ra những mâu thuẫn,
hoang mang khơng đáng có.

21


Thứ ba, ý thức của doanh nghiệp và người dân còn hạn chế, chưa được nâng cao
trách nhiệm, nghĩa vụ và bổn phận của mình đối với đất nước và xã hội. Để kiếm
lợi ích cho mình, doanh nghiệp và người dân thường tìm kẽ hở cả luật pháp từ
phía Nhà nước, quên đi nghĩa vụ của mình. Ý thức chấp hành pháp luật của một
số doanh nghiệp, người dân chưa cao. Họ thường cố tình vi phạm pháp luật, làm

trái đạo đức kinh doanh. Bên cạnh đó, một số cá nhân ì lợi nhuận, lợi ích trực
tiếp trước mắt mà tiếp tay cho giặc, đồng hành che dấu những hành vi sai trái
của cán bộ, công chức để được việc cho mình. Tất cả đã làm méo mó mơi trường
kinh doanh, tạo nên những hình ảnh khơng đẹp trong nền kinh tế thị trường.

22


CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP ĐẢM
BẢO HÀI HÒA LỢI ÍCH KINH TẾ TRONG XÃ
HỘI
1. Bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay tác động đến quan hệ lợi
ích kinh tế:

Tổng quan biến động thị trường thế giới
Thương mại phục hồi nhưng còn khá mong manh
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thương mại hàng hóa thế giới phục
hồi mạnh mẽ nhưng việc duy trì tăng trưởng trong tương lai vẫn chưa rõ ràng.
Ngồi ra, tính khơng chắc chắn của thương mại vẫn ở mức cao. Làn sóng lây
nhiễm COVID-19 thứ hai đang diễn ra ở Châu Âu và Bắc Mỹ có thể dẫn đến
một đợt đóng cửa kinh doanh mới và kiệt quệ tài chính.
Theo WB, thương mại tồn cầu cải thiện nhưng khơng đồng đều. Dữ liệu gần
đây cho thấy tốc độ phục hồi của thương mại toàn cầu đang chậm lại. Du lịch
23


quốc tế vẫn suy giảm mạnh, với hơn một nửa số quốc gia đối mặt với lượng
khách du lịch sụt giảm hơn 75% trong tháng 9. Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn
diện Khu vực (RCEP) được 15 quốc gia châu Á - Thái Bình Dương ký kết vào
ngày 1 tháng 11 dự kiến sẽ thúc đẩy tăng trưởng trong những năm tới thông qua

giảm bớt các rào cản thương mại.
Giá cả trên thị trường hàng hóa có xu hướng phục hồi
WB cho rằng giá hàng hóa có xu hướng tăng nhờ tín hiệu tích cực từ sản xuất
vắc-xin. Trong tháng 11, một số mặt hàng, đặc biệt là dầu thô, đã tăng giá mạnh
do việc công bố vắc-xin COVID-19 có hiệu lực đã làm tăng niềm tin của các
nhà đầu tư, thúc đẩy triển vọng phục hồi nhu cầu dầu. Trong tháng 12, giá kim
loại tăng nhẹ đồng thời giá hàng hóa nơng nghiệp tiếp tục có mức tăng khiêm
tốn.
Điều kiện tài chính tồn cầu giúp tăng niềm tin của nhà đầu tư
Các điều kiện tài chính tiếp tục nới lỏng, qua đó hỗ trợ tâm lý và ngăn chặn sự
khuếch đại hơn nữa của cú sốc COVID-19 thông qua hệ thống tài chính. Các
sáng kiến tài chính mới như quỹ phục hồi đại dịch của Liên minh Châu Âu trị
giá 750 tỷ euro, một loạt các chính sách giải cứu trên toàn thế giới gồm cấp tiền
mặt và hiện vật cho các doanh nghiệp và hộ gia đình bị ảnh hưởng, trợ cấp tiền
lương để duy trì việc làm, mở rộng bảo hiểm thất nghiệp và hoãn thuế, … đã
giúp cải thiện tâm lý của các nhà đầu tư. Các hoạt động của ngân hàng trung
ương ở các nền kinh tế phát triển hỗ trợ cung cấp tín dụng cho nhiều đối tượng
khách hàng đi vay. Thị trường chứng khốn tồn cầu cũng tăng mạnh trong
tháng 11 và 12 nhờ những tin tức tích cực về hiệu quả của vắc xin COVID-19.
Dòng vốn vào các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi tăng dần
Báo cáo của WB cho thấy tâm lý lạc quan đã thúc đẩy sự phục hồi dòng vốn đầu
tư vào các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Hầu hết các thị trường chứng
khoán của các quốc gia này đã phục hồi trong tháng 11, nhưng vẫn ở dưới mức
trước đại dịch ở nhiều quốc gia.
IMF nhận định lợi suất nợ cơng tại các thị trường mới nổi nhìn chung đã giảm
trong những tháng gần đây. Các bước hỗ trợ thanh khoản đồng đô la cùng với
sự phục hồi tại Trung Quốc, đã giúp khơi dậy dòng vốn đầu tư vào một số thị
trường mới nổi. Tuy nhiên, sự phục hồi của dịng vốn đầu tư gián tiếp khơng
đồng đều giữa các quốc gia đang phát triển và mới nổi.


24


Dòng kiều hối giảm mạnh trong giai đoạn đầu phong tỏa nhưng đã có dấu hiệu
phục hồi. Tuy nhiên, nguy cơ sụt giảm các khoản thanh toán và chuyển từ lao
động nhập cư về nước là rất đáng kể.
Lạm phát duy trì ở mức thấp
OECD cho biết tỷ lệ lạm phát ở các nền kinh tế phát triển đã tăng trở lại kể từ
mức đáy vào đầu và giữa năm 2020, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, nhưng nhìn chung
vẫn dưới mức trước đại dịch.
Theo IMF, trong số các đồng tiền chính, đồng đơ la giảm giá hơn 4,5% từ tháng
4 đến cuối tháng 9 do lo ngại về tác động của dịch COVID-19 đối với tốc độ
phục hồi của Hoa Kỳ. Trong cùng kỳ, đồng euro tăng giá gần 4% nhờ cải thiện
triển vọng kinh tế và mức lây nhiễm COVID-19 có xu hướng giảm. Đồng Nhân
dân tệ của Trung Quốc đã mạnh lên và đồng tiền của các nền kinh tế thị trường
mới nổi châu Á khác nhìn chung vẫn ổn định. Ngược lại, đồng rúp của Nga mất
giá.
Theo IMF, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng tăng ở các nền kinh tế phát triển và thị
trường mới nổi. Tỷ lệ người lao động thiếu việc làm ở một số nền kinh tế phát
triển cao hơn đáng kể so với tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp ở một số nền
kinh tế thị trường mới nổi được dự báo sẽ tăng mạnh trong năm 2020.
Ở Việt Nam
Báo cáo “Điểm lại” của WB công bố ngày 21/12/2020 nhận định tăng trưởng
GDP của Việt Nam đạt 2,8% trong năm 2020. Theo WB, mặc dù kinh tế Việt
Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, nhưng nhờ có các biện
pháp đối phó chủ động, sáng tạo ở các cấp, kinh tế vĩ mơ và tài khóa ổn định
nền kinh tế Việt Nam có sức chống chịu đáng kể. Thặng dư thương mại hàng
hóa tiếp tục tăng kỷ lục, một phần nhờ hàng xuất khẩu sang Mỹ tăng mạnh.
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam tăng cho thấy niềm
tin vào nền kinh tế được khôi phục sau đợt bùng phát dịch vào tháng 8. Lạm

phát vẫn duy trì mức ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng trong tháng 10 vẫn đi ngang
so với ba tháng trước cho thấy sự ổn định trong ngắn hạn của giá thực phẩm,
năng lượng và giao thông.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cắt giảm lãi suất nhưng tăng trưởng tín dụng
vẫn giảm nhẹ so với cùng kỳ. Trong thời gian tới, triển vọng của Việt Nam được
cho là tích cực khi nền kinh tế được dự báo tăng trưởng ở mức khoảng 6,8%
trong năm 2021 và sẽ ổn định mức 6,5% các năm tiếp theo. Dự báo này của WB
được đưa ra dựa trên giả định khủng hoảng COVID-19 sẽ dần được kiểm soát
khi vắc xin COVID-19 phát huy hiệu quả.
25


×